Tiếng hú ban đêm 2
Trại Bồ Tùng Linh (III)
Bao ý nghĩ vừa rồi về những việc đã qua, vẫn còn xao xuyến
sôi nổi trong trí Tuấn. Tinh thần kích thích như dây đàn căng vừa ngắt tiếng
sau một khúc, vang âm còn rung động giữa lúc yên lặng đêm khuya. Trên mặt bàn,
ngay dưới tay Tuấn, tập thư vừa viết còn ghi nguyên tang chứng của “sự thực”.
Cái bút đặt bên lọ mực, mấy quyển sách gáy in chữ vàng lấp lánh bên chân đèn.
Tuấn nhớ rõ những hình ảnh hiện thực đó. Ánh đèn chiếu xuống không đổi sắc. Tuấn
nghe thấy tiếng bấc cháy. Đồng hồ nhỏ lách tách những nhịp vội vã và đều đặn.
Giun dế quanh nhà vẫn lích chích kêu như cũ và từ xa lắm, tiêng chó sủa đáp lại
nhau qua mấy cánh đồng...
Tuấn để tai nghe tất cả một lượt rất nhanh. Anh kiểm điểm lại
động tĩnh bấy giờ trong lúc nhìn cái bóng đàn bà ngồi kia, trong nhà anh, và ở
đó như đã từ lúc nào rồi.
Sự kỳ quái của giấc mơ ấy lại là sự thực nhỡn tiền.
Mắt Tuấn nhìn người đàn bà đẹp từ đầu đến chân, nhận thấy từng
dáng ngồi, đường thân, màu tóc, nếp áo. Bàn tay “nàng ta” trắng nuột, nhỏ và dẻo
một cách lạ, đang nhẹ nhàng cầm giữ ở đầu ngón một lá cỏ dài và mập như một chiếc
lá lan. Nước da trên mặt, cũng trắng nuột - một màu trắng đẹp tưởng chưa từng
thấy bao giờ. Khuôn mặt thanh tú giữ những đường cong nét uốn hòa đối và mỹ lệ
lạ thường. Tất cả người “nàng ta” đều có một vẻ đẹp khác thường, một vẻ đẹp quá
chừng như không thể nào có được. Tuấn thấy rợn khắp mình. Một cảm tưởng lạnh
mát lại gờn gợn chạy lan cả tâm hồn một cách rất nhẹ, rất chậm. Chưa bao giờ Tuấn
nhìn một người đàn bà rõ ràng như thế và lâu đến thế. Mắt anh không thể nào rời
khỏi được. Anh gần như không có quan niệm về thì giờ nữa. Sự kinh ngạc giữ anh
mãi trong cái phút vô cùng đó và anh tưởng chừng sẽ đứng như thế mãi, nhìn như
thế mãi, và người đàn bà đẹp cũng sẽ ngồi đó mãi, cũng như vẫn ở đó đã từ bao
giờ.
Nàng ta không hề ngượng, rất tự nhiên - có lẽ rất thản nhiên
trước vẻ sững sờ của Tuấn. Điệu ngồi lặng lẽ như người đang suy nghĩ. Tuấn như ở
đâu chợt tới, và thấy người ta không để ý đến hay không biết đến mình.
Người bối rối nhất không phải là người khách dị thường kia.
Tuấn lại thấy ở mình có một vẻ bỡ ngỡ như chính mình không phải là chủ nhân. Sự
yên lặng vẫn ở nguyên, dai dẳng, bướng bỉnh và hết sức khó chịu.
Tuấn không thể tìm được cách nào để xử trí. Anh đần người ra
và như có một sức ám ảnh gì giữ lấy sự lanh lẹ. Tuấn muốn đằng hắng lên. Anh
kéo chân về định cho tiếng dép xiết trên nền gạch. Hay vò một tờ giấy? Hay đánh
rơi một vật gì rồi cúi xuống nhặt? Tuấn nghĩ đến các việc đó, nhưng anh vẫn đứng
im.
Tuấn thầm bực tức cho cái vô lý của mình. Sao mình lại rụt rè
thế? Sao lại có cái ý tưởng kỳ dị là cứ phải đứng lặng đó? Sao lại có sự ước
mong hồ đồ rằng cái người kia sẽ thôi ở đây, sẽ biến đi?
Dù sao (Tuấn nghĩ thầm) ta cũng cứ nói lên một câu xem nào?
*
Sự kinh dị đầu tiên đã lui dần. Tuấn bắt đầu tìm một lời nào,
một cử chỉ nào, để đối phó. Tuấn sửa soạn như sắp làm một việc quan trọng và
khó nhọc. Anh lựa đường lối để tiến một bước hành động. Câu hỏi đã thầm quát
lên trong trí, thầm nhắc lại vài ba lần và chỉ chực lên tiếng. Tuấn nuốt nước bọt
mới nhận thấy cổ họng mình khô.
- Tôi muốn hỏi... cô...
Lời nói vang ầm lên trong sự im lìm bị hoảng loạn.
Tuấn ngừng lại thấy trơ trẽn quá, sượng sùng quá. “Trời ơi!
Sao lại thế! Sao lại thế mới được chứ!” Tuấn nhất định hỏi nữa, rồi muốn ra sao
thì ra.
Nhưng rất dịu dàng, người đàn bà đẹp ngẩng nhìn, miệng ngậm một
nụ cười kín đáo, nhã nhặn. Tuấn nhìn thấy một cảm giác rất dị thường cùng một
lúc đôi mắt kia soi vào mắt mình - đôi mắt đen, sáng và lóng lánh những tia lửa
lạnh.
Anh nghe thấy một câu nói nhẹ, giọng thanh và như đưa lại từ
đâu xa:
- Thưa anh, anh hỏi gì em? Mà anh hỏi em để làm gì?
Câu đáp bất ngờ giọng thân mật càng làm cho Tuấn ngạc nhiên.
Nhưng anh đã thấy nhẹ mình.
Một chút rùng rợn êm ái dội qua tâm hồn một luồng khác lạ. Tuấn
đáp lại và nghe lời nói của mình như trong mơ hồ.
- Tôi muốn... tôi... tôi chưa được cái hân hạnh gặp cô...
quen biết cô...
Người ngồi đó đưa mắt nhìn vu vơ, miệng cười hé mở; đôi mày
nhẹ nâng cao trên vừng trán xinh nhỏ và cả người đủng đỉnh một vẻ đỏm dáng lững
lờ. Câu trả lời cũng giấu giọng lả lơi đùa cợt:
- Anh không quen biết em, nhưng em quen biết anh, thế là cũng
đủ.
Nàng tiếp luôn:
- Vả lại sự quen biết không cần cho sự yêu mến lắm. Anh trông
thấy em, em trông thấy anh lần đầu tiên, thế là ta có thể thành đôi bạn thân
yêu được rồi.
Tuấn không nhận thấy điều gì quá dị thường trong câu nói tuy
có hơi kiểu cách. Anh đã tìm lại được can đảm. Anh lại thấy câu chuyện tuy vẫn
lạ lùng nhưng không thiếu phần ngộ nghĩnh, dễ ưa. Những tiếng “anh” đột nhiên gửi
cho mình và những tiếng “em” ngọt ngào người ta nhận lấy, nói lên tự cái miệng
tuyệt mỹ kia, hứa một sự giao thiệp có thể trở nên rất êm đềm. Tuấn gần như được
hưởng cái thú ghê rợn rất phức tạp. Anh sẵn sàng để cho tâm trí chiều theo những
đường lối một câu chuyện anh chưa biết rồi sẽ dẫn tới đâu. Từ trước đến bây giờ
anh chỉ toàn thấy hết cái ngạc nhiên này đến cái ngạc nhiên khác.
- Ta cứ nhắm mắt lại để cho “nàng ta” dẫn đi cũng được.
Ý nghĩ ấy khiến anh chợt tưởng tượng đến một sự không thể nào
làm ngơ được. Tuấn nhìn soi mói người khách lạ của mình.
Anh nhận thấy vẻ kiều lệ rõ ràng hơn: bực nhan sắc anh đang
tiếp trong một trường hợp khác thường kia có một giá cao quý tuyệt phẩm. Tuấn
bâng khuâng như trong một xứ kỳ ảo, lòng mênh mang thấm nhuần hạnh phúc và lo
ngại như chiếm giữ châu ngọc...
*
Người đẹp đang nhìn anh, miệng tươi, vẻ ân ái và mắt đắm đuối.
Nàng ta thong thả đứng lên, thong thả đến gần Tuấn, bước nhẹ
và nhịp nhàng, người uyển chuyển trong màu áo dịu mềm và tỏa ra một làn hương
mong manh của phấn son hay của da thịt.
Nàng đặt một tay lên vai Tuấn, cười một tiếng khẽ và ấm như
hơi thở. Lần thứ nhất - Tuấn gợn người từ gót chân tới chân tóc - Tuấn chạm tới
bàn tay mỹ nhân. Tuấn thấy tay mình đã nắm những ngón tay nhỏ, mát trong làn da
nhung dịu như cánh hồng non. Một cánh tay anh đã quàng ở ngang tấm lưng thon và
gọn. Anh được thấy bên người anh cả một sự xúc động âu yếm của tấm thân giai
nhân hiện thực: một giai nhân “đúc bằng xương bằng thịt” có quả tim hồi hộp và
có những huyết mạch nồng nàn.
Tuấn không cần biết tại sao người ấy lại ở trong tay anh, anh
sẵn lòng quên hết các trường hợp ly kỳ. Quả vườn cấm đưa đến tận mình - cần gì
biết do đường lối nào? - Anh cứ vui lòng hưởng.
Tuấn dìu nàng đến ngồi chung một ghế. Nàng ngoan ngoãn, và
sung sướng vâng theo, dáng điệu thân mật như đã quen biết nhau lâu ngày.
Tuấn đã “cảm thấy” sự rạo rực rung động trong thân thể người
thiếu nữ truyền đến cánh tay mình. Phảng phất một áng hương nhẹ lại thoáng qua,
anh nhíu mắt lại nghĩ đến một ý nhỏ nhắn. Anh chợt hỏi, giọng vô tình hoa mỹ và
lời như đã chọn sẵn - và cả tâm hồn lúc đó như ngan ngát trong một khí vị văn
chương:
- Em là ai, em ở đâu đến đây mà lạ lùng, mà bí mật như một
người trong giấc mơ thế?
Nàng ta đáp ngay:
- Có lẽ em là người trong mộng của anh đấy, người trong mộng
biến thành người thực, thành sự thực đến với anh đấy.
Tuấn mỉm cười:
- Anh không ngờ lại gặp một sự thực huyền hồ, một sự thực...
mơ mộng đến như thế này...
Rồi giọng chân thực hơn, Tuấn nói:
- Nhưng không thể... vì không nhẽ chúng ta cứ như thế này
mãi. Gặp nhau, mến nhau, thân cận nhau ngay từ lúc đầu, được lắm; nhưng anh muốn
biết... anh muốn em nói cho anh biết rõ hơn kia.
- Biết rõ mà làm gì? Mà anh muốn biết rõ những gì? Anh biết
là em yêu anh, em tìm đến với anh, thế không đủ sao?... Còn ngoài kia, có quan
hệ gì?
Câu chuyện theo giọng ấy kéo dài thêm, Tuấn gạn gùng thì người
thiếu nữ chỉ cười, hoặc thoái thác khéo. Sự cố ý giấu diếm đó, càng khêu gợi
thêm cho Tuấn muốn thấu hiểu tường tận hơn.
Anh tìm được một cách ví von khôn khéo để làm cớ cho câu hỏi:
- Nhan sắc như bông hoa quý, anh không thể đành lòng không biết
tên thứ hoa mà anh khen ngợi được. Không, hình ảnh chỉ để cho trí nhớ thôi; anh
muốn lòng anh được gọi đến tên em, nhắc đến tâm tình em... anh muốn được tưởng
thấy cả cái vườn tiên mà em đã tạm bỏ để đến đây thăm anh...
Tuấn mỉm cười, nhưng nói bằng giọng hết sức chân thực. Những
câu hoa mỹ viển vông đó hình như cũng làm xiêu được lòng giai nhân. Nàng ta
nhìn Tuấn rồi lại nhìn vẩn vơ và đủng đỉnh nói:
- Em thì em nghĩ rằng anh không biết có lẽ hơn... Nhưng nếu
anh nhất quyết thì vâng, em cũng xin thú thực, không dám giấu nữa...
Tuấn vui vẻ:
- Thế thì em ngoan quá... Em nói đi... Em nói cho anh biết
tên em đã này...
Nàng ta thoáng có vẻ buồn rầu, nhưng miệng tươi cười ngay:
- Tên em ư? Anh thử đoán xem.
Tuấn nhíu mày nghĩ, rồi lắc đầu. Nàng ta nhắc:
- Tên em là tên một thứ hoa!
- Lan? Cúc? Huệ? Liên?...
Nàng ta lắc đầu:
- Không...
Và lại nói:
- Không, Lan Hương, Hoàng Lan Hương.
Tuấn cười:
- Có lẽ chính em là hoa hoàng lan đấy.
Nàng ta khẽ thở dài:
- Có lẽ.
Tuấn hơi ngạc nhiên. Anh hỏi cho có chuyện:
- Hoa Hoàng Lan à? Hoàng Lan thì tất ở trại... Hẳn em cũng có
cái trại hoa nào gần đây?
- Không, nhà em ở trên một hồ nước, bên một hàng liễu xanh tốt
và một khóm trúc vàng. Anh không thể tìm được đâu, trừ khi nào em dẫn anh đến...
Nàng lả một bên đầu xuống gần vai Tuấn, hai giọt lệ đọng nơi
khóe mắt. Tuấn không dưng cũng cảm thấy lòng buồn buồn. Anh mơ hồ tưởng đến một
điều vẫn từng động tới cảm tình văn chương của mình và thoáng thấy trong một
giây rất chóng biến, hình như hiện đang nhắc lại một cảnh đã sống ở một cuộc đời
tiền thân nào đã qua.
Tuấn vội xua đuổi ý nghĩ đó và ôm lấy Lan Hương:
- Hoàng Lan Hương, cái tên em mới thơm tho làm sao? Nhưng sao
vừa rồi em nói là anh không thể tìm được nhà em?
- Vì anh không tài nào tìm được nếu không có em dẫn đường.
Tuấn hỏi một câu rất vô tâm:
- Thế liệu em có dẫn anh tới không?
- Điều đó có thể có, mà cũng có thể không được... Vì đó là
còn nhờ ở tình anh, và cũng ở cả duyên em...
Nàng thở dài khi dứt câu nói.
Tuấn không hiểu tại sao Lan Hương lại buồn. Nhưng anh cũng lựa
lời dỗ dành, và chăm chút vuốt ve nàng. Bỗng nhiên Lan Hương lắc đầu, thong thả
đứng dậy, thong thả bước ra phía cửa.
Tuấn hoảng hốt:
- Em đi đâu bây giờ?
- Em xin phép anh em về.
- Kìa, Lan Hương, sao em lại về ngay không ở chơi nói chuyện
với anh lát nữa?
Nàng ta ngoảnh lại:
- Có lẽ đêm mai... em sẽ lại. Từ nay trở đi em không phải ở
ngoài nữa, có lẽ đêm đêm em sẽ lại thăm anh... Bây giờ thì xin tạm biệt anh...
Nhưng xin anh đừng tìm em đấy.
Nàng đã mở cửa ra.
Tuấn sững sờ nhìn trân trân ra cánh cửa vừa khép, hối hận và
thương tiếc... Chợt anh lạnh hẳn người đi, vấp phải một ý quái gở:
- Có lẽ... Phải, có lẽ đây cũng là...
Tuấn lấy đèn bấm, chạy ra ngoài sục tìm, và biết trước là vô
ích.
Anh trở vào ngồi thở dài một tiếng làm động mép tờ giấy trên
bàn.
Trại Bồ Tùng Linh (IV)
Bức thư viết cho bạn, Tuấn định sẽ không gửi đi. Anh chỉ thuật
lại vắn tắt trên một bức khác để Bình biết đại khái câu chuyện, còn nguyên bản
anh giữ lại để lúc nào cũng có sẵn trước mặt những “dấu tích thực tại” của những
việc có đủ các vẻ huyền hồ.
Tuấn ngồi lặng trước bàn giấy đến ngót nửa giờ sau khi nàng
ta không còn ở đó. Anh kéo tập thư lại, lấy bút định ghi chép theo cuộc gặp gỡ
sau cùng. Anh sẽ chép lại các cử chỉ, các lời nói và tất cả cảm giác, ý nghĩ của
mình, thành thực và rõ ràng như viết những trang nhật ký. Công việc đó thực
quan trọng đối với Tuấn. Sự tưởng nhớ của ký ức chưa đủ: anh phải có tang chứng
của những nét chữ kia để có thể tin rằng những việc xảy ra, quả nhiên đã xảy ra
thực. Tuấn vẫn chực cho rằng có lẽ mình mơ.
- Một giấc mơ? Ồ! Có lý nào!
Nhưng Tuấn phải thừa nhận là một “sự thực” kỳ quái hết sức.
Người giai nhân biến đi như một cái hình bóng; Tuấn lại đã chạy
ra sục tìm và cũng lại mất công như những lần hiện ra trước.
Trong đêm, Trại Bồ càng rộng um tùm, nhiều bụm cây lớn lạ
lùng và nhiều lối khuất khúc hiện lên một phần trong ánh điện soi mói. Tuấn muốn
nghĩ rằng nàng ta có thể lẩn trốn đâu đây, nhưng trong lòng anh vẫn không chịu
tin.
“Lẩn trốn làm gì? Mà nếu biến đi được thì chẳng hóa ra...”
Cái nhân vật quái lạ ấy thực đã có lần Tuấn ôm giữ trong tay
kia mà! Tuấn càng nghĩ càng bối rối trong lúc trí anh, lòng anh và các giác
quan anh còn rung động một thứ tình cảm ly kỳ và thơm dịu... Màu đen sáng của
đôi mắt nhìn. Miệng cười son thắm. Cái thân hình óng muốt lả lướt, ân ái. Tất cả
cử chỉ tin cẩn, vâng chịu của người đàn bà trong cái khoảnh khắc gần gũi... Tuấn
nhắm mắt lại và lần nào cũng như còn ngửi thấy mùi hương phảng phất ở cạnh
mình. Bên vai anh còn thấy nặng êm đềm dưới một đầu tóc đã ngả lên. Trong cánh
tay anh đã ẩn náu hình vóc nồng nàn của một tấm lưng thon. Bàn tay anh còn mát
rượi cái kỷ niệm một bàn tay nhỏ muốt anh đã nắm giữ.
Tuấn vân vê quản bút trước khi viết những hàng tiếp theo.
*
Suốt ngày với ánh sáng mặt trời khiến cho tâm trí minh mẫn,
song không làm bớt một chút nào cái vẻ nửa hư nửa thực của việc xảy ra trong
đêm. Tuấn tha thẩn hàng giờ trên các đường lối trong Trại Bồ. Nhìn lại từng bụi
cây, từng góc vườn và thuộc hết những chỗ có lẽ không bao giờ Tuấn để ý tới. Tuấn
mong thấy một câu trả lời đột nhiên hoặc một ý nghĩ nào vụt hiện lên trong lúc
đi nhận xét đó. Nhưng Tuấn chỉ thấy mất thì giờ không đâu.
Cuộc đi dò tìm các vùng quanh trại cũng thế. Những xóm nhà
tranh thưa thớt ở đấy chỉ là chỗ nghèo nàn của những người cày cấy quê mùa. Một
con đường rộng dẫn đến hai đầu làng xa. Tuấn nhìn lên những đồng lúa xanh bằng
phẳng và thật thà, không giữ một vẻ gì là bí mật. Vừa nghĩ tới anh đã vội bỏ
ngay cái ý kiến đi tìm những người anh đã hỏi han mấy hôm trước. Người coi trại
thì có vẻ dè dặt khi anh vào chơi nhắc đến những chuyện hoang đường hắn thuật lại
hôm xưa: Tuấn hiểu ngay là hắn sợ anh tìm cớ để không thuê Trại Bồ nữa.
Tuấn đành phải theo cái phương giản tiện nhất: là lại đợi như
hôm trước. Lần này anh đợi với một lòng hồi hộp và một ý mong mỏi riêng.
Nhưng đêm ấy người đẹp không đến.
Trong khi ngạc nhiên, Tuấn lấy làm bất mãn và nghĩ đến những
ý nghĩ mà anh cũng tự nhận là vu vơ. Tuấn ngờ có lẽ “nàng ta” biết. Việc dò hỏi
của mình, những hành vi trong suốt một ngày, những bước chân anh trên các đường
lối Trại Bồ và ở gần quanh, không chừng vẫn có con mắt vô hình chăm chú theo
dõi. Tuấn bật cười, nhưng không tìm được nhẽ nào khác để cắt nghĩa sự “vắng mặt”
của người thiếu nữ đêm qua.
*
Đêm hôm sau, Tuấn lại thức để chờ. Nhưng lại không thấy gì hết.
Rồi cứ thế luôn ba đêm nữa. Tuấn càng ngày càng có ý mong đợi hơn lên.
Đêm nào Tuấn cũng tự nhủ: “Chắc đêm nay đây”. Anh thấy mình
thất vọng sau những buổi chờ đợi vô ích và vẫn vững lòng tin chờ lần sau.
Cái khoảng cửa sổ đen tối mỗi đêm một bớt sâu thẳm vì trăng một
thêm tròn, Tuấn nhìn quen đến nỗi nhận xét được những vẻ thay đổi rất nhỏ nhẹ.
Tuấn không muốn làm việc trong những lúc ngồi hàng giờ yên lặng
trước bàn viết, đọc sách không cầm giữ được trí, giác quan chăm chú đến từng tiếng
động rất khẽ trong đêm. Những hình ảnh tưởng tượng về dáng điệu giai nhân càng
làm thêm lạnh lùng, sự lạnh lùng vắng mặt. Tuấn nhớ lại và bắt gặp thấy lòng
mình âm thầm buồn. Khi nào ngồi lâu mỏi mệt, anh chợp đi một lúc rồi choàng dậy.
Tuấn ngơ ngác như thấy một sự gì vừa hiện lại vụt biến ngay - Tuấn vẫn tự giễu
mình - “Dễ thường mình tương tư một cái bóng kỳ dị hay sao?”. Ý nghĩ ấy khiến
anh lại tưởng đến những chuyện dan díu với tinh hồn hoa, cây của những ngày xưa
huyền hoặc.
Một đêm Tuấn ngồi ghếch hai chân lên bàn giấy vừa đợi vừa mơ
tưởng. Thần trí anh hoang mang không hẳn theo một ý nghĩ nào. Nhiều lần anh thấy,
rất nhanh chóng, như có lại những cảm tưởng mới mẻ giống hệt lần gặp gỡ đầu
tiên. Anh tưởng chừng như người đẹp lại hiện về, đang đứng ngoài, đang đợi chờ...
Nhưng lúc định thần lại, cảm tưởng ấy lại mất. Tuấn dần dần một thêm bị kích
thích. Hai ba lần anh trỗi dậy chạy ra hiên để thấy ngoài đó vẫn vắng lặng như
thường. Anh bực dọc và giận dỗi như người bị lỗi hẹn. Anh vào ngồi chỗ cũ định
tìm đủ các lẽ để tự bảo là mình đang làm những việc vô nghĩa lý và để giục mình
đi nằm. Đêm đã quá khuya và người anh đã mỗi lúc một thêm bơ phờ.
Nhưng Tuấn vẫn ngồi yên, vẫn phảng phất có một ý trông chờ và
hy vọng. Tiếng gió xào xạc bên ngoài như nghe qua một giấc mơ chập chờn mong
manh.
Tuấn tưởng chừng người đẹp hiểu thấu lòng anh và đang tìm đến.
Anh lại thấy hình như nàng đã đến, đã ở đó và đang nhìn mình. Dẫu là người hay
là nhân vật hư huyền, giai nhân cũng đã từng nói lên lời những câu dịu dàng và
cũng đã làm anh cảm động. Cái tên Hoàng Lan Hương anh thầm nhắc đến bằng tất cả
sự âu yếm của lòng thanh niên lúc đó hình như bay thành phấn hoa bao quanh Tuấn.
Anh thoáng thấy từng làn hương đưa lại từ đêm xưa, từng làn hương ý nhị, đặc biệt
của người đêm xưa. Tuấn cảm thấy một sự gần gũi rất thân mật và hơn nữa, rất
“thực”.
Anh lo sợ không dám trông lên cửa sổ để vội thất vọng. Anh muốn
để mặc cho sự kích thích của tưởng tượng đánh luầ mình lâu nữa, lâu mãi, và mỗi
lúc một thêm sức mạnh để anh “thấy” hình ảnh Hoàng Lan Hương một rõ lên.
Hương hoa - phải chăng chính là hương Hoàng Lan dìu dặt trong
mơ tưởng của anh, cùng với một dáng người nhịp nhàng ở gần đâu đây, ở trước mặt
hay ở ngay cạnh? Tuấn để cho người anh mê đi trong tay ôm ấp gọn ghẽ của chiếc
ghế bành - cũng như tâm hồn du dương ẩn nép trong lòng một thứ vui mơ hồ.
Một tiếng động khẽ của tờ giấy trên bàn.
Tuấn hé trông thấy một bàn tay quen, mấy ngón muốt búp măng
hiện tỏ hiện mờ theo chiều mơ tưởng chờn vờn bay theo nhịp lim dim của đôi mắt
nhíp.
Cái hình ảnh thân yêu vẫn không mất. Tuấn tưởng thấy cả hai
bàn tay, cả màu áo xanh phơn phớt và màu da trắng điểm hồng. Hoàng Lan Hương...
Hoàng Lan Hương đến đây chăng? Câu hỏi nhắc lại ba lần trong trí chưa tỉnh giấc
của Tuấn, và sau cùng cất lên thành tiếng nhỏ dịu. Tuấn mơ hồ nghe thấy lời
mình:
- Hoàng Lan Hương đấy phải không?
Một tiếng đáp bên tai:
- Vâng
Tuấn nghe rõ ràng câu tiếp liền theo:
- Chính em của anh đây!
Tuấn thức hẳn dậy.
Người thiếu nữ đã ở đó, đứng phía bên trái, đang mỉm cười
nhìn anh. Lan Hương nhìn Tuấn không chớp - và không cất nụ cười - vẻ ngạc nhiên
vui tươi và êm lặng. Tuấn chưa tin ngay và vẫn lo sợ. Anh hỏi rất nhẹ tiếng:
- Thế ra... thế ra tôi không nằm mơ?
Anh hơi rụt rè nhưng thoắt lại không tưởng đến giữ gìn nữa, vội
cầm lấy tay Lan Hương, nắm chặt trong tay mình vuốt nắn dọc theo cánh tay nàng.
Sau cùng, anh đứng dậy và lại hỏi:
- Thế ra anh không mơ?
Người thiếu nữ thong thả lắc đầu, dáng điệu khoan hòa và có vẻ
nhu mì rất trẻ thơ, rất ngoan ngoãn.
Nàng để cho Tuấn dìu ngồi xuống cái ghế anh vừa ngồi. Nàng đợi,
nhưng sự vui mừng làm Tuấn lúng túng. Tay nàng - bàn tay trắng đẹp làm sao! Vẫn
cầm một tập bản thảo mà lúc đó Tuấn mới nhận rõ là của anh: đó là tập thư đổi
thành nhật ký.
- Em đến lúc nào thế? Em đến lâu chưa?
Nàng thưa:
- Thưa anh, chưa lâu lắm, nhưng cũng đủ để xem văn của nhà
văn.
- Văn nào? Tập thư này sao?
- Vâng, xin anh thứ tội cho, em thấy nói đến một câu chuyện
hay, nên...
Nàng cười rất dịu dàng.
Tuấn thấy ngượng một cách sỗ sàng, y như người bị bắt chợt
đang lúc tắm gội. Nàng tiếp luôn:
- Em vẫn là giống ham văn chương, yêu văn nhân, thi nhân cũng
như yêu hoa cỏ, yêu non nước, yêu trăng gió... Em được đọc một bài văn thì như
được tưới thêm nước, lòng sung sướng không biết ngần nào.
Lời nói lưu loát như câu nói văn hoa. Nàng có một giọng nhẹ
trong và hơi trầm mà Tuấn muốn cho ấm hơn, vui hơn. Anh bỗng lo ngại vì cái vẻ
trầm lặng và vẻ buồn nhẹ nhàng của người thiếu nữ. Anh chợt nhớ đến sự thay đổi
đột nhiên đêm nào và dụng tâm ngăn đón trước. Tuấn toan hỏi một câu nhưng lại
thôi.
Nàng đặt tập bản thảo xuống bàn, nhìn sang một bên, đôi mắt
nghĩ ngợi. Thấy nàng thở dài một tiếng, Tuấn vội vàng gọi:
- Em!
Nàng ngẩng lên mỉm cười, đôi mắt lặng lẽ chứa chan một ý thân
mật âu yếm. Tuấn thấy xôn xao cả tâm hồn.
- Em Lan Hương... Em... Em... có cho phép anh nói chuyện với
em, nói chuyện lâu với em không?
- Thì em đến đây chỉ mong được thế...
- Em đến một cách bất ngờ, một cách êm nhẹ như một cái bóng
hiện lên. (Tuấn sợ lỡ lời, chữa ngay) như... một nàng tiên đến trong giấc mơ...
- Và anh cũng sợ như nàng tiên trong giấc mơ rồi em sẽ biến mất
sao?
Đôi mày nàng hơi nhíu lại khiến Tuấn sợ cuống lên tìm cách
cãi lời nói của mình. Nàng lắc đầu khoan thai để tay vịn vai Tuấn:
- Không, em không biến vội đâu... Đêm nay em còn nói chuyện với
anh, em sẽ bầu bạn với anh lâu hơn đêm hôm nào... Và nếu anh biết cho em...
Nàng ngập ngừng một lát, khe khẽ thở dài:
- Nếu anh hiểu cho thân phận mong manh của em, em sẽ được gần
gũi anh nhiều đêm hơn...
Tuấn càng nghe càng ngạc nhiên nhưng giữ nét mặt rất vui để
khuyên nàng. Anh ngắt lời:
- Không, em sẽ là bạn của anh mãi mãi.
- Em không dám chắc, từ cổ chí kim, hạng chúng em chỉ là...
Tuấn vội vàng nói:
- Không, dù sao, dù em là ai, nhưng anh chỉ biết em là một
nhan sắc quý báu, một châu ngọc anh tìm thấy tình cờ... Không, em Hoàng Lan của
anh... sẽ mãi mãi là của anh.
Tuấn chợt nghĩ đến cái tên Hoàng Lan Hương, để ý đến cái
hương riêng phảng phất bên mình... Anh rùng rợn khắp tâm hồn và thấy ghê người
một cách rất êm đềm, rất đằm thắm và rất mới lạ. Anh nghĩ bụng trong lúc âu yếm
quàng tay giữ lấy ngang lưng nàng:
- Có lẽ ta được sống những cuộc đời rất kỳ quái như ngày xuầ
thực chăng?
Tuấn lại chợt hiểu cái tiếng “nàng ta” mà anh vẫn thầm gọi đến
khi nghĩ đến người thiếu nữ.
Cảnh tượng lúc đó có một vẻ văn hoa - một vẻ văn chương kiểu
cách - đem lại cho tâm hồn Tuấn một thứ cảm động cổ kính như ở nhân vật sống
trong chuyện hoang đường. Tuấn nghĩ đến hiện tại bấy giờ và thấy nó như lùi lại
rất xa. Anh nhìn anh với người đẹp như ở trong một bức tranh quý giá. Anh
thoáng nghĩ thầm:
- Lan Hương ơi, hai ta trong khoảng khắc này là hư đấy hay là
thực đấy?
Những tiếng xưng hô mà Tuấn định sẽ nói, trong giây phút ấy
không phải là những tiếng anh em mà Tuấn đã dùng. Giá gọi Lan Hương là “nàng”
và tự xưng là “kẻ thư sinh này” có lẽ mới thực đúng, mới thực hợp.
Ngồi trong ghế và lả mình vào tay ôm giữ của Tuấn, Lan Hương
đang lặng lẽ nhìn phía trước mặt. Nàng ta thở đều và thong thả, ở yên đó như
người tình nhân ngoan ngoãn đang chung một phút trầm ngâm thân mật với người
yêu. Không hề có một chút sượng sùng. Tuấn lại ngạc nhiên khi nhận thấy cái vẻ
quen thuộc trong lúc thân cận đột nhiên ấy.
Tuấn nghĩ thầm một câu hỏi văn vẻ:
- Hoàng Lan Hương ơi, nàng là ai thế, nàng là người ở đâu đến
đây?
Và đoán chừng câu trả lời sẽ có những ý tứ cho mình biết Lan
Hương chỉ là hiện thân của thảo mộc, là hương thơm của Hoàng Lan biến thành người,
là một nhân vật trong cái thế giới u linh ở lồng với khung cảnh trần gian nhưng
lại cách biệt hẳn trần gian; người ta phải có con mắt riêng của một tâm hồn
khác thường mới gặp thấy. Tuấn cũng như một người sót lại tự cái thế kỷ cổ sơ
trước, Tuấn là một linh hồn còn thuộc những âm vang và những hình ảnh cũ của một
thời đại nhuôm màu tím huyền...
Tuấn thu hẹp lại cái cánh tay ôm quanh vai người thiếu nữ.
Anh mỉm cười vơ vẩn, nhận thấy từng chút thời khắc đi qua, tĩnh mịch trong cái
lặng lẽ khuya khoắt của không gian. Anh sống một khoảng đời bâng khuâng rất lạ
lùng, tâm trí vừa ngạc nhiên vừa bình thản mà hướng theo nguồn tư tưởng không cố
gắng, lưu loát như sẵn hiến trọn mình trên một trang văn thơ.
Một chút lo sợ rất quen cũng phảng phất trong lòng Tuấn.
Tuấn liếc nghiêng mắt nhìn người thiếu nữ và hồi hộp trong
khi thầm khen nét mày rất thanh tú và hàng mi cong dài làm dịu thêm và xa xăm
thêm vẻ nhìn trong sáng.
Tuấn lại thấy cần phải dè dặt những lời phải nói ra, những cử
chỉ sẽ làm và im lặng như để dò ý tứ.
Không bao giờ có đôi bạn gần gũi nhau một cách khác thường
như thế. Tuấn lại nghĩ:
“Hoàng Lan Hương ơi! Em là ai thế? Em ở đâu thế? Sao em lại ở
trong tay ta lúc này?...”
Câu nói dìu dặt vang khẽ trong lòng Tuấn và hình như cũng động
tới ý Lan Hương. Người thiếu nữ nhìn lên và mỉm cười với Tuấn, rồi lại nhìn đi.
Tuấn bỗng gọi:
- Lan Hương!
Và tưởng tiếng nói mình có thể lại kinh động cả bầu không
khí.
Nhưng Tuấn nhắc lại, tiếng ghìm khẽ xuống:
- Lan Hương! Lan Hương! Em nghĩ gì thế?
Tuấn muốn thú thực hết cả nỗi sưng sướng của lòng trai trẻ, hết
cả nỗi xúc động của sự gặp gỡ và ngỏ hết tình âu yếm với Lan Hương. Nhưng người
thiếu nữ lại nhìn lên, đôi mắt đen lặng lẽ một ý quá đỗi nồng nàn. Những tia lửa
chìm trong đôi ngọc huyền ấy bỗng dưng khiến Tuấn ngây ngất. Anh đê mê im lặng.
Đầu nàng ta rất nhẹ nhàng giấu mãi vào lòng tay Tuấn và cả tấm
thân yêu kiều nhỏ bé lại lả lướt bên người con trai. Nắm tay nàng víu lấy Tuấn
với một ý nhắc bảo xui giục. Và bao nhiêu cử chỉ ấy thầm lặng gào lên những nỗi
lòng van lơn.
Nàng không cho kịp nói với nhau thành tiếng một câu ân ái
nào.
Nàng để Tuấn hiểu trước lời nói. Và Tuấn mỗi lúc một hiểu rõ
ý nàng mỗi lúc một đắm đuối tha thiết hơn.
Anh nghĩ thầm:
“Lan Hương ơi, vì đâu?... Lan Hương ơi... cớ sao... Lan
Hương, em là loài đa tình nào... Lan Hương ơi...”
Những ý nghĩ âu yếm gạn gùng reo động vang cầ tâm hồn. Nhưng
đôi mắt kia nhìn Tuấn.
Ngọn trào bồng bột dâng lên.
Tuấn ôm bên mình một mỹ nhân nhu mì, thuận thục nhưng nồng
nàn xiết bao! Anh cúi xuống dần. Đôi mắt kia dìu Tuấn vào một bể sôi nổi.
Đồng hồ trong nhà lách tách đều rõ rệt từng tiếng. Tuấn âu yếm
bước xa dần ánh sáng đèn trên bàn viết, bên vai êm trĩu một sức nặng bám níu lả
lơi. Nàng ngoan ngoãn như trẻ thơ, bước chân nhẹ nhàng và ái ân theo Tuấn.
Ngoài đêm, tiếng gió vừa chạy ào qua. Vài tiếng dế bao quanh.
Tuấn tưởng qua đến sự thức giấc của côn trùng và trông thấy hình lá reo động...
Nhưng tất cả thành hỗn độn, bị quên đi, mờ xóa trong một cử chỉ vuốt ve. Tuấn
thu lượm trong bàn tay mê man những đường nét thanh tân của một thân hình dịu mềm
và rung động.
Trại Bồ Tùng Linh (V)
Sáng hôm sau Tuấn thức dậy như tự trong một giấc mơ dài. Ánh
sáng vàng tươi soi vào tận chỗ gối chăn và bên mình anh không còn chút dấu vết
nào của người đẹp. Phảng phất một làn hương thơm mát đâu đó. Tuấn trỗi dậy.
Ở ngực anh rơi xuống một bông hoàng lan cánh đã hơi se.
Tâm trí Tuấn bàng hoàng, nhưng không! Không thể là một sự mơ
hồ được.
Anh còn nhớ rõ quá. Hơi thở ấm áp của người thiếu nữ với nhịp
tim hồi hộp... Hơn thế nữa, bao nhiêu ái ân dữ dội tuy thầm lặng còn để lại xác
thịt anh một kỷ niệm mê cuồng. Người đàn bà trong tay ôm ấp anh đêm qua là cả một
tâm tình, là cả một thân thể đa tình bừng cháy. Trong bóng dịu mở, cái nhan sắc
nghiêng ngả trong nệm trắng kia đã khiến anh mừng rỡ kiêu căng giữa lúc ngạc
nhiên. Không có cuộc sóng gió âu yếm nào anh thấy hết vị nồng nàn bằng. Người
thiếu nữ còn có những lúc tỏ lòng yêu một cách kỳ dị nữa. Tuấn nhớ đến những tiếng
cười ngắn, những tiếng kêu cắn chặt trong răng, những ngón tay trói thắt lấy da
thịt anh... và nhất là - và dữ dội hơn - trên khuôn mặt đờ say bồng bềnh thả
trong đám sóng tóc tối đen, đôi con mắt lạ lùng thỉnh thoảng lại mở nhìn anh một
vẻ lặng lẽ rùng mình: Tuấn tưởng chừng lại thấy những tia lửa chìm giấu trong
đó.
Cả câu chuyện trong lúc gần gụi chỉ là những câu hỏi giở chừng
của Tuấn và những câu trả lời lảng tránh của người con gái tên là Lan Hương.
Anh đã cố tình muốn được biết người yêu của anh hơn. Anh đã quyết hỏi cho rõ
hơn.
- Lan Hương ơi? Lòng anh em đã chiếm được rồi. Chúng ta đã là
của nhau rồi, mà anh chỉ biết tên của em thôi ư?
- Lan Hương ơi! Em nói cho anh biết hết cả đi...
- Lan Hương ơi! Em không muốn thực tình yêu nhau sao? Sao em
cứ mãi lững lờ...
Phần nhiều là những ngón tay đặt lên miệng giữ lời nói của
anh lại; hoặc bịt lại bằng cặp môi hôn vô cùng tận; đôi khi anh ngoảnh đi để
tránh thì Lan Hương chúi đầu vào nách anh và cùng cười với anh. Nàng đủng đỉnh
nói một giọng đùa cợt:
- Lan Hương của anh là Lan Hương của anh.
Hoặc:
- Lan Hương là người yêu của anh...
Hoặc nữa:
- Em có biết anh là ai đâu, anh ở đâu đâu.
Nhất định Lan Hương chỉ nói có bằng ấy câu khi Tuấn nài hỏi.
Anh lựa lời căn vặn nữa thì nàng buồn rầu đáp:
- Có lẽ em không đáng cho anh thương em...
Tiêng thở dài của nàng khiến Tuấn vội dỗ dành vuốt ve để yên ủi.
Tức khắc Lan Hương lại cười, và nhí nhảnh như đứa trẻ tinh nghịch trong tay
anh.
Tuấn ngủ đi giữa lúc thử tìm cách phân giải cái ý nghĩa sự giấu
diếm của nàng. Lúc đó Lan Hương đã ngủ yên từ lâu, bỏ dở một câu ước hẹn không
rõ rệt.
Tuấn không thể đoán được Lan Hương lẻn ra đi lúc nào.
Sự nhớ tiếc chân thành xui anh nghĩ đến sự đi tìm, nhưng anh
lại bỏ ý đó ngay: anh chắc lại sẽ mất công như mấy lần trước.
Tuấn nhìn bông Hoàng Lan trong lòng bàn tay và tưởng tới sự
liên lạc với tên người thiếu nữ. Không thể xua đuổi những ý nghĩ sẵn sàng đến
trong trường hợp đó. Tuấn nhìn ra ngoài phong cảnh ban ngày như cố ý để phản đối
lại. Những cảm tưởng ban đêm lúc gần người thiếu nữ vẫn còn vương vấn trong trí
anh.
Tuấn tắc lưỡi:
- Thì lại đợi xem!
Một lần nữa anh lại bất chợt thấy mình có cái hy vọng rằng
Hoàng Lan Hương biết anh đang nghĩ đến nàng trong lúc này. Anh nhìn bông hoa
lòng chứa chan âu yếm.
*
Buổi chiều hôm ấy, Tuấn chợt nghĩ ra một ý để đến tối thực
hành.
Trước lúc người đẹp quen “hiện” đến nửa giờ, Tuấn bắc ghế ngồi
ở một chỗ khuất ngoài hiên với chiếc đèn bấm, và đợi đến quá một giờ đêm. Nhưng
không thấy gì. Anh trở vào, ngồi bàn giấy đợi hơn một giờ nữa, cũng vô ích. Suốt
đêm ấy, Tuấn không thấy bóng Lan Hương.
Đêm hôm sau, Tuấn có ý ngồi đợi ở trong nhà như mấy lần đầu
thì Lan Hương lại đến.
Rồi đêm sau và những đêm sau nữa cũng vậy, Lan Hương vẫn giữ
cách hành động bất ngờ và bí mật của nàng. Tuấn đang ngồi trước bàn, lúc ngoảnh
lại đã thấy Lan Hương hoặc ở gian giữa hoặc ở trong cửa, hoặc đứng bên mình
anh.
Lúc nào cũng lặng lẽ, lần nào cũng để cho Tuấn tưởng như chợt
hiện lên.
Và bao giờ cũng nồng nàn âu yếm.
Không đêm nào Tuấn thức được trọn để rình lúc nàng lẻn mất,
anh đành phải lượm lấy bông Hoàng Lan mà bao giờ nàng cũng để lại như một lời
an ủi cợt đùa.
Sự quấn quýt vẫn giữ một mực đam mê, nhưng cái bí mật của Lan
Hương Tuấn vẫn chưa vào thêm được bước nào. Nàng vẫn lững lờ khi Tuấn căn vặn hỏi.
Tuấn hơi tỏ ý giận thì nàng buồn rầu có khi đến khóc sụt sùi, nhưng tức khắc lại
vui vẻ cười khi Tuấn vỗ về.
Tuấn cũng muốn để mặc ý nàng và bỏ mặc cả tính thóc mách của
chính mình: cần gì biết Lan Hương là người thế nào; gặp nhau thì cứ yêu thau,
như lời nàng vẫn nói. Nhưng Tuấn đã thấy lòng yêu người con gái kỳ dị ấy một
cách sâu xa hơn. Nàng nhắc lại câu vẫn quen nói:
- Anh yêu em chừng nào em càng được đến với anh chừng ấy... Tự
em không bao giờ bỏ anh đâu.
Tuấn hỏi tại sao có đêm anh phải đợi vô ích thì nàng đủng đỉnh
cười, lắc đầu không thưa. Tuấn hỏi gặng, nàng đáp một câu làm Tuấn càng nghĩ ngợi:
- Thì anh cũng biết đấy!
Một đêm, Lan Hương vừa chợp ngủ, Tuấn vùng dậy thắp thêm đèn
và đốt hết cả bao nến cho nhà sáng trưng lên. Lan Hương thức dậy hỏi, anh không
đáp chỉ trân trân nhìn nàng. Lan Hương cười một cách rất lạ lùng rồi đi tắt hết
các ngọn lửa mới thắp.
- Em dù là thứ người gì mà yêu anh được như lòng em yêu anh
thì cũng đáng là bạn sánh đôi với anh rồi. Anh đừng tìm cách xua đuổi em như thế.
Tuấn phân giải sự ngờ vực của mình bằng lời khôn khéo. Mãi
sau, một hôm bất ngờ, nàng vừa hỏi Tuấn, vừa mỉm cười như mỉa mai:
- Nếu bây giờ anh biết em không phải là người thường như mọi
người thì anh nghĩ sao?
Nhưng nàng không nghe câu trả lời lúng túng của Tuấn. Mà
chính câu nàng vừa nói ấy cũng không rõ ý. “Không phải là người thường?” Người
thường đây liệu có cùng một nghĩa như Tuấn hiểu không?
Một đêm khác, đang ngủ, Tuấn bỗng giật mình thức dậy. Anh tưởng
ngay Lan Hương không ở đó nữa. Nhưng lúc anh mở mắt ra thì Lan Hương đang ngồi
bên anh và đang cúi nhìn anh. Tuấn mỉm miệng, nhưng nụ cười ngừng hắn lại. Lan
Hương sao nhìn anh chăm chú thế, kỳ dị thế? Và đôi mắt - anh rợn người lên một
chút - đôi mắt sao lại sáng một cách quái lạ thế kia?
- Lan Hương!
Tuấn gọi, nhưng người thiếu nữ lặng thinh và vẫn cúi nhìn xuống
anh, im lặng và chăm chú như thế mãi.
- Lan Hương! Kìa Lan Hương!
Không có tiếng đáp. Lan Hương vẫn không nhúc nhích. Anh bắt đầu
nghi ngại. Đưa mắt hai bên thấy nhà vắng và lạnh lẽo hết sức (thằng Dần anh cho
ngủ buồng dưới từ sau hôm anh gặp nàng).
Hai con mắt đen vẫn soi mói nhìn anh.
Tuấn chực hét rất lớn và ngồi vùng lên...
Bỗng Lan Hương thở dài một hơi, nghẹn ngào, rồi tự dưng, ôm mặt
khóc nức nở.
Tuấn hết sợ đến ngạc nhiên, ngồi lên dỗ dành đủ lời ngọt
ngào. Lan Hương vẫn còn thổn thức.
- Thân em chỉ là thân cây cỏ; anh có coi ra gì, anh ngờ vực
em, anh không cho em được xứng đáng với anh...
Nàng nép đầu ngủ lại trong tay Tuấn dịu dàng và khăng khít, một
cánh tay trần vắt qua ngực anh.
Tuấn mở mắt nhìn lên đỉnh chiếc màn không buông, và đôi ba lần
nghe thấy nàng còn thổn thức trong mộng.
Tuấn nghĩ rất nhiều về Lan Hương. Tiếng đêm trăng bên ngoài
nhẹ nhàng xôn xao theo hơi gió cợt nhả.
Anh định tâm cố thức, nhưng đến chừng gần bốn giờ anh ngủ
quên đi.
Sáng hôm sau, Tuấn thức dậy, tâm hồn bâng khuâng quá chừng quạnh
vắng. Anh thấy một sự biến đổi lớn, lòng chua cay một tình thương tiếc vô cùng
tận, một nỗi lạnh lẽo mênh mang. Có dấu hiệu gì đâu mà anh tin chắc rằng Lan
Hương giận anh và sẽ không đến với anh nữa. Anh buồn rầu nhìn chỗ nằm của người
đẹp: bông Hoàng Lan vẫn để lại cái ý nghĩa bí mật như mọi lần.
Trại Bồ Tùng Linh (VI)
Tuấn mong rằng mình nghĩ lầm.
Mấy hôm đầu, một chút hy vọng mơ hồ còn vấn vương, song chỉ
như thứ hương khói mong manh, lòng càng cố tình luyến giữ càng thấy mau tan biến.
Ban ngày, vào những giờ quen làm việc, Tuấn thường ngừng bút giữa đoạn, thẫn thờ
nghĩ những chuyện xa hẳn đầu đề. Phần thứ nhất thiên tiểu thuyết của anh gần
xong, kết thúc một cách uể oải. Tuấn không ham viết như trước. Anh thấy người mỏi
mệt và cho đó là tại mấy đêm vừa qua trằn trọc thâu canh.
Từ buổi gặp sau cùng về trước, Tuấn không kém làm việc trong
khi dan díu với nàng ta. Sự kích thích do một thứ tình yêu kỳ dị, cùng với sự hỏi
lòng ân ái, không trực tiếp ảnh hưởng đến tác phẩm của Tuấn. Anh vẫn bình tĩnh
trong sự suy tưởng, minh mẫn trong sự kết cấu và say sưa trong lúc phô diễn bằng
lời văn. Hình ảnh của giai nhân có thoáng gợi lên những lúc này chỉ như màu hoa
đẹp trong bình mà Tuấn chợt nhiên để mắt tới. Cả những nỗi ngạc nhiên hồi hộp
vì Lan Hương cũng không lấn được hết cả tâm ý Tuấn. Anh chia biệt hẳn thời giờ
tạo tác nghệ thuật với thời gian yêu đương. Nhà văn sĩ này giữa những giây phút
say đắm nhất cũng không quên phân tích những cảm xúc rất chi ly. Anh vẫn ưa
tin, theo quan niệm của anh, cái thuyết hai bản ngã trong một người; người sống
và đam mê, nhà nghệ sĩ mới tận hưởng.
Nhưng bẵng đi luôn năm đêm liền, Lan Hương không đến. Có lẽ
nàng ta thực không đến nữa chăng? Tất cả sự vắng lạnh bao quanh, phủ lấy nỗi
trơ trọi của tâm hồn anh, đã trả lời Tuấn.
Lan Hương đã biến mất hẳn.
Những ngày trống không tẻ ngắt kéo dài từng phút thờ thẫn lê
thê. Mùa thu muộn cũng vừa đổ tới nơi, bắt đầu xao xác khắp vườn. Lá lìa cành
bay vào tận bàn viết.
Chiều nào Tuấn cũng lên đèn sớm để thấy đêm chóng về. Anh vẫn
chờ đợi hết giờ nọ qua giờ kia, nhưng ở trong tuyệt vọng. Việc văn chương không
còn chút nào hứng thú. Viết nhật ký anh chàng cũng bỏ, và những trang “thư” đọc
lại chỉ làm gay gắt thêm nhớ nhung. Tuấn không còn lòng nào thưởng thức vị chua
cay như nhà thi sĩ vẫn ca ngợi. Anh bỏ ghế để nằm thao thức trong giường. Hương
hoàng lan thơm nhẹ vẫn chìm đọng lại ở gần anh, Tuấn dìm bên má xuống gối mềm
và không buồn cầm giữ nước mắt.
Tuấn không còn đem những ý đùa cợt để tự dối lòng như trước.
Anh hiểu rồi, bao nhiêu bữa ăn không biết vị ngon, bao nhiêu giờ ngồi đăm chiêu
cùng khổ hận, bao nhiêu tiếng thở dài âm u ảo não, bao nhiêu khuya vùi mình
trong chăn nệm để trào bên khóe mắt từng bao nhiêu giọt lệ tủi thương. Những
triệu chứng đã quá rõ rồi. Tuấn chịu để cho lòng ủ rũ dưới âu sầu. Thời giờ
qua, anh cứ ở hoài trong một hiện tại nặng nề, ngao ngán.
Tưởng lại những giờ gần kề người đẹp, tâm hồn Tuấn càng thấy
ê chề. Tiếng cười, giọng nói, những lời âu yếm hay những câu êm ái văn hoa, những
dáng điệu mềm dịu lả lơi - tất cả cái thân thể rung động kia, cái hình ảnh bừng
cháy kia còn lưu lại trong bầu không khí nhà này một âm vang tịch mịch xa xăm,
một hương vị thấm thía lạnh lùng của một sự gì rất thân yêu đã mất đi - đã chết
hẳn. Thà Lan Hương là người tình đã chết! Tuấn sẽ không bị một sự ngờ vực khác
thường ám ảnh thêm nữa. Tuấn sẽ thờ cái kỷ niệm trong đau đớn, hay Tuấn sẽ chết
dần. Anh chàng chua xót nghĩ:
“Lan Hương ơi! Em là người gì mà cám dỗ lòng anh tới bực này?
Em chiếm cả tâm hồn anh rồi”.
Khắp tâm hồn Tuấn tê tái đi vì cái ý thiết tha não ruột. Anh
lại thầm trách:
“Lan Hương ơi! Em quái ác lắm! Em để thương để yêu cho nhau
mà sao em không cho anh một tia hy vọng nào tìm được em thế? Em là ai? Em ở
đâu? Anh biết đường nào để theo bóng vết em?”
Tuấn càng suy tưởng, càng thấy lòng bối rối thêm. Anh không
thể hiểu được những cái kỳ dị về Lan Hương. Điều đó như đã thành một sự dĩ
nhiên cay đắng.
“Cái khổ của lòng ta càng thêm xót xa thấm thía vì đến lúc
này ta mới thực sự yêu nàng... Lan Hương ơi! Em nỡ phụ lòng anh đến thế sao?”
Và những tiếng thở dài từng khắc, từng giờ, xao động thâu mấy
canh trường, hay ám nặng khắp ngày ủ dột.
*
Thằng Dần, tên đầy tớ yên lặng của Tuấn, bắt đầu lo sợ.
Sáng nào nó cũng lên nhà rất sớm để buồn rầu thấy chủ bơ phờ,
một dộc dạc thêm. Trong lúc anh ngồi thừ trước cửa sổ, hoặc nằm thẳng trên ghế
dài, hoặc đứng tựa cột rất lâu ngoài hiên, nó thường quanh quẩn gần đó. Tính rất
kín đáo, chỉ nói khi nào hỏi đến hay có việc tối cần, nó không tỏ ý kiến gì hay
một thái độ nào về việc riêng của Tuấn. Anh cũng không cần để tâm đến sự nghĩ
ngợi của đầy tớ. Nhưng đến nay anh thấy nó có vẻ ái ngại cho anh rất nhiều. Anh
bất chợt những lúc nó đứng sững nhìn bằng đôi mắt băn khoăn; thấy anh nhìn lại,
nó vội cúi xuống dọn dẹp hay quét tước.
Một đêm, nửa thức nửa ngủ, anh thấy tiếng chân chạy nhẹ nhàng
nhưng gấp ở đâu đó. Vùng thức dậy thì thoáng có bóng người động trong vùng liễu
dưới đêm trăng tàn. Anh gọi, thằng Dần túng túng trở vào, ngượng ngùng và trả lời
bên cạnh những câu anh hỏi.
Anh căn vặn mãi đến gần nổi giận nó mới rụt rè thưa:
- Con nằm mơ thấy có người đến...
- Ai đến?
- Con không biết.
- Nhưng người thế nào?
Dần thêm cuống quýt, ấp úng mãi mới nói được. Nó không trông
thấy rõ mặt, chỉ biết một hình tóc xõa, vận toàn đồ trắng chập chờn đi qua. Nó
giật mình thức dậy, thấy trờn trợn và nghe như có tiếng loạt xoạt ở gần. Nó
vùng chạy ra, thì một nhành liễu bên rặng mẫu đơn còn phe phất một cách khác lạ.
Nó như sợ quá hóa táo tợn, sấn đến xem thì lại không thấy gì.
Tuấn đang nghi hoặc bỗng ngạc nhiên vì thấy Dần se sẽ gọi:
- Thưa cậu...
Nhưng nó im bặt khi anh ngoảnh nhìn. Ngập ngừng mãi, rồi nó mới
lại khẽ nói:
- Thưa cậu... ở trại này có ma.
Thoạt nghe, Tuấn cho ngay đó là do cái sợ lưu truyền và rất
giản dị của những tâm trí ngô nghê. Thấy trời sáng dần, anh không muốn ngủ lại
nữa. Nhân dịp vừa rồi, anh thử hỏi chuyện đầy tớ trong lúc đợi sôi ấm nước trên
đèn cồn. Lúc đó, Tuấn mới biết đầy tớ anh ít lâu nay bị giày vò vì một sự khiếp
sợ thầm kín.
Hắn biết chủ vẫn tiếp một người con gái đẹp dị kỳ đêm đêm thường
hiện đến, nhưng sẵn tính nể sợ chủ và rất ít lời, lại thêm cái lòng kiêng dè,
không hay đả động tới việc hắn biết, nên tuy vẫn lo cho Tuấn mà không dám đem
điều ấy nói ra với anh. Vâng lời Tuấn, hắn phải ngủ dưới nhà phía sau và đêm
nghe thấy những tiếng gió thổi kinh hoàng.
Hắn nhắm mắt lại là thấy người xõa tóc, giống với dáng người
con gái mà chỉ đêm đầu hắn thoáng thấy trong nhà, ở cạnh Tuấn. Hắn thú thật vẫn
mạn phép Tuấn đi rủ một người nhà quê, mua rượu cho người ấy uống để ngủ với hắn
những đêm về sau... Dần không dám lộ chuyện xảy ra. Hắn lựa lời hỏi dần dà thì
người nhà quê cũng chỉ mơ hồ nói đến những việc biểu hiện kỳ quặc mà chính mình
không trông thấy. Theo lời đồn quanh quất thì Trại Bồ vẫn có ma, khi thì mập mờ,
khi thì hiện rõ, nhưng không làm ai việc gì. Người nhà quê bảo Dần: “Mình không
động đến họ thì chả bao giờ họ làm hại mình”. Dần vẫn không yên lòng, mấy đêm
sau hắn phải trốn ra ngủ ở chính nhà người bạn táo tợn kia, cho đến hôm hắn thấy
Tuấn bơ phờ như người ốm. Hắn lại ngủ ở nhà, ngủ gần Tuấn, mừng vì đoán rằng
người đàn bà không hiện đến nữa, nhưng lại lo vì chủ của hắn mỗi ngày một hốc
hác xanh xao thêm. Dần không dám nói rõ hết ý nghĩ của hắn, nhưng Tuấn hiểu thầm:
- Hẳn nó cho là mình bị yêu ma ám ảnh.
Tuấn cười một tiếng vu vơ của người đã hiểu và không tin những
ý nghĩa của kẻ khác. Dần càng ngơ ngẩn khi thấy anh vừa pha nước uống vừa mỉm
cười. Một lát Tuấn thở dài, mắt đăm đăm buồn.
Anh chợt hỏi:
- Mày trốn... mày ra ngoài ngủ mấy đêm?
Anh lấy giọng ôn tồn để cho Dần khỏi lo bị trách mắng. Dần
thưa:
- Bẩm cậu, bảy, tám đêm.
- Sáng về lúc nào?
- Bẩm, hôm nào con cũng về từ lúc còn mờ mờ đất.
Anh nghĩ một lát, dọn câu hỏi cho hắn hiểu rõ:
- Thế... có sáng nào về mày thấy có người trong nhà nữa
không?
Dần lúng túng:
- Bẩm... thấy... người đàn bà?
- Phải rồi. Có thấy gì không?
- Bẩm không. Hôm nào con về cũng lên ngay nhà dọn dẹp quét tước
trong lúc cậu chưa dậy. Con không thấy gì cả... không thấy ai cả. Nhưng...
- Nhưng sao?
Tuấn chăm chú nghe, đôi mắt nhìn bao dung để khuyên khích. Dần
nói tiếp:
- Bẩm... Chỉ có sáng sớm mười tư (Tuấn tính nhẩm thấy cách đó
đúng bảy ngày) sớm hôm mười tư con về tới cổng thì thấy như có bóng người đi
ra...
- Ở đâu ra?
- Bẩm ở trong nhà này ra... con thấy đi rất nhẹ nhàng, nhưng
lúc ấy chưa sáng giời nên con trông không rõ lắm.
- Người thế nào?
- Bẩm... người... ở trong này.
- Ăn mặc thế nào?
- Bẩm, áo trắng dài.
- Sao lại áo trắng?... Mày nhớ kỹ xem... Áo xanh phơn phớt chứ?
Dần không nhớ rõ, vả lại lúc ấy cũng không phân biệt được màu
trắng hay màu phơn phớt, vì sương sớm vẫn hỗn mờ chút bóng đêm tàn. Hắn lại khiếp
sợ quá, phải nép vào xó cổng, không dám thở nữa. Bóng dáng kia ra khỏi hiên,
thướt tha bên rặng liễu, nhẹ nhàng một cách rất quái lạ, khiến hắn sợ tưởng đến
lịm người đi. Dần cố gượng đứng vững, tay níu gẫy một cành khô bên cột gạch.
Hình như thấy động, cái bóng trắng biến đi ngay.
- Biến đi?
- Bẩm vâng...
- Biến thế nào? Biến ở đâu?
- Bẩm...
- Nghĩa là mày thấy tới đâu thì mất?
- Bẩm, ở khoảng cuối hàng liễu đầu hiên. Bẩm đầu hiên phía
này (Dần chỉ phía tay phải) ở khoảng cây đề ba chẽ với cây lan tây già.
Tuấn ra đầu hiên bên phải nhìn xem. Sau những khóm lá xum
xuê, một cây để phân trạc từ dưới gốc choãi ra những cành lớn, tán lá ken mau
và chờm tới sát mặt một phía ao trước nhà. Tuấn chú ý đến cây hoàng lan hơn.
Cây này to ôm, vươn cái thân vút cao lên trên cả lũy tre bên dãy ngoài và gửí
những cành mềm cong, lá đính thành tràng vờn xuống những chòm cây khác.
Trời bềnh bệch sáng. Bóng mờ tối kéo lên khỏi cái thế giới
cây cỏ vườn hoang. Một hơi gió chậm thoáng qua, dặt dìu trong ánh hương thơm
mát và thân yêu làm động lòng Tuấn. Nỗi buồn khổ của chàng có một tình nũng nịu
như được ai vỗ về.
Tuấn lặng lẽ trở vào mang theo một ý định còn mơ hồ trong
lòng trống trải. Anh chậm chạp uống tiếp tuần nước, nghe vị trà nóng thấm dần
vào huyết mạch và đợi cho rõ rệt thêm cái ý mới mẻ vừa rồi.
“Lan Hương có phải là thế đó chăng? Hay em là một giống cây
hoa nào khác trong trại này?”
Cái buổi sáng thằng Dần trông thấy cái bóng đàn bà, chính là
buổi sáng bữa sau cùng nàng ta đến với Tuấn. Nó có thể hốt hoảng mà trông sai
được, nhưng lối biến hiện của nàng ta bao giờ cũng đột nhiên. Tuấn cứ muốn suy
nghĩ theo những cách thông thường của mọi trường hợp trần gian. Anh nhớ lại cac
câu nói bóng của người yêu và thấy những ý nghĩa rành rọt trong đó.
Tuấn lý luận để tắc trách. Lòng anh không nghi hoặc như trước
nữa, đã hướng cả về một chiều tin tưởng rồi.
Lan Hương biết bao lần bảo anh rằng nàng ta không hẳn là người
thường: “Em dù là một thứ người gì mà yêu anh được thì cũng đáng là bạn của
anh... Từ cổ chí kim, em là giống yêu văn thơ, yêu hoa cỏ...”. Và lần sau cùng
gần gũi, nàng than trách Tuấn: “Thân em chỉ là thân cây cỏ, anh có coi ra gì,
anh ngờ vực không cho em được xứng đáng với anh...”.
Tuấn để trở đến tâm hồn mình tất cả bầu hương khói dị đoạn mà
trí não anh trước đây vẫn cố xua đuổi. Một chút phản kháng của phần thiết thực
còn sót lại, nhưng Tuấn nhất tâm làm ngơ, con người si tình ấy như đã được thứ
men nồng làm chìm lịm bớt đi cái sức giày vò của sầu muộn.
Trại Bồ Tùng Linh (VII)
Trưa hôm đó, Tuấn đã chịu ăn uống hơn mấy bữa trước.
Tên đầy tớ của anh vẫn kín đáo hầu hạ gần đấy và lo ngại rình
xem thái độ của anh. Có lần Tuấn bất chợt nhìn thấy nó kinh ngạc nghe thấy tiếng
anh khẽ cười. Tự anh cũng ngạc nhiên khi thấy mình nhẩm đọc những lời thơ Liêu
Trai và có một ý mong đợi bâng quơ và êm nhẹ.
- Hay là...
Nhưng anh không dám theo ý nghĩ này, vì vẫn sợ khơi gợi thêm
sự thất vọng. Anh lặng lẽ mỉm cười và thở dài một tiếng rất thong thả.
“Lan Hương ơi! Em có biết cho lòng anh lúc này không? Em ở
đâu, xa chơi ở chốn non nước nào?”
Anh nghĩ tới cái thân thể anh ôm ấp trong bao đêm nồng, đến
này là một hình ảnh hư huyền mà tất cả sự rung động của tâm hồn anh, của xác thịt
anh đều đê mê luyến tiếc, cả niềm oán hận, cả sự đau thương cũng thấm thía những
ý vị yêu dấu chí tình mà anh tưởng có thể động được tới tâm ý người đẹp.
Buổi chiều, ngồi hờ hững giở từng trang sách ngoài hiên, Tuấn
trông ra cổng thấy Dần ở đâu về, mang lấp lánh một nghìn vàng hoa, một thẻ
hương và xách một chai rượu nhỏ.
Tưởng như mọi lần đọc sách Tuấn không bao giờ để ý đến hắn, Dần
đi ra phía đầu hiên bên ngoài. Tuấn không nói gì, ngồi lại một lát rồi trở vào,
mở cửa sau xuống nhà dưới. Dần không có đấy. Anh rảo bước ra phía đầu hiên xem
thì thấy hắn đang xếp vàng rượu lên cái bàn cũ đặt bên gốc hoàng lan.
Dần lúng túng trả lời câu hỏi của anh. Hắn đặt lễ cho yên đất.
Tuấn biết là nói dối, tra vặn mãi, Dần mới thú thật rằng hắn đi xem bói bên
làng về.
- Ngài dặn cậu gặp vía âm, phải cúng ngay mới giải được hạn.
Con sợ cậu cấm, mới mạn phép cậu tự ý sửa lễ ở đây...
Tuấn ái ngại cho lòng thành thực của tên đầy tớ trung thành,
nhưng không muốn cho nó được để tâm đến chuyện riêng của anh thêm, Tuấn bảo:
- Thôi được, cất cả đi...
Vẻ mặt thất vọng của Dần làm động lòng anh.
- Cất cả lên nhà... Việc của cậu, để cậu... cúng lấy cũng được.
Anh nói cho hắn vững bụng:
- Mà như thế linh nghiệm hơn.
Dần phải vâng theo.
Tuấn nhìn những lễ vật cất trên chiếc bàn nhỏ của anh giữa
nhà, anh mỉm cười thấy cả hai đồng tiền xin âm dương đặt trên đĩa trầu cau. Mấy
nén hương cháy đã cắm sẵn trên bát gạo sống.
Lòng ái ân ngan ngát một niềm thành kính, Tuấn bỗng trầm lặng,
cảm thấy một sự xui khiến nào rất lạ lùng.
Anh khe khẽ gật đầu và thầm hiểu ra ngay cái ý định chập chờn
trong tâm trí anh từ sáng sớm.
*
Buổi chiều, thằng Dần bưng cơm lên, Tuấn bảo nó lấy đưa cho
anh chai rượu nhưng không được dọn chỗ vàng hương. Tuấn không quen uống rượu
nên chóng ngà say. Anh thấy tâm tình nhẹ thêm được nỗi buồn, lại rót uống cố
chén nữa. Chai rượu nhỏ chỉ vơi đi một phần ba nhưng Tuấn cho là mình đã túy
lúy.
Anh đợi thằng Dần cất dọn mâm bát và lên đèn rồi dặn hắn:
- Hôm nay cậu lại cần ở một mình nhà trên, cho mày xuống đi
ngủ sớm đi... Cậu như thường rồi, mày đừng lo.
Anh vui vẻ nói thêm câu sau cùng để yên lòng đầy tớ.
Bóng tối đã buông đầy vườn, trước khi anh chú ý. Tuấn ra đầu
hiên nhìn cây hoàng lan vút lên trong cao thắm, lòng ngậm ngùi một tình nhớ
thương cũ kỹ như chàng thư sinh thuở nào. Anh thầm nhẩm những lời khấn gọi dật
dờ.
Anh thoáng thấy mình nghĩ gàn gàn, nhưng tức khắc quên bỏ.
Tuấn rón rén trở vào nhà, ngạc nhiên thấy vắng lặng quá chừng.
Anh làm ngoa thêm dáng điệu ngất ngưởng, miệng mỉm cười hoài, nhưng lòng buồn vẫn
còn rười rượi.
Anh nói lên tiếng:
- Biết thế, ta cứ uống hết chai rượu...
Trong lúc cả tâm hồn anh trách gọi Lan Hương.
- Lan Hương ơi, em nỡ bỏ anh thực sao? Bao nhiêu cực khổ tạm
nguôi chẳng được bao lâu, vết cũ lại mở ra, càng thêm đau xót lắm.
Mắt anh nhòa trông ánh đèn. Anh đổ cho tại rượu, anh dè chừng
thương nhớ chua cay lại sắp kéo đến, và tưởng trước cái đêm trằn trọc, sẽ kéo
dài hiu quạnh không biết đến bờ bên nào.
Nỗi sầu đủng đỉnh nhắc lại trong những lời thơ não nùng.
Thi nhân xưa đã chịu vò xé biết mấy mươi từng mà thấu được
tình cảnh anh chàng đến thế?
- Lan Hương ơi, em là người sống hay là vật hư huyền, thì tâm
hồn em cũng phải anh linh để mà cảm thông với anh chứ. Mà hoa, cây là giống đa
tình cảm, sao mà tệ ác được thế, sao mà để khổ cho nhau đến bực này?
Lòng thấm đượm oán hờn, và đôi mắt bi ai, Tuấn thẫn thờ đến
rút thêm mấy nén hương châm cắm trên bàn và quên mình trong một bầu không khí
buồn thương mênh mang bát ngát.
Anh ngồi thả trong ghế bành nhìn sững làn khói đưa thẳng lên
để uốn éo hỗn hòa trong sự tan biến. Tất cả tâm hồn anh như chắp tay cầu khấn,
lời thầm reo động, muốn quyện bay xa cùng áng hương ngà say.
Anh muốn có sự tâm niệm chân thực của người đàn bà góa ngồi
trước bài vị lang quân. Anh muốn có những câu van nài di thấu tới cõi u linh của
tâm tưởng. Lời của anh chỉ là ý nghĩ, anh thấy chưa đủ vang động. Giá Tuấn có
thể quên thẹn để lên tiếng khấn những ý kêu gọi trong lòng!
Một bài thơ đã nhiều lần nhắc tới, lúc đó như long lanh nổi
lên những ý tha thiết không ngờ:
Có những buổi, ta nhìn em kinh ngạc
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi, ôi mắt dị kỳ!
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
Thấy cả bóng một vừng dông thuở trước
Cả con đường sao mọi lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ.
Tuấn đọc khẽ mấy câu đầu. Rồi hứng khởi nâng giọng cao dần,
anh say sưa nghe tiếng anh vang trầm và đưa xa, vuốt nắn từng đoạn ngân, dịu
dàng và réo rắt theo những điệu sôi nổi:
Ta run sợ cho yêu là mệnh số
Mặc tay em định hộ kiếp ngày sau
Vì người em có bao phép nhiệm mầu
Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc
Ta đặt em lên ngai thờ Nữ sắc
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da
Buổi em về, xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi, thở lấy hồn trinh tiết
Ôi! Cám dỗ! Cả mình em băng tuyết
Rợn xuân tình lên bộ ngực thanh tân!
Ta gần em, mê từ ngón bàn chân
Mắt nhắm lại, để lòng nguôi gió bão.
Khi sùng bái ta nâng từng nếp áo,
Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm
Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm
Chưa tội lỗi cũng thấy tràn hối hận.
...
Một câu cười khẽ sóc lên đâu đó.
Tuấn quay đầu lại nhìn ra hiên. Khung cửa sâu tối trống
không. Anh ngoảnh sang phía trong thì Lan Hương đã đứng cạnh anh, áp bên tay
trái.
Tuấn mừng rỡ không nói được.
Khói hương bay loạn vì anh vùng đứng lên.
Lan Hương lại về! Đang ở trước mặt anh đây, và Lan Hương tươi
đẹp lộng lẫy hơn trước! Áo nàng màu lá cây điểm kín đáo những vòng thêu ẩn hiện
lấp lánh như dát ngọc châu. Thân nàng như một mình cây rêu bán đầy hạt móc. Chiếc
quần cẩm nhưng mềm nhẹ phủ trùm xuống như hơi sương trên đôi chân hài.
- Lan Hương! Lan Hương! Em... ồ... thực Lan Hương của anh đây
rồi!...
Nàng mỉm cười, đôi mắt ngọc huyền khoan dung soi vào lòng
sung sướng của anh...
- Lan Hương! Em có biết anh đang cầu khấn em đây không?
Nàng thoáng liếc những vàng hương bày giữa nhà. Nàng đủng đỉnh
nói qua nét cười:
- Em không biết sao em lại về?...
Rồi nghiêm nét mặt lại, nàng thở dài, nhưng đôi mắt lại tươi
sáng ngay, nàng ngồi xuống ghế và dìu Tuấn ngồi ghé cạnh. Một tay vẫn đặt lên
vai anh. Nàng nhìn nhận vẻ mặt xanh gầy của anh.
Nàng nói, tiếng nói nghe gần mà như từ đâu xa vừa tới.
- Em giận anh lắm, anh đòi biết những điều không cần biết,
anh băn khoăn nghĩ ngợi quá để động tới lòng hờn dỗi của em... Em vẫn còn giận
anh, đã nguôi đâu, nhưng giận mà vẫn không thể nào quên được thương nhớ.
Nàng ngả đầu bên má Tuấn, ngửa lòng bàn tay cho anh đặt tay
lên. Tuấn chỉ khẽ nói được một câu:
- Thế em có còn giận anh mãi không?
Nàng ròn rã cười, ngẩng lên nhìn nghiêng:
- Cái bác si tình này rõ khéo hỏi ngẩn ngơ. Những nỗi khổ
lòng còn cả trên nét mặt anh đây, sao em không cảm không thương? Thôi, em chả
giận nữa đâu, đừng khóc nữa.
Tuấn đã qua được cái phút mừng tủi ban đầu. Anh tự nhiên hơn
trong cử chỉ thân yêu, và lời nói có duyên dễ dàng đến miệng:
- Không đâu, anh không khóc nữa, mà cũng chẳng còn khổ nữa.
Em đến, thế là hết cả gánh nặng cho anh, tiêu tan hết cả muôn nghìn vạn ức cay
đắng... Lòng anh bây giờ chỉ tràn đầy hạnh phúc mà Lan Hương mang đến, đem trả
lại cho anh...
Nàng nghe, mắt đăm đăm một vẻ say sưa dịu dàng. Nàng hướng lấy
những lời tâm tình của ai mỗi lúc một nồng nàn theo sự ấp iu một thêm khăng
khít.
Cánh mũi hơi nheo lại, nàng trách đùa:
- Anh chàng này lại sinh ra rượu chè nữa đây!
Tuấn cười, muốn nói: “Uống để quên buồn” nhưng anh chỉ im lặng.
Nàng nhẹ gỡ cánh tay Tuấn, đứng lên nhìn anh trong làn mắt quyến luyến lả lơi,
rồi lững thững đi xem khắp nhà như một người mới đến.
Tuấn nhân lúc ấy ra hiên vội sửa lại vẻ trễ tràng của râu tóc
anh. Anh cạo mặt mò trong bóng tối. Lúc Tuấn trở lại thì Lan Hương đang bỏ áo
bên giường.
Anh đến trước mặt nàng, thân thể bừng dậy một sức trai tráng
si mê và lòng khẽ run một thứ tủi hổ êm nhẹ. Anh quỳ gối xuống đất giấu đầu vào
lòng Hoàng Lan Hương, muốn giữ mãi mãi lấy nàng trong hai tay ràng buộc.
Lan Hương đỡ anh dậy, ánh đèn vặn nhỏ trên bàn làm trong trẻo
bóng tối. Thân hình nàng dưới màng áo dịu mỏng lồ lộ hết châu báu của tòa nữ sắc
vô song. Cái lầu ngà ngọc đẹp thêm một vẻ thần tiên khi ở trong màn sương chập
chờn.
Những ngón măng chuốt của nàng bó lấy cánh tay anh, nàng nói
như mê man:
- Ai mà không thương anh cho được! Người đàn ông nào đây? Mà
có sức quyến rũ nhau đến chừng ấy...
Nàng kéo Tuấn lên, nói nhỏ vào tai chàng:
- Tất cả mình em nhớ anh quá quắt lắm... chốn nằm ngồi của
thân em như trăm nghìn cánh tay ôm ấp của người yêu...
Tuấn chỉ khẽ đáp:
- Lan Hương!
Nàng liền lả người, giao phó toàn thân, buông mình trong nguồn
im lặng nồng say và dữ dội.
*
Tuấn rắp tâm hỏi một câu anh đã dự sẵn.
Anh chưa lựa được cách cho lời nói thốt ra, và lặng nhìn bên
trong khi nàng thu người nép bên cạnh. Nghe hơi thở của nàng, Tuấn sợ nàng ngủ
đi mất, khẽ gọi:
- Lan Hương!
Đôi mắt đen ngước lên nhìn anh. Miệng nàng mỉm cười, chờ đợi.
- Lan Hương ơi... em... em có biết anh nghĩ gì lúc này đây?
Nàng hơi nhíu mày nhưng vẫn cười:
- Anh chỉ nghĩ lẩn thẩn.
Rồi không để Tuấn nói nữa, nàng tiếp luôn:
- Em khổ lắm. Anh giày vò em vì bao nhiêu tầng nghi ngại...
Anh đón hỏi, anh nghĩ ngợi... cả trong những đêm yêu dấu, anh dò xét em trong
giấc mơ. Không, anh để em nói. Anh nghĩ gì, anh định hỏi gì em đêm nay, em biết
cả, mà em biết, em càng thêm tủi... Em yêu anh, em có cần biết rõ anh đâu. Cả đến
tên của anh em có hỏi đâu. Duyên may như gió thổi, tình cờ đưa em qua chốn này.
Em thấy một văn nhân cấu tứ trong đêm khuya, thế là lòng em rung động. Đến với
nhau ngẫu nhiên, rồi sẽ phải xa nhau mãi, trước kia không duyên cớ, không gặp gỡ
mà yêu dấu thì sau cũng không oán giận sự chia ly... Duyên ta chỉ có một hồi,
anh nên để cả trăm năm vào sự ngắn ngủi ấy.
Câu nói nàng đượm một giọng buồn mà Tuấn chưa từng biết lần
nào. Những lời yên ủi anh như thổn thức những ý tủi hận. Tuấn ôm sát nàng vào
lòng thì thấy đẫm ướt một bên ngực.
- Trời ơi! Sao em lại khóc! Lan Hương?
Nàng nghẹn ngào:
- Không, em sung sướng mà khóc đấy. Em chỉ nghĩ đến lúc này
thôi, chỉ hưởng lấy hạnh phúc được nằm bên anh thôi. Giây phút này còn nhiều nữa
trong đêm nay kia mà, phải không anh, phải không mình?
Tiếng “mình” nàng gọi đến lần đầu tiên, tha thiết một vẻ rất
lạ thường trong giọng ướt lệ. Tuấn chợt lo sợ, chống một bên cánh tay nhìn
nàng. Anh không nhịn được câu hỏi:
- Sao, Lan Hương? Chỉ còn đêm nay nữa thôi ư?
Nàng gật đầu, nhưng rồi bật cười thấy Tuấn cuống sợ ra hết cử
chỉ. Nàng nhẹ bịt tay lấy miệng Tuấn, và kéo anh chàng xuống bắt nằm im.
- Anh để em nói anh nghe. Lúc nãy vào đây em bảo là giận
mình, nhưng em nói dỗi đấy. Em chỉ tưởng kiếp kiếp không thể nào về với nhau được
nữa, nhưng lòng em còn ân hận mãi, đêm nay cảm vì tâm thành của người yêu, em lại
về cảm tạ tình anh, cũng để giải cái hận không có đêm từ biệt... Không, mình đừng
nói, em nghe thấy ý mình rồi. Duyên ta có lúc cùng, nhưng tình ta còn mãi mãi
không thể mất được...
Nàng vui vẻ đưa tay cho Tuấn giữ.
- Thật đấy, thân em sẽ không được gần anh nữa, nhưng tâm hồn
Lan Hương không mất được... vì... vì... còn ở mãi trong tưởng nhớ của anh, phải
không? Đây em nói rõ cho anh biết nhé: Anh có biết tình anh đã sinh ra một Lan
Hương không giống ai, không thuộc về loài nào, cũng không có hắn nguyên tính,
nguyên chất của Lan Hương nữa. Trước kia có lẽ em là một loài thảo mộc nào.
Nhưng bây giờ anh muốn nghĩ em là giống nào thì em là giống ấy, một buổi chết
rũ dưới hoa, và tâm hồn u uất còn vẩn vơ mãi; em có thể là một người của những
áng văn thơ ngàn đời kết lại, mà cũng có thể là hồn tinh của hương hoa. Nhưng
Lan Hương của anh chỉ muốn là Lan Hương của anh thôi.
Nàng đăm mắt nhìn xa, đối diện Tuấn mà như cách biệt, nói những
lời quá chừng hoa mỹ mà giọng hết sức chân thành.
Lòng Tuấn ngơ ngác nghe theo và ngạc nhiên thấy trong ý sâu
kín của mình đã nghĩ đúng như nàng vừa nói.
Thốt nhiên, nàng cười dồn một chặng, tiếng lanh lảnh rung động
khắp người Tuấn, rồi nàng chúi đầu vào vai anh rúc rích hoài. Tuấn lùi ngực lại,
nhẹ ấn vai nàng ra coi thì đôi mắt lại như vừa khóc, vẻ mặt buồn khổ ngoảnh giấu
vào phía trong. Tuấn lại chống tay dậy vỗ về nàng, tâm trí hỗn độn và ảo não một
tình thương mơ hồ. Anh âu yếm lau nước mắt cho nàng và ngừng tay trước hai mắt
kia nhìn anh một vẻ yên lặng vô cùng tận.
Anh gợn người lên vì một tiếng gọi âu yếm:
- Mình!
Nàng thấp tiếng xuống nói tiếp:
- Em nói nhiều quá, toàn những lời vô ích, đến với nhau có phải
để phân giải đâu? Đêm của đôi ta một khắc một mất đi mãi. Em... Có chuyện này
muốn hỏi mình. Nàng trỗi dậy áp miệng vào tai Tuấn nói bóng gió một câu rất
tình tứ.
Nhưng nàng lại ngả người ra tiếp sau tiếng cười khẽ.
- Phải đấy, ta yêu nhau hơn, mình yêu Lan Hương nữa đi!
Nàng áp má đón giữ lấy bàn tay ve vuốt của anh.
Tóc nàng xõa lượn dưới khuôn mặt bừng say...
Và biết bao đắm đuối mê cuồng trong hai vòng tay mềm của nàng
quấn quýt!
*
Tuấn nhất định cố thức. Đêm tĩnh mịch trùm vây lấy căn phòng
mờ sáng trong một màu hồng. Lan Hương khép cánh hoa dịu thơm bên mình anh. Thần
trí Tuấn dật dờ trong các tiêng canh khua, chập chờn vương theo một ý bâng
khuâng... và bỗng như choàng tỉnh dậy.
Anh không trỗi, tin rằng mình không hề ngủ. Có chăng chỉ là
chợp mắt một giây lát ngắn thôi. Nhưng Lan Hương nằm đâu? Anh chực vùng dậy
lòng sẵn đón các điều buồn bực, thì nhận thấy có người thấp thoáng trong nhà, ở
ngăn kê bàn làm việc của anh.
Nàng.
Anh gọi:
- Lan Hương!
Người thiếu nữ không giật mình, “dạ” một tiếng rất ngoan.
Nàng đã chỉnh tề ăn mặc như lúc mới vào, lững thững bước lại gần Tuấn. Lần thứ
nhất anh chú ý đến bước đi quá chừng êm nhẹ của Lan Hương. Nàng đi như không hề
đặt chân xuống mặt đất. Anh chợt hỏi:
- Kìa, đôi giày của em đâu rồi?
Nàng đặt tay giữ ống quần và hé bàn chân không ra, vừa thong
thả cười nói:
- Em... đang tìm giấy gói để lại đôi hài này cho anh.
Rồi nàng đưa cái tay giấu sau lưng ra. Tuấn cầm lấy đôi hài
ngẫm nghĩ một lát.
Nàng ngồi xuống mép giường kéo tay Tuấn đặt vào lòng với đôi
hài và dò ý tứ trong mắt anh. Rồi chậm rãi, nàng hỏi Tuấn:
- Đôi hài này còn ghi những bước sau cùng của em khi tới đây
với anh...
Nàng vội nói thêm:
- Nghĩa là làm chứng cho lòng ân ái của em khi trở lại với
anh lần sau cùng. Em để vật ấy lại cho anh làm kỷ niệm.
Tuấn bất chợt thấy mắt nàng long lanh lên trên vẻ mặt nghiêm
trầm. Nàng đứng dậy vừa nói:
- Nó cũng là hoa kết lại đấy, mình nương nhẹ cho em.
Rồi đỡ lấy đôi hài, nàng đủng đỉnh ra ngồi trên ghế bành và gọi
Tuấn:
- Anh ra đây.
Lúc Tuấn ngồi chung ghế với nàng, Lan Hương lại dặn:
- Anh lấy giấy bọc lại rồi cất đi, em chả muốn cho ai trông
thấy nó đâu.
Tuấn với một tờ báo phong đôi hài đặt xuống gần đó và không
dám đứng dậy.
- Anh đem cất đi đi!
- Không. Lan Hương, chẳng nhẽ bỏ anh bây giờ sao? Kỷ niệm của
em anh giữ gìn nhưng anh trao lại cho em cả tâm hồn anh rồi. Cả sự sống nữa. Em
mà ra đi lúc này...
Nàng giơ tay bịt câu nói của Tuấn:
- Không, em không đánh lừa anh để biến mất ngay đâu, em chưa
đi vội đâu...
- Nhưng rồi em cũng bỏ anh phải không?
Nàng thở dài:
- Em không gần anh được mãi.
Bao nhiêu lời van lơn của Tuấn chỉ làm nàng thêm nức nở. Hỏi,
nàng chỉ nghẹn ngào than trách số phận ác nghiệt. Tuấn cũng rưng rưng nước mắt.
Hai người ôm nhau chung một tình ngậm ngùi.
Lan Hương thu nhỏ người lại trong tay vỗ về im lặng của anh.
Tất cả vẻ đẹp của nàng như nổi dậy lên, như lộng lẫy thêm,
quý báu vô cùng vì sẽ không còn đó mãi. Sự tiếc rẻ thêm gay gắt và lòng quyến
luyến càng thiết tha. Tuấn muốn hòa hợp hai người vào một cuộc đắm đuối vô cùng
và đã thấy những ý kêu gọi long lanh trên mắt người thiếu nữ.
Thân thể nàng rung gợn cùng một câu nói hạ thấp:
- Sao mình không... cất đôi hài của em đi.
Tuấn đem cất vào ngăn kéo bàn giấy rồi trở lại ngay. Lan
Hương đã ở bên giường nhí nhảnh vui tươi, nhưng một vẻ trang trọng lả lơi còn
trầm ngâm lắng trong đôi mắt.
Nàng ngừng lại giữa lúc cởi áo ngoài, run run tiếng nói riêng
vào tai Tuấn:
- Mình, em yêu mình, em yêu mình!
...
Tuấn thức dậy thì trời đã sáng bạch. Anh không thấy bông
hoàng lan nào nàng để lại như mọi lần. Có lẽ đó cũng là một dấu hiệu. Anh cố
tìm cách tự an ủi để đành tâm chịu lấy sự vắng mất người yêu. Tất cả ân hận của
anh bây giờ là không thể gắng thức được lúc nàng đi, gọi là có phút thở than
vĩnh biệt.
- Nhưng Lan Hương có để cho ta tiễn biệt bao giờ đâu? Có lẽ
nàng không đủ can đảm.
Tuấn đoán rằng đêm vừa qua nàng định ra đi ngay từ lúc để lại
đôi hài.
Tuấn cảm động nghĩ đến sự gìn giữ trân trọng của anh đối với
vật kỷ niệm thân yêu đó. Anh thầm nhủ:
- Lan Hương ơi, từ nay anh chỉ còn một chút hương thừa của
bàn chân em nữa thôi.
Đến bàn viết, rút ngăn kéo nâng cái gói cất đó đêm qua, thì lạ
lùng sao! Anh thấy trên tay nhẹ bổng.
Tuấn thất vọng mở mau tờ báo ra để thấy điều mà mình đoán trước.
Trong gió toàn một thứ cánh hoa mẫu đơn trắng lẫn với những sợi
cỏ tóc tiên.
Mấy bông hoàng lan khô anh giữ trong hộp đựng thư cũng biến mất.
Trại Bồ Tùng Linh (VIII & IX)
Tuấn lượng trước cái buồn của mình trong những ngày dài dằng
dặc sau này. Anh không thể đành lòng ngay với sự đoạn tuyệt đột nhiên và kỳ dị
của người thiếu nữ. Cái phen tái hợp ngắn ngủi kia chỉ khiến anh thêm tiếc
thương, thêm ham muốn người đẹp. Lòng anh mất hẳn mối hy vọng của sự nghi ngờ.
Thôi, từ nay trở đi Lan Hương sẽ không khi nào còn đến với anh nữa.
Tuấn nhận được điện tín của Bình ở Hà Nội hẹn về chơi. Anh
mong bạn như mong sự yên ủi. Trong thư trước trả lời anh, Bình xem ra để tâm tới
chuyện của Tuấn lắm. Anh chờ đợi bạn đến mãi mười một giờ hôm sau.
Nhưng đến khi Bình đến Trại Bồ, Tuấn thấy hơi khó chịu. Người
bạn vui vẻ nhanh nhẹn kia hỏi han và xem xét cuộc tình duyên của anh như một
nhà luận lý thiết thực. Tập “Thư nhật ký” giở chừng của Tuấn, Bình đọc rất chăm
chú nhưng mắt thoáng có những ánh cợt đùa. Tuấn thuật tiếp chuyện Lan Hương để
đáp lại những câu hỏi cặn kẽ của Bình và rào trước:
- Không phải là tôi không suy nghĩ đến đủ các lẽ, nhưng vô
ích. Đến ở ngay trong cảnh, đem hết tri giác, hết tâm tư ra mà luận đoán bao
lâu còn không hiểu gì cả, nữa là đứng ngoài trông vào... Đây có phải là tiểu
thuyết đâu?
Bình gật đầu mỉm cười nói chậm rãi:
- Đứng ngoài trông vào... Có lẽ chính vì thế mà cái tiểu thuyết
của anh, hay của Lan Hương mới rõ được các đường lối... Giá như anh tinh tường
được như lúc chưa bỏ dở những đoạn nhật ký rất hay của anh thì có lẽ tôi nói
chuyện với anh dễ hơn. Nhưng anh si tình mất rồi. Tôi lấy làm lạ rằng anh si
tình như một cậu học trò hai mươi được yêu lần thứ nhất.
Tuấn nhìn bạn, buồn rầu và thương hại cho bạn hay cho chính
anh. Một lúc lâu anh mới thở dài nói:
- Không phải thế đâu, Bình ạ. Có lẽ tôi yêu mê, yêu say thực,
nhưng chính tôi không còn tấm lòng của người học sinh tuổi hai mươi... Đàn bà
qua trong đời tôi cũng đã nhiều, nhưng toàn là những thứ tình đẹp đẽ một cách rất
văn chương: tôi ôm ấp trong tay và nghĩ đến một đoạn văn sẽ viết. Tôi thực
không được yêu - không yêu được ai hết. Nhưng đến người đàn bà kỳ dị này..
Không! Thực thế đấy, cái sự vô lý ỡm ờ đó thực đã khiến tôi... không đời nào sẽ
quên được. Cái bí mật của Lan Hương tôi dò xét chán chê rồi đấy, nhưng bây giờ
tôi đành chịu...
Anh nhìn xa, nói trầm ngâm như nhắc cho mình nghe một câu
quen nghĩ:
- Đã là sự bí mật thì chỉ là sự bí mật, không thể nào tìm được
một cách phân giải nào bao giờ...
Tuấn để mặc bạn dò xét, tìm tòi và căn vặn.
Anh trả lời các điều Bình hỏi và lững thững đưa Bình đi xem
khắp Trại Bồ.
Tuấn nhìn lại các hình cây vòm lá anh đã thuộc lòng và nay thấy
mất đi một khí sắc huyền hồ rất thân thiết. Anh nhớ lại những lúc đứng dưới
bóng đa cổ kính mà tưởng đến hồi quá khứ nặng trìu cành lá những ngày nào: bây
giờ cây đã hóa không hồn cũng như những rèm liễu, những vùng mẫu đơn và cả đến
dăm bảy gốc hoàng lan trơ trẽn.
Tuấn nhìn vẻ trầm mặc ngẫm nghĩ của Bình mà thấy hết cả sự vô
ích của lý trí. Bình trỏ cây bồ đề cỗi gần bờ nước:
-Từ khoảng cây này đến cây hoàng lan là chỗ cái hình bóng biến
đi phải không? Thằng Dần không trông rõ lúc biến mất?
Tuấn toan nhại lại: “Trông - rõ - lúc - biến!” Nhưng anh chỉ
gật đầu.
Bình với tay ướm một đoạn thân cây, rồi lẻn qua khóm lá thấp
tới bên gốc đề ba trạc.
- Trèo lên đấy dễ lắm. Lá chung quanh phủ kín đáo ba mặt.
Giá... một buổi tối nào tôi muốn biến mất thì...
Bình bặt ngừng lại: Đôi mắt Tuấn vừa lườm anh.
Bữa cơm chiều, Tuấn khề khà uống rượu trước vẻ ngạc nhiên và
ái ngại của Bình. Tuấn chỉ nói đến chuyện văn thơ, Bình hiểu anh chàng tránh những
lý luận của bạn. Nhưng Bình đã rắp tâm hỏi lại các việc muốn biết, rồi đi bách
bộ ở ngoài hiên rất lâu. Anh nhẩm thầm trong trí câu nói của Lan Hương mà Tuấn
chép lại trong tập “Nhật ký”.
“Nhà em ở bên một hồ nước, sau rặng liễu và khóm trúc vàng...
em sẽ đưa anh đến nếu anh xứng đáng...”
Bình vào nhà, ngồi trước bàn viết của Tuấn nghĩ ngợi đến
khuya rồi mới đi nằm. Bên cạnh Tuấn, trong bóng hồng mờ - ngọn đèn treo trên
phía bàn lúc ấy đã vặn nhỏ hơn - Bình chập chờn với nhiều câu hỏi. Anh ngủ thiếp
đi khi tưởng tượng đến một hình ảnh kiều diễm.
*
Sáng hôm sau Tuấn thức dậy, chưa biết Bình đi đâu vắng, toan
gọi thằng Dần hỏi thì Bình mũ áo hẳn hoi ở ngoài vừa trở về.
Bình trả lời Tuấn:
- Tôi đi tìm cô Hoàng Lan cho anh. Chưa thấy nhưng thế nào
cũng thấy. Tôi muốn cả anh cùng đến một chỗ này, nhưng tôi còn muốn anh nghe
tôi nói đã. Đêm qua tôi nghĩ nhiều lắm, thì ra câu chuyện của anh cũng có liên
quan đến các bí mật của chủ nhân Trại Bồ này...
Hôm nhận được bức thư vắn tắt của Tuấn, Bình đã hỏi biết được
rằng chủ nhân khu Trại Bồ là một vị hưu quan. Ông ta có một trai và một gái.
Người con trai lấy vợ rồi sang Pháp học và chết ở đó; con dâu ông Án buồn rầu
quá, tự tử chết, nhưng việc ấy giữ kín trong nhà. Hai cô con gái lớn lên rồi “lấy
chồng rất xa”... cả việc ấy cũng chỉ là một cách che đậy. Hình như họ bị thất
tình, trốn đi, hoặc bị cầm giữ ở một bệnh viện nào, hay cũng lại quyên sinh như
người chị dâu. Nhưng chuyện đó đến hôm nay Bình không cho là quan hệ lắm nữa.
Vì Bình đã biết người vẫn “hiện” đến đây, trái với điều Bình đoán từ hôm trước,
không phải là người nhà này. Cô con gái tên Hoàng Lan Hương (tên đó có phải tên
thực hay tên mượn?) có lẽ chỉ là bạn bè thân thuộc gì với ông Án. Cũng là con
nhà thế gia, sống trong khuôn nghiêm cấm, và nuôi tâm hồn cô quạnh bằng tất cẳ
cái kho tàng lãng mạn nồng đắm của văn chương, Hoàng Lan Hương hẳn có một phen
thất tình (Bình vội chữa câu nói lỡ) hẳn cũng... có một sự uất ức gì đó. Người
thiếu nữ kiều nhược sống với tưởng tượng, lòng âm ỉ cháy những sự ước muốn ngấm
ngầm, là hạng người rất dễ bị kích động. Một cuộc phân ly, một chuyện bức bách
về tâm tình, một sự tuyệt vọng cho duyên phận, thế là đủ cho cô Lan Hương khuê
các, lặng lẽ thành ra cái nhân vật kỳ dị mà Tuấn thấy “hiện lên” ở Trại Bồ này.
Trại Bồ chẳng qua là nơi trước kia Lan Hương thường qua lại chuyện trò với mấy
người bạn chí thiết? Những lời tâm giao, những câu than thở hay giãi bày, những
mộng tưởng ân ái thổ lộ qua từng đoạn văn thơ... Bao nhiêu tâm sự ấy vẫn còn u
uất trong bóng lá cây.
Trại Bồ về sau bỏ hoang vì cái oan khí của người con dâu và cảnh
chia rẽ đột nhiên của gia đình chủ nhân.
Chỉ có Lan Hương là người thỉnh thoảng đến thăm viếng. Và chỉ
đến những lúc đêm tối, hoặc để không ai trông thấy hoặc để cảm thông với hồn cảnh
vật hay để tưởng mình là hiện tinh của hoa cỏ, nay vì một cớ éo le ỡm ờ nào thường
dật dờ trong trí não vơ vẩn của người... người... (Bình chọn lấy tiếng nhẹ) người
không vững bộ thần kinh.
Tuấn ngồi nghe, bình tĩnh và có lẽ nhẫn nại. Anh chỉ mỉm cười
một đôi chỗ, rồi lại chăm chỉ yên lặng theo lời phân giải của Bình. Lúc đó anh
mới khẽ nói:
- Không... vững bộ... thần kinh? Thì anh cứ bảo là người điên
có tiện không?
Bình:
- Người điên... có lẽ. Nhưng không là thứ người điên rồ dại mất
hẳn thần trí. Lan Hương có những lúc, những hồi giữ một ý định rất bền chắc, những
hoài niệm rất mạnh mẽ và có lẽ tinh thần sáng suốt một cách kỳ dị để sống trong
những nhân vật và những cảnh tưởng tượng ra...
Lan Hương đến trại lần này anh thấy không phải mới lần đầu.
Những lần trước không biết cô ta tưởng mình là gì. Nhưng khi đột nhiên thấy có
một anh chàng viết lách dưới đèn trước cửa sổ, không biết ở đâu tới, nhưng đoán
chắc là một nhà văn, Lan Hương mới nảy ra cái ý dàn xếp câu chuyện có một vẻ đẹp
huyền hồ và làm thực hiện một thiên Liêu Trai mới. Trong ý đó có sự tò mò tinh
nghịch của người đàn bà và tính thị kỳ của tấm lòng ưa tác quái. Cử chỉ của
anh, sự kinh ngạc cùng với những câu hỏi ngờ vực khêu gợi thêm cái hứng thú
khác thường của người thiếu nữ. Cái tấn kịch ứng biến ấy, đêm này qua đêm khác,
nối tiếp theo một điệu, một cách khá công phu. Không khí huyền ảo đã thừa có ở
nơi hoang tịch này rồi, chỉ thêm sự giữ gìn chờ đợi cho khôn khéo, Lan Hương có
thể ẩn đâu mà chẳng được? Cô nàng chọn một nơi ẩn tiện nhất, những khi cần phải
lẩn tránh; không kín đáo lắm nhưng lại rất chắc chắn vì không ai ngờ. Những người
vào hạng này thường vẫn có những thông minh sắc sảo thế đấy.
Tuấn đủng đỉnh hỏi:
- Anh cho là Lan Hương trốn lên cây... hoàng lan?
- Không
- Cây liễu?
- Không. Có một cây đậm hơn... dễ leo hơn...
- Cây đề?
- Có lẽ. Một người gái đẹp ẩn lên cây để xem một anh chàng ngớ
ngẩn theo tìm... sao lại không? Mà sự trêu ghẹo đó biết bao thi vị!
- Nhưng về sau, Lan Hương có bị ai tìm theo đâu? Tôi ngủ dậy
thì...
Bình bật cười:
- Thì không thấy cô nàng bên cạnh? Lạ nhỉ. Anh không thể ngờ
được sao? Cô nàng đã biến một cách giản dị nhất: là nhân trời chưa sáng, bỏ anh
ngủ đấy, để lại cho anh một bông hoa hoàng lan nhặt ở ngoài vườn hay đem theo sẵn
trong mình... lẳng lặng ra về, dễ lắm. Những bông hoàng lan của Hoàng Lan
Hương... Cái ý nên thơ xinh xắn có thể làm vẩn vơ được một anh chàng tên là Tuấn...
Nhưng đến mớ cỏ với những cánh mẫu đơn tráo đổi vào đôi hài... thì... cũng hơi
ngoa.
Bình chắc hẳn hồi lý thuyết của mình làm tỉnh ngộ bạn ngay,
và sững sờ thấy mặt Tuấn vẫn lạnh lùng. Tuấn khảy một nụ cười nhạt nhẽo của người
không tin nhưng không buồn cãi.
- Đa tình cũng đẹp lắm, nhưng đừng mê muội, Tuấn ạ. Anh làm
tôi muốn thương hại cho anh...
- Đúng đấy. Bây giờ anh dẫn tôi đến con đường cuối cùng của
anh đi.
- Con... đương... cuối... cùng?
- Ừ. Quên rồi à? Anh còn đưa tôi đi tìm... tìm thấy Lan Hương
mà! Phải không? Ở đâu thế nhỉ?
Bình toan gắt với cái giọng thờ ơ của Tuấn, nhưng anh vẫn ôn
tồn:
- Ở cũng không xa đây, độ hơn hai cây số. Tôi biết đấy có một
ngôi chùa, và mới qua quýt hỏi thăm được rằng có một người con gái nhà giàu đến
ở trong ấy. Tôi chưa kịp tìm đến tận nơi, và muốn về để anh khỏi nóng ruột lúc
thức dậy. Rồi ta sẽ cùng đến để anh trông thấy người tiên của anh giữa ban
ngày. “Nàng thiếu nữ ban đêm” có lẽ bây giờ đã ngủ dậy.
Tuấn không nói gì, lấy chiếc áo trắng dài mặc, rồi theo Bình.
Ngôi chùa nhỏ có vẻ cũ nát ở trong một rào cây lưa thưa. Trước
chùa một cây đa lớn và cả bóng. Cửa chùa bưng đóng, một cánh gỗ hé mở một phía
bên.
Im vắng nhẹ reo trong râm lạnh và thơm nhẹ hương hoa. Một cây
hoàng lan nhô lên khỏi một khóm trúc.
Tuấn thản nhiên trước một cảnh vô nghĩa lý.
Hai người đẩy cánh cửa hé bước vào. Không thấy ai. Hương khói
vắng ngắt.
Trở ra còn đang bỡ ngỡ thì từ phía sau chùa có tiếng lá khô bị
dầy xéo chậm chạp. Một bà già ăn mặc cũ kỹ cầm chổi bước ra sân, một đứa bé con
gái, đầu còn trái đào, tay cầm một cành ổi, hai quả đã chín, trố mắt nhìn hai
người.
Bà già lúc đó mới biết có khách lạ.
Bình hỏi nhưng bà già không biết ai là cô Lan Hương. Ở đây độ
hơn tháng nay có một cô con gái lịch sự, nói tiếng trọ trẹ, và một đứa ở gái,
không biết tự đâu đến xin trọ ở chùa. Đứa bé nói leo: À phải rồi, cô Huế với chị
Tân. Cô con gái hình như ở dưỡng bệnh, cả ngày cả tháng chẳng chuyện trò chi hết,
chỉ thỉnh thoảng vơ vẩn hát những câu lạ tai và buồn buồn... Bà già là người vẫn
ở nhờ đây, giúp đỡ người đầy tớ cô gái kia về việc mua bán thổi nấu; nhiều lúc
bà già cũng dò hỏi và tìm cách gợi chuyện với cô Huế, nhưng không biết được gì.
Bình hỏi người con gái hình dung thế nào.
Bà già đáp rằng cô ta mặc quần áo hàng đen, tóc tết vấn trần,
cũng có hôm búi thành món sau gáy, da trắng xanh, dáng người yếu ớt có lúc nào
sai bảo đứa ở thì nói nhỏ nhẻ ít khi bà hiểu là nói gì.
Bình thấy Tuấn nghe bằng cái tai rất lơ đãng. Tuấn có vẻ một
người ngoài cuộc đi với Bình cho có bạn và lễ phép không dính dáng đến việc
không phải của mình...
- Thế... (lời Bình hỏi bà già) cô... Huế không ở đây nữa sao?
- Bẩm vâng. Hai ba hôm trước người nhà đưa ô tô đến đón đi,
hôm đến ở cũng người nhà đưa đến.
- Sao lại ở đây mà không ở chỗ khác?
Nhưng Bình tặc lưỡi mà hỏi tiếp một câu mà bà già lại không
biết thế nào mà trả lời. Sau một hồi căn vặn không có kết quả gì, Bình đành phải
trở ra với anh chàng Tuấn hững hờ một vẻ đáng ghét. Hai người không nói với
nhau một tiêng nào trên đường về.
*
Về nhà, Tuấn ngả người trên ghế bành, ngồi rất im lặng.
Bình đang tìm cách phân giải cho Tuấn nghe những lý luận của
mình thì đột nhiên, nhìn thẳng vào mặt bạn, Tuấn hỏi:
- Này Bình, bao nhiêu lời anh nói với tôi lúc sắp ra đi, anh
còn nhớ cả chứ?
- Còn, thế sao?
- Anh cũng không tin hẳn, phải không?
Tuấn lẩm bẩm như nói một mình:
- Sự bí mật có bao giờ cắt nghĩa được đâu.
Bình không giấu được vẻ lúng túng. Mắt Tuấn sáng lên một cách
lạ.
Bình hiểu rằng lời thuyết giải đến thế nào cũng không ích gì,
ái ngại nhìn Tuấn.
IX
Mặc dầu bao nhiêu công tìm kiếm về sau, Tuấn và Bình đành chịu
nhận Hoàng Lan Hương là sự bí mật không thể khám phá được. Một lần, cách đó tám
năm, Tuấn nghe một vị bác sĩ chuyên chữa về thần kinh nói đến một bệnh nhân có
những triệu chứng giống như giả thuyết của Bình. Đó là một người đàn bà. Người ấy
tưởng mình là đủ các nhân vật trong tiểu thuyết, khi tin mình là công chúa
trong cung cấm, khi là người kỹ nữ sông Hương ca những câu ai oán, lại cũng có
khi tự nhận là một vài đào hát trứ danh Nam Kỳ. Bệnh không thế nào chữa được.
Người điên mất hết lý trí, đã giao trả về nhà và hình như đã chết. Tuấn không
còn cách nào biết rõ thêm.
Thời gian không có hiệu lực gì: Tuấn không bao giờ quên được
Hoàng Lan Hương, và cả với Bình, anh cũng không bao giờ chịu nhắc đến chuyện
trước. Văn nghiệp của Tuấn không hề có chút dấu vết nào của người thiếu nữ. Cuộc
đời tình duyên của anh chàng cũng không thiếu những phen gặp gỡ dễ ưa.
Nhưng đàn bà, đối với Tuấn, không ai có nhan sắc nữa.
Vàng và máu (I)
Kể từ châu Kao Lâm ở phía đông và miền bản Slay ở phía tây mà
đến, từ mạn bản Pắc đi xuống, và từ bản Hạ trở lên, cách non mười dặm chung
quanh chỉ có quả núi đá Văn Dú là cao lớn nhất.
Sừng sững giữa trời, bao quát đồi cây gò đất, núi ấy trông đường
bệ hách dịch như đứng làm chúa tể cho cả một vùng phong cảnh hoang vu. Dân Thổ ở
các làng gần đó, ngày nào cũng trông thấy ngọn núi mù mù lam tím, nhô lên trên
những hàng rừng xanh chi chít um tùm.
Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía cũng như
các ngày ủ dột âm u, Văn Dú lại hiện ra với một vẻ riêng oai linh và mầu nhiệm.
Đối với ngọn núi lớn, người Thổ không chỉ có tấm lòng kính cẩn
phảng phất đối với mọi cảnh bát ngát cao cả, họ còn sợ hãi Văn Dú như một vật
có tri giác, có quyền phép làm hại người. Ở những miền quanh đó và trong thời bấy
giờ, ai nói tới Văn Dú là một sự gở lạ. Họ chỉ gọi đến tên quả núi trong những
khi tức giận nhau mà chửi rủa hay những khi thề bồi. Một người say rượu lớn tiếng
xúc phạm đến Văn Dú cũng đủ làm cho khắp cả một châu biết đến tên mình; họ thuật
lại những lời nói và cử chỉ của anh ta một cách e dè, nhưng đó là thứ chuyện họ
ưa nghe ưa kể nhất.
Núi Văn Dú có một cái hang lớn. Đó là nơi chứa những tai họa
ghê gớm cho giống người Thổ và là cái nguồn những sự khủng khiếp và những chuyện
kinh hoàng. Người ta gọi hang là hang Thần, vì đó là chỗ thần núi ở.
Thần núi Văn Dú linh thiêng lắm, lại rất độc ác và hay nghi
ngờ. Người nào hoặc vô tình, hoặc cả gan đến gần thần núi là bị thần hang bắt
vào giết đi. Cho nên từ Văn Dú trở ra chừng hai ba dặm chỉ toàn thấy rừng xác,
đất hoang; người Thổ không dám đến khai phá để cày cấy.
Trong một năm có nhiều khi trời đất đang yên bỗng đùng đùng một
cơn sấm sét. Trên không gió vù, chớp loáng như gươm thiêng vung tít; cây cối vật
vã tan nát, người vật lo sợ mất hồn. Khắp mọi nhà đều khua gõ inh ỏi cùng với
các bà then thầy pháp kêu khấn cho đến khi nguôi cơn. Nhưng thế mới đỡ tai họa.
Lại nhiều khi, sau một hồi giông tố dữ dội, mây đen biến hết,
ánh nắng lại soi xuống; bấy giờ trên đỉnh núi chập chờn một tầng khói phủ dần dần
bay đi. Trong đám hơi trắng mà người ta bảo là nộ khí của thần hang, có người
nói rằng thường trông thấy những hình bóng kỳ dị.
Trong trí tưởng tượng của người Thổ thì cửa hang Thần trông
như mồm con yêu hay hổ quái gở. Cái mồm ấy phun ra những hơi độc làm thành dịch
tễ, gió bão để phá hủy các làng. Trước cửa hang Thần, người thì bảo có toàn đầu
lâu, người thì bảo có đủ các rắn rết. Lại có người khoe đã nằm mơ vào tận trong
hang xem. Qua khỏi những chỗ nguy hiểm rồi thì đến nơi ruộng nương tươi tốt, suối
chảy thong dong, cây lá rườm rà, bò lợn từng đàn ăn trên những bãi cỏ xanh non,
lại có các nàng tiên nhởn nhơ chăn dắt. Song cái tấm ảnh đào nguyên kia, người
tả cũng cho là một cảnh mai mỉa không thể làm dịu được vẻ độc ác của núi Văn Dú
gây nên bởi những truyện phao truyền từ trước đến giờ. Những người già cả trong
làng thì cho rằng hang Thần hóa thiêng là vì trong đó chôn cất không biết bao
nhiêu thây của quân giặc Khách. Bọn giặc này sang tàn phá nước Nam khi trước bị
quân ta đuổi riết, túng thế ẩn vào Văn Dú rồi bị hãm chết đói trong hang. Đứa
nào cũng mang theo rất nhiều vàng đã cướp của dân lành. Nay những của ấy hãy
còn, nhưng chúng thành thần để giữ lấy.
Về đời ông cha họ thì dân cư vẫn thường cấy cầy được ở gần
hang Văn Dú; bấy giờ những tai họa chưa có mấy, nhưng mỗi khi sụt sùi mưa gió lại
văng vẳng như có tiếng khóc thảm thiết lẫn với tiếng cười gằn; chốc chốc một
cơn gió là là mặt đất chạy qua, cửa hang bỗng gầm rít lên một cách giận dữ.
Gần làng kia thuộc châu Kao Lâm có một cái suối chảy đến. Suốt
phát nguyên từ Văn Dú và chạy ngang mặt đông bắc quả núi, là phía hang Thần
trông ra. Như thế là một sự nguy khốn cho làng ấy. Đã có một hồi, muốn phòng những
tai nạn, người ta đặt ra lệ tế thần Văn Dú hàng năm. Vật hy sinh là một người
con gái đẹp. Tiếng oán khóc của các cha mẹ những người gái trinh bị giết quăng
xuống suối nghe bi thảm đầy trời đất, nhưng không hề cảm được lòng những dân
làng độc ác vì ngu dại kia.
May sao được mấy năm sau, có một ông quan trấn người Kinh
nghiêm cấm không cho giết người như thế nữa.
Về sau họ thấy trong châu động dữ và đã mấy phen toan giữ lại
lệ xưa nhưng đều không thành.
Song cái tục vô đạo này tuy mất đi, cái linh thiêng của tà thần
Văn Dú mỗi ngày một lớn, lòng mê muội và khiếp sợ của người miền ấy ngày một
tăng thêm.
I
Một buổi chiều mùa đông, trời rét căm căm, mưa phùn bay mù mịt.
Từ miền bản Đông thuộc châu Kao Lâm đến mạn Văn Dú, có hai
người đàn ông Thổ đang rảo bước đi. Hai người mặc quần áo vải chàm; áo cộc thắt
lưng chẽn ngoài quần ngắn và chít ống. Một người trạc ngoại bốn mươi, nét mặt
già dặn, mắt sâu, miệng nhỏ, thở hơi ra như khói, cái quai nón mắc xuống cằm đè
lấy bộ râu lưa thưa còn lấp lánh những giọt nước mưa. Thỉnh thoảng ông ta ngoảnh
bảo người đi sau mấy lời. Người này không nói gì cứ ra chân bước. Hắn còn trẻ;
trông rắn rỏi và khỏe mạnh không kém người trước; hai môi dẩu, trán nhô và cao;
đầu quấn một cái khăn lớn. Một tay hắn thủ vào trong áo, còn tay kia thì nắm một
cái lao dài.
Hai người cứ trông thẳng phía núi đá mà tiến lên, lúc xéo lên
những lối rậm rạp bên đồi, lúc giẫm gẫy những nấm rạ cụt ở ruộng lúa. Qua hết đồi
này lại đến những gò khác; những bụi cây xanh mưa ám mỗi ngày một rậm, đồng ruộng
ngày một thưa; ngọn núi đá mờ mờ trong đám sương mù cũng ngày một rõ.
Gió bấc thổi bên tai vù vù từng trận. Trước mấy rặng rừng hay
trước những khóm cây nặng nề ướt át, những làn mưa bụi trắng từng lớp bay qua.
Chân tay mặt mũi hai người tái cứng đi. Giá cấu chắc không biết
đau, có lẽ cũng không biết rét nữa. Quần áo phía trước, mưa hắt nhiều nên ướt đẫm.
Từ đầu gối trở xuống toàn những đất đỏ với bùn; mỗi lúc qua một đám cây thấp
nào thì cành lá gột sạch gần hết.
Đi tới miền đồi núi và bụi cây chen chúc nhau, không còn dấu
vết cày cấy nữa, hai người Thổ trông thấy quả núi Văn Dú đứng chắn trước mặt,
hình vóc cao lớn như ngăn đôi phần đất, đỉnh núi như chạm bầu trời.
Họ dừng chân ở cạnh một cái suối lòng sâu như vực. Nước suối
xanh đặc như rêu thẫm, đang lừ lừ đi vào một cái hốc to dưới mấy cụm cây lá xòe
ra và phủ xuống như cánh tàn.
Họ cởi đôi hài xảo [1] chùi xuống cỏ ướt rồi nhét vào trong nải.
Rồi họ đứng thẳng dậy, ngoảnh trông lại quãng đường họ vừa đi
qua. Bấy giờ vào khoảng cuối giờ Thân (bốn giờ chiều), mưa đã gần tạnh. Bao
nhiêu rừng núi đằng xa đều tan thành hơi trong đám sương dày đặc trắng đục.
Chân trời một màu xám như bạc cũ, làm nổi bật những bụi rậm ở gần bên.
Trông sang mạn bờ suối bên kia, thì Văn Dú như sát lại cạnh
mình. Quả núi lồng lộng đen sì làm át cả những đống gò nhỏ mọn. Một vài bụi cây
xơ xác chen lách dưới những tảng đá lớn mốc rêu. Về phía trong cùng, một rặng rừng
thấp và lưa thưa như không dám xanh tốt.
Hai người lẳng lặng tìm một chỗ đỡ trơn và hẹp nhất, lần lần
bám víu lấy cành lá rễ cây mà xuống rồi lại chậm chạp khó nhọc như thế mà leo
lên bờ suối bên kia.
Từ bờ suối bên kia là địa phận của sự ghê gớm.
Sang tới nơi, họ lại xỏ chân vào đôi giày rơm, rồi cùng nhau
đi đến chân núi.
Lần này, người tuổi trẻ phải cầm lao đi trước.
Họ bước đi rón rén, cẩn thận, bốn mắt liếc đây liếc đó. Hơi
có tiếng lạ cũng dừng lại bởi vì họ yên trí rằng họ đã đi vào nơi hoang dã có lẽ
chưa bao giờ có vết chân người.
Mưa đã tạnh hẳn rồi. Gió cũng đã ngớt. Chim chóc bắt đầu lên
tiếng ở trên mấy ngọn cây cao hay trong ngách đá. Thỉnh thoảng một vài con quạ
vừa bay ngang núi vừa kêu.
Đường đất cũng không đến nỗi khó đi quá như họ tưởng. Nhưng họ
cũng không dám bước bạo.
Đi khỏi một cái đồi, qua mấy tảng đá nằm nghiêng trên đám cỏ
lau đến một tụm cây họp lại thành gần như một cái miếu. Thấp thoáng trong đám
lá xanh um, thấy như có dấu vết một bức tường đổ nát. Hai người không đứng lại.
Dấn lên mươi bước nữa, đi về phía chân núi, qua khỏi cái miếu nhỏ, thì hang Thần
hiện ra.
Hang Thần trông cũng không to: bề cao bằng nửa cây gạo già mọc
trước cửa. Miệng hang loe ra như cái miệng hũ. Phía trên toác ra như cái môi
rách, phía dưới có hai tảng đá dài và nhọn đâm lên ở hai bên mép như hai cái
nanh. Trông vào trong hang càng xa càng rộng, càng đen tối thêm thăm thẳm sâu
vô cùng tận. Trên cửa hang chi chít các giống thảo mộc kỳ dị lấp lánh vì nước
mưa phùn mới rửa. Từ trong kẽ đá, bò ra những khúc cây tròn và mốc, bám chặt
vào miệng hang. Những dây những rễ; những lá đỏ, lá xanh, lớn bé lẫn lộn, mọc đầy
mép hang; những cụm trúc rất nhỏ với những đám cỏ xác xơ chen nhau ở bên những
khóm si con và những vừng tóc tiên xanh tốt.
Tiếng hạt nước đọng trên cao vẫn rơi xuống lộp độp lẹt đẹt
không dứt, nghe mạnh hơn tiếng chim kêu ríu rít ở những ngọn cây nào. Bỗng chốc
cơn gió thổi qua, một loạt nước đổ ào xuống như muôn nghìn quả chín rụng.
Hai người Thổ cùng nín tiếng, hai mắt mở lớn, người thì đưa
nhìn tả, người liếc hữu, rồi lại trông vào cái lỗ hang đen tối âm thầm. Họ đã
chực lẳng lặng đi vào. Nhưng lại cùng nhau dấn bước qua, đi sang phía hữu hang
Thần đến bên lớp dứa ông xúm quanh chân mấy cây dại hình thù kỳ quặc: những cây
này đang uốn éo sát chân núi; cây thì chui ra khỏi một tảng đá vỡ, cây thì để
cho dây leo quấ chằng chịt, nhiều cây đã đổ, gãy, bật hẳn rễ, mà vẫn còn sống
như thường.
Đang tha thẩn nhìn, không có mục đích, hai người bỗng trông
thấy một vật gì màu lam ở dưới một cụm dứa. Nhìn kỹ thì hình như một bọc vải, một
cái khăn gói màu lam, nằm trong đám lá dại với cỏ cao trên mặt đất. Nhưng không
ai dám nói gì hết: nhiều vật tương tự như nhau có thể làm cho mình trông lầm được.
Họ bèn bước lại gần để xem sao.
Thì ra một cái khăn gói thực. Một cái khăn gói đã mở, ướt như
mới lấy dưới nước lên bên cạnh cái khăn gói ấy còn thấy một con dao rừng và một
cái gậy lớn.
Hai người Thổ cùng kinh ngạc như nhau, mỗi người toan kêu
lên: “Có ai tới đây rồi!” nhưng không thể nào dám thốt ra miệng một điều quái lạ
như thế.
Ông già ngập ngừng một chút, rồi cúi xuống giở cái bọc ra
xem: một cái áo chàm vải thô, gói lấy hai nén bạc còn nguyên, với lại...
Bỗng một tiếng khiếp sợ rú lên ở bên cạnh. Ông già đứng phắt
dậy, nhìn, thì thấy người con trai mặt tái mét, hai mắt mở to lạ, vừa chỉ về
cái miếu trước mặt vừa lớn tiếng nói:
- Kòi ka! Kòi ka! (Kìa trông! Kìa trông!)
Vang núi cũng đáp lại hai tiếng “Kòi ka!” nghe như lời quát
tháo.
Ông già trông theo ngón tay trỏ thì thấy trong đám miếu nhỏ,
một người chết treo dưới một cây bàng trụi lá, mọc bên một bức tường đổ nát và
mốc rêu.
Người chết hình vóc to lớn, đầu có bím vắt ra sau lưng. Chiếc
dây chão thõng xuống thắt nút ở gáy và lằn vào cổ, làm cho cái mặt phị, xám hơn
bộ quần áo chàm ướt, cúi gằm xuống mà nhìn người ta bằng con mắt không có tròng
đen. Hai bàn tay buông thõng, để cho nước mưa ở năm đầu ngón rỏ xuống như giọt
tranh. Hai bàn chân đen sì kiễng trên không, như muốn với lấy đám lá sắc cỏ nhọn
mọc ở mặt đất.
Các nhánh cây cao chung quanh thỉnh thoảng lại đưa đẩy. Một
đàn quạ đen sợ người không dám xuống, gọi nhau bằng những tiếng thê thảm lạnh
lùng.
Hai bác Thổ nắm chặt lấy tay nhau, không dám tiến, không dám
lùi: quanh mình chỗ nào cũng thấy toàn sự chết.
Họ liếc nhìn vào chỗ tường đổ, trên mặt những gạch còn lại
rêu non và những lá nhỏ bám xanh lè. Ở quãng giữa những mảnh tường, tự do mọc
lên những cây lá lạ kỳ, rậm rạp. Dây bìm nửa tươi nửa chết bò leo ra tới mấy
cây ở gần và rủ xuống phất phơ bên cạnh đùi cái thây ma in lẳn trong hai ống quần
đẫm nước.
Một trận gió lạnh buốt ào ào chạy đến làm rung động cả một
phía rừng cây. Người Thổ già rùng mình một cái, còn người con trai thì bắt đầu
run. Anh ta lẩm nhẩm trong mồm những câu gì mà người kia đứng bên cũng không
nghe rõ. Dần dần ông già như đã định trí, bèn dắt người con trai quay lại, toan
cùng đi tới cửa hang. Song anh chàng càng đi càng run thêm, phải níu lấy ông
già, van đừng tiến lên nữa.
Người Thổ già đứng lại, ngẫm nghĩ một lát, rồi lẩm bẩm mấy tiếng,
trong lúc ấy người con trai một tay nắm chặt lấy lao chống xuống đất, còn một
tay nhất định không chịu buông ông già.
Yên lặng hồi lâu, trời đất hình như chỉ riêng u ám ở chỗ
hoang dại ấy.
Mặt ông già không còn nét kinh hãi nữa. Ông ta đang cúi đầu
nghĩ, bỗng ngẩng lên, rồi nói:
- Bây giờ đi vào trong hang.
Anh con trai mở mắt rõ to:
- Hử? Đi vào hang à?
- Chứ gì!
- Không! Tôi sợ lắm!
Ông già cau mặt:
- Sợ gì mà sợ! Đằng nào cũng phải vào trong ấy xem đã, rồi
còn đi về nữa kia mà?
- Không! Không! Đi về thôi! Không vào! Vào thì chết!
Ông già lấy trong mình ra một mảnh giấy. Trên đó có mấy hàng
chữ nhỏ mà ông ta không đọc, chỉ để mắt tới những hình vẽ ngòng ngoèo như hình
sông núi của bức địa đồ. Ông ta ngẩng nhìn thân quả núi cao, trông vào cái hang
cách độ mươi bước và lãnh đạm nhìn cái xác treo lủng lẳng kia.
Rồi ông ta thản nhiên nói:
- Nào! Ta đi vào đi.
Người con trai lắc đầu không thôi:
- Không có vào! Vào thì chết! Vào chết đấy!
Ông già cứ trông kia thì biết. (Hắn vừa nói vừa chỉ vào thây
người Khách). Người ta nói không sai đâu.
- Mày không vào thì tao vào một mình. Đừng có nói lôi thôi. Rồi
về đừng kể công đấy... Đi vào không?
- Không... vào thì chết thôi! Vào thì chết!
Người Thổ già thấy vậy bực mình để mặc người trẻ tuổi đấy,
xăm xăm bước lại cửa hang.
Đến nơi, ông ta lấy trong bọc ra mấy thanh củi thông, một ít
bùi nhùi với một hòn đá lửa.
Lúc bó đuốc thông đã cháy, ông già một tay cầm bó đuốc giơ
lên ngang trán, một tay cầm thanh đao to bản, quay lại mắng người con trai là
nhát, rồi bước thẳng vào hang Thần. Người con trai cuống cuồng chạy vôi lại cửa
hang, cất tiếng gọi.
Nhưng ông già đã lẩn vào trong bóng tối. Ngọn lửa đỏ ngùn ngụt
cũng dần dần bé, rồi biến hẳn đi.
Ở ngoài này, anh ta lắng nghe còn thấy đằng hắng một vài lần
và thỉnh thoảng có tiếng chân thong thả khua trong một vũng nước.
Anh con trai chợt nghĩ đến những chuyện ma quỷ ám ảnh người
chết mà dẫn vào chỗ chết. Anh ta thốt nhiên hối hận rằng không nhẩy xổ vào mà
kéo ông già lại. Chắc hẳn ông già này lại bị thần núi bắt vào hang. Anh chàng cố
nín hơi nghe tiếng chân dần dần bước còn thấy đưa ra là ông già vẫn còn sống...
Gió bên ngoài thổi qua không buốt bằng hơi lạnh ở hang đá.
Anh ta run cầm cập, hai hàm răng va nhau ngày một mạnh.
Bước chân đã thấy im từ lâu.
Chốc chốc lại có tiếng kêu “chít chít” nhỏ, với tiếng thì thầm
lớn, tưởng như lời mỉa mai độc ác của yêu quái, ngồi xổm đang vừa ngáp vừa bàn
nhau. Thỉnh thoảng hình như cả cái hang thở dài. Rồi, im lặng. Không thể nào
đoán được những việc xảy ra trong cái miệng tối bí mật ấy.
Anh Thổ nghe thấy tiếng lạ thì sợ. Anh ta thấy yên lặng lại
càng sợ già.
Anh ta muốn hắng giọng lên, hay nói đùa một câu gì để phá cái
tịch mịch nặng nề kia; nhưng không dám. Anh ta cũng không dám nhìn về phía cái
xác chết; lại tưởng người thắt cổ sắp đứng xuống đất, sắp đi lại gần mình. Anh
ta rợn người lên, khẽ ngảnh đầu nhìn lại.
Những bụi cây rậm rịt chung quanh như vây chắn lấy mình: chưa
bao giờ anh ta thấy có cái cảm giác vắng vẻ biệt tịch bằng lúc ấy!
Thế mà có một người đi cùng, thì lại vào trong hang mất, lại
vào đấy sau khi gặp người thắt cổ! Chẳng hiểu bụng dạ ông thế nào. Mà sao mãi
không thấy ông ta ra? Mãi không thấy tiếng gì hết! Hay lạc mất lối? Hay bị mê mẩn
sợ hãi quá? Hay gặp ma quỷ? Chết rồi cũng không biết chừng!
Trong lòng người con trai nôn nao như điên dại.
Anh ta nghĩ: hay là gọi thực to lên cho lão già đáng giận kia
nghe thấy. Nhưng anh ta lẳng lặng trông xuống dưới chân.
Bên những cái màng đeo những hạt sương sáng đẹp như thủy
tinh, anh Thổ trông thấy những hòn đá sỏi lăn dưới cỏ. Chợt nẩy ra một ý kiến.
Anh ta nhìn vào trong đám tối: cúi xuống nhặt ba bốn hòn to nhất, nghĩ ngợi một
lát, rồi đánh liều vứt mạnh vào hang. Hòn sỏi hình như bị rơi xuống chỗ có nước,
vì nghe đánh “bõm” một cái. Anh ta lại ném hòn đá nữa, lần này ném thẳng không
rụt rè.
Tức thì trong hang có tiếng rên hừ hừ đưa ra. Anh này chưa hiểu
sao, bỗng lại nghe thấy tiếng bịch bịch rất mạnh và rất nhanh, rồi như có muôn
vàn đá sỏi đổ mưa xuống một cái vũng nước không trông thấy.
Ngay lúc đó, ông già ở trong đám tối hiện ra, nét mặt ông đổi
hẳn đi; hai mắt kinh sợ mở đến rách kẽ; nón lật ra đằng sau, khăn buột xuống
quanh vai, tóc xõa ra rũ rượi.
Người trai Thổ chưa kịp kêu hỏi thì ông già đã loạng choạng
bước vội đến bám lấy hắn, vừa rên, vừa thở hồng hộc, lưỡi líu lại không nói được
nên lời nào. Anh chàng điên cuồng vội quăng cái lao đang cầm đi, rồi vực ông
già ngồi xuống một bên, một cánh tay đỡ lấy sau vai, tay kia rờ lên trán ông
già thì thấy toát ra một thứ mồ hôi lạnh và dính nhơm nhớp. Anh ta rối rít gọi
ông già tiếng kêu vang động cả quả núi; nhưng ông ta đã rũ xuống, chỉ lắc đầu
không thưa. Ngực ông ưỡn lên, hơi thở càng ngắn càng tức tối. Hai mắt ông trợn
ngược nhìn về phía cửa hang là phía ông quay đầu vào. Mồm thì há cứng đờ, thỉnh
thoảng như muốn hớp lại. Một dòng máu từ mũi chảy ra, đen và loãng, lẫn vào bọt
dãi ở hai bên mép, rồi cùng chảy xuống cái cổ xanh xám, đầu ngoặt ra đằng sau.
Người trai Thổ vừa run run kéo vạt áo lau cho ông già, bỗng trông thấy trong
cái tay co quắp của ông ta một mẩu giấy nhỏ.
Ông già lúc ấy không thở được nữa.
Anh ta không thể nào biết được vì sao mà ông ta đến thế, thấy
mẩu giấy lạ, bèn cậy tay ông già ra xem: đó là một mảnh giấy khổ vuông, to bằng
hai bàn tay màu hung hung vàng, dầy và dai lắm.
Trên mặt giấy, về phía tả, có vẽ một người quỳ, cầm một tờ giấy
lớn giơ lên ngang mặt; ở phía hữu vẽ một bó đuốc đang cháy; nét vẽ rất ngây dại.
ở hai hình vẽ có mấy hàng chữ Hán, nghĩa như sau:
Miệng có hai răng
Ba chân bốn tay
Mày vào trăm chân
Mày lên ba tay
Tên mày là đá
Đá sinh trứng đá
Trứng đá giữ của
Mày có sức mang
Mày giầu mày chết.
Vàng và máu (II)
Về mạn tây nam, sau lưng Văn Dú, là châu Nga Lộc cách xa hòn
núi đá chừng ngót một phần tư ngày đường.
Nhà quan Châu nằm trên một cái đồi, mái lợp tranh, tường đất
lèn, thấp và vững chãi. Chung quanh cây tre bụi rậm vây kín. Dưới chân đồi là
xóm làng.
Quan châu Nga Lộc năm ấy chừng ngoại bốn mươi tuổi; người khỏe
mạnh và tinh anh.
Trong nhà lên đèn đã lâu. Ông xếp gọn các đơn từ đã phê xong,
lấy cái nghiên mực lớn chận lên, và gạt nhỏ ngọn đèn dầu lạc để trên một cái
giá cao trên án sách. Ông tụt giầy, kéo cái chăn dệt ngũ sắc lên tận vai, đặt
cái gối xếp lại cho chỉnh, rồi vừa ngả lưng lên bộ ván gỗ quý, vừa thở dài một
cách khoan khoái nhẹ nhàng.
Rồi ông quay đầu về nhà bên, cất tiếng se sẽ gọi:
- Tô Nang à! Tô Nang à!
Tô Nang là người thiếp thứ năm của ông châu Nga Lộc.
Một lát tiếng chân ở ngoài đi tới; ông lim dim mắt nhìn lên
đình cái màn chưa buông, nằm vuốt râu có ý đợi.
Cái cảnh tù mù trong gian phòng kín đáo kia vì đâu làm cho
ông thấy thú vui của sự sống?
Cửa khẽ cọt kẹt mở, rồi tiếng một người đầy tớ vào thưa:
- Quan Châu à!
- Hả?
- Có một thằng trông mặt sợ hãi lắm, ở đâu hồng hộc chạy vào
đây. Nó còn ở ngoài sân đấy.
- Nó vào làm gì?
- Không biết, nó không nói được, nó cuống quýt bám lấy Noòng,
chỉ một tí nữa thì bị chó cắn chết.
- Mà sao lại để cho nó vào mới được chứ? Đuổi nó ra.
Quan Châu càu nhàu quay lưng vào. Rồi lại gọi:
- Tô Nang à, đi đóng cửa nhé!
Một lát, cửa lại thấy mở hé:
- Quan Châu à!
Quan Châu ra dáng bực mình:
- Cái gì?
- Cái người lúc nãy...
- Mặc kệ người lúc nãy! ầy... à!
Rồi ông ta lại gắt:
- Mà làm sao cho nó vào mới được chứ?
- Cổng sắp đóng, nó chạy nhanh quá, đâm bổ vào, không ai giữ
được. Bây giờ nó không chịu ra nữa.
- Nhưng mà nó vào làm gì?
- Nó đã nói được rồi, nó bảo, nó cần thưa với quan Châu một
chuyện ghê gớm lắm.
Ông Châu bực tức vô cùng. Ông chống tay chực dậy, nhưng còn
mong bảo cái thằng Thổ quấy rầy kia một lần nữa rằng: Việc quan trọng đến thế
nào cũng phải để đến mai.
Người đầy tới trình:
- Nó bảo nó thấy một việc ghê gớm lắm: Một người thắt cổ, với
một người chết. Mà nó ở hang Văn Dú ra.
- Ở đâu ra?
- Hang Văn Dú!
- Hang Văn Dú?
- Phải rồi.
Ông Châu ngồi hẳn dậy, bảo:
- Gọi nó vào đây.
Rồi ông tung chăn ra, khêu to ngọn đèn lên, sốt sắng muốn
nghe câu chuyện lạ.
Một người trần gian dám vào hang Thần là một việc ghê gớm vô
cùng. Song đối với quan Châu thì lại là một điều lạ thường hơn là quái gở. Vì
ông là một người Thổ vào hạng trí thức, đọc quá nhiều sách chữ Hán, biết rất
nhiều chuyện cũ. Những điều ly kỳ mà dân ông mê tín, như những việc bí hiểm
trong hang Thần, ông vẫn ngờ là chuyện huyền hoặc cả. Ông cho rằng đó chỉ là điều
phao truyền vô lý của những người bày chuyện, hoặc là những mưu kế của kẻ nào
có vàng bạc giấu ở trong hang.
Nhiều lần ông muốn vào tận hang xem, ông lại hy vọng sẽ tìm
thấy của cải trong ấy nữa. Song những điều dị đoan truyền lại lâu ngày vẫn có
cái vẻ hiển nhiên rất vững chãi, thường khiến những người cứng cỏi nhất cũng sờn
lòng. Ông chắc hang Thần không làm hại được mình. Thế mà biết bao lần ông hăm hở
định vào thám hiểm trong hang, rồi lại thôi không dám quyết.
Người Thổ lúc nãy đến tưới dầu vào ngọn lửa can đảm chỉ chực
những tắt trong lòng ông Châu.
Hai người đày tớ dẫn anh ta vào, như dẫn một người tù. Ông
Châu bảo họ lui ra và đóng cửa lại.
Người lạ mặt đứng trong bóng tối, cách quan Châu chừng năm bước,
vẫn yên lặng chưa nói gì. Ông Châu quắc mắt nhìn khắp người anh ta. Bộ mặt anh
ta rõ rệt in hình ảnh sự kinh ngạc. Anh lấm lét vừa nhìn xung quanh, vừa thở,
môi mấp máy không nói được lời nào.
Một lúc, ông Châu quát to:
- Mày vào đây làm gì?
Anh Thổ choàng người lên, rồi nhìn thẳng vào mặt ông Châu, nuốt
nước bọt nói:
- Tôi trình quan Châu... rằng ở cửa hang Văn Dú... có một người
thắt cổ.
Khi nói đến tiếng Văn Dú, anh ta tái mặt đi. Bỗng thấy ông
Châu nhìn ra phía cửa gắt mắng ầm lên:
- Ai cho chúng mày nghe trộm? Có cút đi không chết cả bây giờ?
Người lạ mắt luống cuống.
Ông Châu bảo:
- Tao mắng người nhà, mày không việc gì.
Rồi ông lại hỏi:
- Nhưng mày đến Văn Dú hay sao mà biết?
- Tôi ở Văn Dú về đây... Tôi đi với một người tên là Nùng
Khai...
- Nó đâu?
- Chết rồi!
- Nó chết rồi à?
- Phải!
- Chúng mày là người ở đâu? Đến đây làm gì? Đầu đuôi thế nào,
kể ra.
Người con trai chưa kịp trả lời, ông Châu lại hỏi:
Mày không biết Văn Dú là chỗ ghê gớm sao?
- Có chứ!
- Thế sao còn đến, đến làm gì... nói mau?
Người con trai thưa:
- Tôi là người châu Kao Lâm, làm bộ hạ cho quan Châu tôi. Tôi
với Nùng Khai đến Văn Dú vì có việc riêng, quan Châu tôi sai làm. Chúng tôi đến
nơi thấy có mọt người thắt cổ treo trên cây, mà là một người Khách, nên không
dám vào nữa, tôi chắc người Khách chết vì hang Thần. Nùng Khai không thèm nghe,
vào đấy một mình nên quả nhiên cũng bị chết.
Người lạ mặt bèn thuật lại việc từ lúc ông già Thổ đi vào
trong hang tối, lúc anh ta đứng một mình chờ đợi nghe ngóng mãi, rồi ném hòn đá
sỏi thứ hai và nghe thấy tiếng chân ông già chạy ra, cho đến lúc ông già chết cứng
trong tay mình mà không nói được một lời nào hết.
Chốc chốc quan Thổ lại chặn hỏi cặn kẽ, nhưng người này,
ngoài những cái hắn trông thấy, chừng cũng chẳng biết gì hơn nữa. Câu trả lời của
hắn, bởi thế, không được vừa ý ông Châu.
Nhưng khi hắn nói tìm thấy mảnh giấy rướm máu ở tay ông già,
và đưa ra để ông Châu xem thì ông ra chiều vừa ý lắm. Ông hăm hở cầm lấy, hình
như đã nắm được đầu mối của sự dị thường này.
Trong lúc ông Châu giở tờ giấy ẩm ra xem thì người Thổ Kao
Lâm nhớ lại bước nguy hiểm sợ hãi đã qua. Anh ta không ngờ một người yếu bóng
vía như mình lại thoát được khỏi tay thần Văn Dú.
Anh ta nhớ rằng chính lúc sợ hãi ở bên cái xác nằm cứng đờ của
Nùng Khai thì trong trí vẫn tỉnh.
Bây giờ trời mỗi khắc một u ám, người anh ta thấy lạnh lẽo,
tưởng chừng như bị cái tử khí ngấm dần vào.
Nghĩ đến người Khách chết treo, nghĩ đến cái hoảng hốt của
người Thổ già lúc chạy ra khỏi hang, nghĩ đến cái hang mình ngồi trước cửa cùng
với một người bị nó làm hại; lại nghĩ đến những điều nguy khốn độc ác nó sẽ lừ
lừ vây quanh mình như đêm tối ám mù cảnh vật; anh ta liền vùng dậy, buông cái
xác ông già xuống đất, như thêm táo tợn vì quá khiếp sợ, khoa thanh lao sáng
lên trước mặt rồi hết sức nhanh chạy về đường Kao Lâm.
Đang chạy, sực nhớ ra trước mặt mình có cái suối sâu khó lòng
qua được; anh ta vội rẽ sang tay phải; chạy được một độ, thì lại gặp khúc suối
nữa chắn ngang. Anh ta thét lên một tiếng to, rồi bán sống bán chết chạy về
phía châu Nga Lộc.
Anh chàng thở không ra hơi mà vẫn cứ luôn mồm gọi tên các chư
vị “sằn slin” đến cứu. Lúc nào sau lưng cũng ồn ào như có ai đuổi bắt; mà càng
chạy càng thấy chậm, bước đuổi càng thấy mau. Những đồi núi rừng rậm như thêm
nhiều mãi ra. Đường lối gồ ghề, vừa dính vừa trơn làm cho anh ta cứ chúi vấp
hoài, trượt ngã hoài; trăm lần tưởng chết!
Đến lúc trông thấy những nhà cửa dưới chân đồi và cái cổng lớn
ở châu Nga Lộc thì trời đã tối. Anh ta chạy vụt ngay vào cổng. Những tiếng hò
hét của bọn tôi tớ lại khiến anh ta thêm hoảng, vì anh tưởng đó là những tiếng
ma quỷ ở trong chỗ nhà cửa biến hiện ra. Nhưng anh ta đã qua một cái sân rộng
và phẳng; đã ngửi thấy mùi thóc vựa và ngựa chuồng là những mùi quen thuộc, rồi
lại nghe thấy những câu hỏi giận dữ của mấy người nắm mình lại; lúc ấy anh ta mới
dám chắc là mình thực còn ở dương gian.
Các người nhà ông châu Nga Lộc xôn xao nháo nhác lên vì nghe
thấy anh ta bảo ở Văn Dú đến. Nhưng chính ông Châu thì không tỏ vẻ sợ hãi gì. Bấy
giờ người Thổ Kao Lâm thấy ông ta tì trán vào lòng bàn tay, lẳng lặng không nói
câu nào và ra chiều suy nghĩ một cách điềm tĩnh.
Cái vẻ ấm áp trong gian phòng sáng bởi ngọn đèn cao này đã
làm cho anh ta tỉnh hẳn người lại. Anh ta xì mũi vắt xuống đất, liếm môi một
cái rồi khẽ cất thứ giọng kín đáo của người hiến mưu kế mà nói với ông Châu những
thần những thánh, những thầy mo, bà then, đến những phương cầu cúng để cho thần
Văn Dú nguôi cơn lôi đình; vì hắn cho cái chết của người Khách và Nùng Khai là
do sự tức giận của thần núi. Cái lòng mê tín của dân Thổ lại thấy biểu lộ ra một
lần nữa. Ông Châu trí thức kia liệu có sờn lòng vì những điều mắt thấy của tên
Thổ này chăng?
Người Thổ Kao Lâm cứ lải nhải hoài.
Ông Châu thì vẫn trầm ngâm nhìn xuống mảnh giấy dày đặt trên
án. Có lẽ ông ta đang nghĩ ngợi đâu đâu chớ không để ý đến những lời anh Thổ
nói: vì bỗng nhiên ông ta đọc:
Miệng có hai răng
Mày vào trăm chân
Mày lên ba tay
Tên mày là đá...
Rồi ông hỏi:
- Mày có biết chữ đấy?
Anh ta chưng hửng một lát rồi thưa:
- Có biết.
Ông Châu cau mày, lại hỏi:
- Mà mày hiểu những câu này chứ?
- Hiểu à? Không!
Ông Châu thở dài:
- Thực mày không hiểu nghĩa gì à?
- Không, mà hiểu làm sao được.
- Mày lấy mảnh giấy này ở tay Nùng Khai à?
Người Thổ Kao Lâm thưa:
- Nó ở hang ra tôi mới thấy có. Tôi hỏi, nó không nói được,
tôi bảo ra hiệu cho tôi hiểu ý, thì nó chết mất rồi.
Ông Châu vừa nhìn vào tờ giấy, vừa hỏi:
- Nùng Khai là người như thế nào?
- Là người ông châu Kao Lâm sai đi đến Văn Dú với tôi.
- Nó là người tin cẩn của ông châu Kao Lâm phải không?
- Phải, cũng như tôi.
Ông Châu khẽ gật đầu. Ông đặt mảnh giấy xuống bàn ngẩng đầu
lên nhìn người Thổ Kao Lâm rồi dịu lời bảo hắn:
- Bây giờ, mày không được giấu tao một điều gì, thì tao mới
xét được rõ việc này. Người Khách kia chết, người Thổ Nùng Khai chết, mà mày
không chết; mày cũng đến Văn Dú; mày biết rằng ai giết nó. Thế ngộ bảo mày giết
thì sao...?
Người trẻ tuổi vội nói:
- Không! Không phải! Không phải tôi...
Ông Châu liền chặn lại:
- Ừ, tao cũng biết. Nhưng người ta muốn buộc tội cho mày cũng
được. Tao lại biết chúng mày định vào hang Văn Dú làm gì nữa kia... Lúc nãy mày
bảo quan châu Kao Lâm sai đi có việc riêng, tao đoán biết ngay. Đây là tao hỏi
cho rõ thêm, mày không được giấu nữa...
Rồi ông Châu nhìn thẳng vào mặt người trai Thổ hỏi một cách
dõng dạc:
- Tại sao quan châu Kao Lâm lại biết được trong hang Thần có
của chôn?
Người Thổ Kao Lâm giật nẩy mình lên, không giấu được cái kinh
ngạc. Trong lúc hốt hoảng, hắn đã trót nói với quan châu rằng: Nùng Khai và hắn
đi tới Văn Dú theo lệnh ông quan châu Kao Lâm sai đi. Sau hắn nghĩ lại, định bịa
đặt ra một câu chuyện nào đó: như đi tìm người nhà lạc, hay đi qua Văn Dú tự
dưng bị dủn dủi vào hang, hay là chuyện huyền hoặc nào khác đợi ông Châu hỏi
thì han sẽ đem ra mà trả lời. Không ngờ câu hỏi của ông Châu đường đột quá, lại
trúng ngay vào sự thực mà hắn muốn giữ kín. Hắn không dám nhìn đôi mắt soi mói
của ông châu Nga Lộc nữa, và đứng lặng thinh.
Ông Châu lại lấy lời nói thực dịu dàng bảo hắn:
- Mày đứng lại gần đây. Đừng sợ mà cũng đừng ngại gì hết. Mày
phải nói rành mạch đầu đuôi công việc mày định làm cho tao nghe.
Người Thổ Kao Lâm vẫn không thưa. Ông quan Thổ nói tiếp:
- Tao có đủ quyền thế để bênh vực mày, cũng có đủ quyền buộc
tội mày nữa, mà tao muốn cho mày ở đây hay đuổi mày ra khỏi châu cũng được, ở
châu tao không nhà nào dám chứa một người ở hang Thần về.
Ông châu Nga Lộc trông thấy rõ cái sợ hãi trên mặt người trai
Thổ: Hắn nhìn ông ta ra ý van lớn.
Ông ta lại dỗ:
- Thế nào? Mày nói đi. Nói thực mọi điều cho tao nghe. Mày đã
vào đây, đã khỏi chết vì ông thần Văn Dú rồi, thì mày nói đi, giấu tao làm gì nữa?
Mày giấu tao, rồi tao cũng biết được kia mà?
*
Anh chàng nuốt nước bọt, liếm môi hai ba lần; mặt nhăn nhó ra
vẻ khổ sở, tuyệt vọng. Nhưng hắn biết lời của ông quan này chắc chắn như dây sắt
ràng buộc, nên phải khai rằng:
- Cách đây ngót mười hôm, một người lý trưởng bản Đong thuộc
châu Kao Lâm đến nhà quan châu tôi để đưa một bản địa đồ vẽ đường lối đi vào
Văn Dú và biên mấy câu thần chú để khi vào được hang ấy mày đọc thì tìm thấy
vàng.
- Nhưng câu thần chú ấy chép trong mảnh giấy này phải không?
- Phải rồi. Nhưng mảnh giấy này lại khác. Chắc Nùng Khai lấy ở
trong hang ra: chỉ thấy những chữ chớ không có địa đồ.
- Thế nghĩa là việc này có người khác biết chứ gì?... Có lẽ
là thằng Khách?... mà sao nó lại chết, có người nào ở trong hang nữa không?
- Tôi không biết. Tôi biết thế nào được.
- Ừ, phải kể nốt đi.
Anh ta kể tiếp:
- Bản địa đồ ấy nguyên là của một ông già bản Đong tên là
Hoàng An Lài, lúc gần chết trao lại cho người lý trưởng ở gần đấy, nói rằng đó
là bản sao lại bức địa đồ của một người Tầu đời nhà Minh sang làm quan bên này;
viên quan tàu có của để ở Văn Dú...
- Thế nào? Một người quan Tàu, đời nhà Minh?...
- Phải, bấy giờ là hồi quan nhà Minh sang cai trị...
Viên quan Tàu kia tích được rất nhiều của trong hang Văn Dú một
cách rất kín, rất khéo, không ai biết được, định sau này sẽ mang dần về Tầu;
không ngờ trong nước người Kinh nổi lên đánh đuổi quân Minh, viên quan kia phải
chạy ẩn vào nhà ông tổ ba đời nhà An Lài, rồi vì già yếu và lo nghĩ quá nên chết
ở nhà ấy. Lúc hấp hối, người ấy có để lại cho nhà họ Hoàng rất nhiều tiền bạc,
và đưa ra một bức địa đồ chỉ nơi giấu của, nhờ đưa sang cho con cháu bên Tầu.
- Thế người quan Tầu không có bộ hạ sao?
- Nghe như có. Song người nhà họ Hoàng thông thuộc đường lối
và trong khi loạn lạc, họ có cách trốn được ra ngoài. Người quan Tầu bắt nhà họ
Hoàng thề nguyền rất độc, không bao giờ được lộ việc ấy ra cho ai biết, mà nhất
là không được tìm cách vào hang Thần. Viên quan ấy lại cho biết rằng y đã yểm
vào các của giấu ở trong núi và nhờ thần núi giữ của trong ấy nữa, của cải chỉ
có con cháu người quan Tầu mới dùng được, mà ai cả gan hay vô tình vào hang Văn
Dú sẽ bị thần vật chết ngay.
Nhà họ Hoàng không tin. Người Tầu chết rồi, họ liền đem sao lại
bức địa đồ và chép lấy những lời “thần chú” biên lên một mảnh giấy khác.
Ông châu Nga Lộc hỏi:
- Thế thì có lẽ chính là mảnh giấy này.
- Tôi không biết chắc. Người nhà họ Hoàng đưa những giấy tờ của
viên quan nhà Minh cùng với hai bản giấy kia sang Tầu, rồi không thấy ai trở lại
cả. Để ý dò xét ba bốn mươi năm trời, sau lúc người Kinh đã bình định, và lúc mấy
thầy địa lý Tầu đã qua lại được nước Nam, mà vẫn không thấy tăm hơi nhà họ
Hoàng, cũng không thấy bóng người Tầu nào sang tìm của hết.
Về sau con cháu họ Hoàng học thuộc chú và đánh liều đi kiếm của
trong hang thần. Nhưng người nào đi cũng không thấy trở lại nữa. Có hai lần người
ta đi tìm thì thấy một đứa nằm chết ở gần suối Văn Dú, còn những đứa khác người
ta chắc chết ở trong hang, nhưng không ai dám vào. Việc ấy đồn ra và từ đấy bắt
đầu có những chuyện ghê gớm gây nên bởi thần Văn Dú. Ở làng gần suối lớn đã phải
lập ra tục tế thần núi bằng các người con gái đẹp mới được bình yên. Nhà họ
Hoàng không bao giờ dám lộ chuyện kín về sự yểm của ra vì sợ người ta đổ cho
cái họa lớn kia gây nên tại nhà mình...
Ông Châu chặn lại hỏi:
- Ừ, thế sao họ Hoàng không hủy cái giấy kia đi?
- Hình như họ muốn giữ lại để sau này con cháu người quan Tầu
có ai sang tìm của, họ sẽ đem giấy ra làm chứng, mong người Tầu đền ơn. Song đến
đời An Lài thì ông ta vẫn giữ kín không cho các con biết, sợ chúng vì tham mà
mang hoạ... Hoàng có ý đưa cho lý trưởng bản Đong để hắn trình cho quan châu
Kao Lâm biết đến nguồn gốc những cái họa bí hiểm của hang Thần.
Quan châu Kao Lâm tôi lại không sợ những điều ghê gớm kia,
bàn với tôi cái kế tìm vàng trong Văn Dú, và có ý sai tôi đi dò xét trước. Tôi
mới nghe cũng đủ khiếp, nhưng quan Châu tôi nhất định bắt tôi phải vâng theo.
Trong mấy ngày ông ấy giảng dụ các lẽ cho tôi nghe, cắt nghĩa cho tôi không sợ
những chuyện người ta đồn về hang Thần, lại hứa cho tôi rất nhiều tiền, lại cho
tôi được làm chánh tổng nữa... Nhà tôi mấy đời nhờ vả nhà quan Châu tôi, mà bây
giờ cũng nghèo. Tôi biết chắc nếu việc thành thì sung sướng một đời nên mới
vâng lệnh ông Châu tôi...
- Thế còn Nùng Khai?
- À, phải cũng tại Nùng Khai nữa, nên quan Châu tôi càng muốn
tìm cho được của trong Văn Dú, mà tôi được vững lòng thêm. Nùng Khai là một tên
cướp rất táo tợn, nó vẫn chửi rủa Văn Dú mà không việc gì. Nó lại bảo rằng nếu
nó biết trước Văn Dú có vàng thì nó lấy đã lâu rồi, không phải đi cướp đâu nữa.
- Sao quan châu Kao Lâm lại giao việc cho một tên cướp?
- Vì nó có họ với một người thiếp của quan Châu tôi. Nó bị bắt
đáng nhẽ bị chết chém, nhưng quan Châu tôi lấy quyền thế giảm tội cho nó. Bởi
thế, lúc cho gọi nó lên, nói đi tìm của thì nó thề sống thề chết sẽ trung
thành. Nó quả quyết sẽ đi vào hang Thần, sẽ tìm cho được của trong hang Thần.
Ông Châu tôi liền giao cho nó bản địa đồ kia, lại cho tôi đi theo, vừa để coi
chừng, vừa để giúp đỡ nó. Tôi thấy nó nói mạnh bạo và khôn khéo lắm, nên quên cả
sợ. Nhưng đến lúc gần thấy hang núi, tôi đã lo ngại; lúc qua suối lớn, tôi đã
ghê rợn; sau lại thấy thằng Khách thắt cổ... Rồi lại thấy Nùng Khai hốt hoảng ở
trong hang chạy ra...
Ông châu vừa nghe người Thổ Kao Lâm vừa lấy que đẩy cho ngọn
đèn dầu cháy to lên. Trên mặt ông hiện ra cái vẻ chăm chú của một người thu hết
cả tâm trí vào một công việc: Lông mày nhíu lại, đôi mắt trong sáng lạnh lùng
nhìn ngọn lửa mà hơi thở của ông làm cho run run.
Ông khẽ nói:
- Ai giết tên Khách kia? Trong hang còn có người nào không?
Có vật gì không? Yêu quái ư? Sao Nùng Khai lại chết?
Mấy câu đó nói nhanh, nhưng chẳng bảo ai, như lời tự vấn; và
người con trai Thổ cũng không biết đáp thế nào được nên ngậm tăm.
Ông quay lại nhìn hắn và hỏi to lên:
- Thế trong mình Nùng Khai không thấy có vết tích gì chứ? Mày
có thấy dấu máu nào không?
Người Thổ Kao Lâm ngẫm nghĩ một hồi:
- Không thấy gì cả... Hay là không thấy vết thương nào nặng đến
nỗi làm chết được người.
- Nhưng không có một tí dấu vết gì sao?
- À có! Mà nhỏ lắm: chỉ lấm tấm rớm máu như chỗ da kỳ mạnh
hay bị xước mà thôi...
- Thế à? Ở chân phải không? Nó hẳn bị cái gì quấn chặt ở
chân...
- Không! Ở tay, ở hai bàn tay, nhiều nhất là ở các ngón.
Ông Châu lẩm bẩm:
- Thế thì quái lạ, quái lạ lắm!
Ông vừa nói vừa nhìn mảnh giấy vuông mà ông lật hết mặt nọ đến
mặt kia.
- Vết máu trên tờ giấy này (lời người trai Thổ) là ở tay Nùng
Khai dính ra đấy. Nó nắm chặt quá, tôi gỡ mãi mới lấy ra được.
Ông Châu tưởng chừng như không để ý đến câu vừa rồi, chỉ hỏi:
- Thế còn bản địa đồ kia?
- Bản địa đồ kia Nùng Khai giắt trong mình nó, tôi không dám
lấy. Bản địa đồ ấy chỉ vẽ lỗi đi Văn Dú chứ không vẽ đường lối trong hang.
Ông Châu gật gù:
- Ừ, được rồi, tao hiểu rồi. Bây giờ mày hãy lui xuống nhà
nghỉ đi. Rồi ở đây với tao, tao sẽ liệu. Chúng nó có hỏi thì không được kể điều
gì về hang Văn Dú hết, nói rằng quan Châu bắt phải im.
- Mà quan Châu có bảo thầy mo...
- Được rồi. Có. Thôi xuống đi. Noòng à! Lên dẫn nó xuống cho
nó thay quần áo, cho nó sưởi, rồi bảo nó ngủ đi.
Lúc theo tên Noòng xuống dưới nhà, người Thổ Kao Lâm còn dặn
với:
- Quan Châu bảo thầy mo nhé... Quan Châu à.
- Được, được!
Vàng và máu (III)
Quan châu Nga Lộc chẳng bảo thầy mo nào hết.
Cánh cửa vừa khép lại, ông ta liền thắp lên một ngọn đèn nữa,
hăm hở kéo tờ giấy gần lại, suy tư nghĩ ngợi.
Mặt ông Châu hồng lên và lộ vẻ mừng rỡ. Ông ta bắt đầu xét lại
mảnh giấy của người Thổ Kao Lâm rất cẩn thận, vì ông biết rằng hiểu được ý tứ của
những câu chữ Hán viết trên đó, ấy là phá được cái tường bí mật của thần giữ của
và cắt nghĩa rành mạch được các điều kỳ dị xảy ra.
Những hình vẽ ngây dại và mấy hàng chữ viết rất tốt, tuy bị
nước thấm ố hoen, song vẫn rõ ràng lắm: Nét mực cũ đã ăn sâu xuống mặt tờ giấy
ướt và dầy. Hình bên trái vẽ một người áo cộc quỳ lên, hai tay cầm một tờ giấy
giơ thẳng ngang mặt như người đọc sớ. Ông Châu đoán có lẽ nó muốn chỉ bảo phải
trân trọng giữ lấy và theo những lời mầu nhiệm của mấy hàng chữ Hán kia. Bó đuốc,
vẽ ở bên trái, ngọn lửa cháy và bốc khói lên, chắc hẳn chỉ về sự tối tăm, hiểm
hóc trong hàng thần; hoặc ý bảo phải tìm xét cho hiểu thấu những nghĩa ẩn trong
mấy câu kia, mấy câu mà người Thổ Kao Lâm gọi là những lời thần chú.
Ông đọc qua một lần mấy hàng chữ nho. Rồi ông đọc lại lần thứ
hai và thứ ba; làm như cứ nhắc lại như thế thì sẽ thấy cái nghĩa ẩn trong đó:
Miệng có hai răng;
Ba chân bốn tay;
Mày vào trăm chân;
Mày lên ba tay;
Tên mày là đá;
Đá sinh trứng đá;
Trứng đá giữ của;
Mày có sức mang;
Mày giàu, mày chết.
Những câu kỳ lạ đến nỗi làm cho ông ngờ là lời thần chú thực.
Nhưng không có lẽ; nếu phải lời thần chú thì tên Nùng Khai đã học thuộc tất
nhiên không đến nỗi chết, ngay sau khi ở hang thần chạy ra... Quyết nhiên đó là
những bí mật, có nghĩa hẳn hoi, nhưng cái nghĩa ấy phải dùng hết tâm lực và trí
sáng suốt mà tìm thì mới thấy được.
“Hừ! (ông lẩm bẩm nói để tiếp theo những ý tưởng vừa rồi). Bọn
quan Tầu họ quỷ quyệt lắm! Cũng là một thứ lời di lại, mà một đằng thì là những
câu dặn dò để tìm ra của, còn một đằng thì lừa cho người ta mắc phải những cái
nạn gớm ghê... Nhưng ta, ta không mắc lừa đâu. Ta không nông nổi, u mê như bọn
con cháu nhà họ Hoàng, tưởng đây chỉ là những câu có quyền phép mầu nhiệm.
Không. Ta biết. Rồi ta sẽ tìm cho ra nghĩa kín, ta sẽ khám phá cho kỳ được”.
Ông lại hơi mỉm cười và nghĩ đến cái độc kế mấy trăm năm nay
sẽ bị ông hủy đi mất, mà cái kho của kia tất sẽ về tay ông.
“Miệng có hai răng... ba chân bốn tay”... có lẽ đó là mô tả
hình dáng thần giữ của chắc? Không phải. Ta không được tin đến thần giữ của
cũng như không được tưởng những câu này là thần chú. Vì nếu thế thì không bao
giờ tìm được đầu mối.
“Miệng có hai răng... ba chân bốn tay...” Lạ! “Mày vào trăm
chân, mày lên ba tay”. Hừ! Quái! Ai vào? Ai lên? Sao lại trăm chân, sao lại ba
tay? “Tên mày là đá, đá sinh trứng”. “Đá sinh trứng đá? Trứng đá giữ của. Có lẽ
họ để của ở dưới hang đá chắc? Mà sao lại gọi là trứng đá? Trứng đá giữ của.
Mày có sức mang... mày giầu mày chết”.
Ông càng đọc càng nghĩ càng thấy mờ ám thêm. Chợt có một ý kiến
thoảng qua, ông bèn xoay tờ giấy vuông đủ bốn chiều đọc từ trên xuống dưới, rồi
đọc từ dưới lên trên; lại đọc ngang từ phải qua trái và từ trái sang phải.
Nhưng cũng vô ích. Mấy hàng chữ vẫn trơ trơ giữ cái bí mật cùng với hai cái
hình vẽ lạ lùng.
Ông Châu thử ôn lại các bộ truyện cổ mà ông đã xem, nhớ lại
những sự tích chép ở trong ấy; bao nhiêu án ly kỳ ra đời trước cùng với bao
nhiêu phương pháp cổ nhân dùng để tra, ông đều đem ráp vào việc cắt nghĩa tờ giấy
này. Ông thấy từ cổ chí kim không bao giờ có những cái khó hiểu hơn, mà đến những
việc tương tự như thế cũng vậy.
Hai ngọn đèn dầu thi nhau sáng, cùng nhau như nín lặng để xem
ông Châu nghĩ ngợi trầm ngâm.
Ông ta ngồi trên giường gỗ, trên án thư, khuỷu tay chống bên
cạnh một cái đế đèn, nắm tay thì ấn vào mồm, đăm đăm như đang tìm gỡ một nước cờ
bí. Lông mày nhíu lại một cách dữ tợn, hai mắt nhìn muốn thủng tờ giấy để trên
bàn.
Lúc ấy vào đầu trống canh hai. Nhưng có lẽ ông Châu quên cả
thời khắc.
Trong cái phòng ấm áp kín đáo ấy, ngoài ông ra lại còn Tô
Nang là cô thiếp yêu quý, vào đó chầu chực chăn gối đã lâu. Cô chưa hề thấy
quan Châu chăm chỉ miệt mài với việc quan như thế bao giờ. Cô ngồi ghé một chỗ
lặng thinh, nghe tiếng quan Châu lẩm bẩm rồi lại im, nghe các tiếng buồn tẻ
trong lúc canh khuya rồi cô dựa vào vách mà thiu thiu ngủ.
Chốc chốc, ngọn đèn lại nhô cao lên, rồi khẽ co thấp xuống và
nhẩy chập chờn.
Ông quan Thổ không nói qua một lời gì nhưng hình như ông nghe
thấy tiếng suy nghĩ của mình rõ rệt nói trong giữa khoảng tĩnh mịch sâu xa của
đêm tối.
Bỗng chốc đồng hồ trên tường gõ một tiếng lạnh lùng vào giữa
thời gian, cùng một lúc móng tay ông Châu vô tình cạo xuống cạnh án thư nghe
như tiếng con mọt gặm.
Có lúc ông ngáp lên một cái, nói khẽ mấy câu nghĩ ngợi trong
trí, rồi lại trầm ngâm đắm đuối tìm những nghĩa ẩn nó chưa chịu hiện hình.
Dưới chân tường, tiếng chuột rúc rích chạy qua làm vểnh tai
con mèo yên lặng. Ngoài sân, mấy con ngựa buộc trong chuồng tối đập chân xuống
đất xôn xao. Một trận gió làm cót két cành tre; văng vẳng sau thềm, tiếng lá
reo và tiếng sâu dế rì rì trong bụi rậm.
... Mày tên là đá
Đá sinh trứng đá
Trứng đá giữ của...
Cái đầu mối, ông mong gỡ được, càng tìm càng thấy bối rối
thêm. Đã hơn một trống canh rồi mà những chữ này cùng với thằng người quỳ và bó
đuốc vẫn cứ nhảy nhót hoài trong tâm trí ông quan Thổ.
Lúc ấy cô thiếp của ông ngồi dựa ở bên tường kia đang há mồm
ra ngủ kỹ.
Hai chân cô duỗi thẳng trên bộ ghế ngựa, bàn tay đặt ngửa
trên đùi. Đầu vẫn chưa bỏ cái khăn vuông chàm, trên mặt hiện ra vẻ ngây ngô và
bình tĩnh.
Trái lại trên mặt quan ông đầy vẻ lo nghĩ lẫn với vẻ bực
mình. Bao nhiêu tâm lực ông đem ra hết mà vẫn không tìm ra được mối manh gì.
Ông đọc lại những câu kỳ dị:
Mồm có hai răng...
Ba chân bốn tay...
Mày giầu mày chết...
Không biết đến mấy trăm lần rồi. Nhưng cái trí sáng suốt của
ông hình như không đủ lực trước cái đêm tối vô cùng của bí mật.
Cái cằm vuông của ông nổi cả xương và gân lên, hai má và hai
tai ông đỏ như bị nướng vào ngọn lửa đèn gần đó.
Lần này ông không đọc bằng mắt nữa; ông lẩm bẩm như người làm
tính: “Đá sinh trứng đá, trứng đá giữ của, mày chết... mày chết mày giàu, mồm
có hai răng... mồm có hai răng... mồm có hai...”.
Tiếng ngáy bên tường cứ rờn rờn họa theo, cô vợ trẻ của ông
quan già đang vẩn vơ trong giấc mộng... Bỗng một tiếng bẳn gắt theo một nắm tay
đập mạnh lên bàn:
- Mệ thảu mư! [2]
Ông Châu vứt giấy quay lại đằng sau, Tô Nang tỉnh dậy.
Ông Châu thấy cô ta thì ngạc nhiên hỏi:
- Ô kìa, thế ra Nang không đi nằm à?
Cô thiếp đã đứng xuống đất, kéo hai nắm tay ra sau mang tai,
ưỡn ngực lên cao, ngáp rồi ỏn ẻn nói:
- Nang có đi nằm mà, nhưng Nang còn đợi quan Châu, quan Châu
chưa ngủ Nang cũng chưa ngủ... quan Châu sao thức lâu thế?
Bấy giờ ông quan Thổ nghe chừng đã mệt lắm, vì đã hết sức đem
cảtinh thần ra để nghĩ ngợi đến gần hai trống canh rồi, cho nên cái mình êm ái
của cô hầu non với cái thú đầm ấm trong chăn đã khéo quyến rũ ông đi nghỉ.
Ông Châu lại bên án để tắt bớt đèn đi. Chợt thấy chén nước uống
thừa đổ ướt cả tờ giấy. Ông vội cầm lên thấm vào tập hóa từ cho ráo rồi hơ lên
ngọn đèn cho khô.
Hàng chữ Hán và hai hình vẽ bên càng nổi rõ ở trên ngọn lửa tạt
đi tạt lại. Bỗng nhiên ông Châu kêu lên một tiếng, rồi giáp cả hai ngọn đèn lại
mà hơ tờ giấy lên. Ở giữa mảnh giấy hồng hồng, ông thấy một khoảng tối hơn. Một
tia sáng vừa soi qua trí ông, ông nghĩ ngay đến một câu chuyện cũ.
- Phải, phải! (ông lẩm bẩm nói). Cũng giống như truyện tờ di
chúc trong bức tranh [3]... Phải rồi!... Cầm giấy giơ trước mặt mà đọc... mà bó
đuốc lửa cháy ở sau tờ giấy... nó bảo mình đốt lửa mà soi... mà mình cũng như
anh huyện quan kia... Mình ngốc thật!
Thế rồi ông không hỏi gì đến cô thiếp nữa. Cô ta chẳng hiểu
gì cả, đứng giương mắt thực to mà nhìn.
Ông Châu ngồi xổm trên giường, hai tay vừa run vừa dấp nước
trên bàn vào mảnh giấy, rồi cẩn thận bóc chẻ nó ra làm đôi.
Một miếng giấy vuông sắc trắng hơn, dán áp vào nửa giấy thứ
hai và bong ra gần hết. Ông Châu cầm soi lên ngọn lửa thì thấy chi chít những
nét chữ nhỏ nằm hỗn độn. Ông xem kỹ thì biết mảnh đó là một tờ giấy rộng gấp
làm tư. Ông phải hết sức cẩn thận mới lấy móng tay bóc mở ra được, vì tuy nó
cũng dai, nhưng theo với hai mảnh ngoài bị nhầu và thủng rách lỗ chỗ.
Trong tờ giấy mới này viết chữ dầy gần hết. Nét chữ cũng tốt
và rõ như ở tờ áp ngoài. Ông Châu đọc thấy những lời này:
Hang Văn Dú trông như cái mồm có hai răng. Ba thước nói là
chân, bốn thước nói là tay. Mày đo từ cửa hang vào trăm chân, rồi mày đo trở
lên ba tay, thì sẽ thấy chữ tên của mày là Thạch. Đào từ chữ thạch xuống sẽ thấy
một cái hang nữa mang những hòn đá hình nhẵn như trứng. Đá này giữ kho của đó.
Nhưng không được lấy sức mà mang vì mày tìm thấy vàng nhưng mày chết.
Bên cạnh những dòng chữ này, còn một đoạn chữ nhỏ hơn và viết
đá thảo:
Phải dán giấy này như cũ, mang theo trong mình cho đến khi vận
hết của trong Văn Dú. Nếu trong hang không có dấu vết tìm đào thì về sau tìm đến
nhà con cháu họ Hoàng mà thưởng cho họ năm nghìn vàng. Nếu thấy có người chết
vào chỗ đá lở thì phải cẩn thận mà hết sức tránh sự báo thù của họ Hoàng.
Vàng và máu (IV)
Sáng hôm sau ông châu Nga Lộc xuống nhà sớm, người Thổ Kao
Lâm còn ngủ li bì trên một chiếc cói.
Mấy đầy tớ thức dậy thưa rằng hắn cứ mê man nói đến những
hang, những núi, những người chết, với những người thắt cổ suốt đêm, nên không
ai ngủ được yên vì ai cũng sợ.
Ông quan Thổ gật đầu bảo cứ để cho hắn nằm đó, rồi quay lại dặn
bốn năm người đàn ông ở ngoài sân đi vào:
- Chúng mày ăn cơm thực nhanh rồi sắp sửa đi theo tao có việc
cần. Cầm đuốc, cầm dao, cầm dây, mang xẻng cuốc, với đóng sáu con ngựa.
Mọi người biết là có việc quan hệ lắm, vì không mấy khi quan
Châu dậy sớm như thế, mà lại ăn mặc gọn ghẽ hẳn hoi. Mình ông vận áo bông chàm
thắt ở ngang lưng, chân đi giầy, đôi bít tất xanh kéo lên bó lấy ống quần,
ngoài cùng lại quấn thêm một lần nịt vải.
Bấy giờ ông đang chít lại cái khăn nhiễu lớn và đứng đợi xem
người ta đóng ngựa.
Ngoài sân, mới lù mù sáng.
Mấy con vật thấy người vào chuồng thì đập chân xuống đất và
phì thở rất mạnh.
Ông Châu bảo họ hẵng lấy cỏ cho ngựa ăn.
Dưới bếp lửa cháy to, chiếu lên mặt sân một dải ánh sáng mập
mờ và lay động. Ông Châu giục người dưới bếp thổi cơm mau lên, những người còn
xùm xụp đắp chiếu ngủ trong xó hiên nghe tiếng ông nói to lục đục trỗi dậy. Rồi
người thì đi mở cổng, người thì vào bếp, người thì ra đằng sau. Làm náo động cả
cái cảnh lạnh lùng buổi sáng.
Lúc ông quan Thổ cơm nước đoạn, từ nhà trên lại đi xuống thì
thấy người bộ hạ cũng đã ăn uống xong và đứng nai nít ở bên sáu con ngựa yên
cương cẩn thận.
Trong này kín gió mà còn thấy giá lạnh, thì ở bên ngoài tất
rét hơn nhiều. Ông Châu lấy một cái khăn vải chàm to bịt kín lấy hai tai và thắt
xuống cằm. Ông đeo một thanh gươm lớn mà ông vẫn mang theo trong lúc đi xa và đội
một cái nón đan to vành đã cũ. Ông đứng trước khung cửa, giữa khoảng ánh sáng
đo đỏ của ngọn đèn yếu đuối bên trong, và dặn người nhà phải giữ người Thổ Kao
Lâm lại cho đến lúc ông trở về.
Rồi ông bước ra, lên yên ngựa từ trong sân để cho mấy người hầu
dắt ngựa ra khỏi cổng.
Trời mới tang tảng sáng. Sương xuống dầy quá đến nỗi không thấy
được nhà cửa ở dưới chân đồi. Người ta bị cái thứ không khí ẩm thấp, lạnh lùng
bọc lấy, và thấy mình cách biệt với người đi bên cạnh. Ông Châu quay lại bảo
hai tên bộ hạ đi lên trước, còn ba tên kia đi sau. Sáu người cưỡi ngựa đi hàng
một như ngồi trên mây, cứ thuộc lòng lần qua con đường nhỏ hẹp mà ra khỏi châu
Nga Lộc.
Người đi đầu không biết nên rẽ lối nào, dừng lại hỏi.
Ông Châu bèn truyền ra một cách dõng dạc:
- Cứ thẳng mạn Văn Dú mà tiến lên!
Ông có ý định xem họ cử động ra sao. Nhưng mọi người đều im lặng,
lại không ra dáng lấy làm kinh lạ. Cái lệnh ông Châu mới truyền xuống, nhưng họ
đã đợi nghe từ lúc mới bước chân ra. Vả lại họ là những người can đảm và rất
trung thành. Tuy họ cũng tin và sợ những cái ghê gớm của hang thần, nhưng họ lại
tin và sợ cái oai của quan Châu chẳng kém. Giá thử bị sai phái đi vào những nơi
nguy hiểm như thế thì họ còn sẵn lòng ngần ngại, nhưng bây giờ lại có cả quan
Châu cùng đi.
Không ai nói một câu nào. Sáu cái đầu cùng chăm chú cúi trông
xuống khoảng đất phía trước vó ngựa. Chung quanh đều mờ mịt không trông rõ vật
gì.
Đi khỏi những tầng ruộng rạ cụt gần xóm làng thì những đồi đất
chen nhau ở trong đám sương mù lần lượt hiện ra rồi lại lần lượt biến mất. Sáu
người càng tiến thì trời càng thêm sáng. Sương đặc cũng dần dần loãng thêm. Đường
lối trông đã rõ. Người thứ nhất ngoảnh lại đã thấy mặt người sau cùng. Họ bèn bảo
nhau thúc ngựa chạy nhanh, cho chóng tới nơi và cho quên rét
Được già nửa đường thì núi Văn Dú mới thấy hơi lờ mờ ở sau
cái màn hơi trắng đục. Đường lối đi rất khó vì họ chọn toàn nẻo tắt, phải đi
qua hai ba rặng rừng cây thấp xơ xác, và lên xuống năm sáu dãy đồi đất liền
nhau.
Bọn đầy tớ quan Châu chưa một lần nào dám hỏi ông ta xem đến
Văn Dú làm gì. Nhưng ông ta cũng cắt nghĩa cho họ biết rằng đến Văn Dú trước hết
để khám phá những chuyện bí mật, sau để tra xét án mạng xảy ra ở đấy. Nhưng cái
cớ chính, mà ông không nói đến là đi tìm vàng.
Lúc bọn ông Châu đến chân núi Văn Dú thì đã vào khoảng giờ
thìn (tám giờ sáng), đỉnh núi vẫn như bị sương ăn, mà thân núi cả ngang, trông
lù lù đen có vẻ hầm hầm tức giận.
Quan Châu ngửng lên trông, rồi đưa mắt từ bên phải qua bên
trái, chú ý nhìn từng cái kẽ núi lá cây chen chúc, cho đến những gân trắng rất
lớn vạch theo chiều thớ núi, nổi lên trên mặt đá màu xám xanh.
Ông quan Thổ xuống yên cùng năm người bộ hạ dắt ngựa đi từ
sau lưng ra trước mặt núi, rồi buộc dây cương vào bốn gốc cây mọc gần nhau. Đoạn
ông tuốt gươm ra, cẩn thận từng bước đi lên, và bảo trước cho mấy người kia biết
có người Khách chết treo, để họ khỏi sửng sốt.
Ông Châu trông thấy người thắt cổ trước nhất. Nó ẩn hiện
trong cành lá nhỏ và thẫm ăn màu với bộ quần áo chàm. Đến gần xem thì mặt và
bàn chân, bàn tay của người Khách đã xám xì lại nhợt nhạt, vì bị mưa dầm sương
đượm đã lâu. Đằng sau đám cây miếu với bức tường vỡ là cái hang Thần mà ta đã
biết.
Ông Châu nhìn người Thổ già nằm ở một phía nhưng không chú ý
bằng nhìn hai hòn đá cao mọc trước cửa hang, ông nhớ đến câu: “Cửa hang Văn Dú
trông như cái mồm có hai răng” và nghĩ trước đến cách vào hang xem xét.
Nhưng ông quay lại để khám người Khách đã.
Ông lấy gươm bảo mấy người đứng đằng sau ông tiến lên rẽ đám
cây lá dưới đất. Rồi ông bước đến bên cây bàng trụi lá. Ông đã tưởng cái thây sẽ
xông nặc lên những mùi ghê tởm, nhưng lúc ấy ông chỉ ngửi thấy mùi ẩm mục của
muôn nghìn cây lá cao ngất và xanh um.
Nhìn kỹ thì phía mặt bên kia của người Khách cùng với phía
sau gáy và vai bị rỉa be bét, màu thịt đỏ nhợt như ruột củ nâu non. Ông Châu
đưa gươm lên cắt cái dây thừng, thì một vài con quạ vùng lên bay mất. Lưỡi gươm
sắc vừa mới cứa, cái thây nặng nề liền rơi trên mặt cỏ, hai gối gấp lại trước
nhất rồi gục đầu xuống cạnh chân bức tường.
Mấy người lại đứng xúm quanh ông, cúi nhìn xem. Ông Châu sai
người lật ngửa cái thây ra; đất, cỏ úa và lá ướt dính vào má, vào mồm và đuôi một
con mắt đã trắng dã.
Người chết trông mặt dầy, vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi tuổi.
Cặp môi trên râu lún phún, miệng hé mở, hai hàm răng trắng cắn chặt lấy nhau.
Ông Châu xem ra thì biết người ấy bị giết chứ không phải quyên sinh: cái dây thừng
ở cổ chặt thít vào như có ai bám lấy chân người khách mà lôi xuống. Ở phía dưới
cổ, gần xương đòn gánh, lại có vết đâm, rộng và sâu. Ông Châu toan bảo cởi hàng
cúc áo của người Khách ra, nhưng sau lấy mũi gươm rạch xuôi xuống. Ba bốn lượt
áo đã phanh mở mà trông như vẫn còn áo trong: vì bụng người ngực người Khách đã
đen xám như chàm. ở hai bên sườn người này, bọn ông Châu lại tìm ra được vết bốn
nhát dao đâm nữa. Những vết đâm ấy cũng như vết trên cổ, sâu và rộng bằng ba đốt
tay: hình như người Khách bị giết bằng một thứ đoản kiếm.
Hơn một phút đồng hồ, ông Châu đứng lặng, cúi đầu trên cái
thây ma ngẫm nghĩ, trước năm bộ mặt sợ hãi của người theo hầu.
Cái cảnh tượng kỳ quái đến nỗi khiến họ không nói được lời
nào; và có lẽ trong bụng họ không kịp nghĩ và không kịp hiểu chi hết. Mấy người
tự nhiên đứng sát vào nhau như cùng thấy cần phải đồng tâm hiệp lực. Họ nhìn
ông quan Thổ như có ý hỏi, nhưng ông ta lặng thinh.
Gió thổi rung cành cây làm rụng lác đác những giọt sương trên
lá.
Bỗng chốc lại thấy giọng thê thảm của mấy con quạ núi quen
thuộc nơi hoang vắng bay ngang trời vừa kêu.
- Thôi! Để nó ở đây, bây giờ đến hang núi!
Tiếng ông Châu nói hơi run run và hơi khàn. Ông hắng giọng một
cái, rồi nói to hơn:
- Thôi! Đi ra!
Tiếng vang ở quả núi đáp lại một cách rất dị thường và khiến
cho cả người nói lẫn người nghe cùng có những cảm giác lạ. Ông Châu vừa bước ra
vừa truyền:
- Thằng Noòng, thằng Lường theo tao đến Nùng Khai. Còn ba đứa
kia sắp sửa cuốc, dao, dây để vào Văn Dú.
Bọn năm người thấy quan Châu lúc bấy giờ oai nghiêm như cái
gươm ông cầm trên tay. Một tiếng ông nói ra ở chốn này họ đều coi như lời thần
thánh. Trong lúc ba người chia nhau mấy bó đuốc và mấy cuộn dây dài thì ông
Châu với hai người kia đi lại bên cái xác khô của ông già Thổ.
Xác Nùng Khai nằm hơi nghiêng, đầu trở vào phía hang, cánh
tay trái đè dưới mình, cánh tay phải khuỳnh vào đưa lên trên không, cứng như
que củi gẫy; ngón tay và chân đều rút quặp lại; chân trên duỗi thẳng; chân dưới
hơi co lên. Bộ mặt xám nhăn nhó trông rất xấu; mi mắt nhắm không liền, miệng há
cứng ra, lưỡi thụt vào trong họng.
Ông quan Thổ xem kỹ hai tay hắn thì quả như lời người Thổ Kao
Lâm thuật, khắp bàn tay rớm những vết máu rất nhỏ, bấy giờ đã hóa thâm. Ông sai
người cởi áo người chết xem còn thương tích gì khác nữa không. Nhưng ngoài những
vết sẹo to ở cánh tay và gần vú - sẹo của những vết thương khỏi đã lâu lắm -
thì không còn thấy gì.
Ông lần trong túi áo trong của Nùng Khai thì lấy ra được mảnh
giấy cũ và nhàu, trên giấy vẽ đường lối đi đến Văn Dú và biên những câu giống
in như mấy câu ở mảnh giấy hôm trước. Hai cái hình vẽ phóng ở hai bên trông vụng
dại hơn hình mẫu. Ông cầm lấy soi lên ánh sáng thì không thấy gì lạ. Ông lẩm bẩm
một mình:
- Thì ra chúng nó không ngờ gì... nên chúng nó tưởng rằng cứ
chép lại những chữ trên mặt giấy kia là đủ... Chúng nó chết là phải lắm. Đến
ta, là người trí thức, mà nếu không vì sự ngẫu nhiên thì đời nào hiểu cái mưu
ghê gớm của người Tàu... Huống hồ, chúng nó lại chỉ học thuộc lòng những chữ vô
lý ấy mà dám xông pha vào đây...
Ông còn đang gật gù như nhận ra một lẽ gì mới nghĩ, thì ba
người bộ hạ đưa ông xem một bọc quần áo mà họ đoán là của người Khách chết
treo, cùng với bức địa đồ đã gần nát. Ông cầm lấy xem, rũ những áo ướt trong bọc,
rồi đứng lẳng lặng. Bọn người theo hầu trông thấy cái suy nghĩ sâu xa ở cả trên
những răn trán, trong hai con mắt dưới lông mày, và cái miệng măm mắm của ông
Châu. Rồi ông lại gật gù:
- “Phải rồi! Ta đoán không sai. Người này quyết là con cháu của
viên quan Tầu. Nhưng sao bây giờ mới sang đây? Ta có thể ngờ là mảnh giấy “di
chúc” kia khi đem sang Tàu thì đã phải thất lạc nhiều lần, hoặc bị tay kẻ khác
chiếm đoạt đến nay mới lại tìm thấy...
Nhưng cái đó cũng không căn cứ vào đâu. Chỉ phải xét xem ai đến
đây mà giết người kia? Mà kẻ giết người ấy sao lại giết hắn một cách lạ lùng
như thế? Cái chết của người Khách với của Nùng Khai này cùng bí mật như nhau,
nhưng mỗi người chết một cách ghê gớm khác. Ta đọc tờ giấy hôm qua thì có thể đồ
rằng Nùng Khai chết vì những hòn đá giết người. Những hòn đá này vì đâu mà giết
được người, ta cần dò xét cẩn thận mới biết được”.
Rồi ông móc túi lấy ra tờ giấy mỏng ông tìm được ở trong mảnh
giấy vuông của người Thổ Kao Lâm. Ông không đọc một chữ nào vì ông đã thuộc hết.
Ông chỉ tự hỏi:
- Người Khách chết ở kia, vậy ai đem mảnh giấy vuông vào
trong hang? Trong hang có những ai? Mà Nùng Khai làm thế nào lại lấy được ra rồi
chết?
Ông quan Thổ nói câu sau cùng to lên và mắt ông vô tình nhìn
vào mắt một người trong bộ hạ. Họ không biết nói gì, chỉ giương mắt to nhìn
nhau.
Ông Châu bèn đứng sững người lại, vứt cái áo của Nùng Khai
lên cái xác nằm trơ đó. Rồi ông bảo đốt đuốc, và sắp dây, sắp xẻng cuốc để vào
hang thần.
Trước khi bước chân lên, ông đứng sững lại một lát cố thả tầm
mắt soi vào khoảng đen tối trong hang, mặt ông hơi có dáng lo ngại và nghi ngờ.
Ông biết rằng ông sắp dấn thân vào trong những sự quái lạ phi thường. Nhưng ông
cũng trấn tĩnh lại ngay được.
Sau bó đuốc đã cháy lên bùng bùng, ông cầm lấy một bó nhìn
năm người bộ hạ, rồi truyền:
- Bây giờ đi vào hang!
Năm người này thực là những người có can đảm bằng thép, rèn bởi
cái oai quyền và cái trí cương quyết của quan Châu.
Họ cầm đuốc giơ cao lên, hai người đi trước, ba người đi sau,
bình tĩnh cùng với ông Châu bước vào hang Văn Dú.
Bóng lửa khuất vào trong đám tối đen không cùng.
Ngoài cửa hang, cây cối lại vẫn giữ cái vẻ hoạt động vô tình
và lạnh lẽo như hôm trước, như lúc hai người Thổ Kao Lâm mới bước tới, duy có
khác một điều là thây người Khách đã thôi lủng lẳng ở dưới cây bàng, và trước
hang thần, thêm một người nằm chết.
Ánh lửa đuốc chiếu sáng được một khoảng dài khiến cho ông
Châu trông thấy trước những chỗ rẽ sắp bước tới và làm cho bớt cái hơi lạnh
trong hang.
Hang rộng chừng mười bộ, càng vào càng thấy cao thêm. Dưới
chân, đường đá rắn và trơn, nhiều quãng phẳng dễ đi như đã sửa sang từ trước. Lối
hang khúc khuỷu, đi chưa được mấy, ngoảnh lại đã không thấy cửa hang đâu. Ông
quan Thổ kỹ lưỡng xem xét hai bên, thấy cái mỏm đá, hốc đá nào cũng chú ý đến.
Trên mặt vách đá màu rêu mốc đủ các sắc, ông Châu mỗi chốc lại tưởng như sắp thấy
những dấu hiệu dị thường. Nhưng không, chẳng có gì là ghê gớm, ly kỳ; cũng
không thấy có vẻ gì là giết người hết. Từ cửa hang trở vào, thỉnh thoảng lại có
một vũng nước hoặc ở giữa, hoặc ở cạnh lối đi hợp với hai cái lạch chỗ nhỏ, chỗ
to theo chân vách đá. Nước ở lạch trong hơn nước suối, ánh lửa đỏ soi xuống tận
đáy thấy một lớp sỏi nhỏ và trắng tinh. Nhiều lúc cả bọn cùng dừng chân, không
ai nói một lời nào, thì thấy trong hang yên lặng, chỉ nghe có tiếng giọt nước
trên cao rỏ xuống, với những tiếng dơi bám vào trong khe tối bị mất giấc ngủ vì
có ánh lửa và có người vào.
Năm bộ hạ càng vững lòng, thì ông Châu càng lo ngại. Cái yên
lặng và dáng tầm thường của hang đá này như có vẻ lừa dối nham hiểm. Ông nghĩ đến
những câu trong tờ di chúc bí mật: những lời trong giấy này biết đâu chẳng là
những câu gạt mình để làm hại mình ở đây? Ông có ý hối hận vì không thử y lời dặn
trong giấy là đo từ cửa hang vào cho biết chừng đã sắp đến nơi chưa. Nhưng theo
như ông ước đoán thì đến chỗ đó chưa được nửa đường, vả ông còn muốn xem xét một
lượt đã.
Ông không để cho bọn theo hầu trông thấy cái lo ngại của
mình. Mà họ cũng không đủ sáng suốt để trông thấy được. Họ chỉ biết tôn trọng
cái vẻ trầm ngâm của chủ họ trong lúc ấy và hết sức vâng theo lời ông.
Giữa nơi kín đáo như thế, trong ruột một quả núi chứa chất những
điều bí hiểm, ông Châu thấy như cách biệt hẳn với thế giới. Ông lấy làm lạ rằng
lòng can đảm của mình bị lay động quá đến thế. Ông tĩnh tâm lại để xem mình
nghĩ gì. Ông ngờ rằng trong hang núi có một sức mạnh làm tâm trí ông mê mẩn.
Ông nhìn thứ ánh sáng đỏ bập bùng của mấy bó đuốc chiếu vào bốn phía đá, rồi
ông lại nhìn bọn đầy tớ, họ nhìn lại ông.
- Vô lý thực, mình lại nạt mình chứ có ai đâu.
Ông nghĩ bụng thế, rồi ông truyền cho họ tiến lên.
Tiếng ông nói khẽ thôi, mà nghe mà nghe vang động như đánh thức
cả những cái ly kỳ còn đang ngủ.
- Tắt bớt đuốc đi, khói xông lên nhiều quá; để bốn bó cũng đủ
rồi.
Họ nghe theo lời ông và đi mươi bước nữa thì đến một vũng nước
lớn lan khắp bề ngang đường hang núi. Giơ đuốc lên soi thì thấy đến chỗ rẽ mà vẫn
chưa hết. Đá chỗ ấy trơn lắm. Nước trên những thạch nhũ sèo sẹt rỏ xuống mấy ngọn
lửa và mau như giọt tranh sau trận mưa rào.
Ông Châu sai hai người cầm đuốc tiến lên:
- Hai thằng hãy đi xem chỗ nước này đến đâu thì hết.
Hai người tức khắc vâng lệnh rồi nhanh chân giẫm lên lớp đã
cuội trắng ở dưới đáy mà đi vào. Hai ngọn đuốc lảo đảo soi dần vào quãng đường
tối đen rồi khuất hẳn.
Được một lát, tiếng chân khoa nước thấy dứt. Rồi hai người Thổ
nói vang lên, giọng vui mừng như lấy làm lạ:
- Quan Châu à! Chỗ này hết nước rồi! Mà đàng kia lại sáng lắm.
có lẽ chỗ này ăn ra một cửa hang khác cũng không biết chừng!
Ông Châu liền tiến lên cùng ba người bộ hạ. Ông để cả giầy lội
xuống nước nhưng vội lùi lại ngay; nước lạnh buốt như làm rụng mất chân. Ông chịu
rét không quen nên bảo hai người cầm đuốc cho ông và cho một người bộ hạ thứ
ba, để hắn cõng ông qua cái vũng nước ấy.
Tiếng hai người đi trước vẫn nói lớn, họ bàn nhau tắt đuốc để
dành đến lúc ra.
Bọn sau đi được già nửa đường, sắp tối chỗ rẽ. Bỗng nhiên hai
tiếng kinh ngạc cùng kêu lên một lúc.
Ông châu lớn tiếng hỏi. Hai người không đáp chỉ gọi:
- Quan Châu à! Còn trong hang chứ?
Giọng họ run run và réo vội lên như người sợ quá ngắn hơi thở.
- Quan Châu à! Lạ lắm! Đi mau lên! Đi mau lên!
Ông Châu giục người cõng bước thực mau. Những lời nói vừa rồi
vang ầm lên cùng với tiếng nước reo dưới những bước chân khua động.
Khỏi chỗ vũng nước thì thấy ánh sáng mà hai người kia báo trước.
Ông Châu ở trên lưng người cõng nhảy xuống, vội chạy đến sau hai người kia xem.
Ông cũng sửng sốt như họ, đứng lặng không nói được gì. Ba người sau tới nơi
cũng đứng đực người ra như thế.
Trước mặt họ, cách độ hai chục bước, trong một khoảng rộng và
cao như một cái động nhỏ, hiện ra một cảnh tượng quái gở kinh hoàng.
Một bọn năm, sáu người đàn ông nằm ngồi hỗn độn bên những tảng
đá cuội cực to, gần sát chân vách đá. Một thứ ánh sáng trắng và yên lặng như
vun ở ban ngày lạnh lẽo bên ngoài mà dội xuống bởi một cái lỗ ăn thông lên đỉnh
núi; nhưng đứng chỗ ấy, ông Châu chưa trông thấy trời.
Ông bảo bọn theo hầu tắt hết đuốc đi, chỉ để lại một bó nhỏ.
Rồi một mình ông tiến lên trước, thanh gươm sáng lăm lăm trong tay. Ông quay lại
truyền:
- Năm đứa bước theo tao! Nhưng nếu tao không bảo thì không được
làm gì đấy. (Ông lại chỉ những hòn đá cuội lớn). Mà phải cẩn thận, không đứa
nào được chạm đến những tảng đá ấy. Nó nguy hiểm lắm đó: nó làm chết Nùng Khai
và những thằng này.
Bọn theo hầu còn đang kinh khiếp sẽ thì thào nói như chính
mình lại sợ tiếng mình, thì ông Châu bỗng chú ý ngay đến một khoảng tối đen ở
trên một phía vách đá, cách mặt đất độ năm sáu thước, và to gần bằng một cái
nong. Nhìn kỹ thì đó là cửa một cái hang con bị lấp đầy những hòn đá cuội to
cùng màu và hình như cùng hạng với những tảng đá lăn lóc dưới đất.
Ông Châu bước lại gần, ngẩng lên nhìn một hồi lâu rồi nghĩ thầm:
- Thì ra chúng nó cũng biết đây là lối vào nơi để của và cũng
đoán được cái câu: “Mày vào trăm chân, mày lên ba tay” ở trong bài di chúc vắn
tắt. Mà có lẽ bọn con cháu họ Hoàng đã tìm thấy nghĩa câu ấy từ trước và bắt đầu
phá cái hang nhỏ này rồi. Nhưng chúng đoán ra, đào ra để tìm thấy cái chết chứ
không tìm thấy của.
Rồi ông lẩm bẩm trong mồm, nửa như nói một mình, như bảo lũ bộ
hạ:
- Hừ khôn khéo, khôn khéo mà ghê gớm lắm!
Mấy trăm năm trời nay, những hòn đá kia giết đã bao nhiêu
nhân mạng? Viên quan Tầu kia giữ của bằng cách gieo những cái khủng khiếp, chắc
tưởng rằng phi con cháu nó thì chả có ai là người lấy được của trong này ra; chớ
có ngờ đâu đến lượt ta... ta quyết phá cho tuyệt cái kế thâm độc ấy!
Nói đoạn ông quay lại dặn bọn người nhà lần nữa:
- Không được đứa nào động đến những hòn đá này đó. Hãy lôi
xác những thằng này để ra một nơi cho tao xét xem.
Năm người kia vẫn đứng yên, chưa hiểu ra sao, ông Châu lại
quát:
- Mau lên chứ! Lôi chúng nó ra cả một bên!
Bọn chúng có sáu người, gần hết trông to béo lực lưỡng, họ ăn
mặc đều một loại áo vải dầy màu chàm. Da mặt và tay họ đều xám đen như da Nùng
Khai. Họ cùng đi một thứ giầy vải, ngoài quấn những dây nịt khiến cho lá cỏ
cành lau giắt đầy chung quanh chân. Coi mặt mũi và y phục thì biết họ là người
Tầu, nhưng không thể đoán được là người ở bậc nào vì tất nhiên họ phải thay đổi
hình dạng.
Người thứ nhất - bấy giờ đã lôi ra để một chỗ - là người còn
trẻ, mặt mũi nhăn nhó như người đau đớn gớm ghê. Người thứ hai và người thứ ba
ngồi dựa lưng vào vách đá, một người ngửa cổ lên, còn một người ngả đầu xuống
vai người nọ; lúc mấy tên bộ hạ Thổ xốc nách kéo hai cái xác đi lùi lại, thì đầu
hai người chết vẫn ngửa; miệng thì xếch lên như cười một cách đần độn. Người thứ
tư là một ông già, mặt xương xương, mép và quai hàm lởm chởm những râu, mắt to,
mở trừng trừng, đang nằm nghiêng ôm lấy một hòn đá cuội. Bọn người Thổ phải khó
nhọc mới kéo được ông già ấy khỏi chỗ cũ, vì chân ông ta bị đè dưới bụng một
người to béo - người này đâm chúi đầu xuống, miệng hôn đất, tay quắp lại, mười
ngón quào sâu vào đùi ông già. Còn người sau cùng mở mắt nhưng lòng đen chạy
lên mí trên, mồm cứng và hé mở, môi dưới trề ra; hắn ngồi gò ruột ở một bên,
vai so lên, cằm sát ngực.
Bằng ấy cái xác cứng đờ như tượng gỗ, họ đều kéo lại cho nằm
kềnh càng ở một chỗ sáng nhất, trên mặt đất hang rắn và ẩm, mình đè lên những
cái côn sắt lớn và nhọn, những thanh gươm ngắn và trần, những bọc vải xanh đựng
cơm và bánh khô với những bó đuốc đã tắt lửa.
Tuy có đông người trong hang và tuy đã hơi dạn với cái bí hiểm,
ông quan Thổ cũng phải gắng sức mới bình tĩnh được tâm thần. Trước cái cảnh tượng
quái gở mà ông thấy đó, ông sẽ lắc đầu mà tưởng đến cái ghê sợ của một người
vào đây một mình. Ông tự nghĩ:
- Thế mà ta chực không cho đứa nào theo đấy! Cũng may mà ta
nghĩ lại... Nếu không thì những lúc này liệu còn can đảm không?
Rồi ông nghĩ đến Nùng Khai và đến lúc hắn trông thấy bọn người
chết. Ông chắc rằng khi Nùng Khai vào Văn Dú thì đã thấy bọn Khách ở đây mà lúc
ấy họ cũng đã chết rồi.
Nùng Khai có lẽ chết vì khiếp sợ quá? (Ông nghĩ thế, nhưng lại
lắc đầu). Khiếp sợ mà đã chết ghê gớm như thế này được ư? Mà Nùng Khai có khiếp
sợ không? Không chắc, mắt tên cướp kia đã quen thấy máu đổ, quen thấy những cảnh
tàn sát nhiều lần rồi; mà cái lòng hung bạo ấy lại nhờ có sự ham chiếm được của
làm cho táo tợn thêm... Vả nếu nó biết sợ đã không dám vào đây ngay từ lúc thấy
xác người Khách thắt cổ.
Lúc ấy ông Châu từ từ đưa mắt nhìn khắp động từ trên xuống dưới,
từ trái sang phải; nhưng không chú ý đến vật gì. Ông còn đang đoán tưởng lại những
cử chỉ của tên Thổ già từ lúc vào đây đến lúc chạy ra cửa hang mà chết, thì bỗng
trông thấy một con dao rừng với một bó đuốc bằng sam mộc nằm ở bên một tảng đá
cuội. Con dao ấy tất nhiên không phải của bọn Khách, vì đó là thứ dao rừng chỉ
riêng người Thổ quen mang. Mà bó đuốc kia chắc cũng là của Nùng Khai, theo như
người trai Thổ Kao Lâm thuật lại.
- À thế thì chắc Nùng Khai tìm thấy tờ di chúc kia ở chính chỗ
này đây. Rồi tất nó phải chạm đến những tảng đá này mới chết được... Có lẽ nó
tưởng trong đá cuội có vàng ngọc nên mới lấy tay vần xem... Nhưng nó ngu ngốc đến
đâu cũng phải nghi ngờ chứ... Bọn Khách kia chết cứng đờ ra đó, mà những hòn đá
này thì lăn lóc ở bên...
Ông quan Thổ cau đôi mày lại, nhìn trừng trừng xuống đất, một
ngón tay chập chạp gãi sau mang tai. Rồi ông ta se sẽ một tiếng thở dài.
- Hay là tờ giấy kia bị một hòn đá đè lên? Nùng Khai muốn cầm
giấy xem nên mới mang bỏ hòn đá sang bên cạnh? Ừ có lẽ thực thế, vì tờ giấy ta
thấy thủng rách lỗ chỗ mà ở hai mặt giấy ta còn thấy màu đất bám và phảng phất
màu rêu xanh. Nhưng dẫu sao, ta hẵng cứ biết rằng Nùng Khai cũng như bọn Khách
kia, bị chết vì đã phạm tới những hòn đá cuội ấy.
Những tảng đá này trông nhẵn và cũng khá tròn, tự cái lỗ đang
đào dở lăn ra, và nhiều tảng lăn tản mát tận đằng xa và khuất trong đám tối.
Ông châu đến bên một tảng, cúi xuống xem xét một hồi rất lâu,
nét mặt khó khăn, chăm chú và tỏ ra chiều rất cẩn trọng.
Ông lẩm bẩm nói:
- Cái “Thần giữ của” của nó mới hiểm ác chứ! Có ai ngờ đâu những
vật ghê gớm này lại là những tảng đá tầm thường.
Rồi ông đứng sững lên, lại gần mấy cái tử thi người Tầu, khạc
một cái nhổ xuống đất và gọi bảo lũ bộ hạ:
- Trên mặt bàn tay lũ này cũng như trên mặt bàn tay của Nùng
Khai, có những vết máu lấm tấm đen, dấu vết của những hòn đá giết người đó. Đứa
nào phạm đến những vật ấy thì cũng phải chết như những tên vô phúc kia. Chúng
mày phải coi chừng đấy.
Lúc ấy, ông đang lom khom cúi xuống xem cái xác người Khách
già nhất. Người này trông vẻ hung ác, hai mắt nhìn thẳng vào chân ông Châu. Bên
cạnh cái bao gươm to bản và ngắn đeo vào cái đai vải thắt ngang lưng hắn, ông
còn thấy giắt một cái hộp thiếc mà ông không thấy ở thắt lưng bọn kia. Hộp này
dài hơn hơn một gang, ngang bằng ba đốt tay và dầy hai đốt. Ông châu liền cầm
ngay lên, rút nắp lấy ra được hai tờ giấy cuộn tròn lại. Tờ thứ nhất là một cái
giấy thông hành của quan Tổng đốc Quảng Đông cấp. Tên người mang giấy đó là Thạch
Dụng, ba mươi tư tuổi, làm thầy địa lý, quán ở Bình Giang. Cứ tuổi trong tờ giấy
này thì ông già kia không phải là Thạch Dụng, mà người mang nó có lẽ là người
Khách bị giết ở gần cửa hang.
Ông Châu xem đến tờ thứ hai.
Tờ giấy này dầy như bìa, mầu vàng bẩn. Ông quan Thổ vừa thoạt
giở ra đã thấy kinh lạ: chữ trong giấy viết bằng máu, nét gãy cứng như vạch bằng
que.
Lời trong giấy như sau:
“Bọn dũng sĩ chúng ta là Đô Bá Kỳ, Tần Du, Điền Nhị Giang, Lý
Thất và Lý Nhạc, năm mãnh hổ ở vùng Mê Sơn, xông pha hiểm trở, theo vết chân Thạch
Dụng đến đây để chiếm lấy kho vàng của y.
Năm chúng ta cùng tra khảo y, cùng lấy được mảnh giấy chỉ
cách đào lấy của, rồi cùng giết chết y.
Vậy chúng ta thề nguyền với nhau rằng, của cùng tìm được chia
đều, và phải giữ việc này cho kín. Nếu trong bọn ta, có kẻ nào manh tâm muốn
chiếm lấy phần lớn, hoặc tìm cách giữ cả cho riêng mình, thì kẻ ấy sẽ bị chết
treo trên cây vì tay chúng ta, bị năm nhát dao trên mình, y như số mạng của Thạch
Dụng.
Chúng ta lấy máu của y để viết tờ giấy này, lại cùng chích
máu mình biên tên và in dấu ngón tay vào đây ký kết”.
Năm ngón tay cái in thành một hàng máu đỏ nhòe nhoẹt ở sau những
câu ghê gớm ấy.
Ông Châu lặng yên, không nói gì. Một lát ông quay lại nhìn bọn
người Tầu, thấy mặt mũi họ càng thêm vẻ độc ác. Nhưng bọn giết Thạch Dụng chỉ
có năm đứa, vậy đứa thứ sáu là ai? Có lẽ là đứa trẻ nhất, và có lẽ là người đi
theo Thạch Dụng đến đây làm chân trong cho chúng.
Một lát ông Châu lại nghĩ:
- Thì ra quả nhiên tên Khách chết treo là con cháu người quan
Tầu thực. Nhưng tại sao mãi bây giờ mới sang đây? Mà bọn cường bạo kia dò xét
làm sao lại biết được y sang tìm của. Cái đó toàn là một thiên bí mật khó lòng
mà khám phá được ra. Ta chỉ phục viên quan Tầu thực là người sâu sắc! Câu dặn
con cháu phải gắn lại tờ di chúc, ta tưởng là vô lý, nhưng đến nay mới rõ cái ý
khôn ngoan. Viên quan Tầu có lẽ muốn phòng hai điều, một là bảo con cháu giữ lại
đừng hủy tờ giấy đi, để sau có khi phải đem ra chứng nhận cái quyền được hưởng
của trong hang Văn Dú; hai là hoặc trong khi đi tìm của, có kẻ theo mà tra khảo
thì tờ giấy kia với những câu kỳ dị viết trên đó sẽ lừa gạt kẻ chiếm được nó và
báo thù cho con cháu mình. Viên quan Tầu muốn cho của trong hang Văn Dú nếu
không về tay dòng dõi nhà y, thì không về tay ai hết. Mà của cải với nơi chứa
nó sẽ là tai họa nghìn năm cho những kẻ muốn tìm tòi... Ta cũng là kẻ tìm tòi
đây... Nhưng cái mưu kế lập ra từ mấy trăm năm kia đối với ta không có giá trị
gì nữa!
Vàng và máu (V)
Ông quan Thổ gấp cả hai tờ giấy tra vào cái hộp thiếc như cũ
và giắt vào thắt lưng mình, rồi ông sai bọn theo hầu đem cuốc xẻng và dao trường
đến phá nốt cái lỗ hang ở trong phía tối. Họ vâng lời, tức khắc lấy xẻng và dao
nậy những hòn đá từ dưới trở lên. Cứ mỗi hòn đá rơn ra họ phải nhảy lùi lại.
Cái khó trong việc đào phá chỉ là phải tránh những hòn đá cuội đó. Ông Châu đứng
một bên, trên một tảng đá xanh, cao và khá phẳng. Ông vừa bảo ban vừa thôi thúc
họ; trong động vang lên những tiếng cuốc xẻng, những tiếng ông Châu quát, với
những tiếng đá cuội lăn ra. Lỗ hang, sau đó một hồi lâu đã thấy mở ra được non
nửa về phía dưới. Lúc ông Châu toan bảo một người đốt đuốc lên, thì ông chợt thất
kinh kêu lên một câu dữ dội:
- Này chết! Lùi ra mau!
Vừa lúc bọn đầy tớ hốt hoảng nhảy lại đằng sau, thì rầm một
cái như sét nổ trời, cả phần trên lớp đá cửa hang cùng lở xuống. Bọn Thổ chạy
tán loạn nhảy như lũ vượn, để tránh những hòn đá tròn đuổi theo. Đá cuội cứ lăn
ra tứ tung và chiếm gần nửa chỗ trong động. Cũng may không ai việc gì. Nhưng họ
mất sắc đi vì khiếp sợ.
Lúc họ đã dám quay lại nhìn thì cái cửa hang nhỏ đã rộng mở.
Hang này cách đất độ bốn, năm thước, cửa hang to bằng một cái nong. Không thể
biết hang nông hay sâu: trông vào thì chỉ thấy mù mịt đen và phảng phất như có
khói. Ông Châu bảo họ lấy dây thừng và dây mây làm thành những thứ quang sơ sài
để tải những hòn đá kia ra một chỗ. Ông đến xem mấy hòn đá gần nhất thì thấy
cũng là một thứ đá cuội như những hòn lăn ra trước, nhưng nhỏ và nhẵn nhụi hơn.
Ông lại nhìn kỹ những hòn phía gần cửa hang, là những hòn đá rơn xuống trước
tiên thì lại thấy chung quanh đá bong ra những mảnh cát to hạt và sắc cạnh mà
ông không dám động tới. Ông gật đầu mấy cái rồi nói:
- Chỉ có lượt đá ngoài cùng là nguy hiểm thôi.
Tuy thế song cũng bảo bọn kia phải cẩn thận mà khiêng từng
hòn một. Họ lẳng lặng theo lời ông như một bọn người máy. Từ nãy đến giờ họ rất
ít nói và không nói to, trái với tính quen của họ khi đông người cùng làm một
việc.
Khi đá cuội ở bên những cái xác chết đã xếp thành một đống to
và khi đã có lối đi tới cửa hang ông Châu mới bảo đầy tớ đem cái bó đuốc gần
tàn lại để nối. Ông thì cầm bó đuốc sam mộc của tên Nùng Khai. Thấy một tên bộ
hạ không đi hài xảo, ông liền bắt hắn cởi giầy của một người chết để xỏ chân
vào. Rồi ông nói:
- Bây giờ chúng mày đem những tảng đá kia chồng thành bậc để
lên. Những đá rơi ra sau thì không đáng sợ lắm.
Mấy hòn đá xếp thành một thứ bậc thang cũng khá tiện. Ông
châu đem đuốc lại nhóm, chỉ để lại hài bó dành đến lúc ra.
Rồi ông nhìn lại một lượt chung quanh mình, cảnh tượng trong
này thực kỳ dị. Đám người chết co quắp nằm nghẹo đầu giơ chân ở chỗ ánh sáng
ban ngày soi xuống, cùng với những hòn đá cuội chất đống, màu đất ẩm khác với
màu xanh xám của vách hang. Cách đó không xa, bọn người Thổ xúm lại với nhau đứng
trong bóng tối. Họ sửa giầy rơm, đai lưng, hay đốt thêm thuốc. Ánh lửa đỏ bập
bùng chiếu một bên mặt tai tái của họ và chiếu lên mặt hang đá làm rõ rệt thêm
cái lạnh lẽo của thứ ánh sáng ngoài trời soi xuống.
Bó đuốc của ông Châu và ba bó đuốc của bọn đầy tớ đã cháy to,
nổ lách tách. Hai người giụi tàn lửa lên đá rồi theo lời ông Châu, chui vào cửa
hang. Ông cùng lên với người thứ ba để cho hai người sau cầm đuốc đi tập hậu.
Cái cửa hang nhỏ lúc ấy trông như miệng một cái hỏa lò đang cháy, mỗi lúc một tối
dần.
Không bao lâu, cả lửa đuốc lẫn người cũng bị cái miệng đá ấy
nuốt chửng.
*
Thoạt mới vào, đường đi rất khó. Họ phải lom khom cúi; trên đầu
họ, trần đá thấp như muốn đè mãi họ xuống, mà dưới chân có nhiều chỗ hõm hốc, lại
thêm đá cuội bên ngoài lăn vào làm cho họ phải hết sức dè giữ mới dám bước lên.
Họ không giơ được ngọn đuốc lên cao. Ánh lửa trước mặt làm cho chói quá, phải
đưa cánh tay lên che ngang mắt mới trông được rõ lối đi.
Nhưng hang càng vào sâu càng rộng, và dễ đi hơn. Vào chừng
hơn mười bộ thì đuốc đã giơ lên được quá trán; trần đá cũng cao dần và đỡ thấy
nặng nề. Họ càng vào sâu thì khí lạnh càng thấm thía. Một thứ gió lan đi rất chậm,
từ chỗ đen tối cùng cực đưa ra. Họ phảng phất ngửi thấy những mùi hôi tanh và ẩm
mốc. Đứng lại độ nửa phút, ông Châu lẳng lặng nhổ bọt, rồi lại tiến lên. Lối đá
rêu cũng khá rộng. Ông châu cho hai người đi quá ông một bước, còn ông đi giữa
họ, hơi lùi về đằng sau. Bỗng nhiên ông Châu dừng chân, nói một cách kỳ lạ:
- Ồ! Đứng lại, đứng lại xem đã! ồ!... Kìa!
Họ trừng mắt trông lên.
Trong khoảng giữa tối om, thấy phảng phất hình một người
trăng trắng. Ánh lửa cử động khi mờ khi chói, nên cái hình ảnh vừa rồi lúc biến
lúc hiện rất mơ hồ.
- Cứ đi lên xem, chỗ ấy cách đây xa quá nên không rõ.
Họ tiến lên mới được mươi bước nữa thì cái hình lúc này thành
ra một bộ xương người. Bộ xương này ngồi ngoảnh mặt ra, ở trên một cái bệ gạch
rất lớn.
Cái đầu lâu, hai mắt rỗng đen thao láo, ngả về phía trán ở giữa
hai cánh tay giao nhau. Hai tay này để trên một cái cột, cao lên tới ngực. Hai ống
cẳng đã rời, dựa vào cái bệ như hai thanh củi: phía trên bàn chân có những xích
sắt con han gỉ, chằng buộc hai ba vòng. Màu xương thì xanh đen, mốc rêu, cũng
như màu cái cột đá. Hàng xương sống vẫn thấy liền khớp, vẫn thấy chống giữ bộ
xương ngực. Trên bả vai, lúc soi đuốc lại gần, thấy một thứ mùn nát thành bụi lẫn
lộn với một vòng tóc xam xám và dài.
Ông Châu nghĩ ngay đến lối yểm vàng của bọn người tàu. Ông
nghĩ đến cái nỗi tuyệt vọng của người mà họ dùng làm thần giữ của; nghĩ đến cái
lòng thâm độc của kẻ tin những điều vô lý mà hại người. Sau khi tìm được những
hòn đá cuội, ông không nhận là có thần thánh gì nữa.
Nhưng ông lại nghĩ:
- Viên quan Tầu kia đã có những tảng đá để lấp cửa hang
trong, hắn đã có phép giấu vàng kỳ bí hiểm rồi; hà tất phải nhờ đến thần thánh
nào khác để giữ của cho hắn. Ta cần phải biết rõ điều ấy. Vì biết đâu rằng, sau
bộ xương vô giác kia, không còn ẩn những mưu kế gì lừa gạt mình nữa...
Ông đứng yên một lát, trí suy nghĩ, tay vân vê xoắn suýt bộ
râu cằm. Sau, ông cứ gật gù hoài, miệng mím vào như muốn cười, mặt lộ ra vẻ
khoan khoái:
- Phải, phải, chỉ có hai lẽ ấy; chứ viên quan Tầu kia giết
người vô ích làm gì? Một là người Tầu nghĩ đến cách yểm vàng từ trước, từ khi mới
để của ở đây... rồi dần dần mới tính ra, mới dùng cách xây dựng cửa hang bằng
thứ đá cuội nguy hiểm. Hai là bộ xương kia chẳng qua chỉ là xương của một kẻ bộ
hạ theo vào giúp việc trong này. Mà người giúp việc ấy cũng như những kẻ tải gạch
đá vào xây nên cái bệ này đã trông thấy của cải trong này, nên phải giết đi, để
triệt những tấm lòng tham và làm câm những cái miệng không kín đáo. Thế rồi một
ý kiến nảy ra, viên quan Tầu đem người bị giết đặt lên bệ sau cái cột đá ấy để
làm một thứ bù nhìn. Kẻ nào không phải là người có quyền lấy của, chẳng hạn như
ta đây, mà lòng mê tín vẫn còn thì sẽ bị cái bù nhìn kia làm cho kinh hoàng, có
khi còn ám ảnh suốt đời nữa.
Cái bệ mà có bộ xương người ngồi ở một bề thoại trông, ông
Châu đã biết ngay là chỗ đựng của. Bệ này hình chữ nhật, rộng gần bằng dài, và
xây bằng gạch, trông chắc chắn nhưng rất vụng về. Ông quan Thổ lấy mắt ước lượng
thì mỗi bề ngang dọc vào khoảng bốn và năm thước và về cao thì vừa bằng cái ống
cẳng bộ xương. Mặt bệ cũng khá phẳng, gạch xây toàn là những phiến rất lớn và
xem ra rất dầy. Mầu gạch một vài chỗ nâu sẫm như da sành, nhiều khoảng rêu cáu
vừa xanh vừa đen, nhiều chỗ long lở như đất khô hay mốc bám.
Ở hai bên còn chừa ra hai lối nhỏ đi ra phía sau bệ, đến chỗ
cùng hang. Ông Châu cầm đuốc bước vào. Trần đá càng ở xa càng thấp.
Ông đứng sau bệ ngoảnh vào, thả tầm mắt nhìn cái khoảng tối
đen mà lửa đuốc không soi tới. Ông đi vào mấy bước thì phải cúi thấp mãi xuống.
Ông thấy cái cảm giác như bị đè nén mãi ở dưới cái trần đá nặng và dày. Ông thử
nghĩ xem chỗ ông đang đứng ở phía nào trong hòn núi đá. Nhưng không đoán ra.
Khi mắt đã quen tối, ông chợt thấy hình ba bốn bộ xương người
nữa. Ông gọi đầy tớ lại và bảo cho chúng biết là họ bị hại bởi tay người tàu...
Nhưng xét kỹ thì hình như họ bị thuốc độc chứ không phải bị chém bất thình lình
như ông thoạt tưởng: bộ xương nào cũng còn nguyên, mà cổ vẫn liền với đầu.
- Vả lại, - Ông Châu nói tiếp - viên quan Tầu ngoài cách đầu
độc họ thì không dám giở ngón gì ra. Vì tất nhiên y vào đây có một mình, với bọn
kia... nếu họ hơi thấy viên quan có ý phản trắc tất họ không để cho y sống.
Nói đoạn ông quay trở lại, đưa bó đuốc cho một người đứng
bên. Ông đứng sau cái bệ lớn, yên lặng một hồi lâu, tay cầm gươm, vô tình vạch
lên mặt bệ những nét nhằng nhịt.
Lần này là lần thứ năm, thứ sáu, ông ngẫm lại những cảm giác
và những điều ông suy tính trong lòng.
Lúc ấy ông thấy lòng xôn xao. Ông dịu lời bảo đầy tớ nổi thêm
đuốc lên, thì thấy giọng nói của mình hơi khác. Quả tim ông đập nhanh và mạnh lắm.
Có lẽ đó là vì mừng. Vì ông biết rằng trong cái bệ lớn kia, có một kho của lớn
mà chính ông, ông sắp được hưởng... Viên quan Châu nhỏ mọn, danh phận mờ tối ở
trong bóng những rừng hoang, nay chỉ còn phải lật có một lần tường mỏng nữa là
được trông thấy cái phú quý to nhất trong nước... Ông sẽ làm nên tiếng tăm, ông
sẽ tìm cách cùng một đồng liêu người Kinh, làm quan trong bộ. Ông sẽ mở một con
đường mới cho người cùng giống. Người ta có của là người ta có quyền.
Ông hắng giọng cho lời nói mạnh lên. Bọn theo hầu đã đốt thêm
đuốc.
Ông sai giắt hai bó lên kẽ đá, bảo ba người khác cầm năm bó,
còn ông và hai người mạnh khỏe nhất thì lấy xẻng, cuốc để bổ vỡ cái mặt bệ ra.
Cuốc vừa mới giáng được một nhát, bộ xương người bỗng đổ rơi xuống, xếp lại
thành một đống hỗn độn trên mặt bệ, cái đầu lăn ra một bên. Ông Châu bắt họ
không được ngừng tay. Họ đang ra sức bổ nữa thì ông Châu ngăn họ lại. Rồi một
tay cầm lấy một con dao còn tay kia ông rờ vào chỗ kẽ vừa mới nứt ra ở một góc
bệ. Ông lấy mũi dao cắm mạnh vào đó, bảo một người nữa cùng làm thế, rồi hai
người lấy hết sức bẩy lên. Một phiên gạch dầy ước nửa gang tay, to bằng nửa cái
án thư bật lên, để lộ ra một lớp gạch nữa mới hơn ở dưới một lần vữa mỏng.
Lớp gạch phủ trên đá phá hết. Lớp gạch dưới mới nậy được ba
viên.
Ông Châu vội bảo họ ngừng tay: ông đã trông thấy những hình
nén, hình thoi in nhấp nhô ở dưới một lần vải phủ trên. Mảnh vải ấy cách lần gạch
độ ba đốt: ông quan Thổ cầm lấy mép vải rồi nhanh tay lôi lên, mảnh vải mủn
rách bung ra; ông Châu mở mắt cực lớn.
Những thoi vàng dài, màu xanh xanh, nằm hỗn độn bên những xâu
vòng trắng muốt, đó là những vật ông trông thấy trước nhất, bọc trong những mảnh
lụa hay giấy mỏng lòi ra. Còn ở dưới thì toàn những bọc còn nguyên, có lẽ cũng
là bọc vàng, ánh lửa soi vào làm hơi lấp lánh ở những chỗ rách.
Ông quan Thổ, mười ngón tay run lẩy bẩy, đưa cả chực bốc; ngập
ngừng một lát, rồi với lấy mấy cái bọc đưa lên tận mắt để xem.
- Chính phải rồi. Chính vàng! Vàng! Vàng với những vòng ngọc.
Vàng ngọc cao gần ngập bệ, lại còn khuất ở dưới những phiến gạch kia!
Bỗng nhiên ông nín lặng. Ông liếc mắt nhìn bọn tôi tớ. Chúng
nó đứng mê đi như những pho tượng cầm đuốc, chống xẻng. Ông thấy cái ghê rợn chạy
khắp người.
- Nhưng mà không! (Ông nghĩ thầm) không hề gì! chúng nó là
người trung thành lắm. Ta phải bình tĩnh mới được... Ừ không sợ gì!
Tuy thế ông vẫn đề ý đến cử chỉ của họ và nhìn lại cái gươm
sáng của ông dựng ở một bên đùi. Ông kéo hai, ba gói nữa lên thì thấy toàn là
những chuỗi ngọc kim cương và bạch ngọc. Lúc ông để cả xuống thì chú ý đến một
tập giấy nhô ra ở trong bóng tối của phiến gạch dày. Ông cầm giở ra xem thì đó
là một quyển sổ mỏng.
Giở tờ thứ nhất, thấy mấy dòng viết rất tốt:
“Thạch Điền Quang - Minh triều đại thần, xung Nam bang đô đốc
chi bảo”
Trang thứ hai kê những đồ đĩa ngọc, chén ngọc bình vàng và bạc
rồi đến trang kê các thứ ngọc: ngọc thạch, ngọc trai, kim cương... Trang thứ tư
và thứ năm, các đồ bằng ngà voi, bằng san hô; ngà voi nguyên, sừng tê... Trang
cuối cùng kê toàn là vàng, vàng thoi, vàng nén, vàng diệp các hạng.
Vàng và máu (Đoạn Kết)
Trừ những người bộ hạ của quan châu Nga Lộc thì không ai biết
đến chuyện ông tìm thấy của. Cả ông châu Kao Lâm cũng vậy: ông quan này tưởng cả
hai tên bộ hạ ông sai đi đều bỏ xác ở hang Thần.
Người Thổ Kao Lâm từ khi gặp những điều kinh khủng trước cửa
hang đá thì ở lại châu Nga Lộc, mấy tháng ròng rã không dám bước chân ra ngoài.
Rồi một ngày kia, người Thổ ấy tự nhiên đi đâu mãi không về nữa.
Người ta đổ đi tìm các ngả cũng không thấy. Sau cùng, một người lách vào một bụi
rậm gần đấy thì thấy hắn chết treo ở dưới cây ổi lớn bên nhà ông Châu. Bọn bộ hạ
theo ông Châu hồi xưa lấy làm kinh ngạc vô cùng. Họ ngờ là ông ta lập mưu giết
nó. Nhưng phần nhiều là đoán nó tự tử, vì họ thấy nó bị cái hối hận và khiếp sợ
cắt rứt ám ảnh không thôi. Và bọn người theo giúp ông Châu sau này vẫn được
sung sướng, giàu sang một cách bình tĩnh. Còn ông Châu thì bận bịu về của cải
nhiều lắm. Ông cưới thêm hai người thiếp nữa, và thôi tưởng đến sự làm quan
trong Kinh.
Những tảng đá giết người trong hang Thần thì ngay sau khi vận
hết của về nhà, ông Châu đã sai đem bỏ vào một cái hang thứ hai là hang giấu của
và sai xây thêm một lần đá bên ngoài lấp kín miệng hang ấy đi. Tuy vậy, ông vẫn
giữ lại một tảng nhỏ nhất làm kỷ niệm. Ông vẫn có ý giữ kín không nói ra vì sao
mà những tảng đá kia lại hại người một cách ghê gớm như thế. Nhưng một hôm,
nhân chuyện với mấy tên người nhà tâm phúc, ông tưởg cũng không cần phải giấu
mãi sự thực làm gì; ông bèn cẩn trọng đem tảng đá ra, lấy dao cạo mạnh lên, thì
thấy lở xuống, nhỏ và mỏng, những mảng cát to hạt. Đó là một thứ cát sắc cạnh
màu vàng trong lẫn màu nâu cháy, dính lại với nhau như luyện keo. Ông nói:
- Đây là cái oai quyền của “Thần giữ của” đây, cái linh
thiêng của Văn Dú cũng cả đây, thực là ghê gớm mà khôn khéo. Bao nhiêu tai họa,
bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu điều khiếp sợ của người ta trong mấy trăm năm trời
đều do những vật vô tri vô giác này gây nên. Nhưng chẳng qua chỉ là cái kỳ mưu
của viên quan Tầu nhà Minh, chứ không có thần thánh gì hết. Chung quanh tảng đá
này, có một sức mạnh giết người mau chóng hơn cả thần thánh nữa; đó là nhựa của
một thứ cây độc tên là May Nôm, thứ cây mà bọn Mán đi săn với quân giặc ở những
núi hiểm gọi là Công đia đèng.
Nhựa cây này, ngâm tên thì tên hoa độc: bắn, không cứ phải chỗ
hiểm, chỉ cần làm trầy da rướm máu cũng đủ làm cho kẻ bị thương chết không thể
cứu được. Nhưng nếu chế luyện theo phép của một vài giống rợ bên Trung Quốc thì
giống bôi thuốc độc vào móng tay để cào cấu kẻ thù thì nhựa cây đó trở nên rất
mạnh và giết người một cách ghê gớm mau chóng hơn. Viên quan Tầu kia hẳn biết
cách chế luyện nó.
Rồi ông Châu gắp đưa cho mấy người bộ hạ xem những mảng cát
bám trên tảng đá cuội. Ông bảo rằng đó là một thứ cát làm bằng những mảnh sứ hoặc
thủy tinh băm nhỏ, luyện keo lại với thứ thuốc độc mà ông nói. Thứ keo riêng ấy,
đem trát lên các hòn đá xây lấp cửa hang, là thành một thứ quân canh gác chắn
chắn không gì bằng. Cho nên những kẻ đi tìm vàng trước ông Châu, như bọn con
cháu họ Hoàng, bọn Cướp Khách với tên Nùng khai, đều vì phạm đến vật nguy hiểm
kia, bị thứ cát sắc cạnh phủ trên đá đâm vào da mà bỏ mạng.
Ông Châu tuy đem cái bí mật của hang thần mà giải nghĩa cho
những người bộ hạ trung hậu đã theo ông đi lấy của khi xưa được biết, nhưng ông
vẫn để cho dân trong Châu tin là ông có oai át được cả thần quyền. Văn Dú mất
thiêng là vì ông. Dân ông rất lấy làm cảm cái ơn trừ tai phá hoại ấy.
Từ đó, dần dần họ đã dám khai khẩn và cày cấy ở gần quả núi
đá. Lại có lần người ta rủ nhau vào tận hang xem.
Núi Văn Dú trông vẫn ngất ngưởng cao lớn nhưng người ta chỉ
coi là một ngọn núi cao lớn thường. Đến nỗi cái tên đã làm khiếp đảm mấy châu
huyện ngót ba trăm năm trời, họ cũng quên dần đi.
Bây giờ thì không mấy ai biết đến nữa.
Chú thích:
[1] Thứ dép bện bằng rơm của người Thổ dùng đi đường xa.
[2] Tiếng chửi rủa
[3] Truyện ở sách “Kim cổ ký quan”.
Đêm trăng
Đường quanh co ở giữa hai bên rừng núi phần nhiều là hẹp và xấu
lắm; chúng tôi phải cho ngựa dàn hàng một tiến lên.
Ở Pakha, chỗ nghỉ sau cùng tới đây, từ mười hai giờ trưa đến
bây giờ gần sáu giờ chiều, mà chỉ đi được chừng ba mươi cây số. Hồi ấy vào
trung tuần tháng 2. Trời về tiết xuân, nhưng gặp được lúc ấy cùng ấm áp dễ chịu.
Chúng tôi dừng ngựa lại trước một cái nhà lều rộng lớn, làm
trên một khoảng đất san phẳng, lấn vào khu rừng phía tay trái độ bốn năm sào. Lều
dựng theo lối ta, mái lợp tranh, ba phía vách bằng phên nứa hãy còn xanh tươi;
cửa cũng bằng phên, nhưng đan chưa xong, còn đặt dưới đất. Chỗ này dựng lên để
cho những người đi xa nghỉ chân và nhân thể cho bọn người Thổ săn bắn ở vùng
này làm nơi tạm trú. Cái lều cao rộng hơn nhà ta ở nhiều lắm, nhưng trống hơn,
không có bầy biện gì. Ở mặt đất giữa lều, chỉ thấy một đống củi gỗ dấm, một tia
khói đưa lên thong thả, với năm ba chiếc ghế thấp vứt bỏ chung quanh. Áp theo cả
chiều dài bức vách trong cùng và bức vách phía trái, còn có một thứ tầng cũng
đan bằng nứa, rộng ngót một thước tây, cao lên tới ngực, buộc vào những cột chống
là mấy khúc cây nhỏ mới đẵn về. Thấy có hai người Thổ đang thõng chân nằm ngủ ở
trên, tôi đoán đó là một thứ chõng hay một thứ giường phên mới ứng chế.
Gởi người buộc ngựa rồi, chúng tôi vào lều giở bánh tây, cơm
nắm, lạp sường và giò chả ra ăn với nhau. Trong lều không có đèn, chúng tôi ngồi
quây lấy đống củi bấy giờ đã thổi cháy to lên cho sáng. Những chuyện Mán Thổ
núi rừng tất nhiên được dịp đem ra nói. Người thì khoe những cảnh lạ, những điều
kỳ quái ghê sợ mà mình đã trải qua; người thì thuật những phen thập tử nhất
sinh ở chốn ma thiếng nước độc; nhưng đậm đà nhất là chuyện trăng gió đường rừng,
những chuyện hát đúm ở các chợ phiên. Mỗi người đều có một chuyện “tìm hoa”
trong làng để nhắc lại.
Nhân đó một người bạn kể cho tôi nghe những bước phiêu lưu của
một người đàn ông mà thỉnh thoảng tôi được gặp trong cái thì giờ đứng uống bát
nước ở một hàng quán. Ông này là người Kinh, nhưng nét mặt với tiếng nói thì y
như người Thổ; vóc trông đẫy đà lực lưỡng, bao giờ cũng mặc một bộ quần áo bằng
vải ka-ki. Ông ta rất táo tợn; trong bọn đi rừng đến cả người Thổ cũng phục ông
ta là người thạo và xông pha nhất. Họ gọi ông là Ba-đi-ghệt nhưng cái sính đi
ghệt ông ta đã bỏ, chỉ còn lưu lại cái tên hiệu thôi - Ông Ba chẳng ở lâu được
một chỗ nào; gặp việc gì ở đâu cũng nhận làm ngay, thấy cái gì cũng buôn: gỗ, vải
vóc, thuốc phiện lậu, xương hùm, nấm hương, nhung hươu, đủ mọi thứ. Có một điều
ai cũng chú ý nhất mà ông vẫn đem khoe với bất kỳ người nào muốn nghe chuyện,
là đến đâu, ở đâu ông ta cũng tìm được một người con gái kết duyên hờ với mình.
Ở với nhau được ít ngày rồi một hôm, người con gái Thổ thấy ông ta đi không bao
giờ trở về nữa. Tôi chưa ngồi nói chuyện với ông Ba-đi-ghệt bao giờ nên không
biết rõ tâm địa của người đàn ông ấy. Nhưng tôi xem ra thì không mấy người ưa.
Họ bảo rằng ông ta bạo dạn thì không ai hơn, nhưng mà giảo quyệt nham hiểm cũng
không ai bằng nữa.
Ăn uống xong, tôi để các bạn ngồi đó, rải áo khoác lên chiếc
chõng bên cạnh một cái cửa sổ mắt cáo rồi nhẩy lên ngả lưng. Tôi duỗi thẳng
chân ra nằm, vươn vai mà thở một hơi thực dài đuổi hết những cái mệt nhọc nặng
nề từ trước. Không gì khoái bằng được nghỉ ngơi sau một cuộc treo non lội suối
đường trường.
Hai người Thổ vẫn ngủ say, tiếng ngáy rờn rợn. Các bạn đi đường
thì bàn nhau vào ngủ trong làng, nhân tiện để tìm mấy đóa hoa rừng. Hôm ấy có
cuộc hát thi, vì gặp ngày làng mở hội.
Tôi lẳng lặng nhắm mắt không trả lời ai hết, vì tôi không muốn
theo họ và để phí mất lúc khoan khoái dễ chịu bấy giờ. Tâm hồn tôi thấy bâng
khuâng như nằm ở trên mây, trí tưởng tượng chập chờn... rồi giấc ngủ dịu dàng dần
tới.
Tôi mở mắt ra thì trăng xuyên qua khung cửa sổ mắt cáo đã đặt
trên mình tôi những mảng sáng vuông nhỏ. Bấy giờ có lẽ đã nửa đêm, hai người Thổ
không còn ngủ gần tôi, mà các bạn người Kinh cũng đi cả.
Tôi không muốn ngồi dậy, cứ để nguyên giầy mà nằm yên đó, hai
mắt lim dim.
Nhưng tôi không buồn ngủ thêm nữa.
Trong mình thấy tỉn
h táo vui lắm. Huyết mạch lưu thông như gió thổi; tôi tưởng
chừng có thứ thuốc tiên trong thân thể, khiến cho người tôi bỗng chốc thành
khinh khoái như bay...
Tôi lắng tai nghe, một dải suối róc rách ở gần, tiếng sóng
như thuỷ tinh reo vào trong thứ giọng rù rì tối tăm của những côn trùng dưới cỏ.
Sau lều thì khu rừng cây yên lặng như ngủ kỹ, nhưng ở trong đưa những tiếng bí
mật, khiến cho mình cảm thấy được cái sinh hoạt của nó trong lúc đêm khuya. Một
con hươu đang ngẩn ngơ nhìn cái lều vắng không. Những tiếng rất nhẹ của con sóc
chạy trên cành; những tiếng lá cựa dưới mình một con vật đang nằm, một tiếng vỗ
cánh nặng nề của con chim lớn. Từng trận gió thổi qua, một loạt lá rơi rào rạt,
rồi tát cả lại im lặng như ngóng đợi, như nín hơi. Xa xa, rõ thực xa, giọng
thác ào ào, để ý thì mỗi lúc thấy gần thêm, rồi lại xa dần, rồi lại như biến mất.
Có khi nghe như tiếng muôn nghìn người ồn ào đưa từ đâu tới; phảng phất trong
trí não tôi hình dung ra cảnh chợ búa xe pháo ở chốn thị thành.
Tôi cứ nằm đó nghe hoài. Nghe càng lâu muôn tiếng càng hỗn độn.
Sau cùng thành một thứ giọng rì rào mờ ám mỗi khắc một nhạt dần. Thần trí lại
chịu một sức thôi miên ma tuý đưa lại đâu từ chốn bồng lai. Văng vẳng trên
không, chỉ còn những tiếng nhạc gần rồi lại xa, với những hơi sáo rất nhỏ, rất
trong và cao tít.
Bỗng đâu, một cơn gió lạnh thổi qua làm tôi hơi rùng mình.
Tôi thở dài rồi hé mắt; trên lông mi những phấn bụi ánh sáng đang nhẩy nhót rập
rờn. Tôi lại thấy như không phải nằm đó một mình... Hình như có ai đứng bên
tôi. Mà “ai” đó hình như là một người thiếu nữ. Tôi chức đó chỉ là hình ảnh của
sự mơ màng thôi, nên cứ lặng yên, bỗng thấy một bàn tay, một bàn tay nhỏ bé dịu
dàng, êm ái để lên vai tôi:
- Đêm trăng sáng đẹp như thế này mà không đi nghe hát một lúc
chơi, lại nằm đây ngủ!...
Câu nói tiếng Thổ, giọng dẻo dang trong trẻo nghe rất hay.
Chưa nhìn cũng chắc người đứng đó là đẹp lắm. Tay người thiếu nữ lại lay tôi lần
nữa.
Tôi mở hẳn mắ nhìn thì cô ta nhoẻn miệng cười:
- Đi dậy đi anh. Dậy đi chơi một tí!
Cô ta đứng trước cái cửa sổ vách liếp và ngảnh mặt ra phía rừng.
Người trạc mười chín, hai mươi, hai mắt tinh anh, đẹp lạ thường, đôi má đầy,
mơn mởn đào non, nhỏ và mướt.
Trời ơi! Con gái thổ mà có người nhan sắc đến thế này ư? Tôi
mơ hay tỉnh?
Tôi nghĩ bụng thế, rồi ngồi dậy, thì ra tỉnh chứ không phải
mơ.
Tôi hỏi cô ta:
- Cô em ở đâu đến?
- Tôi ở trong làng (Cô vừa nói vừa lấy bàn tay lau miệng).
- Làng có xa không?
- Không xa lắm.
- Cô em có đi với ai nữa không?
- Không.
Tôi bối rối quá, vì cô ta bỗng dưng có vẻ thẹn. Tôi ngẩn người
ra, không biết hỏi thêm câu gì. Tôi nhìn cô ta một lúc lâu, cô ta ngẩng lên
nhìn tôi rồi trông đi chỗ khác.
Giá tôi đừng nín lặng, hỏi chuyện nữa đi mới phải. Nhưng biết
hỏi gì? Những phút đối diện yên lặng ấy sao mà dài và khó chịu đến thế!
Tôi ngượng nghịu quá chừng. Xin thú thực rằng xưa nay tôi nói
đùa với các chị con gái Thổ đã nhiều, nhưng tôi đều coi thường, không để ý gì đến
ai hết. Cũng nhiều cô kháu lắm, song không ai có thể gọi là đẹp, đẹp trong trẻo
và say đắm như cô gái này.
Tôi nghĩ mãi, mà chẳng có câu nào cho hợp lúc cả, mãi sau mới
hỏi lên được:
- Cô em ở đâu đến?
Thì lại là câu mình đã hỏi rồi.
Cô con gái nhìn tôi hơi ngạc nhiên, song cũng đáp:
- Tôi ở trong làng.
- Gần không?
- Không xa lắm.
- Nhưng cô em đi đâu thế?
Cô Thổ đã hết thẹn, tươi cười nét mặt và nhanh nhẹn trả lời:
- Tôi đi chơi. Tôi đến đây thấy có ngựa buộc ở ngoài kia, tôi
vào, không có ai, chỉ có anh ngủ... Tôi vào rủ anh đi nói chuyện chơi.
Rồi cô cười, mà cười quá chừng; tiếng cười giòn và đầy đặn.
Tôi cũng cười góp nhưng nghĩ thầm:
- Quái lạ, chả nhẽ người này lẳng lơ đến nỗi đi tìm một người
đàn ông ngủ một mình để nói chuyện với, hay sao?
Tôi nhìn người thiếu nữ một lần nữa: Không! Cô ta chỉ có vẻ đẹp,
trong sạch và rất đáng yêu quý thôi. Đôi mày đưa cong lên ở dưới trán bịt khăn
chàm, có vẻ kín đáo ý nhị, tôi ưa nhìn quá. Tôi hỏi cô:
- Thế cô em vào đã lâu chưa?
- Vào lâu rồi. Tôi xem anh ngủ mãi.
- Tôi không ngủ, mà sao tôi không biết.
- Anh ngủ đấy mà!
Cô vừa thong thả nói lại vừa cười. Cô cười sao xinh thế! Con
người nhan sắc mà có duyên thay.
- Này cô em...
Cô bé nhìn tôi, nhưng tôi không tiện hỏi câu ấy. Miệng cô vẫn
hé mở, để lộ ra một nét trắng nhỏ của đầu hàng răng trên. Cô lại ưỡn ẹo dựa cái
thân mềm mại vào chân tôi, làm cho tôi gợn cả người lên và không nghĩ đến những
cái vẩn vơ như trước nữa. Tôi mỉm cười và liều để tay lên vai cô ta. Người con
gái nói luôn:
- Anh nhé, anh đi chơi nói chuyện với tôi nhé. Tôi... tôi đến
rủ anh đi chơi...
- Cô thích đi chơi với tôi à?
- Thích. Mà thế nào cũng đi nhé?
- Ở đây nói chuyện cũng được chớ sao?
Nói rồi, tôi liền xốc nách bế cô ngồi lên với tôi, và lấy áo
phủ khoác cho tấm thân xinh bé ấy. Cô ta có ý không bằng lòng, bỏ áo của tôi xuống
và ngồi nhích ra một chút. Cô mặc một chiếc áo chàm mới, lúc ấy trông thẫm đen,
áo cài một bên nách, hở cổ, thân ngắn, tay rộng, thắt ở ngang lưng; chiếc váy cộc
cũng bằng vải chàm và cũng mới. Cái đen tối dưới lều trong trẻo dịu dàng; chúng
tôi hình như ở dưới bóng rợp của một thứ “nắng trăng”. Cửa trước lều không
đóng, lại thêm có ba cái cửa sổ mắt cáo ở vách trong, nên chúng tôi trông được
rõ mặt nhua và cả những gói hành lý để ở một góc.
Lúc ấy hai tay cô gái thu lại để chồng lên một đùi. Chân cô
buông thõng và hơi đưa đẩy, nét mặt cô có vẻ buồn bực làm cho tôi lo ngại.
Tôi lấy tay nhẹ nâng cằm người thiếu nữ rồi kéo lại cho trông
tôi:
- Cô em không muốn ngồi với tôi sao?
Cô khẽ mỉm cười:
- Sao không muốn? Không thì tôi “lại với anh” làm gì?
- Thế cô muốn nói chuyện với tôi lắm sao?
Cô Thổ lại cười:
- Ừ, muốn!
Tôi đánh liều hỏi thêm một câu nữa:
- Thế cô em yêu tôi chứ?
- Anh bảo cái gì hả?
Tôi ghé vào tai cô nói:
- Em... có yêu tôi không?
Cô vơ vẩn trả lời:
- Không biết.
Rồi lại vơ vẩn nhìn tôi.
Bấy giờ, tấm lòng xuân phơi phới của cái tuổi hai mươi lăm bị
kích động mà sôi nổi trong người tôi, khiến cho tôi quên cả chủ định từ trước.
Tôi liền ôm lấy cô bé, ôm bằng cả một tấm lòng chứa chan yêu dấu và bảo cô rằng:
- Sao lại “không biết” hở em? Em đến đây với tôi như một người
trong giấc mơ màng, tôi có biết em là ai đâu; nhưng tôi yêu em ngay, mà sao em
cứ lững lờ không để cho tôi biết bụng em thế?
Tôi còn nhiều câu rất ngọt ngào, nhiều lời rất hay, mà cái vốn
tiếng Thổ của tôi có thể cho nói được.
Hơi nóng trong người cô thiếu nữ như thấm vào người tôi, vào
tận trong huyết mạch; tôi mơn trớn cô ấy như một con chim bé nhỏ mà người ta
nâng lên để vào trái tim mình...
Bỗng nhiên, cô khẽ đẩy tôi ra, ngồi thẳng lên, buộc lại cái
khăn chàm rồi tụt đứng xuống đất. Tôi nhìn cô ra ý hỏi duyên cớ, thì cô cau đôi
mày lại, bảo tôi:
- Tôi không bằng lòng thế! Tôi lại rủ anh đi đằng này với tôi
kia mà.
Tôi cũng đứng xuống đất, giữ lấy hai vai cô, rồi nhìn vào cái
mặt lạnh lùng của cô và nói:
- Trời ơi! Em biết không! Trong lúc đêm khuya canh vắng em đến
đây, em gọi tôi, em làm cho tôi vui sướng vô cùng; em là con gái, mà em lại
xinh đẹp dường này! Thế thì em bảo tôi không yêu mến em sao được?
Cô Thổ nhìn tôi:
- Nhưng anh đi đằng này với tôi đã.
Tiếng cô nói gọn, nhất quyết; tôi hơi sinh nghi. Nhưng cô mỉm
cười ngay; cô lại kéo lấy tay tôi nói một cách nũng nịu:
- Đi chơi một lúc thì sao? Anh nhé, đi chơi với tôi, một lúc
nhé, anh bằng lòng đi!
- Mà đi đâu bây giờ?
- Chơi bên rừng, trên bờ thác, xem nước chảy. Đêm trăng đẹp,
đẹp quá, không đi cũng hoài...
- Tôi nói:
- Không sợ hổ à?
Cô ta cười mấy tiếng khẽ:
- Sợ hổ! Đây không có hổ, hay có cũng ít khi lắm.
- Vả lại có trăng kia mà. Anh nằm đây còn không sợ thì đi
chơi có sợ gì? Anh à, anh đi với tôi nhé.
Bên rừng tối trên thác sâu, ở những nơi phong cảnh đêm khuya
hoang dại này phải đâu là nơi để khách đa tình đến cùng nhua than thở? Người
con gái Thổ chắc cũng chả ưa gì những chốn ấy cho lắm, thế mà cứ tha thiết nài
tôi đi cho được, hẳn cũng có duyên cớ gì đây? Mà duyên cớ gì? Trông cái mặt
nhan sắc dịu hiền thế kia, không thể cho cô ta là một người có lòng bí hiểm được.
Tôi ngẫm nghĩ một lát, rồi quyết thử “đi chơi” với cô ấy xem
sao.
Tôi lấy cái áo phủ khoác lên vai, thắt lại cái thắt lưng da ở
áo ngoài rồi đi lấy mũ đội.
Cô ấy trông theo tôi từng cử chỉ một: lúc thấy tôi thu gọn lại
cái đống dây thừng to nằm cuộn tròn trong một góc lều, để lấy một cái gậy ở dưới,
thì cô Thổ liền chạy lại hỏi ngay:
- Ồ, Anh có những cái dây tốt nhỉ! Để làm gì thế?
- Để qua cầu.
- Sao lại để qua cầu?
- Cầu nhỏ ở ven núi trên này chật chưỡng lắm. Giá không có cuộn
dây này thì tôi rơi xuống núi mấy lần rồi.
Cô Thổ cười:
- Thế mà tôi đi không việc gì đấy!
Chúng tôi đã ra tới cửa, cô Thổ dắt tôi theo một lối tắt đi về
bên rừng. Bỗng cô đứng yên, mắt nhìn vào tôi, rồi chạy vào trong lều bên cuộn
dây chão. Tôi hỏi:
- Cô làm gì thế?
- Anh à, đem cái này đi!
Cô vừa nói vừa lôi cuộn dây ra. Tôi hỏi lại:
- Đi chơi kia mà?
- Cứ đem đi, anh ạ.
Tức khắc, tôi không nói một lời nào, đi vào bỏ gậy và mũ áo
ra, rồi toan trèo lên cái “giường” phên nằm nhất định không đi đâu nữa. Cô ta
liền chạy lại bên tôi níu lấy tay tôi năn nỉ:
- Anh đi với tôi một tí, đi với tôi một tí thôi mà.
- Không! Đi làm gì thì cô phải nói cho tôi biết đã.
- Rồi anh biết ngay mà!
- Nói ngay bây giờ kia!
Người thiếu nữ ra chiều vô cùng thất vọng:
- Không... anh đi, anh đi với tôi một tí thôi, rồi anh thấy
cái nà hay lắm.
Cô ta vừa nói vừa cầm mũ và dìu tôi ra cửa, cuộn chão đeo nặng
một cánh tay.
Tôi không còn hiểu gì trong cái cử chỉ lạ lùng của người con
gái nữa. Miệng cười của cô ta cũng không còn duyên gì hết; tôi thấy bực lắm;
nhưng tôi vẫn cứ theo.
Ra đến ngoài thì thấy mặt trắng đã chếch về tây. Đám rừng âm
u với dãy núi chập chùng tắm trong một bầu ánh sáng rõ ràng và lạnh lẽo. Tiếng
ve sang sảng kêu ran như đã kêu từ mấy thế kỷ; bóng trăng theo đó mà rung trên
ngọn cỏ, bụi cây.
Chúng tôi xuống một con đường dốc nhỏ đi vào nách rừng. Cô Thổ
trước còn cười đon đả để tôi vui lòng; đến sau, thấy tôi nhất định đi theo, thì
cô chỉ rảo chân bước. Người thiếu nữ ấy cũng đủ nhan sắc và dịu dàng để tôi
quên được cái lo ngại; vả lại trường hợp cũng đủ ly kỳ để gợi tính tò mò và
lòng mạo hiểm của tôi.
Xuống hết đường dốc này lại trèo lên một khu rừng nhỏ nữa.
Chúng tôi đi qua một đám cây rất rậm chỉ lác đác được một ít mảng trăng sáng. Rồi
cây cối mỗi lúc một thưa dần, lối đi mỗi lúc một rõ. Tôi đi rừng đã quen, và chỗ
này tôi cũng không khó đi lắm, nên tôi chỉ để mắt trông những bóng lá đi lần lần
trên má và trên vai người thiếu nữ, với hai ống chân trăng trắng thoăn thoắt ở
trong đám tối mập mờ. Có một lần tôi đi sát lưng cô ta, để tay lên vai mà giữ
cô lại. Cô ngoảnh đầu cười gượng. Tôi hỏi:
- Cô định dẫn tôi đi đâu?
- Đi đằng này, mà!
- Làm gì? Hả?
Mặt cô bỗng ra vẻ thương khó. Cô ta muốn cười nhưng không được,
chỉ quay đầu đi, rồi vừa nói vừa thở dài:
- Anh đi một lúc nữa rồi anh biết: Anh! Anh! Đi, đi!
Xuống một đường dốc.
Rồi lên một đường dốc nữa.
Chỗ này trèo rất khó nhọc, lại không rõ lối như trước, chỉ có
người thiếu nữ đi quen nên đã lên được xa. Tôi phải bảo cô ấy quãng một đầu dây
xuống cho tôi và lên trước, buộc đầu kia vào một gốc cây để tôi bám leo lên cho
dễ. Qua một lớp cây rậm và um tối thì đường dốc xuống; đi một lát nữa thì đã rõ
lối và dễ đi. Tôi nghe thấy tiếng ào ào ở đâu từ lúc nãy; bây giờ nghe càng gần
thêm.
- Có phải gần đây có một cái thác không?
Tôi hỏi người thiếu nữ thế. Cô ta đáp:
- Phải. Gần đến nơi rồi.
- Đến nơi? thế ra đi đến đấy à?
- Phải.
- Nhưng đến làm gì mới được chứ?
- Anh cứ đi rồi biết mà!
Tôi nghĩ bụng chưa bao giờ gặp cảnh ngộ nào lạ kỳ hơn. Thực vậy,
mà cho cả về sau này cũng thế, trong suốt cuộc đời phiêu lưu của tôi, tôi không
hề gặp một đêm nào như cái đêm hôm ấy cả.
Tôi tự hỏi xem cái kết quả cuộc “đi chơi” này rồi sẽ ra sao.
Nhưng không tìm được câu trả lời, thì tôi cứ gia chân bước.
Tôi có ý xem xét những chỗ vừa đi qua, thì phần nhiều đường lối
giống nhau không thể phân biệt và nhớ được rõ. Phải là người ở lâu và quen đây
lắm mới thuộc những đường tắt này.
Chúng tôi đang đi ở trong bóng những cay lá chen nhau, bỗng đến
ngay một nơi quang quẻ rộng rãi toàn ánh trăng sáng. Tôi nhíp mắt lại vì hơi
chói, trông ra thì núi non nhấp nhô, tỏ mờ trước mặt; khuôn trăng tròn vẹn, kê
ngay trên một đỉnh núi, bình tĩnh như có ý đợi chờ.
Tiếng thác nghe thấy từ lâu, bấy giờ đang rồn rã cuồn cuộn ở
phía dưới chân. Nhưng tôi chưa trông thấy nước: nguồn thác sâu lắm, mà chỗ ấy
thì cao. Một con đường nhỏ chạy qua mặt tôi, dẫn đến một cái cầu ghép bằng thân
cây như tôi thường gặp. Cầu này thay một chỗ đất sụt làm lở một quãng đường ven
núi đất và cắt đứt mất lối đến Hoàng Su Phì. Bấy giờ tôi đã nhận ra rằng cô con
gái dẫn tôi đi toàn nẻo tắt và hà tiện được tới ba phần tư đường. Vì từ chỗ lều
tranh đến đây, đi khỏi một quãng đường thấp rồi lên những đường leo lưng chừng
núi, còn phải qua một khúc cầu nữa.
Chúng tôi tiến lên chừng hai chục bước thì đến bên cầu. Cầu hẹp
và dài, chỉ có mươi khúc cây đâm ngang cắm sâu vào núi để nâng đỡ. Cô Thổ nhẹ
nhàng đi ra tới giữa rồi ngoảnh lại đợi tôi đi theo. Tôi trông xuống, thấy dưới
sâu lắm, và rải rác có những tảng đá lớn; nước thác chảy xiết, ầm ầm từ một nẻo
khuất giữa hai chân núi, vòng khúc rắn xông ra. Tôi còn ngập ngừng một hồi chưa
dám đi lên vội. Sau đánh bạo tiến lên được ba bước. Một khúc gỗ cựa mình một
cái làm tôi sởn cả gai ốc, đã tưởng cái cầu gẫy nhưng không việc gì.
Tôi phải hết sức dè giữ mới dám bước lên, dò đi như người
“leo cầu vồng” vậy. Dưới chân, nước vẫn gầm như chuyển đá, mà bên trái thì cái
núi dốc như tường xiêu, lại ở quá tầm tay không thể nào vịn được.
Dò được nửa cầu rồi. Càng thấy ghê sợ thêm. Liệu chừng không
thể qua được khỏi cầu mà không ngã, tôi phải lấy cuộn dây định tìm quăng lên một
cái trạc cây nào trên lưng núi, rút chung đôi lại rồi víu lấy mà sang.
Bỗng người con gái Thổ giữ lấy tay tôi nói:
- Thôi! Không phải đi nữa.
Tôi vừa ngật ngưỡng vừa nhìn cô ta, lấy làm kinh dị. Cô Thổ
điềm nhiên nhắc lại:
- Thôi, không phải đi nữa: Đến nơi rồi!
- Sao? Đến nơi?
- Phải.
- Ồ, quái lạ! Quái lạ! Quái lạ! - Tôi nghĩ bụng thế - Người
con gái này thực kỳ quá định trêu mình đây sao?
Tôi nhìn mặt người con gái để dò xét ý tứ, nhưng cô ta không
nhìn tôi và có ý quay mặt đi.
Tôi vừa bực mình vừa lo ngại, quát khẽ lên một câu:
- Sao lại thế này?
Cô ta không trả lời. Ánh trăng chiếu vào sắc da người con
gái, lúc ấy xanh bệch như da người chết. Nét mặt sắt lại như lo sợ hay tức giận,
miệng mím vào một cách đặc biệt, rồi bỗng nói rất nhanh:
- Ở dưới cầu này có một người đàn ông cùng đi với tôi rồi lỡ
chân rơi xuống đây chết.
- Cùng đi chơi với cô à?
- Ừ.
- Thế làm sao, nói mau! Sao cô lại gọi tôi đến?
Cô Thổ nói:
- Tôi nhờ anh đem nó lên đây cho tôi.
- Nhờ tôi? Sao lại nhờ tôi? Nhờ tôi mà được à?
Cô ta điềm tĩnh không đáp câu hỏi của tôi, nhưng trỏ xuống dưới
gầm cầu mà bảo:
- Kia kìa, nó ngã xuống mắc vào cành cây ở lưng chừng núi kia
kìa!
Tôi chăm chú trông, chỉ thấy nước thác chảy xuống từng bực, bọt
sùi lên trắng như tuyết ở xung quan những tảng đá cuội lù đen.
- Đâu nào?
- Ở cái cây kia mà. Kia kìa, chỉ có một cây thôi, mà nó ở
lưng chừng núi.
Tôi quỳ gối, đầu cúi về phía trong mà trông xuống thì quả thấy
ngang núi đâm ra một cây nhỏ, rễ ăn chặt vào, có lẽ sâu lắm, nền đất lở đến tận
chỗ ấy mà cây vẫn giữ nguyên. Mình cây cong cong ở chân rồi đâm vát lên trời,
cánh lá xòe ra che gần mất một nửa mình người bị nạn. Lúc ấy tôi chỉ trông thấy
một cái vai dốc xuống mắc vào gốc cây.
- Các người đi xem hát hội ở làng xa hết cả (người con gái
nói). Tôi đi tìm chỉ thấy có anh, tôi mới định nhờ anh lấy nó lên hộ tôi.
- Ừ thế làm sao không nói thực ngay để cho tôi... (tôi nghĩ đến
những cử chỉ của tôi trong lều) để cho tôi tưởng cô đến rủ đi chơi thực?
Cô gái mỉm cười một cách nhạt nhẽo:
- Tôi sợ anh không đến tôi phải nói thế...
Thấy tôi có dáng nổi giận, cô vội nói thêm:
- Mà rồi tôi cũng về với anh kia mà!
Tôi vừa lườm vừa nhại:
- Hừ! Về - với - anh!
Cô Thổ lại hết lời nói với tôi những câu rất ngọt ngào và thiết
tha; mặt thì nhợt nhạt, mắt thì long lanh mà miệng vẫn gượng cười; giọng nói
khác đi, hình như cô ta cố nén sự cảm động.
Tôi không nỡ từ chối giúp đỡ cô ta. Nhưng tôi không giấu cái
bực mình, vừa tìm cách xuống đến cái cây vừa gắt.
Chỗ sườn núi lở, dốc như bức vách nghiêng, mà trừ cái cây giữ
lấy người chết cách tôi khá xa thì chả bấu víu vào đâu được nữa; người bị nạn
chắc hẳn ngã về phía trong, nên mới tình cờ mắc vào cây đó, chứ nếu ngã phía
ngoài hay nhích ra chút nữa thì không còn mảnh xác nào. Tôi giở cuộn dây ra, nằm
úp mìn trên cầu rồi giòng dây xuống ướm thử. Cái dây dài được hơn hai thước mà
thả đến chỗ ấy cũng không thừa được bao. Tôi thử tìm cách buộc vòng, câu lấy
người chết lên nhưng vướng nhiều cành nên không làm thế được. Tôi lại kéo dây
lên thắt một chục nút để cho dễ bám. Trong khi người con gái ấy lẳng lặng ngồi
bên cạnh tôi mà xem.
Nước thác vẫn réo ào ào, làm tăng cái vẻ to tát của chốn núi
cao vực sâu ở dưới bóng một vành trăng lặng lẽ.
Tôi nhìn cô Thổ thì cô ta nhìn lại; tôi cau mày mắng:
- Buộc đi chứ, ngồi đấy à?
- Buộc gì?
- Thì thắt nút đi chứ!
Cô ta lôi một dây lúng túng thắt được một nút rồi hỏi:
- Anh làm những nút này làm gì thế?
Tôi không thèm đáp. Rồi thấy cô ta cứ dang tay kéo dây mãi
chưa thắt được vòng nào thêm, tôi tức mình giật về, không khiến nữa.
Nút thắt xong tôi buộc rất chắc chắn một đầu dây vào ba thân
gỗ về phía núi; bỏ mũ ra, bảo cô Thổ giữ lấy mối buộc chắc chắn để tôi leo xuống.
Chân tôi đạp vào đất núi làm cho cát bụi ở đấy theo gió bay cả vào mắt mũi tôi.
Tôi vừa buông một tay để giụi thì “sựt” một tiếng ở đầu dây. Tôi lạnh cả người
vội quát:
- Cái gì thế, cái gì thế?
- Không hề gì. Cái mối dây nó thắt chặt lại đấy mà.
- Phải cẩn thận nghe không! Phải nằm xuống mà giữ.
Cô Thổ trên cầu nằm áp người xuống, hai tay nắm lấy phần đầu
dây.
Xuống đến nơi tôi bẻ mấy cành lá đi cho quang, và để chân lên
một cái chạc nhún thử mấy cái. Cây này là một giống ổi rừng, thân già quánh và
to. Lúc đứng trên cầu, tôi tưởng là một thứ cây lai và mềm vài thấy nó nhỏ lắm,
nên định buộc cuộn dây vào người, ôm lấy cái xác mà bảo cô Thổ kéo lên. Như thế
thì khó nhọc vô cùng, chưa chắc người con gái ấy đã kéo nổi.
Nhưng bây giờ tôi lại tính cách khác. Người chết là một người
đàn ông to lớn mặc quần áo tây vàng; hai chân giạng ra, áp với núi và đâm ngược
lên trời, mình úp vào trong, nên tôi không thấy mặt. Hắn bị mắc vai bên phải
vào ngay gốc cây và hình như bị nát cả cổ và có lẽ gẫy xương dầm vai; nhưng máu
chỉ đẫm ra ngoài áo một ít. Một cánh tay nắm lại chọc vào núi, còn tay kia đè ở
dưới mình. Tôi ngồi quắp lấy một cành to, tròng lọng dây vào hai chân người kia
rồi lựa lách xuống đến tận thắt lưng.
Mặt trăng lúc ấy mới lọt một phần xuống sau đỉnh núi trước mặt.
Tôi trông thấy bóng cây với bóng người tôi in lên cái thây chết. Những cành lá
theo gió và theo cách cử động của tôi mà lung lay một cách bình yên.
Xem cách ăn mặc của người chết thì tôi đoán là một người Thổ
“văn minh” giàu có, hoặc một người Kinh buôn bán đường rừng.
Tôi bám dây tụt xuống, để một chân lên người chết và ghì cho
cái tròng ở lưng hắn thắt vào rõ chặt rồi đạp chân kia vào núi, tôi đu người
tôi sang một bên. Vai cái xác liền rời ra cùng với một loạt đất vụn rơi xuống;
người chết đã nằm ngang ra dưới đầu dây. Cổ hắn trẹo về một bên và hơi ngật ra
đằng sau; tóc bộn bề và ướt đẫm, da xám như màu đá mài.
Tôi ngồi lên một cành cây nắm lấy vai hắn dìu lại xem cho rõ
mặt. Nhưng tôi kêu lên một tiếng kinh dị: ồ lại này!
Người bị nạn nào phải ai đâu? Chính là ông Ba-đi-ghệt, cái
người mạo hiểm táo tớn chúng tôi vẫn biết tiếng, mà tôi mới gặp được hơn nửa
tháng, trong một làng ở gần Pakha. Ông này đi trước chúng tôi đã lâu kia mà,
sao bây giờ lại vẫn ở đây, rồi lại chết thảm thế này? Mà sao người con gái Thổ
kia lại...
Tôi thoáng nghĩ đến một điều làm cho tôi căm tức.
- À thì ra (tôi lẩm bẩm nói thế) thì ra họ trăng gió với nhau
đã lâu, hôm nay đi chơi trên cầu này rồi một người rơi xuống chết, rồi nó tìm
mình đến, nó dụ mình để gỡ xác nhân tình nó lên!
Hai con mắt ông Ba mở lim dim như ngủ gà, như xem cái tức giận
trong lòng tôi. Trên cái mặt đầy những máu, máu đọng đen thẫm lại một bên, hai
môi dầy trên lún phún một hàng râu; miệng thì nhăn một cái cười kinh khiếp.
Tôi liền buông tay ra bám dây leo lên cầu. Người con gái hỏi,
nhưng tôi lặng thinh. Lên tới nơi tôi nhìn nó một cách khinh bỉ.
Nó hỏi nữa:
- Sao, anh? Xong rồi chứ?
Tôi cười gằn:
- Xong. Chị cứ việc kéo tình nhân chị lên.
Nó chỉ trông tôi một cái nhanh, không nói gì, chống tay ngồi
lên rồi mắm môi kéo.
Nhưng cái xác nặng lắm, nó ngã hẳn người ra mới kéo lên được
một chút rồi lại để tụt xuống ngay. Tôi thấy nó làm ngứa mắt liền vuốt tóc lại
bên kéo đỡ. Không đầy năm phút cái xác đã nằm trên cầu. Ngời con gái không buộc
lại cái khăn vuông sổ xuống vai; mớ tóc trong cái khăn ngang phấp phới bộn bề
trước gió. Tôi cởi được cái dây tròng ra khỏi lưng người chết thì nó liền xốc
nách kéo giật lùi “ông Ba” ra một phía cầu.
Tôi toan cuốn xong cái dây thừng rồi mới hỏi xem người con
gái định xử trí ra sao, thì bỗng thấy nó cười nhạt một tiếng nghe lạnh đến
xương tuỷ. Tôi ngẩng lên nhìn.
Bây giờ cô thiếu nữ dịu dàng ở trong lều không còn đó nữa.
Tôi chỉ thấy một người con gái kỳ dị, đang nghiến răng mà lẩm bẩm trước mặt
tôi. Nó vẫn xốc nách người chết để ngồi rũ dưới chân, trông thẳng vào mặt tôi
nhếch mép một cái rồi nói:
- Anh tưởng nó là tình nhân tôi hả? Không! Nó là kẻ thù của
tôi. Tại sao? Nó giết mất anh Cẩm của tôi. Anh Cẩm là người sắp lấy tôi, mà nó
giết đi, rồi quẳng xuống đây cho mất xác.
Nói đoạn nó chỉ tay xuống những dòng nước trắng xóa ở dưới.
Tiếng thác chảy như dữ dội thêm. Nhưng cái trường hợp làm tôi quên cả ghê rợn.
Người con gái lại nói - phải nghe giọng nó nói mới thấy được
cảm giác của tôi lúc bấy giờ.
- Nó nhiều tiền, nó muốn lấy tôi, nó đến dụ tôi, tôi bằng
lòng ngay; nhưng tôi bằng lòng ở với nó để lừa nó giết nó. Tôi rủ nó đến đây
chơi, nó không nghi ngờ, tôi liền chém nó một nhát. Anh trông đây này!
Tôi trông.
Ở sau gáy ông Ba quả có một nhát dao bổ thực sâu, nhưng chỗ ấy
máu đọng lại thâm sì nên lúc nãy tôi không để ý.
- Tôi chém nó (lời người con gái) để cho nó cũng chết ở dưới
cầu này, để chồng tôi... (giọng nói ngày một thêm đầy, gần như nghẹn ngào) để
cho chồng tôi thấy được hả dạ... Nhưng mà nó không rơi xuống đến tận dưới thác
kia, tôimới gọi anh đến. Bây giờ anh đứng mà xem.
Trước cái dáng điệu kia, cái giọng nói kia, tôi không biét trả
lời sao cả. Tôi cũng không biết xử trí thế nào nữa; tôi đứng ngẩn ra nhìn.
Trông con mắt của lóng lánh của người con gái, cùng với cái mặt
đanh thép kia, tôi tưởng thấy khí chất rừng núi, cái tâm hồn Thổ Mán hiện ra.
Tôi vẫn ngẩn ra nhìn.
Người con gái lại cười nhạt mà láy lại câu lúc nãy:
- Bây giờ anh đứng mà xem.
Nói xong, nó đứng dạng hai chân ra, cái mép váy đằng trước
căng thẳng bởi hai ống chân hơi thô và trắng. Một tay nó xốc ông Ba đứng dậy, một
tay nữa nâng ở ngang lưng. Tôi toan dò bước đến gần thì đã thấy người con gái
rướn mình văng cái thây chết xuống. Rồi không biết vì quá đà hay cố ý, cả người
con gái cũng văng theo...
Mặt trăng kia đã kín đáo ẩn mình sau đỉnh núi; hai cái thây
trên cao rơi xuống một tiếng gớm ghê trong những tiếng thác đổ ầm ầm không bao
giờ ngớt.
Thế Lữ
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét