Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

 

Gia đình tôi

Gia đình tôi

Gia đình tôi chia làm hai phe: phe ba tôi và phe mẹ tôi. Dĩ nhiên ngày xưa khi chúng tôi còn nhỏ ba mẹ tôi đã ở cùng một phe để dạy dỗ và đe nẹt chúng tôi. Nhưng thời đó xa lắm rồi. Thỉnh thoảng sau những trận bàn cãi trong gia đình mà kết quả là ba tôi đuối lý, ba tôi lại nhắc lại những kỷ niệm cũ, hồi chúng tôi chưa lớn và bướng bỉnh như bây giờ.

Chẳng hạn:

- Tao có ngờ đâu chúng mày lại biến đổi đến thế! Hồi bé chúng mày cũng đều bình thường như những đứa trẻ khác cả. Tao đọc bao nhiêu sách ngoại quốc mà chưa thấy một bầy con nào kỳ quái đến như chúng mày. Lúc nào cũng như ở trên cung trăng. Rồi mà xem! Sẽ đến lúc chúng mày mở mắt ra.

Em Lan tôi mở to đôi mắt xếch và nheo mũi lại khiến chúng tôi ai cũng mỉm cười. Lan nói thầm qua làn tóc dài của Liên, tuy gọi là nói thầm nhưng cũng đủ để me tôi ngồi ở giường cạnh đó và cả nhà nghe thấy:

- Ba lại sắp kể chuyện lần đầu tiên ba “mở mắt ra”.

Cũng may vì câu nói của Lan nên ba tôi không bắt tội chúng tôi nghe thêm một lần nữa câu chuyện “mở mắt ra” của ba tôi.

Ba tôi im lặng một chút đoạn đánh trống lảng khen một câu không ăn nhập gì đến câu chuyện đang nói:

- Hôm nay rau ngon quá nhỉ!... Ăn rau bổ lắm đấy!

Thường hai phe đối lập trong gia đình tôi hay đối chọi nhau nhất vào những bữa cơm, vì lúc đó gia đình hội họp đông đủ.

Tôi không nhớ rõ từ thời kỳ nào gia đình tôi tách làm hai phe. Có lẽ từ khá lâu, nhưng sự phân chia thành hình rõ rệt nhất là khi tôi mới lớn lên và biết suy nghĩ một chút. Dĩ nhiên tội của tôi nặng nhất đối với ba tôi. Những đứa con khác thì tội cũng đều cũng nặng cả tuy nhiên tội nặng nhẹ thay đổi tùy theo mỗi cá nhân. Còn mẹ tôi thì khác. Ba tôi sẽ mãi mải ngạc nhiên không hiểu tại sao mẹ tôi lại có thể đứng cùng một phía với các con để chống lại chồng. Ba tôi chỉ biết càu nhàu:

- Đàn bà chỉ chiều con. Chiều chúng lắm, cái gì xin cũng cho rồi vào tù cả một lượt vì nợ.

Ba tôi nói đúng một phần nào, gia đình tôi nợ rất nhiều, tuy vì me tôi mà nợ tăng hoài, nhưng chúng tôi vẫn thấy việc mẹ tôi vay mượn là rất phải và hợp lý (nhất là vay để chúng tôi tiêu).

Vậy thì gia đình tôi gồm có hai phe. Phe thứ nhất như tôi đã nói gồm... ba tôi và dưới đây những chi tiết về phe thứ hai:

Phe này gồm: Me tôi, Du cậu con trai thứ nhì, Liên cô con gái thứ ba, Lan con gái thứ tư, Sơn cậu năm, Tuyết, Liễu hai cô cuối và tùy theo trường hợp số người của phe này được tăng thêm, Vân người làm của gia đình, Hằng người em họ của chúng tôi và tôi.

(Con mèo Nina, thuộc loài gia súc và không biết nói, không biết tuyên bố thuộc phe nào, nhưng cũng đã chứng tỏ rõ rệt trong cách “cư xử” là chống đối ba tôi).

Tôi thiết tưởng cũng cần phải nói từng nhân vật một trong gia đình tôi.

Mẹ tôi

Me tôi ngày xưa đẹp lắm. Sắc đẹp đó một phần vì thời gian qua, một phần vì số cân nặng đã tăng lên rất nhiều nên đã giảm bớt đi. Qua những lời me tôi kể lại và những kỷ niệm lúc tôi còn nhỏ, me tôi là một trong những người đàn bà đầu tiên vấn tóc trần, rẽ lệch, mặc áo màu và mang dù Nhật. Chúng tôi còn giữ một vài chiếc ảnh chụp ba me tôi và hai, ba đứa trong bọn chúng tôi. Mỗi khi xem lại ảnh cũ là một dịp để chúng tôi phê bình ba me. Những lời phê bình khôi hài nhất dĩ nhiên là do những người không có trong ảnh. Lan chẳng hạn:

- Có phải bây giờ me mới béo đâu. Ngày xưa me đã có “khuynh hướng” béo cơ mà.

- Láo nào! Trước me béo đẹp.

Trông đôi mắt me dữ quá. Có ông nào bị me thôi miên đi không?

- Suỵt!... Ba nghe thấy đấy. Ba có hay ghen không hở me?

Me chúng tôi cười. Đôi mắt xâu to và hàng lông mi cong dưới đôi mày dậm cũng như cười theo.

- Mẹ không được nói dối đấy. Ba ngày xưa ghen lắm phải không?

- Còn phải nói. Anh còn nhớ mỗi khi đi hội chợ hay đi xem phòng triển lãm nào nếu có ai nhìn me là ba có vẻ bực tức lắm.

Lan dơ một tấm ảnh lúc ba tôi ở Chapa tay cầm một cái ba-toong.

- Các ông sợ ba là phải. Ba cầm ba-toong cơ mà.

Riêng tôi, tôi biết ba tôi rất hay ghen. Những trận cãi nhau giữa ba và me tôi hồi chúng tồi còn nhỏ tuy có làm chúng tôi sợ hãi đôi chút, nhưng chúng tôi lại được lợi. Sau mỗi trận cãi nhau to, sau khi nghe ba tôi gọi me tôi bằng “cô” và me tôi gọi ba tôi bằng “ông” thì me tôi cả quyết xếp quần áo vào va li và lôi cổ chúng tôi về quê bà ngoại. Chúng tôi “bắt buộc” phải nghĩ học và sống những ngày đầy thích thú ở trại cho đến khi ba tôi mò xuống xin lỗi me tôi và làm lành. Ông bảo:

- Lâu không có chúng nó để mắng cũng thấy nhớ!

Me tôi cao hơn mực trung bình đối với người đàn bà Việt, trên một thước sáu mươi. Bà chỉ thấp hơn ba tôi một chút xíu. Đôi vai tròn, khuôn mặt nét đều và đầy đặn của bà trái ngược hẳn với khuôn mặt sương sương toàn những nét gẫy của ba tôi.

Me tôi có nhiều anh trai, nên có lẽ vì thế đã quen thuộc với lối sống bừa bãi nhiều khi kỳ quái của các anh. Nhờ những kinh nghiệm đó bà rất rộng lượng với các con trai không lấy gì làm kiểu mẫu lắm như chúng tôi. Đấy cũng là một tính xấu của bà: Chiều con và rất dễ tha thứ.

Những bạn trai của tôi, của riêng Liên, của Liên nhưng do tôi giới thiệu đến thăm gia đình tôi, nhiều lúc phải ngạc nhiên và bỡ ngỡ vì thấy mẹ tôi trong khi nói chuyện tỏ ra rất thông thạo và hiểu biết về những vấn đề mà các bà mẹ cùng một thế hệ với bà không dám đả động tối: tình yêu hoặc quan niệm sống của phái trẻ và của chính bà.

Bà có thể xen vào câu chuyện:

- Các cô các cậu bây giờ bàn đến yêu đương có vẻ quan trọng lắm. Thời me ấy à...

Liên chớp chớp mắt, đó là một lối điệu đặc biệt của nàng mà Lan gọi là “chớp mắt ngượng ngùng” và kêu lên nho nhỏ:

- Me!

Làm như câu chuyện me tôi sắp kể không nghiêm trang và hợp với một bà mẹ. Lan thì cười có vẻ thích thú và lại còn xúi thêm:

- Yên nào! Chị tưởng chỉ chị mới biết thế nào là mơ mộng à? Em cam đoan thời trẻ ba cũng tán me mất công lắm, phải không me?

Me tôi cười rất tươi. Me tôi không cười bằng miệng mà còn cười bằng cả người. Khi bà cười cũng như khi bà ăn ai cũng thích ngắm.

- Me nhớ dạo me đi xem mặt bác Ba gái hộ bác trai.

Lan và Liên kêu lên:

- Đi xem mặt hộ! Thế bác trai không đi à?

- Không! Khi me về Bác thản nhiên hỏi. “Thế nào? Trông cô ta có được không?”.

Me trả lời. “Em cũng chưa biết. Cũng đường được... Cô ấy ngoan”. Bác Ba bảo: “Cô bằng lòng tôi cũng bằng lòng”.

- Thế me có bằng lòng không?

- Lan dốt quá, nếu me không bằng lòng tại sao lại có bác gái.

- Nói đến chuyện dựng vợ gã chồng cho các con me tôi có một ý kiến khá đặc biệt:

- Lan, Liên ưng ai me gả liền. Miễn là cưới đừng tốn (me tôi lúc nào cũng sợ tốn). Còn con trai thì bao giờ cưới vợ cũng được. Càng muộn càng tốt.

Mẹ tôi là thủ quỹ của gia đình. Không may cho chúng tôi me tôi rất thích tiêu tiền, thích ăn ngon và thích làm người khác ăn ngon. Bọn chúng tôi dĩ nhiên chỉ biết ăn cho khoái miệng. “Sao chúng nó ăn sành thế! Con nhà lính tính nhà quan”. Khả năng thưởng thức món ăn chúng tôi đã cao đến độ ba tôi phải thốt lên câu đó đủ hiểu.

Gia đình tôi trong mấy ngày đầu tháng bao giờ cũng tưng bừng nhộn nhịp. Tiếng gà vịt kêu xen lẫn tiếng dao thớt nghe thật êm tai. Trong bếp lúc nào cũng lúc nhúc những người là người, cả nhà tận lực nặng óc ra để nghĩ xem có món gì ngon cần phải ăn. Điều gì chứ điều đó ai cũng giầu óc tưởng tượng cả. Mặc dầu ba tôi ngăn cản và đe:

- Sao chúng mày không bảo me mời cả phố đến ăn một thể. Có bao nhiêu tiền tiêu cho thật hết. Rồi thì ăn muối.

Nhưng sự đe nẹt của ông không vì thế: ngăn cản ông thưởng thức cùng với mọi người những món ăn ngon và rồi ông cũng phải khen:

- Món tiết canh vịt thì chỉ có me làm ba mới vừa ý. Ngày xưa chú Sáu chỉ ăn những món “chị Năm” làm mới thấy ngon miệng.

Chú Sáu (một nhà văn nổi tiếng), gọi chú như vậy vì chú đứng thứ sáu trong gia đình, là một người sành ăn có tiếng.

Nhưng những âm thanh vui vẻ như tiếng dao thớt và gà vịt đó càng xa dần ngày đầu tháng, càng thưa thốt đi và đến khoảng ngày 18, 20 là im hẳn. Chúng tôi bắt đầu chuyển sang một “rê dim” khác mà chúng tôi đặt cho một cái tên rất thanh tịnh là “rê dim tu tiên”.

Đã quen rồi mà mỗi khi đi học về sau khi quẳng cặp xuống bàn, Lan và Liên lạnh lùng dở báo ra đọc như chưa bao giờ nghe thấy đến chữ “bếp” hoặc biết “làm bếp” là gì cả.

Sơn vì đến tuổi lớn nên ồn ào hơn, hắn kêu lên:

- Lại tu tiên rồi. Sáng rau muống với cà chiều thì ăn gì?

Lan không cười tiếp luôn:

- Cà với rau muống.

Thật giản tiện!

Và đến bữa cơm chúng tôi biết trước thế nào cũng được nghe những lời trách móc của ba tôi về sự ăn tiêu hoang phí.

Tuy me tôi ăn tiêu không tính toán nhưng từ bao nhiêu năm nay bà vẫn giữ chức thủ quỹ như thường. Có vài lần ba tôi bực mình tranh cho bằng được việc chi tiêu trong gia đình nhưng chỉ được ít lâu là ông cùng đành trao trả trách nhiệm phức tạp và phiền toái lại cho mẹ tôi.

Nói rằng mẹ tôi tiêu không tính toán cũng không hoàn toàn đúng vì quả thật lúc bỏ tiền ra mua một món gì hoặc làm một bữa ăn ngon mẹ tôi không nghĩ đến ngày mai có đủ tiền để mua món ăn hay không. Nhưng tiêu rồi mẹ tôi ghi vào sổ cẩn thận lắm.

Me tôi chỉ tính sổ khi nào quỹ đã gần cạn. Cho nên mỗi khi me tôi trịnh trọng mang quyển sổ màu đen, bìa da rất dầy ra ngồi ở giường giữa nhà và gọi Liễu:

- “Liễu mang bút ra đây me tính sổ”.

Thì lúc đó chúng tôi biết là có lẽ còn lâu lắm chúng tôi mới lại được biết hương vị các món ăn trần tục.

Nhiều khi Lan và Liên cũng ngồi quây lấy mẹ tôi và giúp me tôi tính sổ. Trí nhớ me tôi không lấy gì làm dai lắm và nhất là Lan vì ghét quyển sổ đó nên cứ tìm cách giúp me tôi biên vào sổ những món tiêu tưởng tượng.

- Me này! Me có nhớ hôm me đi chợ về me mua ba con gà hay không?

- Đâu! Có hai con thôi đấy chứ!

- Me nhầm rồi! về sau có một con gà mái béo lắm me mua thêm cơ mà!

- Ừ nhỉ!

Kết quả là đến cuối tháng tiền chi tính ra nhiều hơn tiền thu. Mẹ tôi rất ngạc nhiên và băn khoăn mãi:

- Quái! Hay me biên nhầm cả tiền nợ vào đây. Nhất định không phải thế vì tiền nợ me tính riêng cơ mà.

Ba tôi lại được thể nói:

- Me mày thì sổ sách làm gì cho mệt. Tiền có bao giờ để nóng túi đâu. Sợ nó thành “rắn” thành “rết” nên phải tiêu ngay.

Từ đó trở đi Lan và Liên khi nói đến “rắn, rết” là muốn nói đến tiền.

Khi nhiều tiền các con xin me tôi rất dễ nhưng khi tiền trở nên hiếm hoi me tôi khó lắm. Biết tâm lý me tôi Lan, Liên rất khôn ngoan và lựa đúng lúc xin. Khi mẹ tôi ngồi mơ màng nghĩ đến chuyện gì chẳng hạn thì lúc đó hỏi gì me tôi cũng ừ. Lan sẽ vờ hỏi:

- Me! Chốc me mạng lại cho con cái áo nầy nhé!

- Ừ!

- Me mạng nhanh lên đấy nhé để mai con đi học đấy! Me cho con hai chục nhé!

- Ừ!

Đó là một phương pháp rất chính đáng vì sau này me tôi có nhớ ra thì Lan có đủ lý do để bào chữa.

- Chính me cho con tiền mà me còn mắng gì.

Mẹ tôi rất ít khi mắng con cái, nhưng thế không có nghĩa là không bao giờ me tôi mắng ai. Một tháng độ một hai lần vì một chuyện bực mình nào đó me tôi mắng một hai trận một thể. Bất cứ lỗi tại ai không cần biết. Me tôi sẽ lấy người đó làm điểm khởi hành và me tôi mắng lây ra tất cả mọi người trong gia đình. Me tôi lôi hết những lỗi lầm của mọi người từ thưở nào ra nói. Me tôi không thích ngồi một chỗ nên vừa dọn dẹp đồ đạc trong nhà, me tôi đi hết nhà trên xuống nhà dưới và mắng không ngừng trong một hay hai tiếng đồng hồ.

Trong trường hợp đó tốt hơn hết là chúng tôi làm ra vẻ không nghe thấy và coi như me tôi nói những chuyện không liên lạc gì đến ai cả. Vì thế nên sảy ra nhiều chuyện rất buồn cười, chẳng hạn khi me tôi đang nói:

- Mấy cô con gái thì lười ơi là lười. Ăn xong đi học, về nhà quẳng sách là mỗi đứa vớ lấy truyện, lấy báo...

Sơn đùng đùng chạy đến hỏi:

- Me! Cái quần tím dài của con me để đâu?

- Ở trong tủ ngăn dưới cùng ấy.

Đoạn me tôi lại tiếp tục:

-... báo với sách. Nhớn rồi phải học ăn học làm.

Liên chạy ở dưới bếp lên:

- Me! Đậu rán hay kho?

- Kho! Mà cho tương chứ đừng cho nước mắm.

Tài khâu vá của me tôi thì trong gia đình tôi ai cũng công nhận là đến độ rất tinh vi. Người khâm phục me tôi nhất có lẽ là Sơn, vì hắn nhớn quá nhanh nên quần áo cứ sau vài tháng đã chờ me tôi xuống thêm một gấu hoặc nới dài tay. Không những thế me tôi lại giàu óc tưởng tượng. Chiếc áo gối bị rách một chỗ, me tôi lôi trong thúng ra một miếng lụa đỏ chói trước những cặp mắt đầy ngạc nhiên của Lan và Liên.

- Me vá bằng màu này ấy à?

- Gọi Du ra đây me bảo.

Sau đó miếng lụa đỏ được cắt theo một hình thể rất Picasso và vá vào áo gối.

Màn che chiếc cửa sổ nhỏ bị rách, me tôi tháo mấy chiếc xiêm cũ của Tuyết và Liễu và sau đó nhờ tài biến hóa của me tôi chúng tôi đã có một chiếc màn cửa mới màu tím có hoa xẫm rất nhã nhặn.

Lan có một chiếc áo hở cổ mặc trong nhà một nửa màu xẫm và một nửa màu vàng nhạt. Đó là do sự phối hợp giữa hai vạt của hai chiếc áo dài khác màu nhau. Lan và Liên thường khuyên me tôi mở một lớp dạy về khoa “may cắt lập thể”.

Me tôi thường bị các con chê vì tội: “chiếm nhiều chỗ quá”.

- Me! Hôm nay me đi ciné nhé. Con đã lấy riêng cho me hai vé.

- Anh lấy rạp nào thế?

- R.Đ. thì không được, ghế hẹp quá.

- Me ngồi lui ra con ngồi một tí. Giường này người ta làm ra để nhiều người ngồi chứ đâu cho một người.

- Họa sĩ nào vẽ me thì thật tiện, chỉ cần vẽ một vòng tròn thật to...

- Và thêm con số 64 vào giữa.

- Tại sao 64?

- 64 cân mà!

- Hôm nào lôi me đi Bal đi.

- Ví dụ me khiêu vũ thì làm thế nào?

- Me cần gì phải khiêu vũ. Me cứ đứng giữa “pit” là đủ hết chỗ rồi còn ai mà khiêu vũ nổi.

Me tôi chỉ cười.

Tới đây tôi tạm ngưng phần giới thiệu me tôi, vì không lẽ ngoài đời thật mẹ tôi đã “chiếm nhiều chỗ quá” mà ở đây, trên trang giấy này, me tôi cũng chiếm nhiều chỗ quá thì e không tiện.

- Tôi sợ me tôi không bằng lòng vì:

- Lại chỉ phí giấy. Viết nhiều tốn tiền mua giấy, vẫn lại “tốn tiền”, khó mà thay đổi tâm tính được me tôi.

 

Liên

Liên có một dáng đi rất đẹp, mềm rẻo và uyển chuyển như một con mèo.

Liên tự phụ về dáng đi của mình lắm nhưng Sơn trái lại chỉ cho rằng Liên chỉ điệu: Liên đi đứng bật bật như cái lò so không hề khoan thai giống như nữ hoàng Elizabeth.

Thật ra Liên đi đẹp có lẽ vì đi bộ nhiều. Lan, Liên không biết đi xe đạp, nên một ngày hai lần phải cuốc bộ đến trường và về nhà. Nhà tôi cách trường Lan, Liên hơn ba cây số. Mỗi lần đi học về thế nào Lan, Liên cũng có những chuyện lạ kể cho cả nhà nghe.

Lan liến thoắng:

- Me ạ! Hôm nay có một anh chàng đi ôtô theo chị Liên với con.

Sơn vội hỏi:

- Ôtô gì? Mác Mỹ hay Tây? Máy kêu có lớn không?

Du điềm đạm hơn:

- Trông mặt mũi hắn ta có ngu lắm không?

- Mặt mũi cũng đường được nhưng hơi bèn bẹt.

- Chắc anh chàng bị tát nhiều...

Liên lên tiếng:

- Im! Để Liên kể xong mới được hỏi. Đây nhớ...

- Nhớ vói quên gì. Liên kể gọn gàng một tí và đừng có điệu. Đây là các anh nghe chuyện chứ không phải “các ông của Liên”...

- Đây nhớ... anh chàng ta, cách đây mấy ngày không biết đi đâu về vừa lúc Liên và Lan bước chân xuống đường ở đầu phố... thì xe anh chàng ta cũng đến. Chàng ta phanh ngay xe lại nhường Lan, Liên qua đường ra vẻ ga lăng lắm. Liên thưởng cho một cái nhìn loại...

- Số mấy?

Lan trả lời hộ:

- Số ba.

Liên cãi:

- Số hai!

(Vì Liên có đôi mắt đẹp và rất quyến rũ nên Du và Lan đã phân chia những “cái nhìn” của Liên làm ba loại. Loại một: nhìn rồi quay đi ngay, tuy nhiên tia mắt thoáng cảm tình. Loại hai: nhìn rồi hạ mi mắt xuống, hơi ngượng ngùng và lộ vẻ xúc động. Loại ba: nhìn hơi lâu một chút đoạn chớp chớp mắt như những cánh bướm non).

- Thế xong rồi sao nữa.

Sơn chen vào:

- Chị Liên có nhìn mác và số xe không?

Lan trả lời hộ:

- Hình như NBE thì phải. Còn xe giống xe taxi bốn ngựa mình thường đi.

Sơn thồng thạo về xe ôtô nên chú thích ngay:

- NBE bốn ngựa, mua cách đây vào khoảng bốn năm. Giá hiện tại vào khoảng bốn vạn...

- Im! Sơn thì lúc nào cũng chỉ để ý đến ôtô. Từ hôm đó trở đi, trưa và chiều nào anh chàng ta cũng đỗ xe chờ Lan và Liên ở đầu phố... Lan, Liên đi qua một quãng, chàng ta lại nhảy lên xe chạy lên trước độ 100 thước, đỗ lại, nhảy xuống đứng chờ...

- Văn minh nhỉ! Theo các cô cái kiểu này hơi tốn săng. Hắn ăn mặc ra sao?

- Ăn mặc kiểu như đã đi Pháp về.

- Chàng ta có dám chào hỏi hay gợi chuyện không?

- Chưa dám!

- Thế thì ngu quá, không đáng đi xe NBE. Lần sau Lan có gặp anh chàng ta nhớ bảo. “Anh tôi bảo anh ngu lắm không đáng đi xe NBE để đón các cô, nên về tìm mua cái xe... bò mà đi”.

Liên đẹp và biết mình đẹp. Lông mày nét cong đậm trên đôi mắt to luôn luôn mở rộng. Trông nghiêng mũi Liên rất cao và rất thanh, một đặc điểm của me tôi, Liên và Lan. Đôi môi Liên nét không được đều, môi dưới hơi bĩu ra nhưng khi Liên mím miệng khuôn mặt nàng có vẻ kiêu ngạo lạ.

Nhưng vẻ kiêu ngạo đó Sơn cho chỉ vì Liên đói bụng nên mặt mới nhăn nhó như vậy.

Cách đây ít lâu vì quỹ gia đình eo hẹp, nên Lan và Liên, mỗi cô chỉ có ba cái áo dài vừa để đi học vừa để đi chơi. Dĩ nhiên không thể nói là Lan, Liên không thích diện. Người con gái nào đến tuổi lớn mà lại không thích có nhiều quần áo và đồ trang điểm để tôn sắc đẹp. Nhưng giống me tôi Lan, Liên bị các anh trai ảnh hưởng, nên cũng giản dị trong cách phục sức, hay bắt buộc phải giản dị thì đúng hơn.

Mỗi ngày đi học Lan, Liên cẩn thận xếp vào trong cặp một cái hộp nhỏ đựng kim chỉ và... đinh đóng guốc. Không phải Lan, Liên thích là những người con gái kiểu mẫu công dung, ngôn, hạnh vẹn toàn. Sở dĩ mang kim chỉ đi theo là vì nhiều lý do mà người ngoài không thể ngờ tới. Nghe Lan, Liên khôi hài về áo, guốc, nón của hai người, cả nhà nhiều khi cười chảy cả nước mắt.

- Hôm qua Lan và chị Liên đi học, khi đi qua ngã ba... gặp anh chàng “bốn ngựa” (tên Lan đã chọn cho anh chàng hay theo Lan, Liên bằng xe Renault) đứng tì vào ôtô chờ sẵn cùng mấy người bạn trai của anh chàng ta. Chị Liên điệu lắm mọi khi còn ban cho anh ta một cái nhìn nhưng lần này lạnh lùng đi qua, đầu thẳng mặt kiêu ngạo...

Du khen:

- Đúng lắm! Đối với đàn ông phải xa xôi, khó với, họ mới sợ.

... không may đúng lúc hai chị em khoan thai, mặt lạnh như đá, đi qua mấy anh chàng đó, thì guốc chị Liên đứt...

Liên tranh lời Lan:

-... Liên khoan thai ngồi xuống, thản nhiên ngắm chiếc guốc đứt, đoạn hai chị em thì thầm bàn tán ra vẻ bí mật lắm và cuối cùng Lan lôi ra cái “hộp cấp cứu” và chọn hai cái đinh giơ lên ánh sáng và hai chị em ngồi giữa lối đi... đóng guốc.

- Chắc mấy anh chàng đứng ngắm vỡ mộng.

- Biết đâu đấy! Có thể họ tưởng Lan, Liên cố ý làm ra thế. Trông ngoài sang trọng quý phái, đẹp như hai cô, ai dám tin là phải đóng guốc giữa đường.

- Anh Lam nói đúng, bọn họ nhìn Lan, Liên có vẻ thán phục lắm!

- Thán phục vẻ đẹp hay thán phục tài đóng guốc?

- Ừ!... Có lẽ cả hai thứ.

Liên có một mái tóc rất dài, mềm và xõa xuống tận vai. Vì khuôn mặt Liên nhỏ nên để tóc dài rất hợp. Thỉnh thoảng Liên cũng muốn uốn lại nhưng hễ đem bàn với me tôi là me tôi lại bảo:

- Để me xem nào, uốn lại mất hơn ba trăm đồng. Thôi để tháng sau. Để tiền mà ăn ba mươi bát phở có béo bổ hơn hay không.

Mọi người hùa vào góp ý kiến.

- Me có ý kiến tuyệt hay. Trời lạnh buổi tối kéo nhau đi ăn phở thật hợp lý.

Sơn kêu lên giọng ghen tị:

- Con gái tốn thật, uốn tóc chị Liên mỗi lần bằng ba mươi bát phở, em cắt tóc chỉ có một bát rưỡi.

Sau đó tôi lại được mẹ tôi giao phó trách nhiệm đưa cả nhà đi ăn phở. Sau vài lần “ăn phở tóc của Liên” Liên trở nên nổi tiếng là có bộ tóc dài, đẹp và mơ màng nhất trường.

Lan và Liên cho tôi và Du biết một đặc điểm rất lạ của tâm lý phụ nữ. Các cô thường hay kết thân với một cô thật đẹp, quây quần quanh cô này và có khi... mê cô này. Liên là một trong những cô đẹp được nhiều bạn để ý và ngưỡng mộ. Du tự phụ là giỏi phân tách tâm lý mọi người cũng phải ngạc nhiên. Du hỏi:

- Tại sao các cô không mê một ông nào có phải hợp lý không? Anh chắc những các cô mê sắc đẹp của Liên toàn là những cô xấu.

May cho Du một điều là các cô đẹp cũng thích quen với những cô đẹp ngang hoặc kém mình, cho nên Du có nhiều cơ hội được Liên giới thiệu với những cô bạn xinh xinh của Liên.

Bạn của Liên

Liên có rất nhiều bạn trai, cũng như gái. Chúng tôi chia những bạn trai của Liên thành nhiều hạng:

Những “ông” do tôi giới thiệu với Lan. Dùng chữ ông cũng rất đúng vì bạn của tôi thường là những người đã ra đời hoặc có nghề nghiệp hẳn hoi.

- Bạn của anh Lam hễ gặp là biết ngay. Cứ những ông nào đến nhà mình quần áo ngay ngắn, mặt mũi hoặc lừ lừ như sắp đánh nhau với ai, hoặc vênh váo như quen với họ là một điều vạn hạnh. Nhất định là bạn anh Lam. Sáng chủ nhật vừa rồi anh đi vắng; Lan, Liên đang ngồi ăn bánh cuốn ở phòng khách thì một ông mặt đen xì và má bạnh sang hai bên, diện một bộ com lê cũng đen như ông ta, thò đầu vào. Cửa thì mở toang, đứng ngoài đường có thể nhìn thấy rõ me ở tận trong bếp đang rán lạp xường; Lan và Liên đang ngồi ở giữa nhà trước mặt để một đĩa bánh cuốn cao bằng tháp Eiffel. Thế mà ông ta vẫn đàng hoàng đập cửa cộp cộp và dõng dạc hỏi “Có ai trong nhà không?” Lan lo cho cái cửa quá! Me vừa chửa xong. Ông ấy mới dịu dàng gõ có mấy cái mà bản lề đã sắp long ra.

- Thế Liên trả lời ra sao?

- Chị Liên làm sao mà trả lời được...

- Cảm động hả?

Liên vội cãi:

- Không! Đâu có! Em đang vội nuốt miếng bánh cuốn mà không nổi. Gớm! Sao bà hàng cho nước mắm cay thế!

Lan tiếp:

- Thấy chị Liên đỏ mặt lúng túng (không phải vì ông ta mà vì ớt cay), Lan vội đứng dậy trả lời “Dạ! thưa ông hỏi ai đấy ạ?” Lan biết đâu đó là bạn anh. Lan đoán ông ta là ông thầu khoán bạn của ba vì trông mặt ông ấy sừng sững như một bức tường, ông ấy không chịu bước hẳn vào cứ đứng ở giữa cửa oang oang hỏi “Tôi muốn hỏi ông Lam. Tên tôi là Xuân! Trần văn Xuân, kỹ sư cầu cống”. Em thấy chị Liên có vẻ sợ hãi, đứng dậy lùi lùi vào trong nhà và không quên... mang theo đĩa bánh cuốn...

- Lan chỉ nói láo! Chị đâu có sợ. Sở dĩ lùi vào trong nhà là vì áo vừa mắc vào đinh rách một miếng lớn chưa kịp vá.

- Đáng kiếp chị! Sau khi Lan đã trả lời anh đi vắng, ông ấy đứng trán nhăn lại suy nghĩ đến mấy phút đồng hồ. Em chỉ mong ông ấy nghĩ nhanh nhanh. Vì em biết chị Liên ăn bánh cuốn còn nhanh hơn nhiều...

Liên hỏi tôi:

- Ông ấy làm nghề gì hở anh?

- Hắn làm ở công chánh và hắn là kỹ sư cầu cống.

- Chắc me thích ông ấy lắm vì nhà mình có mấy cái cống hễ trời mưa là tắc tị.

Tôi cười vì câu nói ngộ nghỉnh của Lan.

Sau hôm đến chơi không gặp tôi. Xuân năng lại thăm gia đình tôi lắm. Lan và Liên đặt cho Xuân cái tên hiệu là “ông cống đen” vì Xuân là kỹ sư cầu cống và người lại đen. Tôi biết Xuân rất có cảm tình với Liên nhưng lại không thạo cách nói chuyện với các cô. Đầu đề Xuân hay đề cập đến nhất và tỏ ra rất thông thạo là “cầu cống đường xá v.v...”

Liên than thở với tôi:

- Em ngồi trong nhà nghe anh Xuân nói chuyện với me và Sơn mà sốt cả ruột. Anh ấy chịu khó mang cả cá bản đồ đường xá ở Việt Nam đến giảng cho Sơn nghe. Nào là đường rựa, đường đá, đường đất, cầu gạch, cầu sắt, cầu treo...

Tôi thất thật tội nghiệp Xuân. Hắn rất thật thà và thẳng tính.

Tôi còn giới thiệu cho Liên một số rất nhiều các bạn khác nữa. Mỗi người đều được Lan, Liên hoặc gia đình tôi đặt cho một tên hiệu. Một anh được đặt tên là “Technicolor” vì bao giờ hắn cũng mặc áo màu “sặc sỡ”. Tôi đã có lần đánh cuộc với Lan, Liên, một chầu ciné, nếu anh chàng ta mặc một chiếc áo trắng. Tôi đã thua cuộc (có lẽ vì Lan, Liên xui chàng ta). Một anh chàng có cái tên hiệu rất lạ là “Fool Ridicule” mà Tuyết, Liễu phiên âm là “Phun Ri đi cùn”. Anh này rất đa cảm và lãng mạn, trong một bữa tiệc thân mật nhân ngày sinh nhật của Liên anh ta đã say sưa hát một bài hát Mỹ. Lan, Liên chỉ nhớ hai chữ Fool Ridicule nên dùng luôn để đặt tên hiệu cho Văn.

Một anh khác tính nết rất kín đáo và hay ngượng. Quen với gia đình tôi đã hơn một năm và hễ bao giờ đến chơi anh cũng hỏi “Các bác đâu?” và nhất định chào hỏi các bác xong mới dám ra ngồi nói chuyện với Lan, Liên. Tôi viết Lan, Liên là vì anh ta không dám ngồi đối diện một mình với Liên. Lan bực lắm “Tại sao phải có Lan anh ta mới dám nói chuyện với chị Liên. Bắt Lan làm ‘bối cảnh’ mệt chết đi thế này, con trai gì mà nhát thế. Chị Liên ăn tham thật đấy nhưng chị ấy có ăn thịt anh ta đâu mà sợ”. Anh ta vì gia đình khá giả nên cò dịp đi chơi Huế, Nha Trang, Đà lạt. Hễ mỗi lần đi đâu về anh lại đến ngay nhà tôi, nhưng nếu Liên hỏi:

- Nha Trang có gì lạ không anh?

Anh ta lúng túng trả lời:

- À! Cũng không có gì lạ. Trời nắng to và nóng lắm!

Nếu Lan có hỏi:

- Đà lạt có gì lạ không anh?

- Dạ! Cũng không có gì lạ. Trời lạnh nên rét lắm!

Nếu Sơn hỏi:

- Huế có gì lạ không anh?

Câu trả lời lần này dài hơn một chút. “À! Huế?... Huế không rét như Đà lạt và cũng không nóng như Nha trang”.

Anh ta về rồi, Lan giả vờ đóng vai anh ta. Liên, Du hỏi: “Saigon có gì lạ không anh?” “Á! À! Sàigon có nhiều ôtô lắm”, “Quả đất có gì lạ không anh?” “Dạ! quả đất vẫn quay quanh” “Tôi có gì lạ không anh?” “Dạ! Anh rút rát như con gái”. Đoạn cả nhà cười có vẻ thú vị lắm.

Chúng tôi đồng ý đặt cho anh ta cái tên hiệu “anh chàng không có gì lạ”.

“Không có gì lạ” có đôi mắt to như mắt nai rất đẹp và hiền từ. Tuy nhiên ngồi nói chuyện anh luôn luôn tránh nhìn thẳng vào mắt Liên, quay mặt ra phía khác, hoặc ngắm mấy chiếc ôtô chạy ngoài đường, hoặc đếm những con mối trên trần nhà. Lan có lần trêu:

- Sao anh thích nhìn ra đường thế?

Anh ta chữa thẹn:

- À!... không nhìn trời đấy chứ!

- Lan lại tưởng anh không muốn nói chuyện với chị Liên và Lan.

Anh cuống lên:

- Có! Có chứ!

(Dĩ nhiên câu chuyện của anh ta lại quanh quẩn trong cái vòng. Có gì lạ không? Không có gì lạ).

Đến thăm gia đình tôi, các ông bạn trai của Liên không những e ngại những câu nói trêu cợt hóm hĩnh của Lan, Du mà còn e ngại cả đến những đồ đạc của chúng tôi nữa.

Cơm nước xong tôi thường ngồi ở trên ghế, gác chân lên bàn làm việc và hút píp. Trong nhà có lẽ chỉ có bàn ghế của tôi là vững chắc và đáng tin cậy nhất vì không phải là cạm bẫy người. Từ mấy tháng nay Liên luôn than thở:

- Me ơi! Tại sao me không mua thêm mấy chiếc ghế mới. bàn ghế nhà mình cũ quá rồi... Ngồi ghế như ngồi trên võng và hễ đứng dậy là nó (cái ghế) tự động ngã lăn đùng ra. Nếu không có cái ghế tai hại thì hôm nọ chàng “cống đen” đã dề cờ la rê (declarer) với Liên rồi.

Lan và me tôi tò mò hỏi:

- Tại sao Liên biết chàng ta sắp tỏ tình?

- Liên biết chứ! À! quên! Liên đoán thế vì thấy chàng ta lại đả động đến “chương trình năm năm” và hình như có chuyện gì muốn nói với Liên mà chưa dám. Mặt đỏ lên và lúng túng e ấp hoài...

(Chương trình ngũ niên của Xuân, gia đình tôi không ai là không thuộc lòng. Hễ gặp me tôi là Xuân lại đem chuyện đó ra nói. Hai năm đầu: công danh, tức là thi đỗ lấy bằng kỹ sư công chánh. Năm thứ ba: sửa soạn nền tảng gia đình, tức là kiếm thật nhiều tiền. Năm thứ tư: lấy vợ. Năm thứ năm: sản xuất, tức là đẻ con).

- Thế rồi, đúng lúc chàng ta ngả người ra tựa vào ghế và quả quyết mở miệng thời cái ghế gẫy một chân... Chàng ta ngã một cái bằng trời giáng và cụt cả hứng...

- Cũng may cho hắn! Nếu không có cái ghế dám chắc Xuân sẽ thất tình, vì Liên sẽ từ chối.

Tôi an ủi Liên:

- Liên đừng lo! Lần sau muốn tỏ tình chắc hắn sẽ mang theo ghế ở nhà đến. Hắn cẩn thận lắm mà...

Me tôi biết chuyện và vì có cảm tình vối Xuân, nên những lần sau Xuân đến chơi, bà lại bắt Lan mang chiếc ghế chắc nhất ra mời khách ngồi. Lan trái lại không mấy ưa Xuân, trông chẳng khác gì anh phu làm đường.

Rồi Lan nhất định chỉ mang chiếc ghế cũ kỹ ọp ẹp nhất mời Xuân ngồi. Chiếc ghế này có cái tật kỳ khôi là nếu ngồi chớm ở nửa ngoài của mặt ghế thì không sao, nếu dịch quá vào trong thời chuyển động nghiêng ngả và kêu cót két.

Có lần Sơn thương hại Xuân, mặc một bộ com lê mới may mà không dám vắt chân chữ ngũ vì sợ ngã, nên mang một bình dầu chạy đến bơm vào mấy khe ở kẽ ghế cho đỡ kêu. Chúng tôi không ai dám cười vì sợ Xuân ngượng. Xuân về rồi, Sơn bị mẹ tôi và Liên mắng cho một trận. Du cười bênh:

- Sơn có sáng kiến hay đấy chứ! Giá nó bơm cho anh chàng ta một ít dầu vào người có lẽ chàng ta sẽ nói năng và tỏ tình chơn tru hơn.

Trước cửa nhà tôi sừng sững một cây cao, nhưng có một đặc điểm lạ lùng. Nói đến mùa lá rụng, mùa hoa xấu rụng ai cũng tưởng tượng ra một cảnh tượng ngoạn mục. Những cái cây của chúng tôi vào mùa thu cũng bắt đầu trút lá, chỉ khác bám vào chiếc lá là một con sâu bằng ngón tay út. Không hiểu loài sâu này có ác cảm gì với chúng tôi mà từ mấy năm nay nhất định lập nghiệp ở trên cây. Lan, Liên bèn đặt cho khoảng thời gian này trong năm là “mùa sâu rụng”.

Lan, Liên, me tôi cũng như bao thiếu nữ và đàn bà khác, rất sợ sâu. Đến mùa sâu rụng tôi, Du và Sơn không hề giật mình khi nghe những tiếng kêu rú của Lan, Liên. Chốc chốc, Liên lại đùng đùng chạy vào phủi quần áo và tóc rối rít gọi:

- Anh Du! Anh Lam! Nhanh giúp em một tay. Nguy đến nơi rồi...

Du đang ngồi chấm bài không ngửng đầu lên, đủng đỉnh hỏi:

- Hả!..., Cái gì đấy?

- Anh Du! Có con sâu đang bò trên quyển “thơ” của em. Em đang xem nó rơi đánh bộp xuống giữa trang sách. Kinh quá, anh ra giết nó hộ em đi!

- Liên đọc thơ ai đấy?

- Anh chỉ hỏi vớ vẩn!... À? thơ của Th. t. T. (một nhà thơ phái bí hiểm).

- Liên đừng lo! Con sâu đó không hiểu nổi thơ của Th. t. T. đâu. Bò được hai, ba giòng chàng ta chắc cũng rức đầu chuồn ngay ấy mà... Thật đáng thương cho nó. Rơi đâu không rơi lại rơi đúng vào thơ Th. t. T...

Con sâu biết thưởng thức thơ cũng khá lạ, nhưng ngoài ra con sâu còn gây ra nhiều chuyện ngộ nghỉnh và tai hại hơn nữa cho những ông khách của Liên.

Hôm chàng “bản đồ” đang ngồi nói chuyện với Lan, Liên ở phòng khách. Câu chuyện đang vui, Lan đòi chàng cho xem ảnh cô em gái, vì chàng ta quảng cáo hoài em gái xinh lắm. Đúng lúc chàng ta rút chiếc ảnh trong ví ra, dơ lên để mọi người trông rõ, thời cả Lan lẫn Liên cũng kêu rú lên vùng dậy bỏ chạy vào trong nhà trong. Chàng ta tái mặt lại vì giận và ngượng. Tôi và Du sau đó lại phải mất công giải thích!à vì có hai con sâu lớn đang ôm nhau rớt xuống vai chàng ta nên Lan, Liên sợ bỏ chạy, chứ không phải vì trông thấy “dung nhan” cô em gái trong ảnh mà mọi người hoảng hốt đến như vậy.

Càng nhớn lên, Liên càng xinh ra và cũng tương tự như bao cô gái khác cùng tuổi và xinh đẹp, Liên bắt đầu bỏ khá thì giờ vào việc chăm chút nước da, làn tóc. Ngoài những buổi đi học Lan, Liên không đánh phấn sáp và ăn mặc suềnh soàng, nhưng hễ có dịp đi đâu với tôi Lan, Liên làm khổ các anh trai không ít vì trang điểm hàng thế kỷ không xong.

Rất nhiều bạn tôi biết tôi có nhiều em gái, nên có vẻ thèm thuồng số phận của tôi. Hoàng độc thân và nhà con một, đến thăm tôi có lần thú với tôi:

- Anh thật sướng! Đi đâu về gọi một tiếng, ba, bốn cô em chạy ra chiều chuộng.

Hắn nhìn chiếc cốc cắm mấy bông hoa hồng bạch trên bàn làm việc của tôi, thở dài:

- Tôi thì chẳng bao giờ có ai bầy cho một lọ hoa tươi đẹp như thế kia trên bàn. Bàn tay đàn bà lướt qua đâu là để lại những dấu vết thật yêu kiều...

Tôi không ngăn nổi nụ cười thương hại nở trên môi. Hắn đâu biết đó là hoa hồng tôi bỏ tiền ra mua và cắm lấy. Hắn thật chưa biết các cô con gái lúc đến tuổi, lôi thôi và phức tạp đến thế nào. Riêng tôi những “dấu vết yêu kiều” của phụ nữ tôi biết rõ lắm.

Trong gia đình tôi không có bàn trang điểm riêng cho các cô, nên mỗi khi Lan, Liên sắp đi chơi đâu thời tôi và Du tự động phải ngừng viết lách học hành. Vì Lan, Liên tự động ôm đồm “đồ lề” như son phấn, gương lược đến, tuy không trực tiếp xâm chiếm chỗ ngồi của chúng tôi, nhưng chỉ để:

- Cho chúng em nhờ một góc bàn để trang điểm. Một tí thôi! Xong ngay ấy mà...

Lan nghịch ngợm vừa trang điểm vừa trêu Du. Để xem phấn có ăn da không, Lan lấy bông phấn đập vào má Du một cái khiến Du ho sặc sụa. Đã thế còn ngây thơ hỏi:

- Phấn có ăn da không anh?

Du càu nhàu:

- An với uống gì! Đi ra đằng kia!

Tôi thì mãi viết đang khát nước tiện có cốc đầy nước Liên vừa rót, tôi vớ lấy uống một hơi. Ngụm nước có mùi vị kỳ lạ nên nuốt vào ngừng luôn ở cổ họng không chịu trôi đi. Miệng lúng búng không biết nhả nước ra đâu, tôi hỏi Liên:

- Mm! Mm!... Ngước... ngủa...ng... iên... ngó... ngấn...

Liên thản nhiên hỏi:

- Nước có phấn hả?... Đáng kiếp! Nước em rót để pha phấn đây chứ, ai bảo anh uống vào? Nhả ra trả em đi... Thôi! Tiện đây anh cầm hộ em cái gương này một tí. Gương gẫy mất chân rồi...

Một tay cầm gương để Liên soi, tôi vừa viết càu nhàu:

- Hai tay của Liên đâu mà lại nhờ anh...

Liên gắt:

- Anh chẳng ga lăng chút nào cả!.... Vẽ hộ em cặp lông mày cho nó cong. Họa sĩ để làm gì.

Số phận Du cũng không hơn gì tôi. Hắn đương chải cho Lan 500 cái để tóc mượt, sở dĩ hắn không dám phản đối vì nếu hắn bất phục, Lan sẽ không đưa hộ hắn bức thư cho nàng “keeng keeng”. Hắn ngâm y ỷ một câu thơ “Vì đàn bà... hề... ta phải lụy đàn bà...”

Lan bĩu môi:

- Anh ngâm thơ tồi thế, thi sĩ ai dám làm thơ nữa. Vào trong nhà lấy cho em hộp phấn cũ của me. Nhanh lên!

Du lừng khừng vào trong nhà. Chúng tôi nghe thấy hắn lục lọi lủng cũng đến năm phút. Đoạn tiếng hắn vọng ra:

- Lan ơi! Có đến một chục hộp phấn cũ tích trữ ở đây. Lấy hộp nào?

Lan trả lời không ngần ngừ:

- Hộp nào anh lắc thấy lục cục thì mang ra đây cho em.

Du mang hộp phấn cũ lắc kêu lục cục ra và trước hai cặp mắt ngạc nhiên của tôi và Du, Lan mở hộp phấn lấy ra hai quả ô mai chia cho Liên một, Lan một và ăn chóp chép. Du vặn hỏi:

- Sao các cô kỳ thế? Ai lại để ô mai trong hộp phấn. Không logique tí nào hết!

Nhưng cái óc logique của Du đâu có bì nổi với lối lý luận logique của đàn bà. Lan trả lời:

- Hộp không để làm gì, nếu không phải là để đựng...

Một giờ đồng hồ sau, trang điểm xong, Lan, Liên kéo nhau đi phố để lại trên hai chiếc bàn của tôi và Du những vết tích thật yêu kiều: vết son phấn dây trên bàn, tóc rối, các miếng bông đánh mặt, cặp tóc... v.v...

Tôi kêu sao không dọn sạch, Liên bảo:

- Tối nay thết chúng em xi nê. Thế nào em chẳng phải trang điểm. Bầy sẵn đấy cho tiện. Mà các anh đừng có đụng vào “đồ lề” của bọn này. Cái gì cũng để đúng chỗ của nó rồi đấy!...

Buổi tối trước khi trang điểm, sửa soạn quần áo Liên cẩn thận hỏi tôi:

- Anh lấy vé hạng gì đấy để em liệu mặc quần áo?

- Fauteuil, bốn mươi đồng...

- Chà! Anh Lam giầu ghê! Thế thì anh phải cho chúng em đến sớm trước giờ chiếu 40 phút.

Tôi gật đầu ưng thuận và không lộ vẻ ngạc nhiên vì thừa biết Liên có cái tật bao giờ cũng phục sức sao thích hợp với mọi trường hợp. Vào cuối tháng tôi thết một chầu xi nê vé hạng bét. Liên ăn mặc trang điểm qua loa và chỉ chịu vào rạp khi đèn đã tắt hết cho đỡ ngượng nếu chẳng may gặp ai quen. Còn khi được ngồi hạng vé khá sang, Liên bỏ hàng giờ đồng hồ trang điểm thật lộng lẫy, đến thật sớm, và lúc vào rạp khoan thai tiến đến chỗ ngồi trước những cặp mắt chiêm ngưỡng của các ông. Không những chính mình diện, Liên còn bắt Lan diện theo các có bạn.

Lan, Liên ríu rít gọi nhau, động viên thêm cả me tôi, Tuyết, Liễu giúp hai cô con gái lớn sửa soạn. chương trình biểu diễn của các cô có vẻ đầy hứa hẹn.

Phim hay và hấp dẫn nên rạp chiếu bóng đông đầy những người. Mọi sự sảy ra đúng như ý Liên mong muốn. Đứng mười lăm phút trước cửa rạp để các ông trẻ tuổi ngắm Lan, Liên; để Liên, Lan tìm xem có cô nào đẹp bằng mình hay không. Một sự tìm tòi luôn luôn vô hiệu quả vì bao giờ các cô khác cũng xấu và vô duyên ghê gớm, kinh khủng. May ra có cô nào đẹp thì cũng chỉ... gần bằng Liên thôi. Các cô hằn học quan sát lân nhau và sì- sào bàn tán, nói xấu nhau.

Tôi và Du lẳng lặng đứng bên cạnh các cô, vì cũng như thường lệ chúng tôi chỉ là những đồ vật bối cảnh phụ thuộc vô giá trị.

Trước khi phim chiếu nửa tiếng. Liên lôi chúng tôi vào rạp. Du giữ vé nhưng khi Lan, Liên ngừng lại ở hạng 40$, Liên làm điệu nghiêng nghiêng cái đầu sửa lại làn tóc, mắt mơ màng trong một giáng điệu khả ái và Lan liến thoắng nói để khoe cái giọng trong vắt thanh tao của mình, thời Du vẫn xăm xăm tiến bước. Liên gọi:

- Anh Du! Chờ người “classeur” đã nào. Sao cái rạp này bất lịch sự thế. Chẳng ai đưa chỗ cả...

Du đáp ngắn ngủi:

- Các cô đi theo anh. Anh biết chỗ ngồi rồi.

Lan, Liên miễn cưỡng theo Du. Liên buổi tối đó lại diện chiếc áo hoa vàng mới may, quàng chiếc khăn kim tuyến, quà tôi tặng vào dịp sinh nhật vừa qua, Lan đi giầy cao gót lần này mới là lần thứ hai, thứ ba gì đó, bước còn chập chững và trông nhớn hẳn lên.

Có tiếng người gọi tên tôi. Quay lại mới biết là anh chàng “cống đen” cũng xem phim này và ngồi cùng với bà cụ. Chàng ta đứng dậy trịnh trọng ngả đầu chào Liên và khen một câu rất sáo và cũ rích:

- Cô Liên tối nay thật lộng lẫy!

Vì đèn trong rạp không sáng lắm nên khó ai có thể cả quyết cảm động có khiến chàng ta xầm màu hơn tí nào không. Chàng ta còn săn đón hỏi:

- Anh và Lan, Liên ngồi ở đâu vậy?

Liên đáp ngay:

- Dạ cũng gần đây thôi ạ!

Đúng lúc đó ở xa kia từ hàng ghế hạng bét, Du bắc loa tay gọi qua đầu bao nhiêu khán giả:

- Liên, Lan, chỗ ngồi ở đây cơ mà!

Rồi hắn lấy tay chỉ chỉ vào mấy chiếc ghế sát có thể nói là dí mũi vào màn ảnh. Bao nhiêu cặp mắt đều đổ rồn về phía chúng tôi đứng. Liên, Lan mặt tái lại vì ngượng. Liên mắt chớp chốp đã chực khóc. Chàng “cống đen” ngượng cũng không kém, lí nhí:

- À!... Ngồi gần thế... có lẽ xem không được rõ. Hay để tôi đổi vé hộ.

Liên định há miệng tôi chặn ngay:

- Cám ơn anh! Anh để chúng tôi tự nhiên.

Tôi thản nhiên từ từ dẫn Lan, Liên mặt đã đỏ hoe đi xuống gần màn ảnh. Mấy ông tre trẻ bảo nhau, giọng khá lớn:

- Trời ơi! Uổng quá! Người đẹp thế kia mà phải ngồi hạng bét...

- Bậy nào! Chắc mấy nàng cận thị nặng.

Khi đến mấy hàng ghế hạng bét, chúng tôi thấy Du ngồi vắt chân chữ ngũ, xem chương trình và nhai kẹo cao xu. Hắn không buồn quay đầu lại, đưa ba cái vé 40$ cho Liên.

- Các cô lên trên ấy mà ngồi. Ai bảo xuống tận đây làm gì. Anh ngồi chơi một tí. Người ta thích cô độc mà,...

Liên đỡ lấy vé, mặt tươi hẳn lên. Lan, chẳng nể nang đá luôn cho Du một cái vào đầu gối khiến hắn nhăn mặt kêu:

- Trả thù hả! Gớm sao con gái thùy mị thế!

Thằng quái

Suốt từ sáng đến tận khuya, trong nhà tôi luôn vang lên những lời than phiền và ư trách mắng.

- Trời ơi! Sắp đến giờ đi học rồi mà đánh thức “thằng quái” này không nổi! Sao nó ngủ say thế!

Đó là Lan vừa kêu ca vừa tìm đủ mọi cách, đánh thức “thằng quái”, vì tối hôm trước nó đã dặn:

- Chị Lan, mai đánh thức em dậy 6 giờ đấy.

Ba tôi bảo:

- Lấy nước đổ vào tai nó.

- Liên, Lan cứ cắt đứt dây để màn rơi xuống phủ vào mặt nó là nó phải bò dậy.

Du tàn nhẫn:

- Lan đánh thức nó làm gì cho mệt. Đẩy mạnh cho nó lăn cổ xuống đất.

Me tôi tâm lý hơn:

- Chúng mày cứ ăn hết phần điểm tâm của nó đi. Me nhất định đến mai nó sẽ dậy từ 4 giờ sáng.

Liên buổi trưa đi học về đã la lên:

- “Thằng quái!” chị đã dặn bao nhiêu lần vẫn không chừa. Bàn của chị đâu phải bàn để kìm chữa xe. Chết tôi rồi! Dầu xe rây bẩn cả vào tập “thơ”.

Du, khi thay quần áo, tuy tính điềm đạm mà cũng phải càu nhàu:

- Tôi cam đoan với cả nhà là hôm nay “ông quái” ông ấy đã mặc nhầm cái áo trắng tôi mới đưa thợ giặt là hôm qua. Áo nào mà được diễm phúc ngài ấy dùng tới một lần thì chỉ còn đành đem làm rẻ lau xe.

“Thằng quái” hay “Ông quái” là tên hiệu cả nhà đặt cho Sơn, đứa con trai đứng hàng thứ năm trong gia đình. Tôi đoán trong bất cứ gia đình nào đông con cũng “may mắn” có một đứa con trai đến tuổi mới lớn như Sơn, sinh ra hình như chỉ để làm phiền và gây tai họa cho tất cả mọi người. Trong trường hợp mọi người đều vui vẻ và dễ dãi thì không sao, những hành động tư tưởng ngộ nghĩnh và quái gở của Sơn khiến ai cũng bò ra cười nhưng trái lại, nếu mọi người đang bực mình sẵn, hắn sẽ làm bất cứ ai cũng phải điên lên.

Tùy lúc Sơn có thể là một trận bão lốc, một con bò rừng lạc vào thành phố, một nhà thám hiểm, khoa học gia kiêm họa sĩ, một thằng “ngu ơi là ngu” (Lời Lan nói), một người thích cô độc và ưa phá hoại.

Về thể chất Sơn lớn “như thổi”. Nghe thấy một bà bạn của me tôi đến chơi và dùng danh từ “nhớn như thổi” để khen Sơn. Ba tôi vẫn như thường lệ, thích phóng đại và khôi hài đã càu nhàu:

- “Như thổi” Hừ; không biết thổi bằng gì mà phồng to thế!

Ba tôi lo ngại nhìn Sơn lớn. Không phải là cho tương lai Sơn, hay sợ rằng rồi đây nó có nên người hay không mà vì một lý do rất thực tế: những quần áo cũ của ba tôi trước kia thải ra, Sơn nếu mặc hơi dài còn sửa lại được, nhưng hiện tại Sơn đã cao hơn ông hai, ba phân thì chẳng nhẽ để me tôi nối mãi hai ống quần cho dài ra cũng phiền.

Sơn thì mặc kệ không thấy gì phiền hết, miễn có quần mặc là được.

Ba tôi không muốn sắm thêm quần áo mới cho Sơn vì sợ hao hụt quỹ gia đình. Theo ông, Sơn - và thỉnh thoảng chính chúng tôi, những con trai lớn - đều không có tài gì giữ quần áo như ông. Thích mang những thí dụ thực tế và cụ thể ra để chứng minh những lời nói của ông đều nói có sách mách có chứng, ông mắng Sơn:

- Mày thì chỉ có quần áo sắt mới chịu nổi. Cái áo sơ mi tao mặc ba năm nay không rách thế mà vừa đưa cho mày chưa được ba tiếng đồng hồ đã rách tan nát.

Lan và Liên thì thầm với nhau.

- Gớm! Quần áo ba đã thải ra thì ai mặc nổi. Cũ đến nỗi vừa cầm lên đã bục. Chắc là ba mua từ đời Hồng Bàng thứ 17.

Từ đó trở đi dựa vào lời mắng của ba tôi, Du gọi Sơn là người của “thời đại sắt”. Cái gì nó dùng tới đều cần phải làm bằng sắt, giầy sắt để chạy nhảy, đũa sắt để ăn, và giường sắt để nằm (điều này không cần lắm vì giường ngủ hiện nay của nó quả thật làm bằng sắt).

Sơn có đôi mắt đen, sâu và to giống đôi mắt me tôi, lông mày đậm, da cháy đen vì nắng, chân tay dài quá khổ. Còn dáng đi thì không biết tả ra làm sao, vì Sơn một là chạy, hai là ngồi hay nằm chứ nó không bao giờ chịu đi như mọi người.

Tóc không bao giờ chải (dù ba tôi đã cẩn thận mua riêng cho Sơn một cái lược bằng aluminium) và rất ít khi húi. Có khi cả nhà xúm lại dục, mắng, đe dọa Sơn mới chịu húi đầu, nhưng ngày mà nó chịu đi húi đầu không hiểu tại sao lại đúng vào ngày thứ hai; mà ngày thứ hai thì ông thợ cạo quen với gia đình tôi lại nghỉ làm việc. Sơn hay bị ba tôi mắng vì cái tội để tóc dựng đứng lên ở trên đầu. Ông dọa nếu Sơn vẫn để tóc thế ra đường cảnh binh sẽ tưởng là tù vượt ngục.

Đang tuổi lớn, đói suốt ngày, nên Sơn có thể ăn bất cứ lúc nào và bất cứ thứ gì, miễn là ăn được. Cái tội ăn nhiều của Sơn phản hẳn với một nguyên tắc của ba tôi “Ăn lấy hương, lấy hoa chứ không phải ăn no lấy béo”. Sức lớn của Sơn chỉ làm ông lo ngại, nhưng sức ăn của Sơn nhiều phen làm ông kinh hãi. Ông không muốn công nhận như mọi người là cơ thể Sơn đòi hỏi rất nhiều thức ăn và chất bổ, ông cho sự ăn nhiều của Sơn là một cái bệnh, mà đã bệnh thì có thể chữa được.

Ông hay nói đến cái bệnh ăn nhiều của Sơn đến nỗi me tôi phải gắt lên:

- Nó đói thì nó phải ăn có gì là lạ!

Ba tôi cãi:

- Đói thì ăn xong phải no chứ. Vừa buổi trưa mắt tôi thấy nó ăn đến sáu, bảy bát cơm, thế mà một lúc sau xuống bếp đã thấy nó lục chạn ăn cơm nguội. Không biết dạ dày nó to đến thế nào mà chứa được lắm thế.

Rồi ba tôi nhất định tuyên truyền cho cái thuyết “Ăn lấy hương, lấy hoa” của ông vì không những có Sơn ăn nhiều và chúng tôi ai cũng ăn khỏe cả.

Ba tôi bảo chúng tôi:

- Chúng mày không biết chứ ăn quá độ rất hại. Phải ăn thế nào khi đứng dậy bụng còn đói (chúng tôi nhìn nhau và cùng thầm đồng ý là nguyên tắc “ăn mà bụng vẫn còn đói” này không thể áp dụng được, chúng tôi quen ăn để... no mất rồi). Ăn nhiều sẽ phát triển những lớp mỡ ở trong người, người nào trong cơ thể nhiều mỡ thì đầu óc không được minh mẫn và suy xét chậm chạp. (Ảnh hưởng của ăn nhiều đến trí óc mà ba tôi đem ra nói để dọa chúng tôi cũng không làm chúng tôi tin, vì không ai tính nhẩm tiền chợ và các chi phí nhanh và đúng bằng me tôi chắc cơ thể nhiều mỡ nhất nhà).

Nói hoài mà thấy chúng tôi vẫn lộ vẻ nghi ngờ, ba tôi quay sang dùng tâm lý. Ba tôi bảo Lan và Liên:

- Con gái muốn đẹp phải ăn ít. Nếu không sẽ béo. Trông me chúng mày thì biết.

Lan, Liên đã có vẻ nao núng. Hai người lo ngại nhìn me tôi. Có thể là ba tôi có lý. Nhưng Du cũng có mặt ở đây xen vào:

- Lan, Liên đừng có sợ. Nếu ăn nhiều sẽ béo bằng me thì ăn ít sẽ gầy như ba.

Lan, Liên quay sang ngắm thân hình gầy của ba tôi. Lan, Liên bảo nhau thà béo như me còn hơn gầy như ba. Thế là cái thuyết ăn lấy hương lấy hoa của ba tôi từ “20 năm nay” chỉ có mỗi ba theo nổi. Về vấn đề ăn, me tôi dĩ nhiên đứng về phe chúng tôi. Trong những bữa cơm đầu tháng ngoại trừ những món ăn chính bầy trên mâm ở dưới bếp bao giờ me tôi cũng lo xa trữ sẵn những món ăn phụ. Mấy đứa con trai thường có khi về nhà không đúng bữa, nên thích cái lối lo xa này của me tôi lắm. Bất cứ giờ nào trong ngày nếu cần, me tôi có thể dọn ngay ra một mâm cơm phụ, rất đầy đủ món ăn bổ béo. Ba tôi có gắt, me tôi chỉ điềm đạm nói:

- Ông gàn lắm! Có tiền không để cho chúng nó ăn thì còn để làm gì.

Ba tôi bực lắm, ông luôn luôn mắng chúng tôi là thực bất tri kỳ vị và rồi tất cả nhà sẽ bị đau dạ dầy hết. (Nhưng trong khoảng mấy năm gần đây ba tôi cảm thấy những triệu chứng là có lẻ chính ông đau dạ dầy).

Khi đi làm về ông có thói quen mua những thức ăn như thịt quay, thịt ngỗng nhưng vì theo nguyên tắc ăn ít mới ngon lâu, nên mỗi thứ ăn chỉ mua dăm ba miếng. Ông bày những món ăn (hương hoa) đó riêng vào những đĩa nhỏ và nhấm nháp một mình. Vừa nhấm nháp ông vừa tán tụng nghệ thuật ăn của người Nhật. Ông khen họ đã thấu hiểu cái đẹp của sự ăn chứ không ăn xô bồ như chúng tôi. Ông kêu:

- Tao không hiểu tại sao chúng mày thích ăn nhiều, ăn cho sướng miệng. Và me chúng mày nữa, đi chợ cái gì cũng phải mua cho thật nhiều.

Du, Liên và Lan tức lắm. Chúng bàn với nhau:

- Ba ăn ít thì ba cứ ăn việc gì ba chỉ trích chúng mình ăn nhiều.

- Liên dốt lắm! “Chỉ trích” cũng là một món ăn của ba. Nếu ai thấy bữa cơm nào ba không “chỉ trích” anh thưởng 100$.

Giải thưởng treo từ nửa năm mà chưa ai được.

Thỉnh thoảng để cám dỗ chúng tôi, ba tôi cho mâm các con nhớn một đĩa những món ông mua về. Chúng tôi không hề từ chối và mỗi người chỉ động đũa một lần là đĩa đã rỗng không như dưới ảnh hưởng của phép lạ.

Lan, Liên và Sơn giả vờ cãi nhau:

- Ơ! Ba vừa cho một đĩa đầy thịt mà đã hết rồi. Phần của Lan đâu?

- Sơn mang cái kính hiển vi của Sơn lại đây. May ra thấy thịt ở chỗ nào để mà gắp chứ!

- Gớm! Cái chú khách bán thịt cho ba cắt thịt tài quá! xếp 500 miếng lên nhau mới dày bằng một tờ giấy pelure.

- Sơn! Tắt cái quạt đi! Gió thổi bay thịt của ba cho đi đâu hết cả rồi.

Tuy hay bị mắng, nhưng việc gì trong gia đình cũng phải nhờ đến Sơn. Cái xe Đức của Du máy trục trặc, cái xe velosolex của ba tôi phun nhiều khói quá. Cái đèn làm việc của Lan giây bị hỏng, cái khóa cửa rĩ cần phải cho dầu, đều được mọi người sẵn lòng giao cho Sơn đảm nhiệm việc chữa chạy.

Sơn rất thích chữa máy móc, tháo lắp v.v... nhưng lại có cái tật là không bao giờ làm được việc gì hoàn toàn.

Cái xe Đức của Du sau khi được Sơn chữa khỏi bệnh máy trục trặc thì lại nổ to ghê gớm và phanh kêu ken két ầm cả phố. Xe Vélosolex cửa ba tôi không hiểu Sơn chữa ra sao không phun khói nữa, nhưng lại chạy khặc khà khặc khừ như người ốm dở và thỉnh thoảng lại đứng lại... nghỉ lấy sức. Còn cái đèn của Lan thì Sơn tháo ra lúc lắp lại nhầm giây nên nhấp nha nhấp nháy làm Lan tức đến phát khóc. Lúc cần đến bật hoài đèn nhất định không sáng, đến lúc tình cờ đụng vào thì lại sáng lên như trêu tức. Còn cái cửa sau khi Sơn cho dầu rồi thì khóa lại được nhưng mở không được... Bị me tôi mắng, Sơn lúi húi chữa lại thì lần này khóa mắc kẹt, mở không được khóa cũng không được nốt.

Nhiều khi bị mắng Sơn bực mình kêu lên:

- Tại sao mọi người không chịu làm lấy mà lại bắt Sơn làm hộ. Làm xong mọi người lại chê là không hoàn toàn. Thật bất công!

Tuy hay kêu ca phải làm nhiều việc nhưng Sơn thường rất hăng hái quá độ và không đúng chỗ, đúng lúc. Bị mắng là không chịu săn sóc đến xe cộ, Sơn chăm lắm; hễ khi Du, ba tôi, hay tôi vừa đi đâu về là Sơn đã lôi ra một lô những dụng cụ sửa chữa như kìm, búa, khóa, môlét, tournevis v.v... bày la liệt ra đất và không cần biết là xe có hỏng hay không, Sơn tháo xe ra lắp lại, gõ, đập thình thình ầm cả nhà. Nếu Du ngạc nhiên hỏi:

- Xe anh hỏng gì mà Sơn sửa chữa?

Sơn điềm nhiên trả lời:

- À! Rồi nó sẽ hỏng nên sửa chữa trước.

Lý luận của Sơn làm Du phì cười. Mọi người cũng hay chế riễu tài chữa xe của Sơn:

- Sơn tài ghê! Nếu xe không hỏng thì nó chịu khó ngồi gõ đập một hồi tự nhiên xe hỏng thật.

- Ê! Sơn đập khe khẽ chứ! không khéo chút nữa anh phóng nhanh, máy xe của anh lại văng đi một đàng, xe một nẻo thì nguy to.

Sơn còn có một đặc điểm là không bao giờ thèm hiểu tại sao những hành động của nó lại ảnh hưởng đến mọi người chung quanh đến thế, cho nên Sơn hay để lộ những tình- cảm vui vẻ hay thích thú của tâm hồn hắn một cách ồn ào.

Buổi tối khi mọi người đều chăm chú đọc sách, người học bài thì tự nhiên Sơn hét lên một tiếng và đập tay xuống bàn đánh rầm một cái. Một người lạ chưa có dịp sống gần Sơn nhất định sẽ hoảng hốt và ngay đến chúng tôi tuy đã quen với những tiếng hét của

Sơn cũng phải giật mình. Sơn vừa hét xong liền bị mọi người xúm lại mắng.

Liên bực tức:

- Thằng quái làm chị giật mình kim đâm cả vào tay. Sao không ra đường mà hét?

Ba tôi chua chát:

- Thật là thừa cơm đâm rửng mỡ. Đói nhăn răng rồi tha hồ mà hét.

Me tôi thực tế nhất dặn Sơn:

- Sơn ạ! Cái bàn ọp ẹp lắm rồi đấy! Sơn có đập thì đập khẽ thôi!

Vừa bị mắng xong nhưng chỉ năm phút sau Sơn quên bẵng mất lại hét lên một tiếng nữa và tấn tuồng cũ lại tái diễn.

Sơn hay hỏi tôi và Du rất nhiều câu hỏi quái gở nhưng có khi lại rất hà tiện lời nói và chỉ ra hiệu hoặc nói nhát gừng.

Có lần Lan, Liên đang ngồi ở nhà trong tự nhiên Sơn ở nhà ngoài bước vào gọi dật:

- Chị Lan!

- Cái gì?

Nó ngoắc tay chỉ ra nhà ngoài. Lan kêu lên:

- Thế là nghĩa lý gì! Mồm Sơn để đâu sao không nói lên!

Sơn chỉ nói cộc lốc:

- Bạn!

Nó giơ hai ngón tay lên. (Thế có nghĩa là có hai cô bạn đến chơi đang chờ Lan ở ngoài phòng khách).

Đến me tôi nhiều khi cũng phải bực mình. Tự nhiên Sơn chạy vào gọi:

- Me!... Me!...

- Cái gì mà ồn lên thế!

- Tiền!

- Tiền gì? Sơn vừa lấy 5$ xong còn xin thêm à?

- Không tiền me đưa để con đi mua thuốc như me dặn lúc sáng ấy mà.

- Sao Sơn không nói thẳng ra?

Lan, Liên bảo nhau.

- Thằng quái sau này lớn lên muốn tỏ tình với cô nào cũng tiện. Hắn chỉ việc giơ một ngón tay lên nói độc một chữ “yêu” là đủ.

Sơn cũng không bao giờ chịu hiểu là các cô con gái đến tuổi lớn như Lan, Liên rất khác Sơn. Nó ngạc nhiên khi thấy Liên bỏ hàng giờ để chải một kiểu tóc hoặc trước khi đi đâu lưỡng lự không biết nên mặc áo màu gì. Có hôm thấy Liên đứng ngẩn người không biết nên mặc áo màu xanh hay màu vàng. Sơn đến gần góp ý kiến:

- Việc gì chỉ phải lôi thôi. Áo vàng mạng có một chỗ, áo xanh mạng hai chỗ, vậy chị nên mặc áo vàng.

- Nhưng màu vàng mặc vào buổi chiều không hợp với màu da.

Sơn ngơ ngẩn hỏi:

- Màu da? Màu da thì dính dáng gì đến áo? Sơn mặc áo sơ mi có cần hợp với màu da Sơn đâu?

- Im mồm đi! Mày là con trai biết gì mà nói.

Sơn không chịu thua:

- Thế cái mũi chị buổi tối không đánh phấn trông tròn như hòn bi ve thì chị mặc áo gì cho đỡ tròn.

Liên hét lên một tiếng vớ lấy cái phất trần và đánh cho Sơn hai cái vào đầu.

Sơn suýt soa:

- Chị Liên ác ghê! Thế mà hôm nọ anh Văn đến chơi chị lại đóng kịch làm ra vẻ hiền từ và săn sóc đến em. Nếu anh ấy biết chị ăn tham và...

Nói đến đây Sơn rút lui khỏi tầm phất trần của Liên và chạy biến ra ngoài mất.

Có lần đến giờ ăn cơm, một người bạn trai của Liên tới chơi, Liên ra tiếp và khi Sơn ra gọi vào ăn cơm Liên bảo:

- Chị no lắm! Cứ ăn trước đi.

Sơn khoái lắm vì nó được thêm phần món ăn của Liên. Xong bữa, đến phiên Liên rửa bát (vì hôm đó người làm của gia đình tôi về quê vắng), Sơn chạy ra nói oang oang:

- Chị Liên! Me bảo chị vào rửa bát.

Liên đỏ mặt lừ mắt ra hiệu bảo Sơn im. Sơn lại hiểu lầm nên vào nhà bảo với me tôi; giọng nói của Sơn ồm ồm, cả nhà đều nghe thấy:

- Chị Liên không chịu rửa bát me ạ!

Khi khách về rồi cả nhà xúm lại mắng Sơn:

- Lần sau có khách cấm Sơn không được gọi chị vào rửa bát. Nghe không?

Sơn cãi:

- Me bảo Sơn ra nói vói chị đấy chứ!

Me tôi mắng thêm:

- Me tưởng khách đã về rồi. Con trai đã lớn rồi không ý tứ gì cả.

- Thế người ta biết chị Liên phải rửa bát thì đã làm sao?

- Làm sao? Người ta khinh gia đình mình nghèo đến nỗi phải rửa bát lấy.

- Nhưng nhà mình có mượn chị Vân cơ mà!

- Dễ thường người ta biết chị Vân hôm nay về quê à.

- Ừ nhỉ!

- Mày biết là mày ngu chưa?

- Ừ nhỉ! Sơn ngu thật!

Liên còn hậm hực:

- Mà cấm Sơn không được ra mời chị vào ăn cơm khi chị đang tiếp khách.

- Tại sao?

- Mời chị vào ăn cơm mà không mời khách là đuổi khéo người ta về.

- Ừ nhỉ! Nhưng sao chị không mời anh ấy vào ăn một thể.

- Mới quen ai lại mời ăn cơm ngay, với lại hôm nay nhà mình “tu tiên” mời sao được.

- Ừ nhỉ!

- Mày thì chỉ biết ừ nhỉ! Ừ nhỉ! Ngu như con cầy ấy!

- Ừ nhỉ!

Trong gia đình tôi lại thêm một danh từ mới để dùng. Ngu theo lối “ờ nhỉ” tức là ngu như thằng quái, ngu xong mới biết mình là ngu.

 

Lan

Chúng tôi có cái tật chung là ai cũng nói nhanh, nhưng người giữ vô địch là Lan. Ngay với chính tôi khi nói chuyện với Lan, nhiều lần hết sức chú ý mà hiểu không kịp. Lan không những liếng thoắng mà hễ khi kể lại một chuyện gì lại còn dùng điệu bộ dáng mặt... Nếu Mẹ tôi cười không phải chỉ bằng miệng mà cả người thì Lan cũng diễn tả không những qua lời nói mà đôi mắt to sếch lúc sáng lên, lúc nheo lại ranh mãnh, chiếc mũi nhỏ chun vào chế riễu, đôi môi cong lên, mím lại còn gợi cảm linh động không kém những câu nói liên tiếp của Lan.

Tôi đã có lần thốt lên, nửa kinh ngạc nửa thú vị. Lan trông thật giống một con mèo!

Quả thật cô em gái của chúng tôi có tất cả những bí mật và đáng yêu của loài vật lông mượt óng, chân êm như nhung và dấu móng sắc đó. Sống trong gia đình, Lan tuy cười nói nhiều nhất, hay chọc ghẹo mọi người - nhất là những bạn trai si tình của Liên - luôn luôn hoạt động, không để yên chân tay mồm miệng nhưng có lúc tâm tình thay đổi, đương vui chợt buồn một cách bất ngờ. Chẳng hạn đương lúc mọi người quây quần quanh một bộ trà, chuyện nổ như ngô rang thời Lan tự nhiên thừ người, vẻ mặt buồn rười rượi, hỏi không đáp, gọi không buồn thưa và rồi mắt rưng rưng. Thật trời hiểu!

Theo ba tôi những giọt nước mắt chợt xuất hiện một cách vô duyên đó chỉ là kết quả của “Chắc Lan nó yếu gan. Cần phải mua thuốc bổ cho nó uống”. Tuy ông không giải thích tại sao yếu gan lại hay khóc, ông vẫn không chịu thay đổi ý kiến và mua cho Lan một lô vi-ta-min.

Thân hình Lan tuy gầy, mảnh mai, nhiều khi nằm ngủ say hay xem sách quay mặt vào tường, tôi và Du vẫn tưởng lầm là Tuyết hay Liễu, nhưng Lan rất sợ uống thuốc, lấy cớ:

- Cổ họng Lan bé lắm. Nuốt thuốc không vào.

Phải chứng kiến Lan mỗi buổi sáng mắt nhắm lại, tay bịt mũi uống đến ba bốn chén nước đầy mới nuốt trôi được một nửa viên thuốc, Sơn bực mình dằng lấy ống thuốc, đổ ba viên ra bàn tay bỏ lọt vào miệng nuốt chửng ngon lành không phí đến một ngụm nước. Kỳ công đó của Sơn không làm ai ngạc nhiên vì cổ họng của Sơn còn nuốt nổi nhiều thứ khó hơn nhiều. Bữa cơm nào nhà thiếu món ăn, Sơn chạy sang cửa hàng tạp hóa bên cạnh nhà mua hoặc một chai limonade, nước cam vàng hay đỏ chan vào cơm, trộn với một tí đường và ăn thêm được dăm ba bát cơm trước những cặp mắt kinh ngạc của mọi người.

Lan rất thích mèo. Nhà tôi hiện nuôi một đàn mèo và bốn con nhỏ. Lan chưa cho thế là đủ. Một hôm đi học về, Lan để cặp xuống và trước những con mắt tò mò của mọi người và khó chịu của ba tôi, Lan từ từ lôi trong cặp ra một con mèo nhỏ đen tuyền.

Con mèo kêu:

- Meo

Ba tôi càu nhàu:

- Hừ lại mèo! Nhà cứ như là vườn bách thú

Lan thản nhiên kể:

- Lan thấy nó đứng kêu trên hè tội quá nên tóm ngay lấy cho vào cặp

Sơn kêu:

- Thế là chị Lan ăn cắp rồi. Biết đâu mèo người ta nuôi lạc đường.

Lạc hay không lạc Lan đâu quan tâm. Chỉ biết khi Lan đi trong nhà thường dăm ba con mèo theo hầu.

Trong gia đình chỉ Lan gọi mèo mới tới. Chúng tôi gọi đùa Lan là “công chúa mèo”.

Khi ngồi khâu, Lan nói chuyện với mấy con mèo quay chung quanh như nói chuyện với người. Chúng tôi bảo nhau già Lan cũng dùng cái giọng âu yếm trước mấy chú mèo đó với các ông bạn của Liên và của chính Lan, chắc các ông sẽ sướng mê. Lan ấp ủ mộc ước vọng vừa ngây thơ, vừa nên thơ là một đêm nào đó, con mèo Lan yêu sẽ cất tiếng nói chuyện với Lan, giọng ỏn thót và thanh tú, nhưng Lan không chịu nói rõ Lan có mong mèo sẽ biến thành một chàng hoàng tử đẹp trai hay không.

Một hôm con mèo nhỏ tam thể Lan ưa nhất ốm, người nó chỉ còn là một nắm lông nhỏ run lẩy bẩy.

Đến bữa cơm được biết trong nhà có con mèo ốm, ba tôi kêu lên:

- Đem vứt nó đi chứ! Giữ nó làm gì...

Đương ấm ức sẵn Lan quẳng đũa bát nước mắt trào ra, vừa rời khỏi mâm cơm vừa nói:

- Ác! Ác! Mọi người ác lắm... mặc kệ Lan với con mèo của Lan.

Ba tôi hỏi me tôi, ông không thể ngờ nguyên nhân khiến Lan bỏ cơm chỉ vì một con mèo:

- Lan làm sao thế? Đau bụng hả?...

Sơn thưa ra muốn giúp Lan, nó gọi với theo:

- Chị Lan! Để Sơn đập mấy cái cho nó chết nhé?

Lan quay phắt lại, tay cầm cái chổi cán dài và thiếu chút nữa là phang vào đầu Sơn, nếu mọi người không can kịp.

Sơn cười hí hí, đầu rụt lại:

- Chị Lan quay mặt đi, em chỉ đập một cái thôi cũng đủ.

Không chịu nổi, Lan òa lên khóc rất to khiến mọi người phì cười. Sau đó Lan đặt con mèo vào chiếc giỏ trải bông mang lên gác xép cho nó uống thuốc săn sóc suốt một buổi chiều, bỏ cả học. Ba tôi phải ký đơn xin nghỉ học cho Lan nên bực lắm. Ông gắt:

- Tao ký đơn lần này thôi đấy, lần sau mặc xác. Hừ! Còn đến gần một chục con mèo nữa đấy!...

Tối đến, Văn đến rủ mọi người đi xi-nê hết, chỉ còn tôi và Lan ở nhà. Dỗ dành thế nào Lan cũng chỉ lắc đầu và nhất định ngồi một mình trên gác xép với con mèo.

Từ lâu mới được một buổi trong nhà yên tĩnh, tôi ngồi viết lách ở bàn. Bỗng nhiên từ trên gác xép Lan thò đầu xuống gọi, giọng cấp bách:

- Anh Lam! Mau lên đây ngay! Anh.

Lên gác tôi thấy Lan quỳ trước giỏ đựng mèo, khuôn mặt nhợt nhạt và dáng mặt là lạ, mắt chăm chú theo dõi những cử động dật dật của con mèo.

Ngồi nhìn con mèo hấp hối được một chút bỗng nhiên Lan bảo tôi:

- Anh giết nó đi!

Tôi còn lưỡng lự, Lan đã giận dữ gắt cả với tôi:

- Không nhưng gì hết!... Anh giết nó đi!...

- Cũng được. Nhưng Lan quay mặt đi hay đi xuống nhà rồi anh liệu.

Lan có vẻ sợ hãi nhưng vẫn bướng bỉnh lắc đầu. Trước đôi mắt van lơn của cô em gái thường khi vui như chim, vô tư như một con sóc nhỏ, tôi đành chiều Lan. Khi con mèo tam thể hết hẳn run rẩy trong tay tôi, Lan òa khóc một trận nữa. Để an ủi Lan, tôi mặc quần áo và đưa Lan đi xem chiếu bóng ngay sau đó. Từ hôm ấy trở đi nàng công chúa mèo của chúng tôi không yêu mèo như ngày xưa nữa. Cô em gái bé của tôi đã trở thành một thiếu nữ và bắt đầu chú ý đến các bạn trai hơn các loài vật bốn chân hay kêu meo meo.

Tôi và Du nghĩ rằng Lan đã lớn. Khi tôi dẫn Lan đi phố, các cậu con trai bắt đầu chú ý nhìn theo cô gái đi cạnh tôi, phục sức sềnh soàng, làn tóc dài dần chấm đất, chân đi dép thấp và những cử động phảng phất vẻ cứng cỏi của những cô bé còn quen thuộc với những trò nhảy dây, chạy đuổi. Khác hẳn Liên khi có ai nhìn, Lan không chớp mắt lấy điệu hoặc giả vờ kiêu kỳ làm như không trông thấy ai, trái lại trừng mắt nhìn thẳng không chớp mắt vào mặt các cậu trai. Liên thường trách Lan:

- Lan kỳ quá! Ai lại trừng mắt lên nhìn mọi người là thế nào. Con gái phải dịu dàng chứ!

- Thế chị muốn Lan nhắm mắt lại à?

- Không phải thế! Nhưng ít ra Lan hoặc phải hạ rèm mi xuống một chút, hoặc nhìn thẳng trước mặt...

- Hạ mi xuống mấy lần thì vừa hở chị?

- Lan ngu lắm! Chẳng biết gì cả...

- Em chỉ biết bắc chước chị, chị gặp ai cũng hạ mi xuống chớp chớp thời chẳng mấy lúc.

Liên cáu:

- Mấy lúc sao?

- Đau mắt chứ sao?

Liên chỉ còn biết thở dài ngán ngẩm trước thái độ bất cần đời, thiếu nữ tính của Lan.

Tuy đã lớn, Lan vẫn giản dị về trang điểm, phục sức như hồi nhỏ. Đi đâu Lan mặc áo mầu gì cũng được không băn khoăn như Liên là sáng, nắng, tối, mưa phải mặc “ton” nào cho hợp. Những hàng tôi và Du mua bắt Lan may cũng khá nhiều nhưng nếu Lan mặc áo đẹp thời hình như chỉ cốt để làm vui lòng mọi người chứ không phải vì thích ăn diện để tôn sắc đẹp.

Sắp đi đâu, Lan hay lo lắng hỏi:

- Anh! Lan mặc áo này nhé? Không được à? Thế Lan mặc áo nâu vậy!

Tôi thích những màu nóng như màu vàng, nâu, beige, còn Du trái lại ưa những màu chìm, xanh lục, lam, tím nên Lan chia những áo của mình thành hai loại “áo anh Lam”, “áo anh Du” và chiều mỗi người một lần.

Còn đi đâu với Liên, Lan khỏi phải lo mặc áo màu gì vì Liên còn mải tìm mầu cho hợp với... da Liên, đâu thèm để ý đến Lan.

Ngay đến mái tóc của Lan cũng không được mọi người để yên. Cả trường Trưng Vương chỉ còn Lan là cô gái độc nhất để tóc dài rủ xuống sau lưng. Chúng tôi không chịu để Lan uốn tóc. Nhất là Liên, vì Liên bảo ban đêm khi Liên chập chờn nửa thức nửa ngủ, Lan ngồi cạnh tóc dài che phủ cả người như một cô gái liêu trai đẹp lắm. Cắt phí đi mất. Còn Du mỗi khi chụp ảnh bao giờ cũng bắt Lan xõa tóc ra để rủ xuống ngực hoặc quấn quanh cổ cho giống một bức tranh Nhật cổ.

Nhưng Lan, “cô gái liêu trai”, “bức tranh Nhật” không thú vị chút nào, luôn luôn kêu ca trời nực quá sức, tóc dài vừa nặng vừa rức đầu. Hễ khi Lan dọa đi phi-dê, cả nhà xúm vào can, Lan lại thôi.

Cho đến hôm chính tôi sau khi ngồi ngắm khuôn mặt Lan một lúc, đột nhiên, đề nghị:

- Lan! Chiều đi cắt tóc ngắn đi! Không chừng ngộ đấy!

Lan nghi ngờ hỏi vặn:

- Cắt tóc ngắn? Anh Lam hôm nay làm sao thế? Loạn óc hả?

Tuy thế mãi đến hơn một tuần sau Lan mới được phép bước chân đến một hiệu uốn tóc, vì còn phải chờ mọi người quyết định xong xuôi kiểu tóc Lan sẽ uốn. Suốt ngày mọi người thi nhau làm tội Lan. Du bắt Lan quấn tóc lại từng cuốn dài theo kiểu “Lạp xường Ăng Lê” tôi đưa ra kiểu “cong ra ở trên cụp vào ở dưới”, còn Sơn nó chỉ có một ý kiến là Lan nên uốn theo kiểu Răng-xà-Beng (Jean Saberg là tên một tài tử có cái đầu húi rất ngang tàng giống con trai) vì theo ý Sơn kiểu đó vừa mát vừa đỡ tốn tiền uốn lại.

Đến hôm Liên dẫn Lan đến hiệu uốn tóc, chính Lan là người lưỡng lự ngại ngùng. Lúc đó chắc Lan mới thấy tiếc bộ tóc dài và trái ngược thay, mọi người phải xúm lại khuyên nhủ Lan mới chịu ra khỏi cửa nhà.

Ở hiệu uốn tóc về, vừa trên xe tắc xi bước xuống. Lan chạy thẳng một mạch vào phòng riêng, đầu trùm một chiếc khăn san kín mít không để hở một sợi tóc và ở lỳ trong phòng không chịu ra.

Hỏi, Liên kể:

- Đến hiệu Lan bắt đầu rưng rưng nước mắt và khi người thợ lấy kéo cắt mớ tóc đầu tiên Lan khóc và khóc hoài cho đến khi uốn xong.

Sơn tò mò:

- Thợ họ bảo thế à?

Liên ngạc nhiên:

- Bảo gì?

- Họ bảo chị Lan phải khóc khi đang uốn tóc.

- Sơn chỉ vớ vẩn. Im đi!

Sơn im, nhưng từ đó trở đi nó có thành kiến là hễ uốn tóc các cô phải khóc thật điệu, chẳng khác gì ra đường phải bôi lem nhem son phấn vào mặt.

Về bếp nước khâu vá, Lan hơi vụng, không khéo tay như Liên, nhưng được cái rất chịu khó giúp me tôi dọn dẹp nhà cửa, làm bếp chứ không lười như Liên. Đã có lần Lan hỏi:

- Me ơi! Làm thế nào đun nước biết nước sôi già?

Mẹ tôi chưa kịp đáp Sơn đã nhanh nhẩu đáp:

- Chị cho tay vào thử thì biết ngay chứ khó gì!

Dọn dẹp nhà cửa đối với Lan là một công việc nhẹ nhàng vì Lan chỉ việc cầm một cái chổi phất trần theo sát me tôi. Hễ me tôi mắng:

- Sơn! Sao không để mấy cái kim này lên bàn sách. Lan! Củng cho nó mấy cái.

Lan cầm cái phất trần và nhân danh me tôi củng vào đầu Sơn một cái giúp me tôi.

Khi me tôi càu nhàu:

- Gớm mấy cậu con trai lớn rồi mà còn cẩu thả. Áo với quần vứt bừa bãi cả ra nhà.

Lan nheo mũi lại phê bình một câu:

- Gớm bừa cà ra...

Đoạn Lan cứ thế, nách cặp phất trần, tay một cuốn sách vừa đi vừa đọc và lẽo đẽo theo me tôi cho đến khi me tôi dọn dẹp xong.

Vào một buổi sáng đẹp trời, me tôi hơi mệt Liên phải làm cơm thay, Lan đi chợ. Lần đầu tiên đi chợ một mình (không kể Tuyết, đi theo cầm làn và Liễu... giữ tiền hộ), Lan cẩn thận ghi tất cả những món me tôi dặn vào một tờ giấy dài, chia ra từng mục và tiểu mục như khi làm bình luận luân lý ở lớp. Lan yêu cầu Liên cuốn tóc cao lên phía sau gáy hộ, để trông cho vẻ người lớn một tý. Du còn xui Lan mang theo cái cân thịt của me tôi và... một con mèo. Để mèo mặc cả hộ Lan, Du giải thích như vậy. Lan tức lắm nói móc anh:

- Anh chê em không biết mặc cả phải không? Sao anh không nhờ nàng keeng-keeng đi chợ hộ nhà mình. Nàng của anh cân thuốc giỏi chắc cân thịt cũng giỏi.

(Keeng-keeng là tên hiệu chúng tôi đặt cho Thủy, người tình bé nhỏ của Du. Thủy đang học dược khoa và vì một ngày kia sẽ trở thành bà dược sĩ, làm chủ một cửa hàng thuốc tây, ngồi ở két thu tiền - cái mày thu tiền hễ ấn nút bỏ tiền vào là kêu lên những tiếng keeng-keeng vui tai, nên Thủy mới có cái tên ngồ ngộ đó).

Du cười xì xì đôi mắt to chớp chớp. Hắn ta chỉ ngượng ngùng khi mọi người đả động đến những cuộc tình duyên của hắn. Nhưng vì mặt hắn quá đen nên nếu hắn có đỏ mặt cũng khó mà đoán biết được.

Lan, Liên thường bảo nhau có lẽ khi Du e thẹn, mặt anh ấy đen thêm thì có.

Tôi và Du ra đứng cửa nhìn theo Lan đi tong tả, tay cầm khư khư tờ giấy dài ghi các thứ sẽ mua như bùa hộ mệnh. Tuyết, Liễu kèm chặt hai bên. Du thở dài mặt đăm chiêu bảo tôi:

- Lan lớn đến nơi rồi! Càng ngày nó càng xinh ra. Không biết giờ nó biết yêu nhỉ? Chắc còn lâu, vì hiện giờ nó chưa hề biết đỏ mặt khi tiếp bạn trai. Một người con gái chưa biết đỏ mặt dù sao vẫn còn là một cô bé. Lan có nói chuyện với anh nó để ý chàng nào không?

- Không

Du lại thở dài lắc lắc cái đầu:

- Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc lắm thay!

Tôi mỉm cười. Chúng tôi ai cũng quen thuộc với cái quan niệm “yêu cho lấy nhiều, yêu cho bằng được” của Du. Đối với Du tình yêu độc nhất là điều phi lý và ít nhất phải tính từ con số 10 trở lên. Hắn đã từng tuyên bố trước mặt các bạn của Liên:

- Tình yêu chỉ là những chiếc ga xép... xép dọc theo đường xe lửa và đàn ông là những con tàu chạy qua đỗ đây một tí, kia một tí...

Bỗng nhiên tôi vỗ vai Du:

- Du khỏi phải lo cho Lan. Anh chàng “trứng cá” đang theo sau Lan kia kìa.

Chàng “trứng cá” là một sinh viên trọ học cạnh nhà tôi. Hàng xóm láng giềng hàng năm trời, chàng phải đợi mấy ngày tết mới dám sang chúc tết gia đình chúng tôi. Khi tiếp chuyện Lan có khen: “Gớm cây trứng cá nhà anh sai quá”. Chàng ta ân cần và ngây thơ thốt lên “Thế thì hay lắm. Hôm nào tôi xin hái tặng cô Lan một giỏ”. Nói xong chàng ta ngượng nghịu cắn môi, trước ánh mắt chế riễu của chúng tôi. Mấy tháng sau không thấy chàng ta mang trứng cá sang biếu Lan, tôi thỉnh thoảng nhắc:

- Lan à! Có lẽ trứng cá của Lan nở thành cá rồi và đến mùa di cư chúng trở về nguồn hết rồi chăng.

Lan đi chợ từ tám giờ đến mười một giờ ba mươi mới về. Chúng tôi thấy Lan đi giữa Tuyết và Liễu, một tay ôm con vịt vào ngực như bế một em bé, mặt lấm tấm mồ hôi và hình như đang cãi nhau với Liễu. Lan vừa bước chân vào nhà, Du đã lấy ngón tay chọc chọc vào đầu con vịt:

- Này cậu vịt! Cậu phải biết nhiều người thèm số phận của cậu lắm đấy! Được cô Lan âu yếm ôm vào ngực thật sướng. Không tin gọi ông “trứng cá” sang mà hỏi.

Liên kêu:

- Sao Lan mua con vịt già thế? Mà sao không xách cẳng nó lên mà lại ôm vào lòng bẩn chết.

Lan tỏ vẻ bất bình:

- Thế ai xách cẳng chị lên chị có chịu không? Con vịt này mà già à! Lan đâu biết. Lan thấy mặt nó thông minh và có vẻ nghiêm trang nên mới mua đấy chứ.

Con vịt từ nãy giờ nằm im lặng trầm ngâm như một triết gia, lúc đó mới hé mắt buông một tiếng cạc cạc khàn khàn nghiêm trang một cách khôi hài khiến mọi người cười ồ.

Bữa cơm hôm đó chúng tôi phải ăn một bữa thịt vịt dai ghê gớm. Du bảo:

- Vì nó thông minh quá nên thịt nó mới dai.

Tôi thì đoán già đoán non:

- Lão vịt này chắc hẳn đã đỗ bằng xéc-phi-ca và đã làm lý trưởng và lấy đến mấy vợ.

Lan dỗi trèo lên gác xép nằm đọc truyện và đợi hàng xực tắc quen đi qua vào buổi trưa để ăn cho đỡ hận.

Du

Du người cao và gầy. Du ngăm ngăm đen và nét mặt khắc khổ. Du có một dáng đi rất đặc biệt: lừng khà lừng khừng luôn luôn hoặc là cúi mặt xuống đường, hoặc đếm lá của những gốc cây ngoài phố, chân kéo lệt sệt trên mặt đất, hai tay bỏ vào túi. Hắn bảo đó là kiểu đi của những người hay suy tư, mơ mộng. Kết quả tai hại và cụ thể của nỗi niềm suy tư trừu tượng của Du là làm mòn đế giày rất chóng và cứ độ ba tháng hắn phải thay một đôi giày. Hắn lại phải mất công suy tư về vấn đề vay tiền ở đâu để đóng giày mới.

Đôi mắt to, hàng mi cong giống me tôi của Du thường là để Lan, Liên chế Du với cặp mắt bốc lửa đó hắn chắc chắn sẽ đốt cháy tim những cô nho nhỏ hắn gặp. Du có một quan niệm rất kỳ khôi là bổn phận đấng nam nhi như hắn là phải cố thử xem cái sân (faire la cour) bất cứ thiếu nữ xinh nào, không quan tâm đến sự thành công hay thất bại. Tuy cái lối yêu kiểu bò rừng, bạ thấy vải đỏ là húc vào, đã làm hắn ngã lên ngã xuống khá đau nhiều bận, Du vẫn không hề nản lòng và chỉ thản nhiên bảo: cũng như đánh bạc yêu, có tiếng được có tiếng thua.

 

Du có cái tật bạ đâu cũng ngồi, ngả nghiêng và nằm được. Đứng nói chuyện ở ngoài cửa hắn ngồi ngay xuống bực cửa, ngoài đường hắn ngồi ngay xuống bờ hè, cạnh một chiếc xe đạp hay lambretta hắn ngồi ngay lên yên. Khi đi uống cà phê Du bao giờ cũng ngồi sát tường để dựa người vào. Mẹ tôi thường mắng Du:

- Con trai lớn mà cứ lê la như trẻ con. Không hiểu tại sao nó lại làm giáo sư được.

Liên bực mình vì hay phải là nạn nhân của cái tật bạ đâu ngồi đấy của Du. Có lần sau khi dẫn Du đến thăm một người bạn gái Liên quảng cáo là rất xinh, về nhà Liên than phiền:

- Anh Du thật kỳ quái! Liên phải dặn mãi, Hằng tính nết rất thích những người lịch thiệp hào hoa. Thế mà suốt thời gian đến chơi anh Du chỉ toàn nói hỏi những câu lẩn thẩn làm nó sợ chết khiếp. Nhà người ta đầy những ghế nệm êm ái anh ấy chẳng chịu ngồi, lại đến ngồi xếp ngay dưới chân Hằng trông thật là chướng mắt.

Du bào chữa:

- Ngồi thế anh mới biết Hằng có bàn chân thon đẹp mà khen nó chứ!

Liên trừng mắt:

- Trời đất! Ai lại khen chân người ta đẹp bao giờ.

Du nhún vai lý luận:

- Hằng chẳng đỏ mặt là gì. Đỏ mặt tức là ngượng, ngượng tức là thích thú, sở dĩ thích thú là vì câu khen của anh rất đúng chỗ và tế nhị.

- Anh ngu lắm.

- Hay Liên chê câu khen của anh thấp quá phải cao thượng hơn nữa. Chẳng hạn khen cổ chân Hằng đẹp, bắp chân Hằng đẹp, đầu gối rồi đến...

Liên bịt hai tai, nhắm mắt hét lên một tiếng. Các cô ai cũng ngại lối nói sống sượng của Du.

Hắn cười xì xì và có vẻ khoái trá

Du đang theo học luật nên bất cứ đề cập đến vấn đề gì hắn cũng có thể viện ngay luật ra làm căn cứ suy luận và hành động. Có lần hắn băn khoăn thổ lộ với tôi và Liên:

- Du vừa gặp một cô bạn học dược, khá xinh, môi nhỏ chum chúm, co khá, đùi dài và có một lối nhìn lẳng ghê gớm. À!... Thế nhưng cô ta mới có 17 tuổi 9 tháng. Trước luật pháp tán gái vị thành niên có thể bị bỏ tù. Theo luật...

Du vanh vách kể ra những điều khoản kết tội những người cám dỗ gái vị thành niên, trang nào, giòng nào trong bộ luật gia đình, dân luật và rồi kết luận “rất nguy hiểm”. Nhưng hắn vẫn tán cô ta như thường, đầy tự tin và rất yên tâm vì biết chắc chắn sẽ xảy ra chuyện gì hắn chỉ bị tù hay bồi thường bao nhiêu là cùng. Hắn còn tự phụ tuyên bố: “Biết luật kể cũng lợi”. Tôi mỉa hắn: “Nhất định là lợi rồi vì biết trước ngày nào mình... ra khỏi từ”.

Du còn đưa ra rất nhiều nguyên tắc sống rất kỳ mà Du cho là phải, hợp lý và cần phải tôn trọng. Nguyên tắc nào cũng phải lạnh như tiền, ăn nói từ tốn và điềm đạm. Liên không phục nguyên tắc đó của Du chút nào và phàn nàn với tôi:

- Anh có bảo anh Du thế nào để anh ấy thay đổi lối tiếp chuyện với các cô. Ai lại sáng nay em đang ngồi tiếp chuyện Nhung, anh Du đi đâu về. Nhung đứng dậy chào, anh ấy lừ lừ tiến lại gần chẳng nói chẳng rằng. Mãi sau anh Du mới gật đâu dơ một tay lên như ra hiệu cho phép. Nhung ngồi xuống, anh Du còn ngồi cạnh Nhung, nheo mắt ngắm Nhung như một vật lạ, thỉnh thoảng lại thở khói thuốc lên trần nhà. Rồi tự nhiên anh ấy bật nói “Hàng áo này Nhung may mất bao nhiêu?”. Nhung trả lời, anh ấy rất lơ đãng mắt nhìn ra cửa chẳng thèm nghe khiến nó ngượng chín cả người. Thế rồi anh Du đứng dậy buông sõng một câu: “Nhung mặt áo màu này không hợp và áo may hơi chật ở ngực”. Thế có chết không!

Tôi khuyên Liên là trước lối cư xử và nói năng của Du chẳng có cô nào chết đâu mà sợ, Liên cứ yên tâm không chừng các cô lại thích những người phớt lạnh như Du lại khác.

Quả nhiên sau đó Nhung rất năng lại chơi với gia đình tôi và con lộ vẻ cảm tình với Du là khác.

Nguyên tắc thứ hai của Du là tuy cùng chung sống trong gia đình, nhưng mỗi người còn có một đời sống riêng biệt, không ai có quyền can thiệp tới. Đúng vào đầu tháng lĩnh được tiền dạy học là Du rời ngay “đời sống chung” của gia đình và đi biền biệt liền mấy ngày. Hôm Du về có nghĩa là túi đã rỗng hết tiền. Du lại phải nói khó với Lan vay ít tiền mua thuốc lá. Có lần Lan không chịu, Du dọa sẽ ra điều đình với bà hàng thuốc lá ở đầu đường để mua chịu, Lan thách:

- Đố anh Du mua chịu thuốc lá của bà ấy đấy.

Du đi một lúc về đã thấy thuốc lá hút phì phèo, Lan tò mò hỏi:

- Anh nói thế nào mà bà ấy tin được? Anh có dở luật ra không? Hay anh đưa các giáo sư ra làm bằng?

Du thản nhiên đáp:

- Không! Anh dùng một phương pháp khác nhưng bí mật nhà nghề, không tiết lộ được.

Lan phục Du lắm, nhưng nếu Lan biết là Du vừa vay được tiền tôi thì chắc sự cảm phục đó giảm đi rất nhiều. Du cũng có rất nhiều bạn, những bạn của Du rất dễ phân biệt với bạn của tôi vì phần nhiều là sinh viên trẻ hoặc giáo sư mới nhập nghề được ít lâu. Lan kể cho tôi nghe một nhận xét vui là tại sao Lan ngồi trong nhà quan sát thái độ của Liên đứng tiếp chuyện với một người đàn ông ờ nhà ngoài mà đoán ngay ra được khách đến chơi là bạn tôi hay bạn Du.

- Có khó gì đâu! Nếu thấy chị Liên vừa nói vừa lui dần vào trong nhà và rồi gọi! Lan! Lan! Ra ngay đây chị bảo thì đúng là bạn anh Lam đến. Còn nếu chị vẫn đứng nguyên dựa người vào tường thì đúng là bạn của anh Du.

Du hỏi:

- Tại sao thế?

- Tại vì bạn anh Du sợ không dám vào nhà thì phải. Hay có lẽ họ sợ chị Liên. Có hôm đến ba, bốn người đến thăm anh Du cùng đi xe đạp, thế mà chị Liên và Lan đứng mỗi người một bên cửa, cả bọn xuống xe cách nhà mình đến mười thước. Rồi họ chúi đầu vào nhau bàn tán lào xào một lúc thỉnh thoảng lại chỉ trỏ về phía Liên và Lan. Mãi sau một anh tách ra khỏi bọn đến gần Lan và chị Liên hỏi “Anh Du có ở nhà không ạ?”. Khi chị Liên trả lời là anh Du đi vắng và anh muốn gặp anh Du có việc gì, anh ta lúng túng mãi mới tìm được câu trả lời “Dạ tôi muốn hỏi mượn một cái bản đồ để học thi”. Lan và chị Liên ngạc nhiên mãi không hiểu tại sao lại cần đến bốn người mới mượn được cái bản đồ nhỏ bàn tay.

Mấy hôm sau anh chàng “bản đồ” trở lại trả bản đồ. Lần này anh đi có một mình và anh Du lại đi vắng, Lan và Liên mời mãi anh ta cũng không chịu vào trong nhà. Lạ thật! Con trai gì mà rát như cáy.

Du bảo:

- Này đừng có khinh hắn ta rát. Hắn đã có hai chứng chỉ văn khoa rồi đấy và đang học năm thứ ba trường Cao đẳng sư phạm. Ra trường không biết chừng hắn dạy được cả Liên.

Lan và Liên trợn tròn mắt và ngẩn người vì ngạc nhiên. Sau đó Lan đặt luôn cho anh ta cái tên “Giáo sư bản đồ”.

Du có một người bạn có thể đối thủ với Du về mặt lừng khừng. Chàng ta cũng ít nói là lạnh lùng như Du. Có khi Du đang nằm xem sách ở divan phòng khách chàng ta đến lừ đừ vào nhà chẳng nói chẳng rằng. Du ngẩng đầu lên rồi thản nhiên đọc sách, chẳng chào hỏi, nét mặt cũng không thay đổi. Chàng ta ngồi xuống divan điềm đạm rút ở trong túi ra một quyển sách rồi chăm chú đọc.

Lan và Liên ngồi ở nhà trong tò mò hai người và đố nhau ai sẽ lên tiếng trước. Du hay bạn Du?

Mười lăm phút qua Du tằng hắng một tiếng vươn vai ngồi dậy ngáp liền hai, ba cái đoạn giơ tay bắt và hỏi: “Khỏe chứ?”

Chàng kia đáp “Khỏe”. Rồi hai người lại tiếp tục xem sách.

Một giờ đồng hồ sau chàng ta đứng dậy nói “Về! Muộn rồi!” rồi lững lững ra cửa. Du vẫn tiếp tục đọc sách.

Chàng ta về rồi, Lan và Liên lò dò ra ngồi hai bên Du, Lan thì sờ sờ vào túi Du, Liên thì lấy ngón tay chọc chọc vào người. Du hỏi:

- Điên đấy ư? Để anh xem sách.

Lan và Liên gật gù bảo nhau:

- À! Anh ấy còn sống mà!

Rồi cả hai phá lên cười. Du cũng mặc vẫn xem sách như thường.

Du ham mê suy luận, phân tích như mê đàn bà đẹp. Cái tật đó của hắn nhiều khi làm mọi người bực mình đồng thời cũng buồn cười. Nếu Liên tỉ tê tâm sự và băn khoăn không hiểu tại sao anh chàng “không có gì lạ” dạo này không hay đến chơi, Du nghiêm trang lắng tay nghe. Sau khi đã hút hết liền ba điếu thuốc Bastos, hắn đứng dậy chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng, thân hình lòng khòng đầu gật gà gật gù. Đoạn hắn dằng hắng một tiếng và bắt đầu giải đáp vấn đề khó khăn tình cảm của Liên với giọng giáo sư giảng bài rất rõ ràng và trịnh trọng.

- Liên bảo chàng ta không năng lại chơi. Vấn đề được đặt ra, đây là giả thiết: Sự kiện. Phi không lại chơi có thể có hai nguyên nhân: A lớn, Phi bận công việc, B, hắn ốm sắp chết, C, hắn có mặc cảm phạm tội, D, hắn yêu một cô khác...

Liên ngắt lời:

- Anh Phi không ốm vì em biết anh ấy vừa đi Huế về.

Du dừng lại, thọc sâu thêm hai tay vào túi, mắt lim dim. Đoạn hắn lên tiếng hỏi, giọng cất cao:

- Đi Huế về? Hà! Đi xa là một yếu tố mới của vấn đề. Tại sao hắn đi xa! Tại sao?...

Hắn rút tay trong túi ra chỉ vào mặt Liên. Liên vẫn tỉnh như không, trả lời gọn lỏn:

- Hắn về Huế xin phép mẹ lấy vợ.

- À! Xin phép mẹ lấy vợ, vậy thì giả thiết D của anh có lẽ đúng. Liên có biết hắn định lấy ai không?

- Lấy em!...

- A! Ai bảo Liên thế?

- Chính anh ấy tâm sự với Liên trước hôm đi.

Du dơ hẳn tay lên trời.

- Thế sao Liên không nói rõ ngay từ đầu.

- Anh có hỏi em đâu? Chưa nghe người ta đầu đuôi đã phân tích phân tiếc. Anh thì chỉ được cái lúc nào cũng A. B, C. Học có mấy chữ cái mà không thuộc.

Du cười xì xì. Hắn có vẻ ngạc nhiên lẩm bẩm:

- Về Huế xin phép mẹ lấy vợ. Chàng lù đù ấy mà dám lấy vợ à? Vô lý! Chắc hẳn phải có một động lực nào thúc đẩy...

Hắn nghĩ đến một lúc đoạn reo lên đắc thắng:

- Liên! Động lực là Liên. Liên đã cho hắn cái gì rồi? Đôi môi hả?

Liên đỏ mặt gắt:

- Anh chỉ bậy, đâu em dễ thế...

- Liên nói dối, không có nguyên cớ đâu... mặc. Vậy thì bàn tay?

Liên lắc đầu:

- Một bàn tay?

Liên cải chính:

- Một bàn tay nhưng chỉ một tí thôi, không lâu.

- Liên có yêu chàng ta không?

- Không! Chỉ hơi có cảm tình.

- Không yêu mà lại cho bàn tay tức là ác. Sở dĩ Liên ác là vì Liên thuộc loại đàn bà fatale, thích hành hạ các ông. Muốn hành hạ là vì: A lớn...

Du lại tiếp tục phân tích một mình, vì Liên bỏ chạy luôn xuống bếp thủ thỉ với mẹ về chuyện cái thành tích mới đạt được là “Thêm một người nữa đến hỏi Liên làm vợ!”.

Du rất ngạc nhiên - nói theo giọng giáo sư của hắn “ngạc nhiên đến độ kinh hãi” - khi thấy cái ông theo đuổi nhau đến hỏi Liên làm vợ. Sẵn những quan niệm hiện sinh, Du sẵn lòng chấp nhận người ta rất có thể yêu thương say mê, thất tình lên thất tình xuống, nhưng lấy vợ là một điều cực kỳ phi lý. Nói chuyện với tôi hắn hay nhắc nhở đến cái bản tuyên ngôn thề không lấy vợ, ký kết giữa tôi và du hồi tôi lên 10 và Du lên 8. Hắn lý luận:

- Anh xem trẻ con sống nhiều bằng linh tính. Thế mà hồi chúng mình còn thò lò mũi xanh, linh tính đã thúc đẩy chúng mình cam kết không lấy vợ. Mà linh tính thì không thể sai được. Cái hiện tượng lấy vợ của người lớn phi lý, phi lý...

Vì vậy Du tự cho có bổn phận phải dùng đủ mọi cách để làm những anh chàng sắp hỏi Liên làm vợ tỉnh ngộ. Biết tính Du hễ có một ý định gì là mang thực hiện liền, Liên vặn Du:

- Sao anh không để mặc người ta. Người ta lấy vợ chứ anh có lấy vợ đâu mà anh sợ.

- Liên thiển cận lắm! Ví dụ Liên thấy một người mắt mở trừng trừng mà cứ lửng thững đâm đầu vào tường chả nhẽ Liên đứng yên được à?

Thấy Du ví mình như một bức tường - dù là một bức tường êm ái nẩy nở, toàn những đường cong ngoạn mục - Liên càng bực mình hơn, vào bếp tiếp me tôi và mách:

- Me có bảo anh Du không, anh ấy chê con cứng như bức tường chẳng ai thèm lấy. Anh ấy dọa tống cổ ra đường bất cứ anh chàng nào đến hỏi con làm vợ mẹ ạ!

Mẹ tôi chỉ cười khuyên:

- Bảo nó tống cổ ai ra cửa thì tống, nhưng nếu gặp anh chàng nào giàu, nhớ bải me trước...

Câu chuyện có người hỏi Liên về làm vợ đều được mọi người đề cập tới, chỉ mấy hôm sau đã có một đám đến đánh tiếng Liên.

Buổi sáng hôm ấy trời xanh ngắt, nắng reo vui trên lá cây y hệt một ngày thu ngoài Bắc, Liên và Lan đang ngồi trước một chùm dâu da lớn, me tôi đi chợ mua và đang bàn cãi sôi nổi về vấn đề chia phần ai nhiều ai ít, thời có tiếng gõ cửa và một thiếu phụ ăn mặc nhã nhặn, mặt tròn da trắng muốt, chiếc miệng nhỏ rất tươi tiến vào hỏi:

- Xin lỗi! Đây có phải nhà cô Liên không ạ?

- Dạ phải bà hỏi me tôi phải không ạ? Mời bà ngồi chơi.

Bà khách lộ vẻ lưỡng lự, đoạn trả lời:

- À!... Vâng! Chắc cụ bà có nhà.

Vì tính tham ăn uống nên Liên dục Lan vào bếp mời me tôi ra tiếp khách, chắc Liên sợ Lan dành mất một phần to. Bà khách tò mò quan sát Liên ngồi thoăn thoát đếm dâu da, chốc chốc lại bớt một phần một quả đưa lên miệng ăn ngon lành. Bà ta hỏi:

- Chắc cô thích hoa quả?

Liên đỏ mặt, nàng ta vội mời:

- Dạ ngon lắm ạ! Xin mời và dùng mấy quả...

Đúng lúc ấy Sơn ở ngoài cửa chạy vào, nói rất to:

- Chị Liên ơi! Anh chàng “bốn ngựa”...

Thấy nhà có khách, Sơn dừng lại Liên hỏi dồn:

- Anh ấy đâu? Sơn trông thấy à?

- Ờ... Ờ!... Chàng ta đang ngồi xe đỗ... trước cửa nhà mình.

Liên quay vội sang bà khách, chắc lúc ấy cô nàng mới nhận ra nét mặt bà ta hao hao giống “chàng bốn ngựa”. Liên nuốt vội quả dâu đang ăn dở dang, ngượng ngùng chớp mắt, mặt hồng đỏ lên.

Bà khách tủm tỉm cười, hóm hỉnh nói:

- À! Đó là cậu em tôi, lái xe đưa tôi đến thăm các cụ đấy!

Liên chữa thẹn:

- Dạ! Chắc xe của anh ấy tốt lắm!

- Vâng! Xe bốn ngựa cô ạ!

May cho Liên đúng giây phút khó khăn đó me tôi xuất hiện và Liên chạy tọt vào trong nhà trong, quên cả mang mấy chùm dâu da theo.

Du, Liên, Lan ngồi trong nhà nghe me tôi và bà khách nói chuyện mà phục sát đất. Me tôi không hề quen biết bà khách, bà khách thì không biết chút gì về gia đình chúng tôi, chỉ vì chiều em trai nên liều đến dò đường để rồi “xin Liên” cho cậu em. Nhưng đừng tưởng bà khách đi thẳng vào vấn đề hỏi vợ, như thế chẳng hóa ra các bà bỏ lỡ dịp áp dụng cái tài nói chuyện cà kê dê ngỗng sở trường hay sao.

Vì vậy trước hết bà Hồng - tên bà khách - khen cái nhà chúng tôi ở tuy nhỏ bé nhưng xinh xắn tươm tất mát mẻ vì làm quay về hướng Đông Nam nên nhiều gió. Me tôi vội đỡ lời “Dạ! Nhưng đến mùa hạ cũng nóng lắm ạ! Nhờ cái cây to ngoài cửa nên cũng đỡ”. Bà khách vội tấm tắc “Vâng! Ở Sàigon tìm được một phố nhiều cây cối thật cũng khó!”. Thế là vội chộp lấy vấn đề đời sống ở thành phố vừa nóng bức vừa ầm ĩ “Không như ở ngoài Bắc ta, có đủ cả bốn mùa”. Rồi các bà nhảy sang vấn đề các người quen thuộc ở cái đất Hà Nội xa xôi “Dạ! thưa chắc bà có quen bà Đồng có cửa hàng bán lụa ở phố hàng Đào”. “Vâng! Chúng tôi cũng có được biết, bà ấy gọi một bà bạn thân của bà cụ tôi bằng thím đấy ạ!” “Thế thì hay quá! Ngờ đâu cũng là chỗ quen biết cả”. “Thế chắc bà cũng quen ông Thiện chủ hiệu may lớn nhất phố hàng Bông?” “Ông ấy là người nhà cũ của ông cụ thân sinh ra tôi” Me tôi vội đáp “Vâng! Tôi cũng hay cho các cháu đến may quần áo ở hiệu ông Thiện lắm”.

(Ở trong nhà Du huých Liên bảo “Chắc hồi đó me may quần hổng đít cho chúng mình”). Me tôi tiếp luôn hỏi thăm sức khỏe của “cụ thân sinh ra bà”. Bà khách buồn rầu đáp, làm như ông cụ vừa mới chết cách đây mấy hôm “Dạ! cụ chúng tôi đã qui tiên” Me tôi suýt soa, cũng may là me tôi không lộ vẻ tiếc rẻ là không được biết để đi đưa đám và phúng viếng, vì một lẽ rất giản dị là ông cụ thân sinh ra bà khách quý qui tiên ở mãi... bên Pháp... cách đây đã gần mười năm.

Khi các đầu đề họ hàng quen biết bắt đầu cạn, chúng tôi đã nơm nớp lo không hiểu rồi các bà làm thế nào chuyển sang vấn đề hỏi vợ, gả chồng thì bà khách đã khôn khéo hỏi “Chắc bà được nhiều các cô các cậu lắm?”. “Chúng tôi hiếm hoi lắm ạ! Trời cho có bẩy cháu thôi” (Du, Lan bảo nhau có lẽ các bà sẽ lôi cả ông trời vào câu chuyện, nhưng thật may các bà không biết nghĩ sao lại để ông ấy yên thân và đề cập đến vấn đề học hành tốn kém của bọn trẻ).

Thấy rằng theo dõi cuộc nói chuyện dài như một cuộc đua chạy marathon của hai bà rất mệt, nên Du vớ lấy cuốn sách nằm dài trên giường xem, chốc chốc lại ngước đầu dậy hỏi Lan, kê ghế ngồi sát ngay cửa thông giữa hai phòng:

- Đến đâu rồi Lan?

- Me đang nói đến chuyện anh Du học đại học tốn bao nhiêu tháng.

- Chắc các bà theo thứ tự lớn đến bé, sau đấy sẽ đến lượt Liên.

Mười lăm phút trôi qua. Khi Du hỏi đã đến Liên chưa, Lan bụm miệng cười đáp:

- Me nói chuyện lấy vợ cho anh đấy!

Du ngán ngẩm nhún vai, lừng khừng đứng dậy bảo:

- Để anh ra lôi anh chàng bốn ngựa vào đây gặp Liên là tiện nhất.

Mặc dầu Liên phản đối, Du nói là làm liền. Liên lo lắng nhìn qua cửa sổ theo dõi thấy Du tiến đến bên cạnh xe tự giới thiệu, bắt tay chàng bốn ngựa, mời chàng một điếu thuốc và chỉ năm phút sau đã thấy hai người hoa chân múa tay thảo luận hăng hái. Bỗng nhiên hốt hoảng gọi Lan:

- Lan! ra đây mà xem! Anh Du sắp đánh nhau với chàng bốn ngựa đây này.

Nhưng thực ra Du nắm lấy tay áo chàng ta không phải để gây chuyện đánh nhau mà là để lôi chàng ta đến cái quán gần đó uống một chai bia.

Sơn thấy anh đã làm quen được với ông chủ xe, cũng mon men đến góp chuyện. Lan, Liên thấy Sơn rút trong túi quần ra một chiếc clé to tướng và nói một câu gì khiến chàng bốn ngựa ngạc nhiên, gãi tai. Lan thầm thì giọng quan trọng:

- Này! Không khéo Du và Sơn dọa tống tiền chàng ta đấy.

Nhưng không, sau đó Sơn chỉ chạy đến mở nắp xe, xem mô-tơ và hí hoáy vặn các con ốc. Sơn rất khoái máy móc. Lan và Liên nhìn nhau thở ra một cái dài, nhẹ cả mình.

Khi bà Hồng và cậu em đã ra về, Liên, Lan xúm lại tra hỏi Du đã nói chuyện gì với chàng ta, Du càu nhàu:

- Cái thằng cha ấy vừa điên vừa liều. Anh ca tụng cái thuyết “Nên yêu say mê và yêu thật nhiều”, hắn sổ ra một mớ tâm sự về mấy chục cái tình yêu cũ của hắn, nghe phát ớn. Anh khuyên nên tìm cách thất vọng vì tình để đổi món, hắn bảo thất tình tốn tiền lắm, mỗi lần thất tình lại phải lên Đà Lạt tẩm bổ tĩnh dưỡng. Cuối cùng tức mình kể hết những tính xấu của Liên ra, chàng ta vẫn trơ trơ nhất định vẫn hỏi Liên về làm vợ cho bằng được. Anh dọa “Liên tham ăn”, chàng ta gật gù bảo nhà có nuôi một người bếp làm cơm tây rất ngon, anh dọa “Liên thích may nhiều quần áo”, hắn đáp ngay chị hắn hiện có một cửa hàng thợ may, anh dọa “Liên thích ngủ trưa” hắn khoái lắm đồng ý “Tôi cũng vậy”.

Liên khoái trá mặt vênh lên, không ngờ mình nhiều tính xấu đến thế mà còn có kẻ khăng khăng đòi lấy. Du bồi luôn một câu khiến Liên cụt hứng:

- Chàng ta thú thật đây là lần thứ tư đi hỏi vợ, ba lần trước đều bị các cô từ chối.

Đám ấy me tôi từ chối vì Liên không chịu lấy chồng thừa. Một tháng sau chúng tôi nhận được thiệp báo hỉ của chàng bốn ngựa. Đám thứ ba chàng hỏi đã thay đổi ý kiến và ưng thuận lời cầu hôn của chàng ta. Liên chỉ tiếc có một điều (khi nào cô nàng đói bụng) là nếu lấy chàng ta. Có phải ngày nào cũng được ăn cơm tây không.

Một đặc điểm nữa của Du là tuy ham mê phân tích và suy luận hợp lý, Du thật ra chứa đầy mâu thuẫn. Nếu hắn bắt gặp Lan, Liên đọc thư tình của các cô gửi cho hắn hay tò mò dòm ngó xem hắn viết lách ra sao, Du nổi giận và kêu ca “đàn bà là chúa tò mò!”, nhưng đồng thời hắn có cái tật vứt thư từ riêng bừa bãi trên bàn học. Biết tính Du, mỗi khi thấy anh nhận được thu, Lan Liên bảo nhau lại ngồi gần Du giả vờ xem sách hay khâu vá, coi như không có Du trong phòng. Sau khi đọc thư và tủm tỉm cười một mình Du thế nào cũng quay sang phía các em hỏi:

- Này! Anh chắc không cô nào viết thư hay bằng Thủy.

Liên bĩu môi nhìn Lan buông một câu:

- Biết đâu được!

Tức khí Du đáp:

- Các cô không tin hả? Giỏng tai mà nghe anh đọc một đoạn Thủy viết cho anh.

Lan xua tay lắc đầu quầy quậy, cao kỳ:

- Ê! Bọn này không thèm nghe. Ai có đời sống tâm tình của người ấy!

Du ra vẻ rộng lượng:

- Anh cho phép các cô nghe anh đọc thư Thủy cơ mà.

Rồi hắn cao giọng đọc và bình giải một đoạn trong thư, đoạn này lôi kéo một đoạn khác “tuy không lãng mạn bằng nhưng ý nhị hơn”, đoạn ý nhị hơn lại “không nồng nàn bằng đoạn cuối thư”. Cứ như thế, cuối cùng Du quẳng cả bức thư cho Lan, Liên và kết luận “các cô đọc cả đi mới ý thức cái hay toàn thể”.

Lan, Liên vừa đọc vừa bàn tán và rúc rích cười với nhau. Vì cái tật không thể giữ kín được những chuyện tâm tình của mình, nên Du thường bị tôi ví như cái nhà trăm cửa sổ, gió thổi vào cửa này lại thoát mất qua một cửa khác.

Ngoài ra Du - theo lời tôi - còn là người tham vọng ngập đến tận cổ. Tựa một người nghiện rượu, thiếu chất ma men không chịu được, Du lúc nào cũng để óc hắn bận rộn về ít nhất hai, ba kế hoạch vô cùng lớn lao và táo bạo như nhau hắn mới thấy đời đáng sống. Hôm nay hắn hăng hái bênh vực một chương trình “thức tỉnh” giới thanh niên sinh viên (hắn không nói rõ bắng cách dội một làn nước lạnh hay nước nóng vào đầu họ), hôm sau chúng tôi đã thấy hắn cặm cụi thảo một kế hoạch làm báo dầy hàng mấy chục trang và cặm cụi viết liền một lúc bốn, năm bài làm dự trữ cho tờ báo tưởng tượng của hắn. Mấy ngày trôi qua, sau khi viết lách chán tay, hắn thở dài bảo tôi “Nói cho đúng, tất cả những kế hoạch chương trình của Du đều nhằm mục tiêu làm Du nổi tiếng” và hắn dồn ngay mọi nỗ lực suy tưởng của hắn nghiên cứu cách làm thế nào nổi tiếng càng chóng càng hay.

 

Văn

Văn, người yêu và rồi hôn phu của Liên, giống bọn con trai trong gia đình chúng tôi ở rất nhiều điểm, tiếc rằng phần lớn lại là những điểm không hay. Chàng ta phục sức ẩu tả không thua kém Du, hút thuốc lá nhiều gấp rưỡi và bệnh ngủ trưa còn trầm trọng hơn Du một bực. Về mặt ăn nói thảo luận khoa học, triết lý, chuyện đời và những vấn đề gàn và lẩn thẩn chàng ta xứng đáng là địch thủ của bất cứ ai trong chúng tôi.

Văn tính tình lãng mạn và có những lúc bốc đồng bất tử. Hắn luôn luôn chạy theo những gì tuyệt đối ở trên đời. Thói thường, chạy quá nhanh bạt mạng, dễ bị vấp ngã, nhưng chứng nào vẫn tật ấy làm sao mà ngăn cản được một con ngựa rừng phóng lên phi nước đại, mỗi khi trông thấy một cánh đồng cỏ.

Ngay khi cầm tay volant chiếc ô-tô hay tay lái chiếc lambretta hay xe Đức của chúng tôi, Văn cũng tự cho là phải đạt cho bằng được tốc lực tuyệt đối của chiếc xe, trong một thành phố đầy xe cộ. Trái với người thường hễ thấy đèn đỏ là tự động bớt tốc lực, Văn rất yêu màu đỏ -- chàng ta thích nhất Liên mặc một chiếc áo màu huyết dụ dù chiếc áo đó sờn độ vài ba chỗ -- vẫn dận ga tăng tốc lực lên lỏi, lạng bên này, bên kia để rồi cuối cùng tông vào đít một chiếc xe nào đó, hay hãm phanh dí mũi vào ông cảnh sát đứng gác ở ngã tư. Như ai nấy đều biết những ông cảnh sát đều không phải là hạng người đi tìm những cái tuyệt đối, ông ấy chỉ quan tâm đến những chuyện tủn mủn và khó chịu là viết những cái giấy phạt, ghi một số tiền rất tương đối hai chục đồng, ba chục đồng gì đó và sau khi lãnh đạm nghe những lời phản đối, lý lẽ dài dòng của Văn, chỉ nói gọn lỏn “Xin ông ba chục đồng tiền phạt. Nếu ông không chịu nộp ngay tôi xin tăng lên thành sáu chục đồng vì tội phá rối trật tự công cộng và cản trở nhân viên thừa hành công vụ”.

Hễ nghe tiếng xe phanh két két ngoài đường mọi người gọi ngay “Chị Liên! Anh Văn tới kìa”, trăm lần không sai một. Trong gia đình phe đàn bà ai cũng ngại ngồi trên xe Văn cầm lái, duy chỉ có Sơn là khoái tài lái (xe bay) của Văn mà thôi.

Lần nào theo Văn đi bơi về, Sơn cũng khoe:

- Ái chà! Hôm nay mới thật nhiều thành tích. Anh Văn tài ghê, chẹt chết một con chó, một con gà; làm ngã bổ chửng một cô solex và hai cô thật bự đi xe đạp đèo nhau. Anh Văn còn huých vào một chiếc xe “tắc-xông-ăng-a-văng” phải đền mất hai trăm đồng và cãi nhau loạn xạ hai ba bận với các tài xế tắc-xi. Họ chửi bọn này ầm lên.

Du hỏi Văn:

- Thế anh không có phản ứng gì à?

Văn nhũn nhặn đáp:

- Có chứ! Tôi cũng chửi lại nhưng bằng tiếng Anh, họ không hiểu (Văn rất khá ngoại ngữ)

Văn còn có một đặc điểm -- không hiểu nên cho là ưu hay nhược điểm -- chàng ta rất đa cảm và ưa làm những hành động ga lăng khác đời.

Khi lên Đà Lạt chơi với một người bạn, Văn viết cho Liên một bức thư dài mười hai trang bằng tiếng Pháp. Lá thư mà Liên hì hục bỏ cả một buổi chiều, cộng tác với Lan để tra tự vị, vì thư nhiều chữ rất khó và đầy những sự ví von bí hiểm. Trong thư có một câu “Anh giống như cây cắc tuýt (cactus), khô khan, mọc lẻ loi giữa xa mạc mênh mông chỉ có nắng và cát và chỉ nở bông hoa một lần trong đời” (sic)

Ở Đà Lạt về đến thăm chúng tôi, Văn vừa bước chân vào nhà Du đã chào một câu:

- Kìa! Cây cắc-tuýt đầy gai của Liên đã về!

Liên bước ra đón Văn reo lên:

- À! anh Văn! Em có cái quà này cho anh.

Liên cầm ngay một chiếc carte postale vừa mới mua về để trên bàn trao cho Văn, trên chụp mấy cây cắc-tuýt, mỗi cây có đến năm bông hoa.

Lan trêu Văn:

- Anh bảo tình anh chỉ nở một lần. Vậy bốn, năm lần trước sao anh không nói tới? Định dấu chị Liên hả?

Văn cáu lắm nhưng đành cười xòa. Hắn cũng bắt đầu học được một tính tốt của bọn đàn ông trong gia đình tôi, đối với các cô phải phớt tỉnh, luôn luôn giữ miếng và đồng thời phải có một khả năng chịu đựng rất bền bỉ.

Cũng như mọi chàng trai tấp tểnh làm rể một gia đình đông người, Văn bắt buộc phải chiều chuông các anh các em của người yêu. Kể đóng vai kẻ rắp ranh bắn sẽ đâu đó có phải là một chuyện dễ dàng và thú vị. Nếu mẹ tôi mời Văn đến ăn một bữa chả cá làm ở nhà, dù Văn rất ghét cá và mắm tôm, chàng cũng không dám nói ra, đành ngồi xem mọi người ăn, thỉnh thoảng gắp một miếng bún chấm nước mắm suông. Liên có hỏi giọng săn sóc:

- Kìa! Anh Văn không thích món chả cá em làm với me hả?

Văn vội cười gượng đáp ngay:

- Đâu có! Chả cá ngon đấy chứ! Nhưng anh bị cúm từ mấy hôm nay nên trong người hãy còn ngây ngất.

Thật ra Văn ngây ngất vì đói cồn cào. Me tôi tính cẩn thận nên làm bếp quá lâu, bắt chàng ta chờ đến gần hai giờ trưa để rồi vẫn không được ăn.

Biết Sơn thích những “phát minh” nho nhỏ về máy móc và điện, Văn chở đến cho Sơn đầy một xe những cục pin lớn nhỏ của quân đội đã dùng rồi. Bộ óc giàu tưởng tượng của Sơn được dịp hoạt động mạnh mẽ. Trước nhất vì cho mình là một nhà thám hiểm kiêm thợ săn, lặn lội trong rừng sâu đầy nguy hiểm, âm u tăm tối, hắn chế tạo ngay mấy loại đèn pin lớn nhỏ với những công dụng khác nhau. Loại đèn thứ nhất hắn mắc lên chóp một chiếc mũ da cũ của ba tôi, vừa có thể soi sáng vừa có thể sử dụng hai bàn tay tự do để săn và đập muỗi trong màn hắn. Loại đèn thứ nhì mắc vào cái chổi dài để đập chuột và giúp trong màn thò đèn ra có thể tìm thấy đôi guốc của hắn giữa đám giày dép hỗn độn của mọi người trong gia đình, mà không cần bật đèn lớn lên. Hắn còn dùng một hộp pin lớn để chạy một chiếc quạt nhỏ xíu do chính tay hắn ghép thành và mắc ở đầu giường. Đêm đến cả nhà đang ngủ bỗng nhiên nghe tiếng sè sè, giật mình tỉnh dậy hỏi nhau con gì kêu mà nghe kỳ thế. Lan bảo chắc là con dế lớn đang gáy, Liên đoán có lẽ chim sẻ con lạc vào nhà, Du càu nhàu “Cái thằng quái ngáy to quá”. Thực ra đó chỉ là chiếc quát tí hon của Sơn, hắn mắc một đầu dây vào ngón chân, một đầu kia vào núm bật quạt và ngủ quên cựa mình, lúc làm quạt bật chạy, lúc tắt đi.

Liên phải dọa mách anh Văn vào bảo anh ấy không cho Sơn pin nữa, nhà bác học kiêm kỹ sư điện học mới chịu dẹp cái quạt kỳ khôi phát ra những âm thanh (dế kêu) và chim sẽ non đó đo.

Văn là một người rất dễ say mê, nhưng rồi sự say mê của chàng ta nguội lạnh cũng nhanh chóng không kém lúc nó nổ bùng lên (ngoại trừ tình yêu giữa Văn và Liên). Có hôm Văn mặc quần áo trắng để đánh quần vợt, nách cắp chiếc vợt mới mua đến nhà tôi và nhất định rủ Liên đi tập cái trò thể thao rất quý phái đó. Tuyên truyền một hồi Liên chỉ bảo “Em thích chơi quần vợt lắm, chỉ ngại nỗi một cái ra nắng... đen da xấu lắm”, Du thì chú ý đến luật lệ đánh quần vợt, còn cái việc cầm vợt lên đập vào quả bóng bay sang phía bên kia, hoàn toàn không thích hợp với một người ưa suy tưởng như hắn. Sơn hăng hái nói “Để em đi với anh Văn”. Cả nhà la ầm lên vì nếu Sơn nhất định mặc cái quần blue jean đầy dầu mỡ, mang đôi dép săn-đan da dầy và cứng và khoác lên người cái áo ca-rô đỏ vằn đen của hắn xuất hiện tại hội quán, hắn sẽ làm mất hết tính cách “quí phái” của cái trò thể thao rất hay ho kể trên.

Văn hơi bực, nhưng nhất định chiều nào cũng vác vợt đến hội quán một mình, cho đến hôm cuối tháng túng tiền Liên, Lan đòi thết một chầu cơm tây, xi-nê, Văn bán phăng chiếc vợt lấy tiền chiều các cô. Cuộc đời thể thao gia của Văn kết liễu ngay sau buổi cơm tây đó.

Dạo mới đi ngoại quốc về, Văn mua một tá áo sơ mi đủ mầu. Nhiều chiếc hắn chưa kịp sỏ tay đã có người bạn đến hỏi “Mày! Cho tao mượn tạm cái áo sơ-mi, mặc đỡ trong mấy ngày ra cấp với cái em”. Văn vui lòng cho mượn ngay, hắn rất tốt đối với bạn. Ít lâu sau, Văn hết cả sơ-mi, khi gặp một thằng bạn mặc chiếc áo màu nhã nhặn, Văn sờ sờ vào tay áo khen:

- Chà! Cái áo bảnh quá! Chú mày may ở hiệu nào vậy?

Tên bạn sa sầm mặt, tưởng Văn mỉa mai hắn, vì chính chiếc áo đó hắn lấy của Văn trước đây. Vì tính đãng trí Văn mang tiếng là đã cho bạn mà còn tiếc rẻ đòi khéo.

Sau khi đã cùng nhau tỏ tình và Văn đã được gia đình tôi chính thức công nhận là hôn phu của Liên, Liên và Văn bước vào một giai đoạn mới không thiếu những chuyện êm đềm, cũng như những chuyện rắc rối và ngộ nghỉnh. Hai bên đều tìm thấy ở nhau những điểm mới lạ, trước kia không ngờ tới.

Văn khám phá ra Liên không phải lúc nào cũng diêm dúa thích trang điểm và làm đẹp. Nhiều lần đến thăm Liên vào những lúc bất ngờ như sáng sớm và đêm khuya chẳng hạn, Liên mắt nhắm mắt mở ra đón Văn, đầu lởm chởm những cặp tóc trông chẳng khác nào một con nhím, mặt bóng loáng vì bôi kem nuôi da, áo thì đứt gần hết khuy và thay vào đó những chiếc kim băng, hoặc hở hang đến nỗi Văn phải kêu lên:

- Liên ạ! Em có cái lưng đẹp thật đấy! Nhưng à... à... có lẽ để khi nào chúng mình lấy nhau rồi hãy cho phép anh thưởng thức.

Hơn nữa nhờ me tôi và chúng tôi làm hắn “sáng mắt ra” nên Văn cũng biết ngay, ngay từ nhỏ Liên cũng đã tỏ ra không phải là một cô gái hiền dịu như hắn tưởng, Lan mách:

- Anh có biết cách đây mấy năm chị Liên dữ và ác ghê lắm. Chị ấy kiểm duyệt hét các báo chí rồi mới cho phép Lan xem. Chị ấy lấy thuốc lá của ba châm thủng tất cả hàng chữ chị ấy cho rằng Lan bé quá không được đọc. Báo nào qua tay chị ấy cũng biến thành một cái tổ ong lỗ chỗ. Anh đã ngán chưa?

Du tố cáo thêm:

- Khi nào cãi nhau Liên có dọa tự tử anh đừng có sợ. Hồi bé cô nàng có biệt tài về nghệ thuật tự tử nhiều lần mà không chết. Chẳng hạn tự tử bằng lá trúc đào pha với dấm. Thứ cây kiếm được cũng khó, vì hình như thành phố Sàigòn không đâu có trồng. Còn bằng cách tuyệt thực trong gia đình kê một cái trạn lớn đầy thức ăn như gia đình tôi, e rằng khó thực hiện đấy!

Văn nghe Du nói thế, lộ vẻ băn khoăn hỏi:

- Vi sĩ quan có quyền, nên tôi có giữ trong nhà một khẩu súng lục, không biết Liên nhỡ ra...

Du vờ suy nghĩ một chút, đoạn xui Văn hãy trình bày vấn đề với Liên xem phản ứng cô nàng ra sao. Văn chưa kịp làm theo lời Du, thời chỉ mấy hôm sau hắn đã có dịp sử dụng khẩu súng đó trong một trường hợp vừa khôi hài vừa bi kịch:

Câu chuyện đầu đuôi như sau:

Đêm Noel, Vằn cùng hai cô em họ và dăm ông bạn của Văn và vài ông bạn của mấy cô em, đến rủ anh em chúng tôi đi dạo một vòng quanh Catinat Bonard, xem lễ nửa đêm ở nhà thờ và cuối cùng trở về nhấm nháp một cây buche Van đã thửa trước một tiệm bánh ngọt có tiếng. Trong bữa cơm chiều Liên, Lan, Sơn bảo nhau ăn lưng lưng dạ dày, vì nghe đồn cây củi Noel của Văn là một loại củi tạ rất lớn.

Bọn chúng tôi nghiêm trang đi trên hè phố khiên ai cũng dòm ngó chỉ trỏ. Thật đúng mỗi người một vẻ. Tôi và Văn mỗi người ngậm một điếu thuốc dài nghêu. Mấy bộ complet mùa nực lại vừa đưa hấp chưa kịp lấy về, nên Văn đánh một bộ complet mùa rét đen xì và dầy cộm -- ý hẳn chàng ta nghĩ Noel là lễ của người Âu có tuyết rơi băng phủ, mặc len dạ cho thêm phần thi vị. Du mặc bộ xanh nhạt của tôi tặng hắn, vừa rộng rãi vừa dài dĩ nhiên vừa nhàu vừa thiếu sạch sẽ... Sơn lừng khừng đi sau bọn chúng tôi một quãng. Hắn cũng mặc complet thắt cravate cẩn thận, nhưng chân đi dép, vì lôi hết giầy của bọn đàn ông trong nhà ra thử không đôi nào vừa với chân hắn, như vậy cũng mát. Mấy ông bạn Văn phục sức rất chững chạc và hợp thời trang, tuy nhiên họ kèm sát hai bên cô em họ Văn, chốc chốc lại ném về phía tôi và Du những cái nhìn nghi kỵ và đe dọa, vì chúng tôi dám tỏ ra thân mật và lại dám xưng “anh” với hai nàng.

Còn về phe nữ, Liên diện một chiếc xiêm hàng satin trắng mới may, tôi bỏ tiền ra và bạn Văn thân hành vẽ kiểu. Khi mặc thử ở nhà Du phê bình “có vẻ tầu tầu”. Tôi không đồng ý vì thấy giống kiểm xiêm xòe xòe như mấy thiếu nữ Tây Ban Nha, chỉ có Văn khăng khăng xiêm đúng hết thiếu nữ Ba-lê 1960, ngắn ngang đầu gối. Xin nhắc cũng chính cái xiêm của Liên và bọn tôi không đồng ý giống y phục nước nào, đã đẩy một viên đạn súng lục bay lên trời đêm đầy sao của đêm Giáng Sinh năm đó.

Dạo chơi ngoài phố: Văn hơi ngạc nhiên khi thấy các chàng trai trẻ hau háu nhìn mặt Liên rồi hạ tầm mắt xuống ngắm chiếc xiêm hơi ngắn và rồi cười với nhau. Chúng tôi nghe hắn hỏi:

- Liên à! Hình như xiêm của em mới co vào ngắn thêm thì phải. Hôm em thử ở hiệu đâu có thế.

- Có gì lạ! Em bảo thợ máy nâng thêm lên một gấu nữa đấy...

- Sao em không cho anh biết trước? Ngắn quá e... hơi lố.

Liên bắt đầu cáu:

- Ngắn thì ngắn! Mặc kệ cái xiêm của em.

- Mặc sao được! Em đang mặc nó kia mà...

- Mặc em!

Du lừng khừng bàn góp một câu khiên các cô đỏ mặt:

- Có gì! Cởi phăng nó ra là hết cả ngắn lẫn dài.

Văn mặt hầm hầm, xăm xăm đi trước hẳn Liên mấy bước. Từ đó trở đi hễ thấy chàng trai nào dám nhìn Liên quá chăm chú, hắn trừng mắt nhếch mép cười gằn một tiếng. Để trêu tức Văn, Liên chốc lại nghiêng nghiêng cái đầu, thưởng cho những kẻ chiêm ngưỡng sách đẹp của cô nàng một nụ cười duyên. Bỗng nhiên một thanh vì mãi nói chuyện với một người bạn đâm xầm vào Văn. Văn dừng phắt lại xẵng giọng:

- Anh để quên kính cận thị ở nhà phỏng?

Chàng kia nhã nhặn xin lỗi. Văn nhếch mép mỉa mai:

- Ông tưởng xin lỗi là đủ hở?

- Thưa ông! Tôi nghĩ thế rất đủ.

- Thưa ông! Ông nghĩ gì mặc ông, theo tôi “chưa đủ”.

- À! Ông muốn cố ý gây sự?

- Tôi không muốn gây sự. Tôi “đang gây sự”.

Sơn theo dõi những câu đối đáp giữa Văn và Xuân (chàng thanh niên đó là Xuân, bạn tôi) có vẻ rất thích thú. Hắn thì thầm bảo Lan:

- Hai người đánh nhau khéo anh Văn thua mất. Anh Xuân bụng bự hơn, nhưng bộ áo da của anh Văn dày hơn có bị đấm cũng đỡ đau.

Thấy tình hình đã gay go, Liên vội đến gần hai chàng can thiệp:

- Kìa anh Xuân!

- Chết chửa tưởng ai hóa cô Liên. Cô mặc đầm trong lạ hẳn đi. Cô cho phép tôi khen: chiếc xiêm cô mặc thật lộng lẫy!

Nghe đến chữ “xiêm”, Văn trừng mắt:

- Xin ông làm ơn để cái xiêm của vị hôn thê của tôi yên.

Xuân tỉnh như không, hơi nghiêng đầu kiểu cách và nhìn Liên:

- Tuy ông không đồng ý nhưng tôi vẫn thấy nó rất đẹp và hợp với cô Liên.

Văn dằn giọng:

- Tôi thấy nó xấu!

Tôi và Du vội can hai người ra. Du an ủi Văn “Anh để ý đến chuyện vặt ấy làm gì cho mệt. Tôi cũng đồng ý là xiêm của Liên hơi ngắn, nhưng cái xiêm đâu có quan trọng, cái chứa đựng trong cái xiêm mới đáng ta lưu ý chứ”. Tôi thì khôi hài bảo Xuân “Cái xiêm của Liên thật lộng lẫy! Nhưng dù các anh có đánh nhau vỡ đầu sứt tai, nó cũng không vì thế mà lộng lẫy hơn kia mà”.

Tuy được an úi Văn vẫn chưa nguôi hẳn. Hắn lên giọng kẻ cả chỉ trích Liên một thôi một hồi cho hả giận. Nào là Liên coi vị hôn phu chẳng ra gì, thiếu tế nhị, hay thay đổi và không bao giờ chịu hiểu người mình yêu..v.v...

Du gật gù đồng ý tất cả những ý kiến của Văn, không cười và mặt tỉnh khô:

- Anh cam đảm thật! Tôi không hiểu sao anh có thể yêu nổi một cô gái nhiều tính xấu như Liên. Anh mới biết Liên chứ tôi đã chịu đựng nó từ 20 năm nay. Liên còn nhiều khía cạnh ly kỳ khác mà anh chưa biết đấy...

Hắn lừng khừng kể liên tiếp:

- Nó vừa ích kỷ lại vừa nhẹ dạ, đầu óc rỗng tuếch, tình cảm thời khô khan lạnh như băng, đã thế lại ăn tham, bướng bỉnh thích làm đỏn xa hoa và lười không thể tả được...

Văn bắt đầu cảm thấy lo ngại, nghi ngờ nhìn Du không hiểu Du nói đùa hay nói thật. Chẳng lẽ người tình lý tưởng của hắn lại tệ đến như vậy. Hắn yếu ớt phản đối:

- Kể ra anh nói thế cũng hơi quá!... Ờ! Ờ!... Liên có bướng bỉnh thật nhưng điều đó chứng tỏ Liên có bản sắc khác người. Liên có tâm hồn dể cảm xúc đấy chứ, tuy có ích kỷ nhưng rồi tình yêu sẽ khiến Liên bớt đi.

Một lát sau, Văn biện hộ cho Liên hăng hái đỏ cả mặt lên. Hắn còn dám kết tội vì Liên yêu hắn tha thiết nên Du bực mình và cố ý tìm cách làm giảm giá trị cô em gái. Cuối cùng Du cười xì xì bảo Văn:

- Ê này bồ! Sao anh không mang những lời tán tụng đó đến nói với Liên. Nó đang xịu mặt đi lủi thủi cô độc một mình ờ đằng kia kìa...

Văn đỏ mặt và ngượng thực sự vì sự mâu thuẫn của hắn. Tuy nhiên Liên, Văn cũng không ai chịu nhượng bộ và đến khi hai cô cậu trèo lên một chiếc tắc xi ra về, thấy hai người ngồi cách nhau đến một thước tây, chúng tôi đoán khoảng cách thiếu lãng mạn đó chứng tỏ họ vẫn găng với nhau.

Xe của chúng tôi vừa đỗ trước nhà của Văn, chúng tôi còn chờ nhau vào một thể, thời một tiếng súng nổ ở trên gác thượng vọng xuống. Các cô ngơ ngác nhìn nhau, Lan cuống quýt dục:

- Chết chửa! Các anh lên tiếp cứu mau lên chứ! Không khéo anh Văn bắn chết chị Liên...

Mọi người nhất là các ô lao xao bàn tán:

- Hay anh Văn tự tử?

- Trời!... Có ông nào đi báo cảnh sát hộ.

Vừa đề cập đến việc báo cảnh sát, Sơn đã té chân chèo định chạy đi, nếu tôi không lôi hắn lại kịp, Sơn dám thực hiện liền, hắn rất ưa những chuyện ly kỳ có súng nổ, có máu chảy.

Một cô đưa ý kiến:

- Liên không bắn ai đâu. Ít nhất cũng phải ăn xong chiết buche, cô nàng mới đủ can đảm...

Tôi đưa ra ý kiến có lẽ hữu lý nhất:

- Hay có kẻ trộm lẩn vào nhà. Khi hai ông bà ấy về nó bị lộ tẩy nên vớ súng bắn cả hai người...

Mấy ông bạn của hai cô em Văn đã vội vàng sắn tay áo, lên gân cốt tình nguyện sô lên gác bắc trộm. Nhưng sự thật khác xa tưởng tượng. Khi chúng tôi lên gác thượng thời chẳng thấy xác chết, không có vũng máu nào đọng trên sàn gác, cũng không thấy bóng một anh trộm! Chỉ có Văn, Liên ôm nhau thủ thỉ ngoài sân thượng dưới bầu trời sao lấp lánh.

Hỏi ra mới biết vừa về đến nhà Văn, Liên cãi nhau một trận linh đình, Liên bị Văn mắng là “lẳng lơ” nên tát Văn một cái, mắng trả “vũ phu”. Văn nổi xùng hăm hở chạy vào nhà rút súng lục ra khỏi vỏ, hăm hở chạy ra sân nhưng chắc thấy “nạn nhân yêu kiều” của mình mặt tái mét, chàng ta không nỡ. Nếu quay súng bắn mình nhỡ chết thật, đâu còn sống để hưởng đời bên người đẹp, nên Văn bắn đại một phát... lên trời. Trước một viên đạn đầu tiên bắn ra vì mình, tuy không chết ai, chắc Liên cảm động lắm và rơi vào hai cánh tay khỏe mạnh của Văn.

Để gán cho viên đạn một lý do dù nhỏ bé nhất, chúng tôi về sau hễ nhắc lại câu chuyện hi hữu trên lại chế Văn là “bắn vịt trời trong đêm Noel”. Thật ra chúng tôi không được ăn cháo vịt trời của Văn bắn rơi nhưng thay vào đó, để chữa thẹn Văn đã mời tất cả mọi người ra hiệu chén một bữa cháo gà thật ngon.

Từ khi yêu Liên, Văn cũng còn tìm thêm một nguyên tắc -- mà chúng tôi đã rõ từ lâu -- hay nhất nên theo khi tranh luận với các cô là... thua ngay từ đầu cho đỡ mệt. Đằng nào cũng vậy chẳng thua trước cũng thua sau, đó chỉ là vấn đề thời gian. Mà thời gian là thứ các cô bao giờ cũng hoang phí, không hối tiếc nhất là thời gian của người khác.

Một tối thứ bảy, Văn phóng xe đến, lái xe trèo phăng lên bờ hè, hãm đánh kẹt ngay cửa, chạy vội vào, tay cầm một nắm vé gọi:

- Liên! Em mặc quần áo mau lên! Anh thết cả nhà một chầu xi nê.

Nghe đến xi nê, Liên tươi hẳn mặt lên. Nhưng khi Văn tuyên bố sẽ xem một phim trinh thám, Liên xịu mặt lạnh lùng đáp:

- Em không đi đâu!

Văn dơ vé ra:

- Nhưng anh mua sẵn vé rồi!

Liên quay mặt đi. Văn gọi thế nào cũng không ngoảnh mặt lại chỉ nói gọn lỏn:

- Mọi người ai đi thì đi. Em ở nhà một mình.

Văn quay sang cầu cứu Lan:

- Lan khuyên chị Liên đi chứ! Phim hay lắm! Anh suýt phải đánh nhau với mấy chú cao bồi mớ lấy được vé đấy!

Lan tuy ngần ngại vì chính Lan cũng không ưa phim trinh thám, nhưng cũng lại bên Liên thì thầm. Liên đẩy Lan ra gắt:

- Bảo với anh ấy là chị đau bụng.

Văn đã có vẻ nóng mặt, đứng giữa nhà với mấy cái vé. Chàng ta xẵng giọng:

- Liên! Anh hỏi lần cuối cùng có đi hay không?

Liên nói một mình giọng mỉa mai:

- Dễ thường không đi đã chết ai! Họa chăng mấy con vịt nữa bị bắn chết là cùng...

Văn vứt vé xuống bàn, hùng hổ ra cửa, nhảy lên xe rú ga rầm rầm và phóng xe từ trên bờ xuống đường khiến mấy thanh niên học sinh hàng xóm tưởng có xe cộ đâm nhau xô cả ra cửa xem:

Sơn cầm luôn hai chiếc vé lên gọi Du:

- A ha: Anh Du đèo Sơn đi xem đi!

Liên quay phắt lại quắc mắt quát:

- Để yên vé đấy! Cấm đụng tay vào.

Sơn cười hí hí, cổ rụt lại, dơ vé lên ánh sáng lẩm bẩm:

- Sao lại cấm đụng vào! À hay vì vé xem phim trinh thám nên có tẩm thuốc độc.

Liên nhỏm dậy xông lại gần Sơn, tay dơ cao đe dọa, Sơn chỉ vội ra cửa:

- Anh Văn trở lại kìa! Anh xem chị Liên hiền và thùy mị không?

Văn vừa quay xe trở lại. Lúc ra đi ồn ào bao nhiêu lúc quay về hắn lại êm ái bấy nhiêu, chẳng ai biết. Văn bước vào phòng ngồi phịch xuống ghế. Liên bỏ vào giường nằm ôm cái gối.

Năm phút, mười phút rồi mười lăm phút trôi qua. Mấy chiếc vé xi nê nằm trơ trên bàn giữa nhà không kẻ đoái người hoài. Văn làm ra vẻ thản nhiên, ngồi nói chuyện luật với Du. Liên nằm ở giường chốc chốc lại nấc lên một tiếng, chân tay bức rứt đập xuống giường như người nằm phải một tổ kiến lửa Phi Châu.

Sau cùng, ba tôi từ trước đến giờ vẫn ngồi xem sách, lừ đừ đứng dậy, lại gần bàn, cầm mấy chiếc vé lên xem. Ông cụ cau mặt lại, chắc vì đọc thấy hàng số năm chục đồng trên vé balcon. Ông củ ngẩng đầu nghiêm khắc nhìn Văn và dặng hắng một tiếng. Văn lúng túng ngượng nghịu như người bị bắt quả tang đang làm chuyện phi pháp, bật đứng dậy sáp lại gần chỗ Liên nằm.

Văn thì thầm những gì bên tai Liên không rõ. Bỗng nhiên Liên tuyên bố giọng bi thảm:

- Anh không yêu em nữa rồi!

Văn ngạc nhiên mặt ngớ ra. Chắc hắn tưởng gần đây Du bắt gặp hắn đi chơi cùng với các cô xinh xinh ở cạnh nhà, về mách Liên, nên Liên giận hắn. Văn buộc miệng:

- À ra thế!

Liên nghi ngờ nhìn Văn:

- Như thế là như thế nào?

Văn lúng túng bào chữa:

- Như thế có nghĩa là... à... à anh với mấy cô đó chỉ là bạn.

Liên nhỏm dậy hỏi dồn dập:

- Mấy cô nào đối với anh chỉ là bạn?

Du dặng hắng một tiếng nhìn Văn lắc đầu, một ngón tay để lên miệng Văn vội đánh trống lảng:

- À! Anh tưởng em muốn nói tới mấy cô chào anh hôm chúng mình đi xem lễ Noel ở nhà thờ.

Liên ngẫm nghĩ một chút đoạn hỏi:

- Có cô nào đẹp bằng em không?

Văn khôn ngoan đáp ngay:

- Một cô mắt hiếng, một cô mũi tẹt và một cô bự bằng me ấy!

Tôi và Du phì cười vì không ngờ từ dạo quen Liên, Văn lại học được cái lối nói dối vừa nhanh vừa giỏi đến thế. Thấy Văn cam đoan các cô bạn hắn xấu hơn mình, Liên yên tâm lắm, quay trở lại chuyện xi nê.

- Em bảo anh không yêu em vì đến việc nhỏ nhặt như lấy vé xi nê anh còn không thèm hỏi ý em. Sau này lấy nhau anh còn coi em ra gì nữa. Sao hôm nọ anh hứa bất cứ chuyện gì liên can tới anh đều liên can tới em cơ mà...

- Em đòi hỏi nhiều quá! Thỉnh thoảng em cũng phải hy sinh một thú vui nho nhỏ để chiều anh chứ! Một người vợ khôn ngoan kiểu mẫu phải chiều chồng...

Sau một nửa giờ đồng hồ hùng hồn giảng giải cho Liên một bài học luân lý về sự hy sinh cao cả của một người vợ lý tưởng, hạnh phúc hòa hợp của một cặp vợ chồng biết nhường nhịn nhau và nghe những tiếng “dạ” mát lòng mát ruột, những cái gật đầu thán phục kèm theo câu nói rất ngoan “anh phải lắm” của Liên, Văn chắc để chứng tỏ hắn cũng là một người yêu, có thể so sánh với người vợ lý tưởng hắn vừa ca tụng, chiều Liên lái xe đi trả vé xem phim trinh thám và mua vé xem phim tình cảm mà Văn vừa xem chiều hôm qua với mấy cô em và đã thề lấy thề đề là “không bao giờ đi xem một phim rẻ tiền như thế nữa”.

Văn hí hửng tưởng đã cảm hóa và chinh phục được Liên. Ngờ đâu hắn đã mắc mưu đàn bà. Hắn đâu biết phụ nữ chỉ cần đạt tới kết quả... bằng đủ mọi phương tiện.

Trong thời gian cưới của Liên-Văn, gia đình tôi thật ồn ào vui vẻ. Mọi người thi đua mời mọc lẫn nhau. Hôm nay Văn mời chúng tôi đến dự sinh nhật của Văn, thời mấy hôm sau Liên mời Văn và mấy cô em họ đến dự một bữa bún thang sinh nhật của Liên và... Lan. Chẳng phải tình cờ hai chị em sinh cùng một ngày một tháng, nhưng đó là sáng kiến tiết kiệm của me tôi. Khi Liên ngỏ ý muốn ăn sinh nhật, me tôi ngẫm nghĩ một chút đoạn bảo:

- Bây giờ là cuối tháng cạn tiền rồi. để tuần sau me cho con tổ chức sinh nhật cùng với Lan một thể cho tiện.

Ba tôi sốt ruột trước những buổi ăn uống vui chơi của chúng tôi đã có lần mỉa mai:

- Sinh nhật với sinh nguyệt hoài! Thế hôm nào chúng nó an sinh nhật ông Doumer với bà đầm xòe.

Hôm sinh nhật, Liên phần tinh nghịch phần tò mò nên mời tất cả những ông bạn trai có cảm tình với Liên đến dự xem nó ra làm sao. Điều ngạc nhiên là các ông không như mọi người tưởng, sẽ ác cảm và hầm hè nhau, trái lại chàng Xuân không những mang một bó hoa sen đến tặng lại còn trò chuyện rất tương đắc với Văn. Chàng ta còn xin Liên Văn cho phép đỡ đầu cho con của hai người.

Chàng “không có gì lạ” quen Liên từ ba năm nay chưa bao giờ ngỏ một lời tình, hôm đó mới đủ can đảm thổ lộ mối tình tha thiết của chàng qua một lá thư dài dằng dặc. Đó là điều lạ lùng đầu tiên chàng “không có gì lạ” dám thực hiện và cũng là điều lạ cuối cùng.

Buổi ăn sinh nhật đang lúc vui vẻ nhất, chàng ta lỉnh ra về. Không ai để ý đến sự vắng mặt của chàng ta. Chỉ có Lan biết và theo ra tiễn. Theo lời Lan tường thuật, thì đôi mắt nai của chàng ta buồn lắm. Chàng ta tâm sự sẽ lên Đà Lạt nghỉ dưỡng thân mấy tháng để quên mối tình tuyệt vọng này.

Ngoài ra, các nhân vật quen thân sơ với chúng tôi đều có mặt khá đầy đủ. Không kể những nhân vật khác tuy đóng vai phụ thuộc nhưng cũng không kém phần linh động như:

Chúc, anh chàng nhỏ bé trắng trẻo, nói chuyện dềnh dàng rất lâu và rất nhạt, nhạt đến nỗi tôi phải đặt cho cái tên là “chàng hạt đậu luộc”, vì quả thật không có một mùi gì lại nhạt bằng một hạt đậu luộc, dù đã luộc chín cẩn thận.

Khiêm, cao lớn đẹp trai hát hay, nhảy giỏi chỉ có tật hay tuyên bố một cách nhũn nhặn là “Tất cả các cô đều... mê tôi”. Nghe hắn nói chuyện người ta có cảm tưởng tất cả những cô gái xinh đẹp từ 17 đến 35, tất cả các bà có chồng nhưng còn xinh đẹp ở đất Sài gòn, đều đã có ít nhất một lần gặp hắn và mê hắn.

Nếu có ai hỏi:

- Anh có biết Tuyết không?

Khiêm trả lời không do dự một giây:

- Có chứ! Có phải Tuyết có một nốt ruồi ở má bên phải? Trời ơi tưởng ai xa lạ. Hồi cô ấy mới mười bảy tuổi tôi dẫn cô ấy đi bơi mãi ở hồ Tây Hà nội mà...

(Xin chú thích, cô Tuyết này thực ra mới có 16 tuổi và đẻ ở Sài gòn, chưa hề bước chân ra Bắc).

- Anh có biết Hồng không?

- Dĩ nhiên! Ngày trước cô ấy ở cùng phố tôi! Này! Đừng tiết lộ cho ai biết! Cô ấy viết cho tôi một tập thư dày đến 20 phân. Tôi chẳng buồn trả lời!

Trong bữa sinh nhật Liên, biết tính khoác lác của chàng ta, tôi đã giả vờ hỏi Khiêm trước mặt mấy cô, để lừa Khiêm vào tròng:

- Ê Khiêm! Nghe nói cô Thúy mê toa lắm phải không? Thúy cao cao, da trắng và ở số nhà 783/B đường N.T.C. ấy mà! Cô ấy hát khá lắm phải không?

- Tưởng ai chớ cô đó tôi biết quá! Tôi luyện giọng cho cô ấy mất tháng. Dạo đi Đà Lạt tôi chụp cho Thúy nhiều ảnh lắm! Dán đầy quyển album ở nhà.

Tôi liếc Hằng, gặng hỏi thêm Khiêm vì biết Hằng cũng ở phố N.T.C dãy lẻ.

- Có đúng số nhà 783/B không?

- Đúng chứ tôi đến chơi nhiều lần mà!

Hằng tự nhiên nói:

- Lạ nhỉ? Thúy nào ở phố N.T.C. mà tôi không biết. Mà... ở phố đó làm gì có số nhà 783. Nhà cuối cùng dãy lẻ chỉ đến số 415. Anh Lam quen cô Thúy à?

- Đâu có! Thực ra làm quái gì có cô Thúy nào ở cùng phố Hằng. Tôi vừa tưởng tượng ra đấy.

Cả bọn ồ lên cười. Khiêm im thin thít mặt đỏ lên như quả bồ quân và để chữa thẹn chàng ta ăn liền một lúc ba bát thang to tướng.

Bữa tiệc của Liên, Lan rất thành công. Làm sao không thành công được khi có tất cả những yếu tố cần thiết: đàn bà xinh đẹp, rượu (dù chỉ là rượu bia), âm nhạc (mỗi người phải hát một bài và thi nhau hát dở và thi nhau vỗ tay khuyến khích người khác để đến lượt mình hát dở không sợ ngượng), một mối tình tuyệt vọng, một mối tình chớm nở (giữa tôi và cô em họ Văn), dăm ba thứ đổ vỡ (cốc, chén) và năm mươi bát thang vừa lớn vừa nhỏ.

Thời chưa cưới bao giờ cũng đẹp... với điều kiện đừng quá kéo dài.

Tôi: Lam

Trong gia đình tôi là con cả. Tôi cao 1 thước 72. Cũng giống Sơn, hồi tôi bắt đầu lớn, sự tăng chiều cao của tôi đã từng làm ba tôi ngạc nhiên và tự hào. Lâu lâu ba tôi lại lôi tôi ra đo xem tôi còn kém ông mấy phân. Mới đầu tôi còn kém ông một cái trán, rồi dần dần nửa cái trán, một phần ba cái trán và cuối cùng tôi... vượt hẳn ông một cái đầu.

Ba tôi gật gù bảo me tôi:

- Sao chân tay chúng dài thế! Không biết con chúng sẽ ra sao. Bằng cái sào chăng?

Chiều cao của tôi cũng làm phiền me tôi không ít. Khi mua sắm chiếu chăn, guốc, quần áo pi da ma cho tôi, bà bao giờ cũng hỏi người bán hàng tìm cho loại dài nhất, to nhất, rộng nhất và dĩ nhiên là bền nhất và... ít tiền nhất.

Khi Lan, Liên bị me tôi mắng:

- Tại sao các cô toàn đòi mua giầy với guốc cao gót. Tốn lắm!

Lan, Liên cãi:

- Đâu phải lỗi chúng con. Tại anh Lam đấy chứ!

Thấy me tôi bỡ ngỡ không hiểu tôi thì liên lạc gì đến sự cao thấp của đôi gót guốc. Lan vội giảng:

- Chúng con phải mua giầy guốc cao gót để dùng trong dịp đi chơi với anh lam. Anh ấy cao lênh khênh, anh lại hay để tiền ở túi áo trên, nếu không đi giầy cao gót thời làm thế nào với tới được.

Vì là con cả trong nhà, nên tôi cũng rất được ba mẹ tôi và các em gái nuông chiều. Tuy tôi đã lớn, mặt đen xì và đi đâu lừng lững như một cái cột đá, nhưng me tôi vẫn không chịu hiểu là tôi hàng ngày đã phải cạo râu và nếu đến các mối tình trên đầu ngón tay thời số ngón trên hai bàn tay đã không đủ; và nhất định cho tôi vẫn còn cần phải được luôn luôn săn sóc, chăm non cái ăn cái uống từng ly từng tý.

Có lần tôi đang tiếp chuyện hai ba cô bạn gái của tôi và Liên, me tôi đi chợ về ôm theo một mớ chiếu mới mua.

Bà sai tôi:

- Lam! Hộ me tý việc.

Trước những cặp mắt tò mò và chế riễu của mấy cô, me tôi trải chiếu cạp điều mới

mua xuống chiếc giường kê gần đây, đoạn chỉ tay nói gọn lỏn:

- Con nằm xuống kia! Ruỗi chân ra, dơ tay lên khỏi đầu... thế... thế!... tốt lắm! Cái chiếu này me mua vừa đúng. Lam nằm vừa là cả nhà nằm vừa.

Mặt vẫn lạnh như tiền, tôi sau khi đã ruỗi dài hết cả 172 phân xương thịt trên mặt chiếu, hỏi me tôi:

- Con có phải ngủ không me?

Mọi người ồ lên cười. Me tôi cũng cười theo hể hả. Đối với bà, tôi chỉ là một dụng cụ để đo chiếu và dĩ nhiên một cái thước đo đâu có biết ngượng trước mặt phụ nữ.

Khi bàn đến cái chiếu dài quá khổ của tôi, ba tôi cũng hay nói:

- Cũng chỉ vì thủa bé, tôi chiều nó, cứ cho nó ăn chocolat hoài nên Lam mới chóng lớn thế?

Theo ba tôi kể lại, lần đầu tiên mua chocolat về, tôi không chịu ăn, nhè ra bảo là đất thó. Ba tôi cáu tát liền cho một cái, tôi òa khóc rồi mới chịu nuốt một miếng. Ít lâu sau ăn quen thấy ngon miệng, có hôm đi làm về, ba tôi quên mua chocolat, tôi khóc ầm lên và

cũng bị... tát liền mấy cái. Tôi im bặt, mặt ngẩn ra.

Khối óc non nớt của tôi làm sao hiểu nổi tại sao khi bị bắt buộc, không chịu ăn thời bị tát, lần khác cũng chỉ vì khóc đòi ăn nên cũng bị tát. Cuộc đời thật rắc rối!

Tôi rất thích tuyên truyền, cổ động cho thuyết “Trong bất cứ việc gì, ta cũng phải tỏ ra người lịch sự”.

Để nêu gương cụ thể, hôm nào gần cuối tháng tôi miệng ngậm píp, quần áo chỉnh tề, sau khi điều đình mãi mới được me tôi ưng thuận cấp cho ngân khoản 10$ để đi uống một ly cà fê crème ở Bonard, tôi lại còn xin thêm 2$. Hỏi để làm gì, tôi trả lời để cho pourboire. Hành động lịch sự tuy kỳ khôi đó của tôi bị cả nhà phản đối.

Tôi lại còn chỉ bảo cho Lan, Liên biết là các cô bao giờ cũng để các ông kéo ghế mời rồi mới ngồi. Lan, Liên áp dụng đúng lời tôi bảo, cho nên sau một thời kỳ dẫn Lan, Liên đi chơi, tôi đâm ra kéo ghế rất thiện nghệ. Tôi dạy Lan, Liên cách xử dụng phuốc xét và dao khi ăn cơm tây, nên Liên, Lan đã đòi dẫn đến mấy hiệu ăn bằng được để áp dụng những điều đã học. Tiếc rằng vì tài chánh eo hẹp nên mỗi tháng may ra chúng tôi chỉ có dịp lịch sự độ một lần là hết sức.

Trong gia đình tôi thường tự phụ là người giàu óc tưởng tượng nhất, nên trước khi làm việc gì dầu quan trọng hay nhỏ nhặt, mọi người đều hỏi ý kiến tôi. Sự hỏi ý kiến đó nhiều khi khiến tôi tự nhủ có lẻ đầu óc tôi nên rỗng tuếch không có ý kiến gì, thời đỡ thiệt hại cho tôi.

Me tôi hễ khi tính sổ xong, trầm ngâm một lúc đoạn hỏi tôi:

- Tháng này có lẽ phải tu tiên sớm lắm, Lam có ý kiến gì không?

Dĩ nhiên tôi chỉ có thể đưa ra ý kiến là vay thêm tiền. Ý kiến tuyệt hay! Nhưng ai sẽ đi vay? Cái con người đưa ra ý kiến đó chớ ai. Kết quả là bây giờ bao nhiêu bạn hữu của tôi đều thành chủ nợ của tôi hết.

Hơn nữa cũng vì mang tiếng là người có thẩm mỹ, nên có lần Liên chạy đến trước mặt tôi, mặc một chiếc áo trong nhà rất nổi. Cô nàng quay đi quay lại, kiễng chân, tì hai tay lên háng làm điệu và hỏi tôi:

- Anh Lam! Chiếc áo này Liên mới may trông được không?

- Được lắm! Có phải Liên cắt theo mẫu trong báo Marie Claire, anh chỉ cho Liên xem hôm qua phải không?

- Đúng! Anh tinh mắt lắm! Đây em trả lại anh 250$.

Tôi ngơ ngác, tuy nhiên vẫn cầm ngay lấy tiền.

- Sao lại trả lại? Tiền nào?

- À! Tiền Liên lấy.... ở ví anh ấy mà.

- Thôi chết! Tiền anh định để mua mấy quyển sách.

Tôi định mắng thời Liên đã chạy biến vào trong nhà khoe áo mới, để tôi đứng trơ với những ý kiến về thẩm mỹ rất tốn tiền của tôi.

Rất nhiều người cho tôi là kỳ quái; rất nhiều bà cho tôi là phần tử bất trị cần phải đề phòng; rất nhiều cô cho tôi là ăn chơi, cà lơ, nghệ sĩ lãng mạn không đúng chỗ. Đàn ông thì ác cảm với tôi vì họ đổ cho tôi một tội khá nặng lúc nào cũng nói cái giọng “trịch thượng anh cả” và cứ làm như mình cái gì cũng biết cái gì cũng đã hưởng và đã sống qua. Còn những anh chàng nào thất tình năm bảy lượt cũng ghét tôi thậm tệ, vì tôi hình như trơ trơ không hề biết mùi vị thất tình bao giờ.

Thật ra, ngoài đời thực tôi có được cái hân hạnh liệt vào hạng một hiện tượng kỳ khôi như trên hay không?

Nếu bạn chiều chiều hay đi dạo qua tiệm giải khát M.H. và thường thấy một anh chàng mặt sắt đen xì, mặc một chiếc quần nhung nâu mặc dầu trời nóng 30 độ, áo sơ mi cũng nâu bỏ ngoài quần, miệng ngậm một chiếc píp dài và chân mang một đôi dép bata; ngồi trầm ngâm nhìn thẳng trước mặt, chân tay bất động và độ năm phút mới phì ra một làn khói thuốc: “Ấy chính cái anh chàng đó là tôi vậy”.

Một hôm nghe lời đề nghị của một anh bạn họa sĩ vừa ở Pháp về, tôi khăng khăng bám lấy một ý kiến ngộ nghĩnh là hai thằng sẽ mặc áo len đen cổ lọ, đầu đội mũ nồi đen, chân đi dép, mang giá vẽ kê ở giữa vườn hoa Catinat vẽ chơi năm ba bức. Lan, Liên và mấy cô bạn của tôi kêu ầm lên là tôi ưa lập dị. Chỉ có me tôi là điềm đạm nói:

- Các cô đừng lo. Me biết trong túi Lam không có đủ tiền mua một quận len chứ đừng nói đến cả một cái áo len. Lập dị đâu phải dễ, cũng tốn tiền ra phết.

Tôi vội dở ví ra lục, đoạn cười trừ chịu lời nói của me tôi rất chí lý. Cái anh chàng làm ra bộ cái gì cũng biết là tôi, lại không biết nổi trong túi có bao nhiêu tiền.

Tôi cũng hay bị mọi người chế riễu về cái tật đãng trí. Dạo chơi phố với Lan, Liên hễ anh chàng nào mỉm cười với tôi là tôi vội trịnh trọng ngả đầu chào vì tôi đoán già đoán non là “Dĩ nhiên họ phải quen biết mình họ mói cười chào đón như thế chứ”.

Vì vậy mới xảy ra một trường hợp khá ngộ nghĩnh là có lần giữa phố Catinat, một anh chàng quần áo tề chỉnh thắt caravate đỏ, tiến đến trước mặt tôi, miện g nở một nụ cười hoa đại và trao cho tôi một tấm danh thiếp. Tưởng gặp người quen tôi vội đưa tay ra bắt, đoạn cũng rút trong ví ra một tấm danh thiếp, miệng mời:

- Chà! Lâu quá mới gặp anh!... À hôm nào mời anh đến chơi chúng tôi. Vẫn ở chỗ cũ ấy mà.

Chàng caravate đỏ vội đáp.

- Dạ tôi đâu dám!... Xin ông 30$ tiền.

Tôi dật mình tự hỏi không hiểu mình vay hắn bao giờ, nhưng vốn dĩ nhiên lịch sự tôi vội rút ví ra, miệng hỏi:

- Chết chửa xin lỗi. Tiền này là tiền...!

Liên nhắc khéo tôi:

- Tiền anh đặt trước để lấy ảnh!

Anh chàng chụp ảnh dạo nghiêng đầu, nói như máy:

- Vâng! Tiền lấy ảnh! Hiệu ảnh chúng tôi đã 20 năm kinh nghiệm trong nghề. Chụp không bao giờ hỏng. Nếu “hỏng” xin trả lại tiền.

Dọc đường Lan, Liên cười mãi vì vẻ bộ mặt trịnh trọng của tôi và “ông bạn chụp ảnh rong” khi hai người trao danh thiếp cho nhau. Tôi thở ra thoải mái, miệng lẩm bẩm:

- Cũng là may, anh cứ tưởng nợ hắn tiền!

Ngoài cái tật đãng trí ra, tôi cũng còn một vài tính xấu nho nhỏ, rất vô hại. Tỷ dụ như tôi mắc cái tật xấu là yêu quá nhiều thứ. Đại khái tôi yêu (theo thứ tự a, b, c...): ăn ngon, bơi lội, con gái đẹp, cà phê, hoa, hút thuốc (tùy theo túi tiền: thuốc pipe, thuốc lá Mỹ, thuốc lá Ta 4$ một gói), nhảy nhót, trẻ con, uống trà Tầu đặc, uống rượu, viết văn, vẽ tranh lập thể, trừu tượng và (... sống độc thân).

Xin nói ngay là tất cả mọi người trong gia đình tôi đều rất quan tâm đến sự sáng tác văn nghệ của tôi. Gần cuối tháng khi quỹ gần cạn, hơn nữa tất cả những nơi quen biết thân sơ bà có thể nghĩ ra được thời đều đã vay họ ít nhất một lần, me tôi ngọt ngào bảo tôi - lúc đó đang nằm khểnh trên giường, hút píp và xem truyện Tam quốc đăng trong báo N.L:

- Lam à! Để me bảo mua bia bánh ngọt và bia cho nhé!

Tôi để đầu píp hạ xuống một phân, nghi ngờ nhìn me tôi.

- Me “xuất vốn” chiều con vào cuối tháng có vẻ khả nghi lắm!

Me tôi ngây thơ nhắc tôi:

- Sao con bảo viết văn phải cần uống bia ăn của ngọt? Thôi con chịu khó viết nốt cái truyện “nghìn rưởi” con viết dở tuần trước đi.

Cái truyện ngắn me tôi nhắc tới thực ra không hề có cái tên kỳ khôi đó, “nghìn rưởi” chỉ là số tiền thù lao một anh chàng chủ bút hứa với tôi mà thôi.

Tôi ngẫm nghĩ một chút đoạn gật gù dơ một ngón tay lên:

- D’accord! Nhưng me chỉ được lấy 1000$, 500$ còn lại phần con để...

Lan, Liên ngồi học gần đấy reo lên:

- Hay quá! Để anh Lam thết bọn này chầu xi nê. “Cây nhân sinh” có con E li da bét Tai lo.

Du bỏ cả sách triết, sách luật, sán lại gần gãi tay nói:

- Me! Cho con vay 20$ mua thuốc lá... À quên! Mua cho anh Lam hút viết văn...

Sơn vội xung phong phóng xe đi mua bia và bánh cho tôi và cũng không quên mua cho hắn hai chai nước ngọt để chan cơm ăn.

Me tôi, Lan và Liên dọn dẹp một chỗ tươm tất để tôi... nằm viết. Các văn sĩ thực sự thường hay cầu kỳ về chỗ sáng tác của họ, người thì phải ngồi trước một chiếc bàn gỗ ván đẹp đẽ đối diện với một lư trầm, người thì phải đứng để viết như Hemingway chẳng hạn, kẻ thì ngồi xếp chân bằng tròn trên đỉnh núi cheo leo ngắm chim bay mây chạy mới tìm được tứ thơ. Riêng tôi thì chỉ là một văn sĩ tài tử nên cái lối viết cũng rất đại lãn: nằm xấp trên giường, chân gác lên một chiếc gối, tay tì lên một chiếc gối khác và trước mặt phải bày sẵn kẹo, bánh ngọt, bia, cà fê, thuốc lá, khoai rán để khích động nguồn cảm hứng của tôi.

Một điểm kỳ khôi khác là tôi không cần phải yên tĩnh mới suy nghĩ được. Tôi ưa viết trong bầu không khí ồn ào, lẫn lộn tiếng cười nói, tiếng me tôi lẩm bẩm tính tiền chợ, tiền nợ, tiếng sè sè của những khí cụ điện tử của Sơn, tiếng thái thịt băm chả của Lan, Liên và những càu nhàu trách mắng của ba tôi.

Chốc chốc tôi lại ngóc đầu lên hỏi; vì tôi rất dốt chính tả:

- Lan! Sống sượng viết thế nào? s hay x...

Hay là:

- Me! Khi trẻ con chết cứ thiếp đi hay là chân tay run lật bật lên như người lớn?

Rất quen với những câu chuyện bi thảm, trong đó ít nhất cũng có dăm ba người chết của tôi, me tôi hỏi:

- Bệnh gì mới được chứ?

- À!... Ngã từ trên gác xuống!

- Cái thằng này ác thật! Con không tìm được cách nào cho con nhân vật trong truyện chết nhẹ nhàng hơn à?

Du bác ngay ý kiến của me tôi:

- Mẹ để kệ anh ấy! chết chóng, viết chóng xong truyện. Chóng xong truyện chóng có tiền.

Những người trong gia đình hoặc bạn hữu nếu tò mò hỏi tại sao trong sáu, bảy truyện ngắn mới đây của tôi truyện nào cũng có một nhân vật chết khổ chết sở hoặc chết vì tình, vì chơi bời quá độ, vì tai nạn v.v... tôi trả lời không ngần ngừ đó là tất cả bí quyết viết văn của tôi.

Tôi giảng giải, dùng ngay một tỷ dụ cụ thể:

- Ví dụ anh viết về một câu chuyện tình giữa Liên và Văn. Hai người yêu nhau tha thiết! Ừ rồi sao nữa? Rồi hai cô cậu lấy nhau. Đẻ con đầu, cãi nhau một trận, giảng hòa rồi đẻ đứa thứ hai, rồi cãi nhau nữa, rồi giảng hòa....

Truyện viết như thế đâu là hào hứng? Ai có can đảm theo rõi những ủng oẳng giữa hai nhân vật?

Giờ cứ ví dụ Liên mắc một căn bệnh bí mật, chết dần chết mòn. Bệnh lao chẳng hạn! Bệnh lao khiến các cô má hồng, nồng nàn thêm. Liên biết mình sắp chết nên không giữ gìn, phung phí tình yêu, yêu liền ba ông. Văn buồn bã uống rượu chơi bời lu bù và gặp một người tình cũ, thương hại chắp lại duyên xưa và bỏ rơi con người ta. Cô ta thất vọng giết đứa con trong bụng rồi...

Liên, Lan nghe tôi kể đến đây bắt đầu cảm động thực sự và nhất định bắt tôi cho biết đoạn kết của câu truyện. Tôi trợn mắt lắc đầu:

- Không có được! Đoạn kết rùng rợn lắm! Nghe rồi đêm các cô ngủ mê hoảng ấy à!

- Anh cứ kể nốt đi!

- Đoạn kết: Liên chết sau một cơn rũ rượi. Cô tình nhân của Văn hối hận, nhớ con tự tử. Văn củng hối hận và vì uống quá nhiều rượu phát điên và chết trong nhà thương...

Tôi rất ngạc nhiên vì không ngờ đoạn kết chết chóc của câu chuyện tôi vừa kể lại khiến Lan, Liên rất hài lòng. Đàn bà thật kỳ! Họ luôn luôn đòi biết cho được đoạn kết của bất cứ sự việc gì trên đời. Đi xem xi nê nhất định đòi cho bằng được tờ programme xem cuối phim nhân vật chính có chết hay không; xem truyện thì lật vội đến trang cuối cùng đọc mấy hàng kết cục rồi mới hể hả quay lại đọc từ đầu truyện; hoặc nếu có ai kể cho nghe câu truyện yêu đương tha thiết giữa một cập trai gái, các cô vội hỏi “Thế sau cùng họ có lấy được nhau không?”. Sau khi được biết họ quả thật lấy được nhau và hiện giờ có sơ sơ tám đứa con, hai vợ chồng cãi nhau, đánh nhau suốt ngày và ghét nhau như chó với mèo, các cô chỉ phê bình gọn lỏn một câu “Cần gì! Miễn là họ lấy được nhau là được rồi”. Nếu cái ông Shakespeare nào đó còn sống, dám chắc sẽ nhận được một bức thư của Lan, Liên yêu cầu viết lại cuốn Roméo và Juliette cách nào để hai nhân vật chính phải lấy nhau và sung sướng bên cạnh một đàn con cho nó có hậu.

Khi viết có lẻ tôi không để ý và ý thức được những cử chỉ hành động khùng khùng của tôi, nhưng theo người ngoại cuộc tôi rất kỳ khôi. Đương lúi húi viết thì nhỏm dậy lại gần me tôi nói chuyện lăng quăng hỏi ngày mai ăn món gì. Khen me tôi khâu nhanh và khéo; rồi tự nhiên thừ người mắt lờ đờ nhìn thẳng vào mặt me tôi rất lâu. Bà ngạc nhiên bất giác sờ tay lên má hỏi:

- Sao Lam nhìn me chăm chú thế? mặt me nhọ à?

Tôi vẫn nhìn, mặt ngây ra như chú tàu nghe kèn, me tôi khoa khoa tay trước mặt tôi, giọng lo ngại:

- Lam! Con làm sao vậy?

Tôi không đáp, bỗng nhiên đứng dậy reo lên khoái trí:

- Cho chết!... Đáng kiếp! Ngu như thế chết là phải...

Đoạn tôi quay vào giường hăm hở viết. Sau khi đã giết chết nhân vật chính của mình không chùng tay, nhà văn khát máu là tôi vác bản thảo đến đọc cho me tôi nghe, mặc dầu bà đương bận dặn Liên và người làm về những món cần mua trong buổi chợ hôm sau.

Tôi cất giọng trầm bổng đọc đoạn văn vừa sáng tác. Me tôi gật gù tán thưởng. Tự nhiên thấy me tôi lắc đầu, tôi vội ngừng đọc hỏi:

- Sao me lấc đầu? Đoạn này dở à?

- Không! Hay lắm con cứ đọc tiếp đi. Me lắc đầu vì Liên hỏi mai mua gà không đây chứ!

Tôi đọc tiếp giọng say mê hơn. Cuối cùng đọc xong tôi hỏi:

- Me nghĩ thế nào?

Me tôi buột miệng nói “Ngon tuyệt con ạ!” khiến Lan, Liên, Du phì cười. Lan bảo:

- Tội anh Lam quá! Me lại tưởng anh Lam hỏi món cá rấm ngày mai có ngon không, chứ

có biết đâu anh yêu cầu me cho biết ý kiến về văn anh.

Tôi ngán ngẩm dơ hai tay lên trời, lủi thủi trở về giường miệng lẩm bẩm:

- Đời không ai hiểu ta! Người không hiểu ta...

Ấy thế nhưng khi tôi giang tay xé đánh soạt mấy tờ bản thảo, Lan, Liên rú lên, Du giật mình và me tôi suýt soa:

- Sao con lại xé truyện vừa viết. Thế là mất toi nghìn bạc...

- Truyện dở không xé để làm gì. Đọc cho me nghe tác dụng không bằng một bát canh cá dấm...

Để tự an ủi, tôi nằm vắt tay lên trán, buồn rầu ăn hết bốn cái bánh ngọt và uống hết cả một chai bia lớn. Lấy cớ giải trí cho đầu óc thoải mái, để sáng tác; tôi vớ lấy quyển Tintin đọc và cười một mình. Đọc một lúc mỏi mắt, ăn nhiều bánh kẹo mỏi cả răng, tôi úp cuốn sách lên bụng dặn cả nhà:

- Ê cả nhà! Đừng có ai hỏi han chuyện gì đấy! Để anh nằm tập trung tư tưởng...

Tập trung tư tưởng quả thật là một công tác mệt nhọc, nên chỉ mười lăm phút sau tôi thiếp đi ngủ ngon lành giữa những tập bản thảo vứt ngổn ngang.

Nửa đêm đang khi cả gia đình ngủ say sưa, tôi chắc vì ăn nhiều thứ khó tiêu, nằm mê hoảng ú ớ kêu và rối rít gọi me tôi. Bà vội đến bên giường lay tôi đánh thức và hỏi tôi mê thấy gì.

- Chà! Giấc mê sợ quá. Con bị hai người bóp cổ. Bây giờ mới biết người ta chết ra sao.

Sau đó tôi ngồi bó gối trên giường, không dám ngủ lại và dưới ảnh hưởng của những xúc động mạnh, tôi lấy bản thảo ra lúi húi viết. Mấy hôm sau khi truyện ngắn của tôi đã đăng báo và tôi trao 1000$ cho me tôi; bà hể hả bảo Liên, Lan:

- Giá anh chúng mày mỗi đêm mơ hoảng một lần, chẳng bao lâu me có khối tiền.

Trên đây là vài chi tiết nên thơ và dĩ vãng, liên quan đến sự ham thích viết lách lăng nhăng của tôi và cái mũi đỏ của bác Ba. Hiện giờ mũi bác vẫn đỏ không kém xưa và sự ham thích cũng vẫn còn. Nhưng hễ tôi đá động đến chuyện làm văn, làm báo me tôi không phản đối trực tiếp, bà chỉ nhận xét một câu là theo số tử vi, tôi có tướng làm quan võ và sẽ lấy ít nhất ba vợ. Biết me tôi rất tin ở tử vi nên tôi cười không cãi, nhưng không ai xa lạ gì với nhược điểm là “sợ tốn” trong tất cả mọi việc của me tôi, tôi chỉ đáp:

- Lấy một vợ đã tốn khối của. Làm sao me có tiền lấy cho con những ba lần vợ.

Câu nói của tôi khiến bà suy nghĩ băn khoăn mấy ngày. Nếu quả thật tôi sẽ lấy ba vợ thời cái đúng cái hay của số tử vi không phù hợp chút nào với nguyên tắc tiết kiệm của me tôi. Bà mang lá số tử vi của tôi đến nhờ ông thầy tướng coi lại, khi về nhà bà hể hả bảo tôi:

- Không lo! Theo tử vi me chỉ phải lo cưới cho Lam người vợ đầu mà thôi. Hai vợ sau Lam tự lo liệu lấy được.

Cũng may tôi không tin ở tử vi, nếu không cứ lo cưới (dù chỉ có hai vợ) cũng tổn hại sức khỏe không phải là ít.

Vì me tôi còn nhớ nhiều kỷ niệm xưa vừa ngộ nghĩnh vừa đầy màu sắc về đời sống ngày xưa, nên tôi hay xúi me tôi viết hồi ký, chắc xuất bản bán rất chạy. Đề nghị nghe có vẻ bùi tai, nên me tôi hy sinh xé mấy tời giấy của quyển sổ chợ, lúi húi viết. Liên, Lan bảo nhau bắt mọi người giữ thật im lặng để khỏi khuấy đục nguồn yên sĩ phi lý thuần, chắc rất to lớn và phong phú của bà. Thấy me tôi viết lia lịa, chốc chốc lại gạch gạch xóa xóa, chúng tôi chắc mẩm xe đọc được những đoạn văn rất xúc tích, nhưng bổng nhiên đương viết me tôi ngừng bút, ngẩn mắt ra ngầm nghĩ rất lung, đoạn cất tiếng hỏi:

- Lan à! Hôm qua me trả bà hàng gạo bao nhiêu ấy nhỉ?

Chúng tôi ngã ngửa người ra vì ngạc nhiên, đoạn cười ầm lên. Me tôi ngơ ngác:

- Sao các con lại cười?

- Chúng tôi kéo nhau đến cạnh me tôi xem công trình sáng tác văn nghệ của bà, thì thấy trên đầu trang giấy một hàng chữ viết to bằng quả trứng “Hồi xưa khi còn con gái tôi sống trong gia đình có bảy người: anh cả, anh ba, anh tư, tôi và chú bảy. Chúng tôi...” Nguồn hứng của me tôi chỉ có chảy đến đấy, dưới đáy trang giấy chi chít những con số và những câu ghi chú chẳng liên quan chút nào đến văn nghệ: trứng một chục 20$, Lam xin tiền xi nê 30$, nước mắm 3 chai, gạo 1 tạ 670$.... v.v...

Chúng tôi bảo nhau văn me tôi có đủ mọi hương vị, nào đậm đà (có chất gạo), mùi vị

nước mắm và lại còn bổ béo (trứng). Thật đúng câu “Văn là người”.

Mỗi khi trời mưa vào những buổi tối, chúng tôi hay hội họp “trà đạo, bánh ngọt”, và lại bắt me tôi kể chuyện kỷ niệm ngày xưa. Tiện đây cũng xin nhắc bộ đồ trà của me tôi có một không hai trong lịch sử trà đạo, vì gồm có ba chiếc chén hạt mít, một ấm chuyên sứt vòi, hai chiếc cốc hạng nhỡ (dành cho Tuyết, Liễu), một chiếc cốc to đại (dành to Sơn), một chiếc mâm bằng đồng thay cho khay trà và ba thứ trà khác nhau: Trà tầu do Tầu làm ở bên Tầu (chỉ ba me tôi, và Du được thưởng thức), trà tầu do Tầu làm ở bên ta (Lan, Liên uống) và trà tầu ta làm ở bên ta (Sơn, Tuyết, Liễu uống).

Chúng tôi nói chuyện lan man. Có khi chỉ vì Liên kêu trời lạnh, thế là chúng tôi bàn đến cái lạnh ở ngoài Bắc, những mùa Đông cũ, Tết ngồi quanh nồi bánh trưng ở trại bà ngoại, câu chuyện tình duyên giữa ba và me tôi.

Có lần me tôi lục trong hòm ra một lô quần áo cũ, phần lớn là áo rét, mà khi tản cư vào đây me tôi vẫn chịu khó mang theo. Cả nhà xúm lại tò mò ngắm nghía, sờ mó trịnh

trọng như đang chiêm ngưỡng những đồ quý bày trong viện bảo tàng.

Tiếng Du hỏi:

- Ô! Cái quần chi mà kỳ! Bé tý mà lại thủng một lỗ đằng sau. Quần ai đấy me?

- Của Du chứ ai.

Du đang ngơ ngác Lan đã chê luôn một câu:

- Ê! Mọi người xem từ thuả bé anh Du đã có tật ngồi bệt xuống đất lê la, nên quần mới thủng đằng sau thế kia chứ!

Ba tôi mắng:

- Im nào! Con gái ăn nói phải giữ gìn ý tứ.

Lan cãi nho nhỏ:

- Ba vô lý quá! Con có giữ ý tứ đi chăng nữa anh Du vẫn có thời kỳ mặc quần hở đít kia mà. Phải không anh?

Liên dơ lên một chiếc manteau mầu đỏ chói, kiểu cổ và rộng ghê gớm:

- Me à! Cái chăn gì mà to thế này?

- Đâu phải chăn! Ao của me đấy!

Lan, Liên cười ầm lên, rồi cả hai chui vào cái áo của me tôi, mỗi đứa khoác một bên áo xỏ một bên tay và đi đi lại lại trong nhà hát “Mình ơi có đi bờ hồ! Cùng nhau ăn kem kẹo dừa. Chúng mình là mình sung sướng”.

Ba tôi mơ màng nhìn theo tủm tỉm cười qua cặp kính lão. Chắc ông nhớ lại thuở xưa, hồi me tôi đẹp như Thúy Vân, khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Me tôi hạ cặp kính xuống lau lau, mắt chớp chớp có vẻ cảm động, nhìn ba tôi một cái rất nhanh.

- Hồi đó tôi chọn màu này ông càu nhàu mãi. Ấy chính ông mua tặng tôi đấy...

Bọn chúng tôi dỏng cả tai lên nghe, chắc mẩm ông cụ, bà cụ sẽ thuật lại một “xen” rất lãng mạn của những kẻ yêu nhau kiểu năm 1930. Chúng tôi khó lòng tưởng tượng ngày xưa có hồi ba me chúng tôi cũng yêu nhau, cãi nhau, giận dỗi giống bọn trẻ thời nay. Lan, Liên dục:

- Me kể tiếp đi chứ! Ba có khi mua đồ tặng me không? Khi tặng ba nói những gì?

- Dạo đó đi ngoài phố ba me khoác tay nhau, hay ba đi trước ba bước, me đi sau, còn chúng con đi sau rốt...

Ba tôi trừng mắt gắt:

- Hỗn nào! Chuyện người lởn chúng mày biết gì mà nói leo.

Lan, Liên rúc rích cười bảo nhau:

- Đúng rồi, suya là ba me có khoác tay nhau, nên ba ngượng mắng lấp chúng mình đi đấy!

Từ dạo chúng tôi lớn lên, không mấy khi ba me tôi đi đâu cũng một lượt. Vì vậy hễ khi bắt buộc phải dự một đám cưới, đám giỗ ba mẹ tôi phải đi cùng, chúng tôi ào ào kéo ra cửa, xem một hiện tượng kỳ lạ, bàn tán sôn sao. Thường thường ông cụ bà cụ đi cách xa nhau hai ba thước là ít, không ai nhìn ai và cũng chẳng chuyện trò. Chúng tôi còn đố nhau, ba có mở xe tắc xi cho me hay không. Chúng tôi ngạc nhiên - nhất là Lan, Liên - khi thấy me tôi trái lại mở cửa xe để ông cụ lên trước. Nịnh đầm kiểu ngày xưa cũng có khác bây giờ.

Tôi ngồi uống trà đặc, ngậm píp hút phì phào và mơ màng ngắm khuôn mặt hai người sinh ra tôi: những vết răn khá nhiều dưới làn tóc điểm bạc của ba tôi; khuôn mặt tuy tròn trĩnh đầy đặn trẻ hơn tuổi, nhưng chiếc cầm thứ ba đã thấy thấp thoáng ẩn hiện trên chiếc cổ cao ba ngấn của me tôi. Một cảm giác ghen tị ló hiện đâu đây trong tâm hồn tôi. Tôi muốn có một cặp mắt của ba me để có thể nhìn thấy một dĩ vãng xa xôi và hồi tưởng lại khá rõ rệt đời sống cách đây mấy chục năm: nói tóm lại tất cả những cái gì êm đẹp của một thời xa xôi mà tôi không hề dự phần...

Duy Lam

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mưu Gia Cát

Mưu Gia Cát Thầy thằng Vi với thầy thằng Hoa hồi nhỏ cùng học với nhau một trường, nhớn lên, hai người cùng đỗ một năm, và bây giờ thì cùn...