Nhà văn Lê Văn Thảo trong mắt bạn nghề, bạn đọc
Dù với danh hiệu gì, nhà văn Lê Văn Thảo trong mắt những người trong nghề và bạn đọc là nhà văn luôn trăn trở với thân phận con người, trong chiến tranh và cả trong hoà bình, mà tình đồng đội, nghĩa đồng bào là mối tình lớn nhất mà ông có được trong những năm tháng nhọc nhằn của cuộc đời người viết văn luôn ưu thời mẫn thế.
Vào bưng biền từ lúc tuổi nhỏ ở vùng hạ miền Đông Nam bộ cùng
với gia đình trong cuộc kháng chiến 1 (1945-1954), nửa chừng về thành (thị xã
Long Xuyên, An Giang) để theo học bậc trung học, chàng thanh niên Dương Ngọc
Huy (tên khai sinh của nhà văn Lê Văn Thảo) sau khi tốt nghiệp Tú tài 2 đã khăn
gói lên đường rời quê tạm An Giang để lên Sài Gòn làm chàng sinh viên khoa Toán
Lý trường Đại học Khoa học Sài Gòn.
Năm 1962, khi nhận được tin nhắn của người cha là nhà giáo
Dương Văn Diêu (cán bộ giáo dục tập kết, trở về Nam khá sớm, lúc đó đang là Trưởng
Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục) từ trong rừng Tây Ninh gởi
ra, anh đã thoát ly thành phố, rời xa ánh đèn phố thị, bước vào cuộc chiến đấu
mới với nhiều cam go và thử thách.
Lên rừng, chàng thanh niên phố thị Dương Ngọc Huy, bằng vốn học
vấn của mình lại tiếp bước con đường của cha, làm chàng giáo trẻ trong những
làng giải phóng vừa mới hình thành trong chiến khu. Khi lực lượng giải phóng bắt
đầu phát triển mạnh với những đơn vị cấp trung đoàn, sư đoàn chủ lực được hình
thành trên khắp chiến trường miền Đông, thì chàng thầy giáo trẻ đã sớm rời bục
giảng để theo bước những đơn vị chủ lực Miền tham gia các chiến dịch phản công
và tiến công. Anh trở thành người viết văn trẻ của lực lượng viết văn giải
phóng đang dần hình thành khi có sự trở về của các nhà văn tập kết như Nguyễn
Thi, Anh Đức, Thanh Giang, Võ Trần Nhã…
Có thể nói văn nghiệp của nhà văn Lê Văn Thảo khởi đi từ những
năm tháng nhọc nhằn trong nhưng ngày hành quân chiến đấu cùng quân chủ lực giải
phóng khi các đơn vị ấy hình thành trong nửa cuối năm 1965 bằng những bút ký
chiến tranh mang đậm không khí chiến trường. Những chuyến đi không ngừng nghỉ
suốt những cánh rừng miền Đông và ruộng đồng miền Đồng Tháp không những
chỉ tạo thêm sự vững vàng của chàng thanh niên phố thị giữa bưng biền
kháng chiến mà còn là nguồn tư liệu vô tận để khi đất nước hoà bình thống nhất,
những trang văn về cuộc sống và chiến đấu của con người trong chiến tranh được
hình thành ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Có thể nói, trong hơn 10 năm đi
và viết trong vùng giải phóng và ngay trên các chiến trường sôi động, kể cả chiến
trường đô thị Sài Gòn năm 1968, đã biến Lê Văn Thảo thành nhà văn có nhiều kỷ
niệm và kinh nghiệm chiến trường nhất trong các nhà văn từ trong rừng ra.
Sau tháng 4.1975, trên cương vị mới là cán bộ biên tập văn
xuôi tuần báo Văn nghệ giải phóng rồi tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh, bên cạnh những trang viết của chính mình, nhà văn còn là người với đôi mắt
tinh đời và một tấm lòng không đố kỵ đã phát hiện, bồi dưỡng nhiều cây bút trẻ
trong vùng mới giải phóng bằng việc thường xuyên giới thiệu những tác phẩm đầu
tay của họ cho công chúng độc giả. Có thể nói, tuần báo Văn nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh trong những năm tháng cuối thập niên 70 và cả thập niên 80 thế
kỷ 20 chính là vườn ươm, là nơi tạo giống để hình thành nên đội ngũ những người
viết trẻ sau năm 1975 ở vùng đất phương Nam đầy nắng gió nầy.
Là một nhà văn có tâm hồn tươi trẻ, lại chịu xông xáo vào những
nơi mũi nhọn của cuộc sống mới, anh thường xuyên tham gia tổ chức những chuyến
đi thực tế về nông thôn, biên giới, hải đảo. Chính những chuyến đi đó là cơ hội
để anh gần gũi thêm với các bạn viết trẻ, gợi ý những đề tài và truyền đạt những
kinh nghiệm nghề nghiệp viết lách với những người mới vào nghề.
Đến lúc nghỉ hưu, bằng sự tín nhiệm của những người trong nghề,
anh lại được bầu làm lãnh đạo của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh hai nhiệm kỳ
liền và một kỳ làm phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Chức sắc đối với nhà văn
là chuyện phải có để có cớ làm việc chứ chẳng phải là chuyện để hưởng lợi lộc
gì nên những chuyến đi, liên tiếp những chuyến đi là niềm mong mỏi lớn nhất của
nhà văn. Như ông đã từng tâm sự trong suy nghĩ về nghề văn: Bản tính chậm lụt,
chuyện trước mắt không mấy khi kịp hiểu ra, thường viết về những kỷ niệm, những
hồi ức xưa cũ… Sợ chốn cao sang giới quan chức quyền quý. Dành sức viết về những
người bình thường, những người có số phận hẩm hiu bất hạnh. Tình đồng đội đồng
chí là đề tài yêu thích. Cố tránh sự tô vẽ, làm dáng. Tránh ồn ào, giáo huấn.
Viết giản dị, gần gũi với nhân dân quần chúng, dành nhiều khoảng trống cho người
đọc, đó là phương châm…
Có lẽ từ phương châm nầy, nên nhìn lại, có thể ông là người
đi nhiều, viết ít. Trong sự nghiệp hơn 50 năm cầm bút viết văn của ông (kể từ
năm 1965, khi ông bắt đầu tham gia các chiến dịch của quân giải phóng với tư
cách người làm văn nghệ), thì 10 tập truyện ngắn không dày và 5 tiểu thuyết mỏng
là cái gia sản khá khiêm nhường. Nhưng kể từ tập truyện ngắn Đêm Tháp Mười được
xuất bản năm 1972 bởi Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng, là cái vốn căn bản để
ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1975, thì tập truyện ngắn cuối
cùng Nhỏ con, có chịu thôi đi không? (Tập truyện thứ 10, xuất bản năm
2016 bởi nhà xuất bản Văn hoá Văn nghệ) quả là chẳng nhiều nhặng gì. Ông được
xem là người viết truyện ngắn có phong cách riêng bởi cái chất Nam bộ và kiểu
tư duy thực tế, cộng thêm cách dẫn dắt ngẫu hứng cũng làm cho người đọc thêm những
bất ngờ thú vị.
Có thể nói, ông là nhà văn của truyện ngắn, mà Ông cá hô là
một truyện ngắn nổi bật, nhưng tiểu thuyết mới là những thành tựu đáng ghi nhận
của ông. Chỉ với 5 tiểu thuyết được công bố thôi mà ông đã 2 lần được trao giải
thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là tiểu thuyết Một ngày và một đời (năm
1998) và tiểu thuyết Cơn giông (năm 2003). Cuốn đầu là sự chiêm nghiệm
của con người sau chiến tranh về một thời kỳ ác liệt – chiến dịch Mậu Thân năm
1968 ở Sài Gòn và cuốn sau là cuộc sống và con người hậu chiến ở một vùng miền
Tây Nam bộ sau năm 1975.
Ghi nhận những công lao đóng góp của ông trong nền văn học nước
nhà, năm 2007 ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật và
5 năm sau (2012) là Giải thưởng Hồ Chí Minh cũng về lãnh vực trên.
Dù với danh hiệu gì, nhà văn Lê Văn Thảo trong mắt những người
trong nghề và bạn đọc là nhà văn luôn trăn trở với thân phận con người, trong
chiến tranh và cả trong hòa bình, mà tình đồng đội, nghĩa đồng bào là mối tình
lớn nhất mà ông có được trong những năm tháng nhọc nhằn của cuộc đời người viết
văn luôn ưu thời mẫn thế.
21/2/2020
Phạm Sỹ Sáu
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét