Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

XXXXTiếng hú ban đêm 1

Tiếng hú ban đêm 1

Gió ngàn

Ngồi đọc sách trong phòng tịch mịch, hay cặm cụi làm việc giữa nơi ồn ào, hay đi trên các đường phố Hà Nội, bên những tiếng xe hơi, xe điện qua lại, bên những người tấp nập vội vàng, tôi thường có lúc như sực tỉnh ra, ngạc nhiên thấy sao mình lại sống ở đây, sống ở nơi thị thành cát bụi này.

Rồi trong giây phút, tôi thấy cảnh hùng vĩ quạnh hiu của núi cao, rừng cả, nghe thấy tiếng gió rì rào trong cây, ngửi thấy mùa hoa lá hoang dại. Những hình ảnh xa xôi đó, cùng khói hương của đời thơ âu, trong giấy phút làm rung động tâm hồn một người như lạc vào chốn đô hội, một người đồng rừng nhớ non nước cũ - tức là tôi đây.

Sáng hôm nay, đứng trên gác trông ra, cảnh xưa lại hiện đến hoàn toàn đầy đủ. Tôi hít thở gió vào đầy ngực, thấy khí vị thượng du còn đượm nồng trong huyết mạch, tôi để tiếng lòng hòa theo bài thơ rừng rú và muốn đem kể cho các bạn thành thị nghe một câu chuyện ngây thơ.

Đó là chuyện tôi vào khoảng mười lăm năm về trước. Bao nhiêu điều dĩ vãng đều ẩn sau làn sương mù của thời quá khứ, duy chỉ có chuyện ấy là vẫn còn rõ rệt tươi thắm, như mới qua đâu một ngày.

Tết năm ấy, tôi mới lên mười hai tuổi.

Chiều mồng ba, trời lạnh ráo và ấm áp hơn mấy ngày trước gió bấc, mưa phùn. Tôi sung sướng chạy ra ngoài chơi, đi lẫn với bọn con trai gái Thổ, cười nói vang đường, súng sính trong bộ quần áo chàm mới.

Xa xa, áp vào chân núi, lác đác mấy chiếc nhà sàn mái dốc, tường quét vôi trắng dán câu đối đỏ, điểm vào những vừng cây lá um xanh, cảnh vật trông đỏm dáng như một cô gái sắp về nhà chồng, trên đó phảng phất một làn sương lam lẫn với màu khói pháo.

Tôi đi khỏi một quãng đường đất đã khô, thì nhìn thấy một đám đông người đang chạy nhảy reo hò trên một vùng cỏ non rộng rãi. Chung quanh đó, từng tốp trai gái vỗ tay hòa theo, làm vang động cả hai bên núi đá.

Tôi chạy lại coi thì đó là một cuộc đánh “còn”.

Quả “còn” tức là một quả đúm bện vải màu, tròn và to gần bằng quả bưởi; năm sáu tua vải ngũ sắc đính vào làm thành một túm đuôi nheo rất dài. Mỗi năm, trai gái Thổ lại họp nhau một nơi đánh “còn” thi. Bên trai tung “còn” qua một cái vòng tròn đặt cao, để bên gái bắt tung trả lại, bên nào tung không trúng và hay rớt thì thua.

Quả đúm bay lượn trên không trông thật đẹp, rơi xuống bên gái là bên tôi đang bước tới, thì phần nhiều một cô gái trẻ nhất, và nhanh nhẹn nhất hay bắt được mà mỗi lần bắt được thì bao nhiêu miệng cùng khen: “Ché Sao giỏi a”.

Cái vui vẻ sung sướng của người con gái hiện trên khuôn mặt đầy đặn, trên đôi mắt đen láy và trên cặp môi ăn trầu đỏ tươi... Tôi cũng vỗ tay reo với mọi người, lại reo to hơn. Nàng thích chí, quay lại nhìn tôi mỉm cười, rồi liền quay đi, rún mình vung quả “còn” tung sang cho bên trai.

Tôi chạy đến bên nàng nói:

“Ché Sao tức còn đây lai!” (Ché Sao đánh “còn” giỏi lắm)

Thì nàng cầm lấy vai tôi gật đầu cười, hỏi lại bằng tiếng Thổ:

“Thật không? Thật không? Cậu con trai cũng biết đánh chứ?”

Tôi toan đáp thì nàng nhảy vội lên bắt được quả đúm một lần nữa rồi tung sang.

Tôi cùng nàng chạy lẫn vào đám chị em nàng. Lúc quả đúm bên kia đánh về, nàng mải vui cười và mải tránh tôi nên để rơi xuống đất, tôi nhặt ngay lấy đưa cho nàng và hỏi:

“Tử khỏi tức đuổi nớ, Ché Sao?” (Tôi đánh với có được không Ché Sao?)

Nàng nhìn vào tận mắt tôi và có vẻ ngạc nhiên:

“Đẩy vẩy! Đẩy vẩy!” (Được chứ, được chứ)

Rồi lại hỏi:

“Biết tôi là Ché Sao à?”

Tôi gật đầu.

“Thế em tên gì?”

Ché Sao trạc mười sáu mười bảy tuổi. Tôi thấy nàng gọi là em thì tôi thích lắm. Nhất là vì tiếng nàng nói dịu dàng, âu yếm khiến tôi thấy một thứ tình cảm sung sướng mà tôi chưa có bao giờ.

Tôi nói tên tôi là Mai (tên hồi còn nhỏ), thì nàng liền gọi tôi là Noọng Mai (em Mai) và bảo:

“Noọng Mai đánh ‘còn’ đi”.

Nhưng tôi bé quá, đúm tung lên không quá nửa cái cột cỡ vòng. Ché Sao đỡ ngay hộ rồi sẽ bảo:

“Noọng Mai đánh chưa quen, trông chị đánh đây nè”.

Tôi chỉ trông cái vẻ dẻo dang mà rắn rỏi của nàng, không để ý gì đến quả đúm nữa.

Lúc nghỉ đánh, Ché Sao rủ tôi đến một đám cỏ khô nhất ngồi xuống và bảo tôi ngồi theo. Tôi nói:

“Ché Sao đánh trông đẹp mắt quá, quả ‘còn’ cũng đẹp, em ước gì có một quả để tập đánh”.

“Noọng Mai cũng thích đánh ‘còn’ ư?”

Rồi nàng lại nhìn tôi bằng đôi mắt tươi cười, để hai tay lên má tôi, hỏi nữa:

“Noọng Mai lên đây lâu chưa? Noọng Mai là người Kinh, sao biết nhiều tiếng Thổ thế?”

“Em ở đây lâu rồi, mà em yêu người Thổ lắm, Ché Sao ạ, nên em biết nói tiếng Thổ ngay... Ché Sao à! Ché Sao có biết tiếng Kinh chứ?”

“Có biết, nhưng biết ít thôi. Chị không hay nói mấy khi”.

Rồi nàng lại hỏi.

“Noọng Mai ở đâu thế?”

“Em ở với thầy me em làm quan thầy thuốc nhà thương”.

“Nhà thương à! Thế thì tôi biết rồi, tôi đã đến xin thuốc một vài bận. Còn nhà tôi thì ở Lũng Luông, cách Quảng Uyên chừng sáu cây”.

“Thế thì xa quá nhỉ!”

Thấy tôi có vẻ buồn. Ché Sao liền nói tiếp:

“Mà phiên chợ nào, tôi cũng đem gạo, bắp ra bán”.

“Ồ, thích nhỉ! Phiên chợ mồng năm này Ché Sao vào chơi nhà em nhé!”

“Mồng năm tôi không đi bán, nhưng tôi cũng ra”.

Sau khi hỏi chuyện về gia đình tôi, nàng cho tôi biết cha nàng làm xã đoàn (một chức tương đương chức trương tuần ở dưới Kinh), em trai nàng đi học cùng trường với tôi, mà nàng thích em trai nàng biết chữ lắm.

Lúc nàng nói, đôi mắt thường trông đi, thỉnh thoảng lại ngừng lại mỉm cười, hoặc trả lời câu chào hỏi của một người chị em qua đó.

Tay nàng cầm lấy tay tôi, khen tay tôi trắng, nhưng sao nhiều gân xanh thế này?

“Mặt Noọng cũng trắng nhưng cũng có gân xanh trên trán, thế không khỏe đâu. Em của tôi ở nhà, nó đen, nhưng nó khỏe lắm cơ! Sao Noọng Mai nhìn tôi nhiều thế?”.

Tôi đăm đăm nhìn nàng không chớp mắt, tỏ ra lòng yêu mến không biết ngần nào. Thấy nàng hỏi, tôi cũng vẫn nhìn rồi yên lặng cười. Nàng cũng cười theo và bảo tôi:

“Mắt Noọng Mai trông đến hay hay!”

“Hay là làm sao kia?”

Nàng vẩn vơ nói:

“Không biết”.

Trời gần tối, mọi người ra về gần hết. Ché Sao đứng dậy cùng tôi về một đường. Lúc đến chỗ rẽ về Lũng Luông tôi không nói một lời nào. Ché Sao chào tôi rồi ngạc nhiên hỏi:

“Noọng Mai làm sao thế?”

“Không”.

“hế sao Noọng Mai lại không chào Ché Sao đi?”

Tôi chào nàng rồi phụng phịu trông chỗ khác. Nàng cầm lấy tay tôi, nắm chặt lấy một lần nữa, tiếng nói nhỏ nhẹ:

“Thôi Noọng Mai về nhé!”

Rồi tất tả đi liền.

Tôi muốn chạy theo, muốn gọi to lên rằng: “Chị ở lại với em”, nhưng tôi gọi thì tôi đến khóc mất. Đứng trông bóng nàng đi cho đến lúc khuất hẳn, tôi mới quay trở lại, trong lòng có một thứ đau đớn êm ái, một thứ buồn tủi sung sướng, mênh mông.

*

Phiên chợ mồng năm, tôi đang đứng tựa bao lan sau nhà, trông theo những người Thổ đi về các làng xa khuất, bỗng có tiếng trong trẻo gọi ngoài cửa:

“Noọng Mai có nhà không?”

Tôi nhận được tiếng quen, chạy ra reo lên:

“Ché Sao! Ché Sao ra chơi!”

Nàng âu yếm trông tôi, vừa cười vừa mở đẫy lấy ra một vật đưa cho tôi và nói:

“Nè cho Noọng Mai nè!”

“Ồ quả ‘còn’! Ché Sao cho em đấy ư? Thích nhỉ!”.

Tôi dắt nàng vào nhà. Thấy vật gì nàng cũng khen đẹp và hỏi tên; nàng ưa nhất những tranh vẽ treo trên tường với mấy bức ảnh chụp.

Nàng ngây ngô hỏi:

“Những cái này mua ở đâu thế? Cái tranh này trông giống Noọng Mai quá”.

“Anh của em đấy. Đây là me em, đây là thầy em”.

“Tài nhỉ. Ai vẽ cho em thế?”

“Không phải vẽ! Chụp đấy, Thầy em biết chụp cơ!”

“ Thế bây giờ thầy Noọng Mai còn biết chụp không?”

“Còn chứ! Bao giờ thầy em về em bảo thầy em chụp cho Ché Sao một cái”.

“Ồ, thế thì thích lắm nhỉ!”

*

Từ hôm đó, tôi đã có một người bầu bạn ở giữa nơi hoang vắng, tôi không phải thẩn thơ một mình đi trên các bờ suối như xưa nữa, tôi không phải ngẩn ngơ tìm những người êm ái tôi tưởng tượng ra nữa, vì người êm ái đó từ nay là Ché Sao của tôi.

Phiên chợ nào nàng cũng ra nhà tôi chơi. Nàng quý mến tôi cũng như tôi yêu mến nàng, sự yêu dấu đó ở một người con gái Thổ lại biểu lộ ra một cách thực thà bằng những thứ quà mọn nàng đem cho tôi. Lần nào nàng ra cũng mang theo một đẫy quả ở vườn. Nàng đưa cho tôi bảo những quả này ăn ngon, những quả này để được lâu, rồi cùng ăn với tôi trông ngon lành lắm. Tôi có kêu nhiều thì nàng nói:

“Đâu mà nhiều, vườn nhà chị còn nhiều lắm cơ! Hôm nào Noọng Mai về ‘bản’ (về làng) chơi, chị hái rõ nhiều cho mà ăn”.

“Mà Noọng Mai thế nào cũng về ‘bản’ chơi nhé”.

Thế rồi một phiên chợ kia. Ché Sao dắt hai con ngựa nhỏ đến giục tôi mau mau về Lũng Luông với nàng. Tôi ngần ngừ:

“Nhưng em phải đi học, có được nghỉ đâu?”

Nàng thản nhiên trả lời:

“Mặc kệ chứ! Em tôi bảo Noọng Mai học giỏi lắm kia mà. Cần gì phải học nhiều thế? Về ‘bản’ chơi với tôi một hôm!”

Tôi cũng chiều ý nàng, xin phép thầy me tôi về Lũng Luông.

Ché Sao giữ ngựa cho tôi lên, bảo rằng ngựa đó hiền lắm. Nhưng nàng thấy tôi không được bạo, nên dóng ngựa đi sát bên.

Chúng tôi thong thả đi theo con đường đỏ quanh co bên sườn núi. Gió ấm hây hẩy thổi đưa qua những hương lúa đồng cỏ và thứ mùi cây lá đặc biệt ở các rừng chung quanh. Mặt Ché Sao yên lặng, ngây thơ, đôi mắt đen và sáng, tươi cười nhìn thắng. Nàng có một thứ đẹp êm ái, trong trẻo, khiến tôi ngắm không bao giờ chán và cảm thấy nàng thông minh hơn các bạn gái của nàng nhiều.

Cảnh rừng núi quanh người kiều mị ấy nhuốm một thứ ánh sáng mơ hồ huyền ảo, có một thi vị thiết tha, ân ái, làm réo rắt tâm hồn tôi.

Một lần, tôi chăm chú trông nàng, nàng như cởi mở ra, tôi cảm động quá, se sẽ cất tiếng gọi:

“Ché Sao!”

Nàng nhìn tôi ngạc nhiên hỏi:

“Gì? Noọng Mai?”

“Không! Chả có gì hết!”

Rồi tôi cùng cười với nàng.

Lúc ấy tôi tự bảo tôi rằng: “Chả biết ta có được sung sướng mãi như thế này không?” Và phảng phất có mối lo âu của một người mới nằm mơ đã tiếc giấc mơ tàn.

*

Đến trước một dòng suối nước trong chảy qua những tảng đá lớn xanh và nhẵn, Ché Sao đỡ tôi xuống cho ngựa uống nước, rồi đến ngồi trên một tảng đá ở bờ suối, bên cạnh tôi. Tôi không biết nói gì trỏ những hòn sỏi trắng muốt dưới suối:

“Ché Sao! Trông đá sỏi có đẹp không, em muốn lấy về mấy hòn?”

“Đá sỏi có ăn được đâu mà lấy”.

Tôi chỉ thấy toàn ý vị trong câu đáp ngây ngô và càng yêu mến nàng thêm.

“Ché Sao ơi!”

“Gì thế Noọng Mai?”

Tôi nắm lấy tay nàng:

“Ché Sao ơi! Ché Sao đừng giận em nhé!”

“Ồ, sao chị lại giận Noọng Mai được, Noọng Mai ngoan lắm kia mà”.

Tôi liền ghé vào tai nàng, đem hết tâm hồn âu yếm thơ ngây gửi vào một câu:

“Em yêu Ché Sao lắm!”

Nàng khoa chân xuống nước, cất tiếng cười khanh khách, hai má hây hây đỏ, vừa nhìn tôi, vừa đưa tay vuốt mái tóc trên đầu tôi.

*

Khi về đến Lũng Luông, Ché Sao dắt tôi đưa lên nhà khoe với cha mẹ nàng, rồi rủ tôi ra vườn, trỏ lên các cây mà bảo:

“Em muốn ăn quả gì, chị cũng lấy cho, tha hồ mà ăn”.

“Em thích ăn cái quả vàng vàng nho nhỏ mà Ché Sao cũng thích ấy. Quả gì nhỉ?”

“À! Quả mắc phì phà!”

Tôi cười vang lên:

“Mắc phi phà! Mắc phì phà! Cái tên nghe hay nhỉ! Thảo nào ăn ngon!”

Nàng nhanh nhẹn trèo lên cây, vẫy tôi cùng lên theo, rồi đưa quả cho tôi ăn... Bỗng nàng nói:

“Noọng Mai nè, trông Noọng Mai trắng quá, Noọng Mai là em gái có hơn không!”

Tôi hơi buồn rầu:

“Còn em thì em không thích Ché Sao là con trai đâu. Em thích Ché Sao là chị em cơ!”

“Tại sao thế?”

“Tại... tại... Em không biết”

Nàng lại cười, tiếng cười rất vui vẻ thực thà, trong trẻo như nước suối.

“Noọng Mai à! Sao bảo người Kinh không tốt? Noọng Mai cũng là Kinh sao tốt thế. Chị yêu Noọng Mai lắm cơ! Noọng đừng về xuôi nữa nhé, ở đây làm con nuôi ‘bá mế’ (cha mẹ) chị, rồi chị cũng làm con nuôi ‘bá mế’ Noọng Mai”.

“Thế làm con nuôi thì phải thế nào?”

“Cứ đến tết thì phải đem gà thiến và gạo nếp đến lễ bố mẹ nuôi”.

“Ồ thế thì được lắm. Ché Sao cứ đem đồ lễ đến nhà em thì em lại lấy đồ lễ ấy biếu thầy me Ché Sao!”

“Noọng Mai nói đùa thế, tôi giận đấy!”

Tôi nũng nịu, sẽ ngả đầu bên vai nàng, ngước mắt nhìn:

“Thì bao giờ em chả là Noọng Mai của Ché Sao!”

Dưới tầng lá xanh non man mát, Ché Sao như một nàng tiên trong động, mà nàng tiên ấy ngồi bên tôi, cười nói với tôi: lòng yêu dấu của tôi vừa nhẹ nhàng vừa thấm thía như ánh nắng êm dịu, như làn khói dìu dặt đưa qua, như không khí không vẩn bụi ở cảnh núi non thanh khiết này... Tôi không biết ngồi đó với nàng bao lâu, tôi không biết rằng nàng nghĩ ngợi gì: đôi mắt nàng chỉ có vẻ bình dị, thản nhiên, nhưng mỗi khi trông đăm đắm vào mắt tôi lại khiến tôi bối rối.

Đến bữa cơm, tôi ăn cơm với cả nhà nàng. Mọi người khen tôi, chiều chuộng tôi, nhưng tôi sung sướng chỉ vì những lời khen ngợi ấy đã làm cho nàng vui thích.

Nàng cho tôi xem đệm gối hoặc khăn áo tự tay của nàng thêu ra; khoe các thứ vòng khuyên và xuyến bạc là tư trang của nàng và bảo nhỏ tôi rằng:

“Bao giờ chị đi lấy chồng, chị còn có nhiều nữa kia, lại nhiều thứ đẹp lắm”.

Tôi nghe nói, sầm mặt lại không đáp. Rồi từ lúc đó, tôi không cười nói như trước. Nàng không chú ý đến sau thấy tôi buồn thì cho tôi là nhớ nhà. Bao nhiêu lần tôi gọi nàng, đôi mắt trách móc, định nói với nàng một câu. Nhưng khi nàng quay lại, giương cặp mắt nhìn tôi, thi tôi lặng yên, hoặc nói một câu vu vơ nào khác.

*

Đến chiều, nàng đưa tôi ra Quảng Uyên, lúc từ giã về, nàng thấy tôi vẫn buồn, không hiểu sao, nàng hứa với tôi rằng đến phiên chợ sau nàng sẽ đem rất nhiều mắc phì phà ra cho tôi. Tôi muốn giữ lấy nàng, bíu lấy nàng, hết lời tha thiết cho nàng nghe một câu thôi. Tôi muốn bảo nàng rằng: “Ché Sao ơi! Chị mà đi lấy chồng thì em giận chị lắm cơ đấy!”. Nhưng tôi lại muốn cho nàng cứ trông thấy vẻ giằn dỗi của tôi cũng hiểu tôi định nói gì kia!

Một hôm nàng ra chơi, tôi không để ý gì đến hoa quả của nàng, chỉ để nàng cầm tay, yên lặng nhìn nàng như nhìn một người lạ.

Nàng hứa các cảnh đẹp nàng sẽ đưa tôi đến, hứa các cuộc hát vui nàng dẫn tôi đi xem; nhưng tôi vẫn không tỏ ra dáng vui mừng. Tôi giận nàng mà tôi lại yêu mến nàng hơn lên. Nàng buồn rầu bảo tôi:

“Hôm qua, một người quen ‘bá mế’ chị về xuôi, chị buồn quá!”

Tôi hỏi:

“Chị nhớ người ta sao?”

“Không”.

“Thế sao buồn?”

“Vì chị nghĩ đến Noọng Mai, chị không biết Noọng Mai có ở Quảng Uyên mãi không?”

“Ở mãi làm gì? Vì ở mãi rồi có ngày... em không được làm chị em chị nữa cơ mà!”

Tôi muốn nói thêm một câu hờn giận, nhưng tôi không nỡ. Thấy nàng hơi biến sắc, nên tôi vội nói.

“Em chưa chắc được ở mãi Quảng Uyên, vì thầy me em muốn cho em về Hà Nội học”.

*

Chúng tôi càng ngày càng thân thiết nhau, nhan sắc nàng đối với tôi ngày càng đằm thắm. Tôi về chơi Lững Luông với nàng luôn. Những cảnh âu yếm bao giờ cũng diễn ra giống nhau, bao giờ cũng có một hương vị mới mẻ. Nàng không muốn nhắc lại câu chuyện nàng sẽ lấy chồng, vì chuyện đó nàng không hiểu sao lại mất lòng tôi; cũng không muốn nhắc đến việc tôi sẽ về Hà Nội học. Nàng vui cười sung sướng như chim mùa xuân không biết đến ngày thu.

Nhưng tôi thường chợt có những phút lo âu, buồn bã không biết ngần nào. Những lúc đó thì tôi im lặng khi nàng nói cười, và khi nàng hỏi tôi thì tôi tỏ ra vẻ dằn dỗi. Nàng lại cầm tay tôi, vuốt bên má hay mái tóc tôi, cố soi mói đôi mắt thơ ngây của nàng để dò ý tôi. Tôi phải vui cười ngay, vì không muốn để cho trái tim kia phiền muộn.

*

Mùa hè năm sau, tôi thi đỗ bằng cơ thủy. Thầy me tôi muốn cho về Hà Nội học ban thành chung. Tôi thấy ngày phải xa cách nàng gần đến chừng nào thì lòng càng chua xót; rắp tâm hôm nào nàng ra chơi thì tôi sẽ nói một câu rất tha thiết dù tôi biết là vô lý, để cho nàng không nên quên, không nên bỏ Noọng Mai của nàng.

Nhưng bỗng có người về xuôi; thầy me tôi bắt phải về ngay, tôi không kịp than thở, từ biệt với Ché Sao của tôi nửa lời. Nhất là không được tỏ cho Ché Sao biết rằng tôi bao giờ cũng yêu nàng, yêu nàng như yêu một người chị êm ái, nhu mì, nhưng “nếu Ché Sao đi lấy chồng thì em khổ lắm đấy!”

Tôi tự bảo tôi đến mấy mươi lần rằng tôi vô lý lắm, tôi thương yêu nàng một cách không phải đường. Khi ở Hà Nội, tôi chỉ muốn nhớ nàng như nhớ một người bạn xa thôi, nhưng lòng tôi có nhiều lúc ảo não!

Tôi miệt mài học hành, tập nhiễm lấy tính tình và tư cách người thành thị, nhưng cảnh rừng núi với Ché Sao của tôi ở trong đó vẫn không bao giờ phai nhạt trong tâm trí tôi. Nên những khi đêm trăng, đứng thẩn thơ bên cửa sổ, trông cảnh sân trường vắng lặng trông cành cây đưa đẩy nỗi bâng khuâng, tôi thấy như có một bài thơ réo rắt trong tâm hồn. Tôi nhớ lại những điệu hát thật thà, mộc mạc của người Thổ, bên tai vẳng tiếng Ché Sao; tôi thường âm thầm mà tự bảo mình rằng:

“Mặt trăng kia treo cao trên trời xanh, đâu đâu ai ai cũng thấy, sao lại không là một tấm gương trong sáng để khi ta nhìn lên, ta trông thấy hình ảnh cái nhà sàn của Ché Sao? Mà khi Ché Sao có ra sân đứng thì cũng thấy bóng ta trên đó đang buồn rầu tưởng nhớ đến nàng”.

Gần Tết:

Cảnh mưa bụi sương mù của thành phố lại càng khiến cho nỗi tưởng nhớ của tôi càng thêm thấm thía. Nhưng tôi mừng vì sắp được nghỉ về Quảng Uyên chơi. Tôi đã tưởng trước đến lúc sung sướng được gặp Ché Sao, tôi sẽ kể cho nàng nghe nỗi lòng của tôi để nàng yên ủi.

Không ngờ lúc tới nhà, tôi được tin nàng đã lấy chồng từ tháng trước, nghĩa là tôi không còn hy vọng để gặp nàng! Thầy me tôi không hiểu được nỗi buồn tủi sâu xa của tôi, mà tôi cố nén lòng không để gia đình tôi thấu rõ.

Nửa năm học và sự giao tiếp với bạn bè ở Hà Nội cũng đã làm cho tôi trông rõ sự thực, làm cho tôi lúc đó biết nghĩ. Tôi biết Ché Sao lấy chồng là một việc thường lắm. Cái tâm hồn chất phác của nàng không thể có những tính tình thắm thiết lâu bền được. Tôi không oán giận nàng một cách vô lý như trước. Nàng đã là một thiếu phụ mang tên và sống chung với người khác, sống một cuộc đời bình thường như trăm, nghìn chị em cùng giống với nàng, chưa chắc có lúc nào nghĩ tới tôi.

Nhưng tôi chỉ tiếc cô con gái dịu dàng là Ché Sao của tôi thôi, tôi tiếc người sơn nữ thật thà đã yêu mến tôi một cách thật thà, và đã vô tình đeo vào lòng tôi những nỗi thổn thức mới mẻ thắm tươi của sự yêu thương lần thứ nhất.

Rút trong tập “Bên đường Thiên Lôi” 

Tiếng hú ban đêm

Tiếng hú đưa từ phía rừng Sam Na lại. Đêm nào mưa gió thì nghe rõ từng hồi một: trước còn thấp, sau bỗng kéo dài ra, rồi chìm biến vào bốn bề rừng núi. Trời đất âm thầm lạnh. Vì hồi ấy về cuối thu tiếng hú đưa lên ai oán thảm thê, tưởng như giọng ba bốn đứa trẻ xác xơ đang ngồi trên bãi vắng hay bờ lau mà gào mẹ chết.

Người Mán Khao La ngủ không yên giấc, đêm đêm nằm trong khiếp sợ mà lòng mê tín của họ càng tăng mãi lên.

Bởi vì trước đó không lâu trong làng có nhiều điều quái dị xảy ra như đi trước đón đường cho tiếng hú bí mật: Rừng Sam Na là một khu rừng lớn, người Mán thường ngày vào săn bắn những cầm thú nhỏ và khai phá của thiên nhiên. Bỗng dưng đã một tháng nay có hổ cái hung dữ lạ thường chẳng biết từ đâu về rừng đó ở. Con hổ to lớn khỏe mạnh lắm. Giữa ban ngày cũng dám ra bắt súc vật của dân Mán - có khi lại vồ cả người, đến những miệt xa xưa nay vẫn là tai họa cho thú rừng cũng nhiều lần bị khốn vì con hổ cái. Họ tìm đủ mọi phương kế; nào vây đón, nào bẫy cạm mà không tài nào bắt được - lần nào hổ cũng thoát rất dễ, lại còn tha được cả mồi đì. Người Mán thường coi hổ báo chỉ như một con chó dữ mà bây giờ nghe tiếng nó gầm cũng phải run sợ. Cùng thời kỳ hiện ra cái nạn rừng ghê gớm này, một người đàn bà với một cô gái làng khác đến ở ngụ. Xem chừng là hai mẹ con. Hai người dựng một cái lều tận đằng xa bên một bụm cây lớn, ở ngay cửa rừng. Như thể hình như nhà này muốn cách biệt hẳn với thôn xóm ở đây, cả một làng dăm ba mươi nóc chen xít nhau trong đám cây cối dưới sườn một quả núi thấp và quay mặt về hướng Sam Na, dân cư vẫn giúp đỡ nhau, thân cận nhau, nay đột nhiên có người ở đâu đến lại ra ý tị hiềm chia rẽ, thì ai cũng phải cho là những nhân vật lạ lùng.

Không ai hiểu tính tình hai mẹ con nhà ấy. Mà từ khi rừng thành dữ không mấy người dám đến, nên không biết họ ăn ở ra sao. Chỉ những ngày phiên mới thấy hai người ra mặt: họ gánh củi từ cửa rừng đem ra chợ đổi lấy gạo muối về nhà. Người đàn bà trong vòng năm mươi tuổi; váy áo màu chàm đã bạc bao giờ cũng đùm núm, xốc xếch; người khô xác thấp bé, chỉ tinh nhanh ở hai con mắt sắc rất linh động, nhưng lúc nào cũng gườm gườm. Cô con gái độ mười bảy mười tám, ăn mặc gọn ghẽ, nét mặt xinh xắn, và có vẻ e lệ ngây thơ. Cô ta theo sau như bám lấy bà mẹ. Các cậu trai tân trong làng ra chợ, cậu nào trông thấy cô ả cũng phải ngây ngất mà nhìn hoài. Họ thích cánh và cười vụng với nhau, nhưng không cậu nào dám toe toét lả lơi tỏ ý mon men trêu ghẹo cô bé. Vì có mụ già đấy: mụ sẽ trả lời lại những lối trai tơ kia bằng một cái lườm nguýt khinh bỉ và hằn giận đến rùng mình. Anh nào to gan, không sợ cứ sấn gần đến cô bé, tức thì mụ rủa cho như khạc lửa vào mặt rồi chẳng đổi chác thì chớ, cầm ngay lấy tay cô bé cất gánh củi, một mạch đì về.

Người Mán vốn đạng đột thật thà không có lòng hiểm độc ghen ghét. Nhưng thấy thái độ lạnh lùng và kỳ dị của mụ già khô khan kia họ chẳng khỏi sinh bụng nghi ngờ. Vì thế sau những buổi chợ, hoặc khi ngồi chuyện vãn với nhau, người Mán thường chỉ bàn tán đến hai mẹ con người đàn bà lạ mặt. Trước thì còn bảo đó là một mụ ké cay nghiệt, hiểm ác, sau cho là một mụ dí cấy thuốc độc ở móng tay. Nhiều người chắc thế nào nhà mụ cũng có thờ ma. Rồi mỗi ngày đẻ thêm ra những điều quái gở để gán cho mụ. Điều kỳ quặc đến đâu cũng không ai cho là thái quá. Thậm chí có người dựng đứng lên bảo rằng mụ đàn bà ấy là một con hùm tinh. Mọi người liền tin theo, mà tin như thế một cách vũng vàng, như là chuyện hiển nhiên trước mắt. “Phải, chính nó đấy, chính nó là con hùm trong rừng; nó biến thành con mụ ké với đứa con gái đẹp để đánh lừa chúng ta đấy. Ta cứ để yên, rình lúc nó vô ý nắm ngay lấy đuôi nó là bắt được, vì con mẹ này có đuôi!”.

*

Bỗng nhiên mấy phiên chợ sau cùng người ta không thấy con mụ ké nữa. Mà từ ngày mụ ké không ra chợ thì dân cư bắt đầu nghe thấy tiếng hú ban đêm. Người Mán lại càng tin mụ ké không phải là người thật. Họ chắc mụ ké biết đã lộ việc kín, nên không dám giao tiếp với người trong làng nữa, từ nay đành phải giữ nguyên hình. Thế rồi thường thường trong những buổi tối quây quần, nhà nào nhà ấy đóng cửa cho kín, họ vây quanh ngọn đèn hay bếp lửa kể cho nhau nghe những chuyện hoang đường truyền khẩu từ đời này qua đời khác, những chuyện có một quan trọng thần bí trong tâm hồn của dân đồng rừng.

Theo những câu chuyện họ kể thì trước kia ở Sam Na cũng có một con hùm tinh. Người ta thường gặp nó trên núi dưới ruộng, trong rừng, nhất là ở những đường lối có người hay qua lại. Con hùm tinh ấy trèo được lên những cây cao, nói được tiếng người. Khi thì hát như ru em, khi thì khúc khích như đùa, khi thì than khóc. Thấy người nào một mình quãng vắng thì nó giả tiếng bà già hay đứa bé nheo nhéo gọi: “Thầy ơi, u ơi, ông ơi, cô ơi”. Theo tiếng gọi người ta thử nhìn xem thì hoặc ở sau lưng hoặc ở trên cây chỉ thấy một con hổ cười sằng sặc. Người kia khiếp sợ ríu chân lại: hùm tinh cứ việc nhảy tới tha đi. Về sau con hùm tinh ấy hình như bị sét đánh chết, nên dân cư mới được yên cho mãi đến bây giờ.

Rồi đến nay lại có một con nữa đến. Cái tiếng hú kia từ phía rừng đưa lại chẳng phải là tiếng con hùm tinh đó sao?

Một đêm kia. Dân Khao La lấy làm kinh ngạc lắm. Có nhẽ con hùm tinh đã đến lúc bầy mưu chước để giáng thêm tai họa: tiếng hú không thấy vẳng đưa nữa mà đêm hôm ấy lại tạnh ráo. Không có tiếng mưa gió nào cả. Khắp làng Mán lạnh lẽo trơ trơ dưới ánh sáng non của mặt trăng còn khuyết. Cách rừng Sam Na bằng một bể ruộng ngút ngát mấy chục nóc nhà xóm chen úp trong những đám cây cối sẫm đen. Cái lo sợ nặng nề như bầu sương ẩm ám trong không khí.

Mọi nhà đều đóng cửa thực kín. Hơi có một tiếng động cũng tưởng là tiếng con hùm tinh đi qua: Giá thử có ai đứng gọi xin lửa ở ngoài họ cũng không dám mở vì biết là tiếng yêu quái hay tiếng người? Một vài nhà đánh bạo nhìn qua khe cửa phên trông ra. Bên ngoài vắng yên như cảnh chết. Trên những từng ruộng khô và trắng, chỉ thấy mấy đống rạ lớn ngồi lù lù. Đằng xa dải rừng lặng ngắt mập mờ vẫn giữ kín những cái bí mật.

Gần hết canh hai, bỗng nhiên từ phía làng xóm có một toán sáu bảy người lực lưỡng rảo cẳng đì về phía mạn Sam Na. Đó là bảy người đi săn giỏi và khỏe nhất làng Mán. Họ tiến lên những bước mạnh bạo và yên lặng mấy người đi trước cầm dao lớn, ba người đi sau mang một cuộn dây dài.

Từ lúc trời bắt đầu tối, không thấy tiếng hú đưa ra, họ đã họp nhau ở nhà ông lang để bàn định. Họ nhờ một thầy pháp bện cho họ mấy sải dây ngũ sắc và yểm phép vào dây để họ đem đi rình trói con mụ ké hay là con hùm tinh. Những việc ác hại làm khổ dân làng đã quá lắm rồi, bây giờ không thể để cho con quái vật kia hoành hành mãi được nữa. Họ quyết lòng trừ cho dân làng một cái họa lớn. Không thì họ chết chứ không trở về.

Bọn người can đảm ấy tiến lên, không mấy chốc đã đến nhà mụ ké. Một người ra hiệu cho ai nấy nhẹ bước; dặn khẽ nhau hễ trông thấy con mụ già thời đem dây phép mà trói nghiến lại; rồi hễ vớ được đuôi của nó thì giết phăng ngay đi.

Cổng ngoài mở cửa phên cũng mở, trong nhà đen tối nhìn kỹ thì hình như không có người. Bọn này đã sinh nghi, cùng đi ra lối sau nghe ngóng. Một người bỗng kéo áo người đi cạnh, trổ vào một vật lù lù nằm ở sân sau, mọi người nhìn xem, thì đến sởn cả gai ốc. Bên cái vò nước dưới ánh trăng mờ một con vật lông vằn vằn không cử động. Không phải chỉ một vài con, coi lại thì hình như ba bốn con nằm đó, và con nào cũng ngủ mê mệt không biết gì. Ghê sợ quá, họ cùng nhau hết sức mím tiếng mà lùi - “vô phúc nó trở dậy bây giờ thì chết cả” - cũng lúc đó người sực tỉnh khẽ bàn nên nhân lúc nó còn ngủ đem dây ngũ sắc trói lại cho mau. Khốn nỗi chưa mấy ai hoàn hồn. Đột nhiên gặp thấy cái cảnh ấy thì táo tợn đến đâu cũng phải núng, vả lại, con mụ ké là yêu tinh, nên nó khôn lắm. Biết đâu đó chẳng là một mưu chước nó bầy ra để lừa người?

Trước họ tiến lên cẩn thận bao nhiêu thì nay họ thoái cũng cẩn thận chừng nấy. Người nọ bám lấy người kia thục mạng chạy. Bỗng thấy gầm lên một tiếng cực lớn, nghe rất dữ dội. Bọn con trai không còn hồn vía nào. Họ nhảy choàng lên cùng kêu thét như bị vứt vào lửa. Tiếng gầm kia lại rống, ngày một gần, một lớn, một gấp, như vỡ trời đổ núi bên mình. Anh nào anh nấy cũng mong thành cánh ở chân, tranh nhau cắm cổ chạy về làng, lăn cả xuống rãnh, chui cả vào cây, đâm cả vào bụi rậm.

Về đến làng xóm thì vừa hết cả sức, họ gào lên những tiếng khản líu lưỡi lại mà gọi, đập cửa như phá rồi vào nằm vật cả xuống đất, thở không ra hơi. Bên ngoài, không có gì đuổi theo nhưng tiếng gầm vẫn hét vang cả một phía rừng. Sam Na như chuyển động như có bao nhiêu hổ báo cùng vật lộn xâu xé nhau. Cho mãi đến quá nửa đêm tiếng gầm rống thưa dần và yếu dần rồi tắt hẳn. Bốn bề dân làng trong sự im lặng kinh hoàng vẫn tưởng như tiếng hú mọi đêm còn vẩn vơ trong hơi gió.

Kể từ hôm ấy, người Mán Khao La lại càng thêm lo sợ. Họ biết thế nào cũng có những tai họa phi thường. Nhưng lạ thay! Hết ngày ấy sang đêm khác dân làng cứ mất mật mà sẵn chờ những điều ghê gớm không xảy đến bao giờ.

Tiếng hú trong rừng thấy mất. Người Mán và trâu lợn của họ vẫn bình yên. Con hùm lớn cũng không thấy để lại một bóng vết nào qua. Hơn một tháng rưỡi trời mụ ké hay con hùm tinh biến đâu? Chết rồi chăng? Hay đi nơi khác? Mà hùm tinh chết hay đi nơi khác dân làng đã hẳn được mừng chưa?

Cái ngờ vực áy náy vẫn như tiếng vang còn lại của bao nhiêu điều khiếp sợ. Cách đó hơn hai tháng cũng chưa ai dám đánh liều vào rừng xem. Đến nhà mụ ké cũng không ai bén mảng tới. Mụ ké với người con gái đẹp cũng không thấy ra nữa. Người Mán thản nhiên kết luận rằng:

“Phải rồi, con mụ ké ấy chính là con hùm tinh, con hùm tinh ấy nó bỏ Sam Na nó đi vì dân Khao La có thầy pháp có quan lang, dân Khao La khôn hơn con hùm tinh ấy”.

Đó là việc có thực xảy ra ở làng Khao La ngày trước đến nay dân Mán vùng đó ai cũng biết, ai cũng nói lại, từ người già cả đến bọn trẻ con. Nhưng chuyện thực sao lại lắm vẻ hoang đường quá như thế?

Người Mán không cần biết. Họ chỉ vững tin những điều họ tưởng, những điều mà lòng mê tín của họ cắt nghĩa ra thôi

Bởi vậy duyên do câu chuyện này không mấy ai cho là thực.

Người đàn bà Mán mà họ ngờ là hùm tinh ấy nguyên là người ở một làng xa cách đó những gần hai ngày đường. Bà ta góa chồng từ năm ba mươi tuổi. Nói là góa nhưng thực ra thì bà ta bị chồng lừa: lấy nhau chừng một năm, đến khi bà ta có mang thì người đàn ông bỏ nhà đi mất.

Bà căm tức lắm, nguyền rằng hễ sinh con trai thì giết chết ngay. Nhưng đứa trẻ ra đời lại là con gái. Bà ta mới đổi oán làm mừng, nâng niu chăm chút con thơ và ra sức làm lụng để nuôi cho nó khôn lớn, người con gái ấy là cái hạnh phúc của bà mẹ: nó làm cho sự sống của bà ta có ý nghĩa và thay cho cái tình đã chết đi. Mẹ đặt tên con là Mí Nàng, bỏ tên chồng nhận lấy tên ấy để tỏ ra hai mẹ con như một.

Nhan sắc trong trẻo của Mí Nàng cùng tăng lên với ngày tháng. Năm Mí Nàng mười tám tuổi thì trong làng có người đem rất nhiều của cải đến xin kết hôn. Bà Mí Nàng không nghe. Cô ấy tuy bằng lòng nhưng cũng từ chối. Mí Nàng ngây thơ lắm. Bên con trai tìm cách dỗ dành không ngớt. Rồi trong vòng bảy tám phiên chợ làng, tiếng hát ái ân của họ đã làm cho người thiếu nữ phải say mê. Mí Nàng một khi sa ngã rất hổ thẹn ăn năn, bèn đem sự lòng thú thực cả với mẹ. Bà mẹ tức khắc sang điều đình với bên kia nói là thuận gả con gái. Nhưng anh con trai giở mặt, muốn bà ta đem Mí Nàng biếu không cho mình. Bà mẹ tím mặt lại vì giận, nhớ đến người chồng mà bà ta coi như đã chết rồi, nhớ đến con người đã lừa dối tình phụ. Bà ta trở về, không nói năng gì cả. Đến đêm lăm lăm thanh dao rừng ở tay, bà ta đứng rình ở một chỗ khuất rồi xông ra chém một nhát vào gáy thằng con trai kia. Giết nó xong, không hối hận, không sợ hãi, người đàn bà Mán xốc ngay cái xác còn đeo lủng lẳng cái đầu ma, đem về vất ra sau vườn, rồi vào gọi con gái vác nải gạo với bọc quần áo đi trốn.

Hai mẹ con trông thẳng ra mạn Sam Na đi suốt đêm, đến chiều tối hôm sau thì tìm chỗ tạm nghỉ. Bấy giờ bà mẹ mới cầm hai má cô con gái mà nhìn. Bỗng nước mắt tràn ra, rồi ôm chặt lấy con khóc rưng rức.

Mí Nàng! Mí Nàng! Nong Khon nó muốn đánh lừa mẹ, đánh lừa con, mẹ đã chém Nong Khon cho nó chết.

Rồi bà lại khóc như muốn lấy tiếng nức nở để nói nốt bao nhiêu lời. Mí Nàng cũng khóc, có lẽ nửa thương tình nhân bỏ mạng, nửa thương bà mẹ phạm tội ác vì yêu dấu cô ta.

- Mí Nàng ơi! Mẹ với con đi xa, đi trốn; ở đây làm gì với những người nó chỉ chực cướp sống con gái của mẹ. Con nghe chưa?

- Con nghe rồi. Con cũng muốn thế.

- Ừ! Thế thì hay lắm, mẹ với con đi rõ thực xa! Xa lắm. Rồi làm nhà riêng một nơi mẹ đi làm con đi làm, mẹ con nuôi nhau, con yên vui mà mẹ cũng vẫn được yêu dấu con: mẹ sung sướng.

Đêm hôm ấy hai người đến dưới bóng một cây to rải áo trên đám cỏ cao và xào xạc. Mí Nàng mỏi quá ngủ ngay, nhưng bà mẹ vẫn thức vừa thở dài vừa xua muỗi hay kéo lại khăn áo cho con nằm yên.

Sáng hôm sau hai mẹ con lại lên đường, cô gái đi trước xách bọc vải lớn, bà mẹ đì sau khòm lưng địu một nải gạo nặng nề. Mí Nàng hai mắt đỏ hoe chốc chốc lại ngoảnh đầu trông lại, trông trời cao mây vẩn, trông rừng lá vây quanh, trông cái phía đường xa, núi chắn nó ngăn cách người con gái với chốn quê hương. Nhiều lúc cô ta gặp mắt bà mẹ. Bà mỉm cười cho con gái quay đi, rồi đăm đăm nhìn thẳng trước mặt như tìm xét xem nơi nào mới chắc chắn, nơi nào mới kín đáo để mẹ con ẩn náu mà nuôi nhau. Đối với lúc phải bỏ nơi sinh trưởng của mình, ai là người không buồn cảm? Nhưng bà mẹ Mí Nàng lúc ấy vui mừmg lắm, vui mừng vì vẫn giữ được con gái là sự vui sống của bà ta. Từ ngày bị người chồng bỏ đi bà ta chỉ biết lấy cái bông hoa quý này để làm đẹp cái cảnh đời thảm đạm. Bao nhiêu căm giận người đời đen bạc nay vứt đi hết mà để lại trong lòng cái tình rất đằm thắm là tình yêu con. Người đàn bà ấy yêu Mí Nàng một lòng say đắm dữ dội, một cách ghen tuông, ích kỷ như không muốn cho ai được dòm dỏ, không muốn cho ai được tấm tắc khen cô ta. Cái quả báu kia, cái nhan sắc kia là của bà ta, của riêng bà ta thôi, bà mẹ lấy làm đắc chí mà chiếm giữ lấy một mình cái thú được yêu được ngắm.

Đi chừng ngót một ngày đường nữa thì đến cánh rừng Sam Na. Thấy gần đấy có nhà cửa dân cư, nên mẹ con quyết định lấy làm chỗ nương náu. Ở lẫn với người trong làng thì lại sợ cho con nên bà mẹ Mí Nàng mới dựng một túp lều nhỏ ở xa cho cách biệt.

Từ đó bắt đầu cuộc đời vất vả nhưng rất sung sướng cho bà mẹ. Sáng đi xới vườn kiếm củi, tối về rau cháo bên con. Sự ái ân với lòng thương xót ở đời có nhẽ thấy cái hình ảnh cảm động nhất ở trong gian nhà tranh lụp xụp ấy.

Một tháng bốn ngày phiên chợ, bà mẹ lại dắt con gánh củi ra đổi lấy gạo muối và những thứ cần dùng. Đến nơi đổi chác cho mau rồi về, bà ta rất gờm những trai làng, nó chỉ giở thói nhăn nhở để câu mất con gái.

Mẹ con ở với nhau được hơn một tháng, mẹ kiên nhẫn con chịu khó cặm cụi suốt ngày quên cả nhọc nhằn. Thực là yên vui. Bà mẹ vẫn nhắc đi nhắc lại một mình rằng: “Suốt đời người bây giờ mới thực biết cái sung sướng”. Tuy thế trong lòng bà vẫn phấp phỏng lo sợ, cho rằng mình không thể được sung sướng mãi. Cái phúc của bà cũng như giọt sương mai tuy đẹp đẽ nhưng đến lúc rực rỡ thì tan mất - mà chỉ đâu trong khoảng một buổi sớm thôi! Người thiếu nữ là con gái bà ta kia trông yêu kiều nhan sắc quá! Bà ta nhiều khi chợt thấy như chỉ được làm mẹ nó để rồi thương khóc nó, chứ không được âu yêm nó trọn đời. Mí Nàng vẫn hết lòng tươi cười vui vẻ. Nhưng con mắt nồng nàn tình cảm của người mẹ ấy nó sắc sảo lạ thường. Trên khuôn mặt cô Mí Nàng bà vẫn thấy cái bóng mây buồn nó vướng vít, cái nét đau khổ nó ẩn núp cứ chực len vào đôi con mắt ươn ướt với cái miệng cười như cố gượng của cô ta. Có khi đang cùng ngồi nhìn nhau, bà ta để cô ngồi một mình trong nhà, lặng yên ra núp một nơi rón rén bước lại khe hở vách nghé mắt nhòm qua mà xem mặt con gái. Những lúc đó, mặt Mí Nàng chưa đổi sắc, vẫn còn giữ nguyên cái vui tươi vừa rồi. Bà mẹ thấy thế nhẹ bay lên vì mừng rỡ chạy ngay vào bế lấy cô con gái mà nưng niu hú hí trong lòng.

- Con yêu mẹ nhé, con thương mẹ nhé. Con khỏe đi, con lớn đi, con vui vẻ đi để cho mẹ sung sướng với con.

Rồi bà ta lại ôm chập lấy Mí Nàng, giấu đầu vào ngực cô ta mà không biết là cười hay là khóc. Mí Nàng cảm động lắm, càng ngày càng cố làm cho mẹ vui mừng hơn lên. Sau mấy lần rình xem như thế bà mẹ mới hơi yên lòng, rồi lâu dần cũng quên hẳn được những điều lo ngại.

Mẹ con đã bàn nghĩ với nhau đến những kế sinh nhai khác cho cuộc đời thêm có thú và thêm dễ dàng. Xới thêm đất trồng các giống rau, đánh những cây có quả về chung quanh nhà, lại tìm lấy mấy cái tổ ong gây lấy mật. Rồi ra nếu trời thương hai mẹ con sẽ kiếm lấy mấy con lợn, con bò về nuôi, đợi cho sinh nở ra nhiều thì cũng dễ đổi chác với người làng lấy thóc gạo Mí Nàng lại nghĩ thêm được mấy cách nữa, nào chăm tằm kéo sợi rồi tìm lấy cách đóng lấy một cái khung củi nhỏ dệt lụa, dệt vải hay thêu thùa vá may trong những buổi không đi kiếm trên rừng.

Cô con gái tính cách nào mẹ cũng khen hay, nói đến câu nào cũng rất phải, bà già đã trông thấy trước cái cảnh tượng mới mẻ và sung túc trong cái chốn lều vườn bé nhỏ của mẹ con mình.

Chiều hôm ấy đang chặt củi hái nấm trên rừng bà mẹ Mí Nàng sực nhớ tới mấy cái bẫy chim ở trên nhà nên bảo con đứng đợi, tất tả chạy về lấy đem lên, Mí Nàng dặn theo: “Mẹ đem cả cái giỏ mới đan lên nữa nhé! Nấm này hãy còn non xâu vào dây thì rụng hết”.

Lần này là lần thứ nhất bà để con một mình trên rừng vì chỗ ấy gần nhà bà ta lại lên ngay. Tuy thế, nhưng trong bụng vẫn thấy như sắp có một điều không hay. Chạy một mạch về rồi lại tức khắc chạy một mạch lên rừng. Đến nơi, Mí Nàng đã không thấy đâu nữa. Bà ta chắc con gái đứng sau một chỗ khuất nào đó nên chưa muốn nghĩ đến cái nguy. Bụng bảo dạ: “Không, con ta không việc gì đâu, không việc gì hết”. Rồi tươi cười giơ mấy cái bẫy và cái giỏ ra, bà ta nói:

- Lạy ông trời nhé, ông cho mẹ con tôi đến chiều bắt được nhiều chim. Mí Nàng ơi! Giỏ đây rồi, bẫy đây rồi... Ra đây mắc bẫy với mẹ!

Hai mắt bà mẹ Mí Nàng lộ ra vẻ sợ, mà miệng vẫn cứ mỉm cười:

- Con ơi! Mí Nàng ơi! Mí Nàng à!

Bà già bỗng thất sắc. Mặt nhăn như người chực khóc, tiếng gọi hơi run run:

- Mí Nàng, Mí Nàng đâu con?

Bà già liền đi quá vào chỗ con tìm nấm lúc nãy rồi cất tiếng gọi lớn. Các bụi cây quanh đó yên lặng không trả lời! Bà già cuống cuồng lên vứt mấy cái bẫy xuống đất, sấn vào trong đám lá rậm, đâm thẳng xuống bờ suối rồi tức tốc lại trở ngược lên, hai mắt mở trừng trừng, vừa chạy vừa nhìn hết mọi chỗ. Miệng thì mấp máy không ra lời, chốc chốc lại gào lên mấy tiếng gọi:

- Mí Nàng!..... Mí Nàng!...... Mí Nàng!!!..........

Trời đã gần tối tìm Mí Nàng không thấy được nữa bà già bỏ cả củi, cả nấm cả bẫy, không thiết gì hết, vừa khóc thê khóc thảm, vừa lểu thểu về nhà. Bấy giờ vẫn còn chút hy vọng! Vào trong lều: vắng ngắt. Trông khắp bốn phía, nhìn cả xuống gầm chõng! Lục cả sau đám chăn áo không thấy đâu! Không thấy đâu! Con gái bà già hẳn bị hổ bắt mất rồi. Thế là xong, thế là biến mất cái vui sướng mà bà đã tốn biết bao công lao mới được hé thấy.

Bà già bỗng thét lên khóc rồi văng mình xuống chân chõng, dứt tóc, cào đất, vùng đứng dậy rồi gieo mình! Khóc đã khản cổ, đã mất cả tiếng: tâm thần muốn cho say mê để quên khổ, trời đất muốn cho tan nát để mình được tiêu diệt theo. Trong lúc đau đớn, mình khóc gào như vẫn nghe thấy con gái sùi sụt, như trông thấy con gái đứng ở tận những quả núi nào đang cứ vùn vụt lùi xa. Bỗng lại vùng đứng lên, bà già đâm bổ vào trong rừng, đầu thì lắc, mồm thì há, tay thì múa, chân thì lảo đảo, rồi ngồi xuống đến một bụm cây ẩm tối nói cho nó nghe những lời kỳ quái như không phải tiếng người. Rồi lại đứng lên vươn thẳng mình trong giữa cái cảnh thầm thì bí mật ấy, bà ta quắc mắt nhìn đây nhìn đó, quần áo xốc xếch, đầu tóc bù rối ghê gớm, độc ác như hình tượng của sự căm hờn. Đứng như thế một lúc lâu, không nói năng gì, rồi chân nam đá chân chiêu, bà già lảo đảo về nhà nằm vật lên trên mặt chõng.

Sáng hôm sau, bà Mí Nàng chợt tỉnh cái giấc mê mệt mà bao nhiêu đau đớn đã làm cho ngất đi từ đêm qua. Bà ta ngồi dậy khóc lóc một hồi. Thoắt nín bặt, mắm môi lại, bà ta đai lưng vấn tóc, cầm lấy con dao rừng lăm lăm rồi bước ra. Trên mặt không còn ngấn nước mắt chảy, chỉ thấy hiện ra một vẻ dữ tợn lạ thường. Bà ta xông thẳng vào rừng, từ cái chỗ vứt những cái bẫy chim hôm trước đi trở lên, rồi cứ đi sâu vào mãi, theo một đường cây lá rẽ ra chỉ để vừa lọt được một người. Đến một chỗ ánh sáng soi xuống nhiều nhất người đàn bà đứng lại chăm chú nhìn như mới trông thấy vật gì quái gở lắm. Cúi xuống nhặt, thì ra đó là những mảnh áo chàm thẫm máu: những mảnh áo của Mí Màng! Bà già mặt tái đi như người chết, răng nghiến lại rít lên một tiếng tưởng đứt ruột, rồi vừa nguyền rủa vừa cắm đầu bước lên.

Suốt một ngày hôm ấy bà Mí Nàng không lúc nào ngơi chân, chúi vào các bụi cây, len qua mọi chỗ rậm rạp, luôn tay chém những dây dợ chằng chịt nó xoắn xuýt dưới chân và những cành lá đâm ngang trước mặt; luôn mồm vừa chửi, vừa nói:

“A phải! A phải, bà không có sợ mày, bà giết chết mày! Giết chết mày bằng được bà mới nghe”.

Cái giọng nói với cử chỉ của Mí Nàng quả quyết và đáng sợ đến nỗi con hổ lớn ở Sam Na có nghe thấy chắc cũng phải rùng mình. Vì chính nó đã vồ mất người con gái.

Từ ngày hai mẹ con nhà này đến ở đây con hổ ấy vẫn có ý dòm dỏ nhiều lần. Nhưng bà ta đã phòng bị sẵn. Ban đêm thì trong túp lều vẫn có đống lửa cháy sáng làm cho nó phải xa lánh. Ban ngày thì nó lại sợ tiếng cái ống nứa ngộ mà lúc nào bà ta cũng đem theo, vả lại cái vẻ mạnh bạo của người đàn bà Mán hình như đã có một oai lực làm giảm hẳn cái dữ tợn của con vật. Hai con mắt của bà ta lúc nào cũng như lửa, hình như vẫn coi chừng cái nguy hiểm, mà nếu gặp phải thì bà ta sẽ một tay ôm giữ lấy con, một tay múa con dao rừng ra tứ phía như vung ra bao nhiêu cái đảm lực thiêng liêng của tình mẫu tử. Chết thì bà ta liều chết, chứ chạm vào con gái bà ta là không xong. Không ngờ cái lúc bà mẹ Mí Nàng để con gái một mình lại là lúc con hổ vẫn chờ đợi. Bà ta chua xót hối hận. Hết chửi rủa con hổ lại lấy đủ các tiếng tệ hại để tự rủa lại mình. Nhiều lúc đang bước đi xăm xăm, bà ta bỗng đứng lại lấy tay cứ vả mãi vào mặt rồi hai chân dậm đất, bà ta ngửa cổ hắt ra bao nhiêu tuyệt vọng cay đắng trong một tiếng hét dài.

Rồi từ đó người đàn bà Mán quên ăn, bỏ ngủ, quyết chí tìm cho được con hổ để báo thù cho con.

Ban ngày thì không có bụi cây hõm núi nào bà ta không sục đến, đầu tóc thì chằng quấn dây dợ, váy áo thì bươm rách vì cành gai, mặt mũi chân tay bị lá sắc nó cứa vào như bị chém; máu có chảy nhiều quá thì bà ta chỉ lấy cánh tay chùi ngang một quệt chứ không biết gì là đau. Ban đêm thì ngồi ở cửa rừng mà đợi.

Những lúc vắng khuya một mình giữa nơi hoang dại, tưởng chừng như hồn con gái bây giờ đương vơ vẩn bên mình, nỗi thương đau của người đàn bà như dội lên đến cực điểm. Nhưng không khóc hay là không khóc ra lời, bà ta chỉ đem bao nhiêu nỗi phẫn giận, cực khổ trong lòng gửi vào một tiếng hú. Đó là cái tiếng hú hồn lạnh lùng thê thảm đã làm cho dân Khao La sợ hãi luôn mấy đêm trời.

Bà ta ngồi đó, cố ý đợi cho con hổ đến. Nhưng hình như con vật cũng biết, chỉ tìm lối khác ra kiếm ăn. Còn ban ngày thì nó vẫn lẩn lút một nơi không để cho người đàn bà bắt gặp. Nhiều lần nó có dịp để hại người đàn bà Mán, nhưng có lẽ nó còn ghê còn gớm một sức gì khó hiểu ở một người dữ tợn nhất trong giống người tinh khôn kia.

*

Đến mãi ngày thứ bảy bà ta mới tìm được sào huyệt con hổ cái. Sau bảy ngày đêm cơ cực: giá không có ngọn lửa hăng hái mà tấm lòng quả quyết báo thù nó vẫn đốt lên trong lòng người mẹ kia, thì chắc hắn bà ta không còn gan sức nào chống được với nỗi khổ sở mệt nhọc. Chiều hôm ấy, bà ta đi tới một chỗ có nhiều bụi cây rậm và lớn, thì chợt thấy mấy con hổ nhỏ đang lăn lộn trước một cái hõm tối cành lá trùm phủ như tre tàn. Bà ta đứng nấp một nơi rình xem thì biết con hổ mẹ đi vắng. Bà Mí Nàng liền rón rén lại gần rồi xồ ra đâm chết được ba con, hai con kia hồng hộc chạy trốn mất, sức lực đã gần đến lúc kiệt, bây giờ lại thấy trở về đầy đủ, bà ta vác ngay ba con hổ chết đem quẳng ở sau nhà. Biết trước con hổ cái thế nào cũng về hang, bà ta liền sắm dây dợ rồi đai chịt gọn ghẽ cầm lăm lẳm con dao đi vào rừng. Đến bên hang nằm đợi cho tới khuya mà vẫn không thấy con hổ mẹ về; có lẽ nó đi tìm những con hổ con đã bị bà ta giết.

Đêm ấy là một đêm về giữa tháng chín, bóng trăng sáng tỏ ló qua những từng lá cây thưa. Vào khoảng quá nửa canh hai, bà ta thấy trong hang thơ thẩn đi ra hai con hổ chạy thoát lúc nãy. Bà Mí Nàng nghĩ ra được một ý lập tức chạy ra giết phăng đi rồi vừa trói chặt hai chân sau hai con hổ lại vừa nguyền rủa:

“Mày giết con tao! Mày không trả con tao. Tao cũng giết con mày. Tao lại giết mày nốt”. Nhưng chỉ giết con hổ cái cũng chưa hả giận, bà ta muốn cho trước khi bị giết, hổ mẹ phải trông thấy hổ con chết, mà chết vì tay mình.

Bà ta vừa trói xong hai con hổ con thì chợt nghe thấy những tiếng chen lá dẫm cành đi gần lại. Biết rằng con hổ lớn đã đến bà ta bèn cầm lấy một đầu dây rồi trèo lên một cái cây ở gần.

Trong nẻo đường tối từ chân rừng đi lên, bà ta thấy hai con mắt xanh lè ở giữa những mảnh sáng trăng mập mờ và lay động. Một lát thì thấy cả cái mình vừa dài vừa lớn của con vật. Nó dừng lại một lát dưới những tán lá thấp, đuôi hơi ve vẩy, hai mắt từ từ chớp như úp mở hai ngọn đèn to. Rồi nó lại thong thả bước lên; đi chưa được xa nghe tiếng động đằng sau nó toan quay trở lại. Nhưng xem chừng đã ngửi thấy hơi lạ nên nó đủng đỉnh bước thẳng về hang.

Trên kia người đàn bà Mán đã buộc hẳn mình vào một cành cây to và đã thắt cái dây dài trói hổ vào cái chạc bên cạnh. Con hổ vào hang hình như kinh ngạc lắm. Nó ngoắt ra, trông ngay thấy hai con mình treo lủng lẳng ở đó thì nhe nanh mà gừ. Chợt thấy có bóng người trên cây, con hổ nghe chừng đã hiểu, nên lồng lên và gầm một tiếng cực dữ. Bà mẹ Mí Nàng lấy làm đắc chí lắm, bởi vì bà biết rằng hổ cũng có con, hổ cũng làm mẹ. Con hổ bị giết, mẹ hổ chắc cũng xót thương. Vậy thì cái đau khổ kia bây giờ bà ta gây nên và được trông thấy. Bà ta lại cầm dây dứt mãi khiến cho hai con hổ cứ lay lắt dưới đầu dây. Một tiếng gầm nữa, hai chân con hổ đã quải tới gần tay bà Mí Nàng. Bà ta chém xuống một cái thực nhanh, con hổ tụt xuống rồi lại nhảy lên ngay tức khắc. Một chân trước nó bám được một cành nhỏ, thiếu chút nữa chân kia tát được vào mặt người đàn bà, con dao đã gần văng đi mất, nhưng rắc một cái, cành cây gẫy, con hổ lăn kềnh dưới gốc cây. Bà Mí Nàng đã bắt đầu lo: không ngờ con hổ lại nhảy giỏi được đến thế. Bà ta tưởng rằng nó thấy mình trên cây thì chỉ biết tức tối mà không làm gì được mình. Hay đâu hổ cũng đã nhẹ đã khỏe, lại thêm phần hăng sức vì giận, nếu không leo mau có lẽ thể nào con hổ cũng bám được vào người.

Nhưng bà ta đã trói buộc rất chặt mình vào cành cây từ trước rồi: bây giờ thì không còn tay nào mà cởi ra được nữa. Con hổ cứ chồm lên mãi, mỗi lúc một nguy bách, mỗi lúc một cao thêm. Mặt bà Mí Nàng ba lần bị tay hổ lướt qua, con dao gạt phải những vuốt của nó rít lên những tiếng như sỏi xiết lên sắt. Một lần bà ta nhắm mắt lại bổ xuống một nhát rất dữ. Con hổ vừa lúc tung mình tới bị nhát dao bập vào giữa đầu. Hổ bị choáng hồn, tai cúp lại gầm lên một tiếng như sét nổ. Nó đứng sững lên hai chân dưới, hai chân trên quờ quạng quãng không như muốn ôm lấy người đàn bà. Nhưng bà Mí Nàng vẫn hết sức cẩn thận luôn tay chém xuống. Con hổ tức giận như cuồng dại, nó vừa rống vừa chạy lồng lộn chung quanh đấy, gậm cây, rứt cỏ, cào đất để tìm cách vồ lấy bà già.

Lúc ấy cả một khu rừng như nín hơi. Người làng Khao La thì trên mặt không còn một hột máu. Bảy anh con trai bạo dạn đi dòm dỏ nhà mụ ké lúc đó tuy đã thoát, nhưng vẫn tưởng con hùm tinh sắp đuổi tới nơi. Còn những tiếng gầm dữ dội đêm ấy cũng như những tiếng hú bí mật mấy đêm trước kia thì không ai biết đó là những tiếng hờn giận khóc thương của một người và một vật cùng nặng tình mẫu tử.

Bà già chống nhau với con hổ đã đến gần nửa trống canh không một phút nào ngơi. Những lúc con hổ không nhảy lên, bà ta cũng vẫn cứ luôn tay chém xuống. Dần dần sức đã kiệt, cái lo sợ cũng hiện đến, bà ta chắc rằng mình chết mất, chết mà vẫn chưa báo thù được cho con. Hai mắt đã hoa trông thấy bốn năm cái đầu hổ nó còn chồm lên và không biết bao nhiêu nanh vuốt nó chực đâm vào mặt.

Thần trí chập chờn như say, con dao mấy lần muốn dời ra khỏi cái nắm tay đã thấy bủn rủn, bà Mí Nàng chợt nghĩ đến cái thân cơ khổ, đến cái cảnh thảm hại của hai mẹ con mình: bên tai nghe thấy tiếng con gái khóc than, trong trí thoáng trông thấy lúc thân con gái bị xâu xé, con gái yêu quý bị hổ cướp sống mất, giữa lúc đang vui tươi khôn lớn, khiến cho bà đau khổ rồi đến nỗi nước này. Mặt đương tê tái bỗng nóng bốc lên, vừa lúc con hổ quờ móng đến. Bà rít lên một tiếng quái gở, giáng con dao xuống con hổ bị què mất một chân. Bà già lại lăm lam con dao, quắc mắt nhìn con vật ngã trên cỏ, phun xuống những lời nguyền rủa độc địa tưởng không phải là tiếng người. Dưới đất con hổ đã đứng lên nhe nanh đáp lại. Bà già cầm lấy cái dây trói hai con hổ giật lấy giật để, rồi vừa khóc vừa quát tháo, vừa băm vằm mãi xuống quãng không. Con hổ lại há miệng gầm. Hai mắt ngầu đỏ, hai bên mép vành chởm gai râu, nó thu mình lấy sức nhảy vọt lên bám lấy ngang lưng bà Mí Nàng. Bà già không biết đau nữa, cứ nhè đầu con ác thú mà ghè xuống. Con hổ gào vang lên như vỡ núi song nhất định không buông. Bà già chém bừa đi, vào cả mặt cả vai, cả miệng con hổ. Nó nhô đầu lên để chực ngoạm lấy đầu người đàn bà Mán nhưng chỉ cắn được lưỡi dao. Lúc ấy mặt người với mặt hổ gần nhau cùng ghê gớm như nhau, bốn mắt lồng lộn con ngươi, nhìn nhau trao tráo, lộ ra không biết bao nhiêu cay độc, bao nhiêu hằn học căm hờn lẫn với chút cảm giác bi ai trước khi phải chết. Mẹ Mí Nàng còn sức chém, con hổ còn sức bám lấy lưng bà ta. Dần dần bà ta đuối sức không giơ được dao lên nữa thì con hổ cũng yếu tiếng gào. Đến lúc người đàn bà tắt hơi buông thõng tay xuống thì con hổ vừa hết sức mà rã rời chân ra.

Dưới đám cỏ sắc lá khô đầm đìa những máu, thây con hổ rơi nặng xuống trong một tay còn nắm một mảnh áo trên miếng thịt lưng bà già.

Rút trong tập “Ba hồi kinh dị”

Một chuyện ghê gớm

Phải, thực là chuyện ghê gớm, chuyện dị thường mà ghê gớm nhất là vì có thật, không huyền hồ như những truyện cổ tích yêu quái ta thường nghe kể lại hay thường đọc thấy trong những tập truyền kỳ.

Ông cụ ngồi tiếp chuyện mấy ông khách người làng ngừng lại để rót thêm nước. Trên khuôn mặt rắn rỏi đăm đăm một vẻ trang trọng ưu tư. Hút tàn mồi thuốc lào, uống cạn bát chè tươi, ông hắng giọng rồi lại nói:

Tôi bình sinh đã biết nhiều chuyện kỳ dị mà không hề thấy kinh lạ sợ hãi, vì mình đã biết trước là những điều hoang đường không đáng tin. Nhưng đến câu chuyện này thì lại khác. Chính tôi phải một phen hút chết ở câu chuyện này đây. Các ông ạ, mỗi lần một bóng một mình trong lúc đêm khuya mưa gió sùi sụt, mà nghe thấy tiếng ễnh ương nó ỳ oặc, tiếng ếch nhái nó nghiến răng bốn bề, tôi lại nhớ ngay đến chuyện trước. Bên tai như vang những tiếng người chết nó cười, nó kéo từng đoàn từng lũ đến đầu giường tôi nằm mà tranh nhau nguyền rủa tôi. Cố tình quên cũng không thể được! Tôi đã trải một bước nguy hiểm quá, phải một phen khiếp sợ thái quá, hầu như lạc mất hồn vía, còn sống lại chỉ như để mà nhớ mãi, tâm trí như cải kho tích chứa bao nhiêu điều quái gở đã qua.

Năm Minh Mệnh thứ sáu, tôi hỏng kỳ thi hội lần thứ ba. Bấy giờ tuy mới hăm hai tuổi, nhưng khí khái càng mạnh thì thất vọng càng sâu uất cho phận mình lại càng khinh những tài học non nớt mà gặp vận. Ba kỳ thi lạc đề, nhà lại nghèo thêm sinh ra chán ghét đường công danh, lấy cớ không đủ lực theo đuổi khóa sau này mà coi rẻ việc đèn sách. Nhân vốn tập tành mấy môn võ nghệ, sở đắc về đường quyền kiếm cũng không đến nỗi thiếu kém, nên cái lòng ưa mạo hiểm bốn phương được thể ngày một thêm hào hùng. Tôi bèn quyết chí bỏ làng, viết một bài ca từ gửi cho mấy người trong chỗ thân bằng gọi là đáp lại những lời khuyên can, mà cũng là để từ biệt hẳn cái đời văn chương kinh sử.

Rồi “bán kiên hành lý nhất thân khinh”, cuộc đời giang hồ kể lắm bước gian truân nhưng cũng đem lại cho mình nhiều cái thú đột ngột.

Hồi đó, mấy khúc trường hành của tôi, làm từ ngày còn ham mê đường khoa hoạn vẫn được cái may là gợi hào hứng những bạn tri kỷ không quen biết ở nhiều nơi. Vì thế mà có được những cuộc gặp gỡ thực bất ngờ nhân mới nhận ra rằng mỗi bước đường đi lại khiến mình sợ hãi thay cho cái lúc do dự toan ở lại với nơi quê quán. Mỗi bước đường đi, lòng được quyến luyến thêm một cảnh lạ người mới, trí được phong phú thêm những tư tưởng đằm thắm, những kinh nghiệm không thường.

Nay đó mai đây, khi lưu niên hằng năm ở một miền sơn thôn bình tịch, khi thì ngày ngày lận đận qua những miền thâm u thưa vắng bóng người. Bất cứ ở đâu, dù xa xôi hiểm trở đến đâu cũng mặc, hễ nghe tiếng có bậc ẩn sĩ hay có tay võ nghệ cao siêu thì thế nào cũng phải tìm gặp. Đó là hữu ý mà đến, nhưng cũng có những phen tình cờ. Một lần người ta chỉ lầm đường tôi lạc vào sào huyệt của bọn cường khấu. Ngót nửa năm trời, mình phải làm một hảo hán bất đắc dĩ, qua được phần tai nguy là nhờ có phần quyền thuật đã thêm vững chãi mà trốn được thoát cuộc đời hung bạo ấy, lại là nhờ ở phần mưu trí nhà nho. Kể cái hồi gian hiểm sống chung với bọn cướp rừng này cũng lắm chặng ly kỳ. Nhưng so với câu chuyện dưới đây thì cái tính mệnh của tôi lần trước chỉ như mới vướng phải bụi gai, còn lần sau thực như sa vào cạm ác thú.

Cũng vì cái tiếng là đã đi với kẻ cướp mà tôi không thể ở yên được một chỗ. Người đời đã hay nghi kỵ, lại nhân cái tính tình phóng lãng của mình không hợp với thói lệ thường ngày, ác cảm dễ sinh, rồi do thế, một lời đắc ý ngang tàng hóa thành những lời võng ngạo. Tôi đang ngồi dạy lũ trẻ ở nhà một người riêng có bụng mến mình thì được tin có trát nã gấp. Một ông bạn tâm phúc đến bảo mình rằng những bài ca từ của tôi súc tích nhưng ý phạm thượng, mà cái hình trạng phản nghịch đã lộ rõ ở thái độ của tôi, ở cuộc đời tôi, nhất là ở hồi gần đây tôi “đã từng giao thông với quân giặc cướp”. Tôi biết trước, một án cữu như thế chỉ có một hình pháp, mà những người đã kết án, tôi lại biết là một vài người đồng học với tôi trước kia. Tìm cách minh oan tức là làm việc tối vô ích. Tôi chỉ còn một kế là lại đi. Bước giang hồ chỉ như mở rộng thêm, xa thêm. Chỉ khác là cuộc đời lữ thứ của tôi, từ đó lại canh cánh một nghĩa nữa là đời phóng trục. Mình tự phóng trục mình, mà đi là không hẹn ngày về.

Tôi theo đường tắt qua Lạng Giang. Ở Yên Thế ít ngày, rồi đi ngược sâu mãi vào trong cảnh sơn lâm, đổi họ đổi tên, nhưng tính danh dù để nguyên cũng vô hại. Bọn Nùng, Thổ man dã ở các nơi tôi đến trú ngụ là những người chất phác, tôi có đem hết nỗi bất hạnh của mình nói thực ra họ cũng vẫn quý mình như lúc họ mới biết.

Sống chung với người sơn dã, quen phong tục, thuộc ngôn ngữ, tôi dần dần cũng thấy tâm tư đơn giản như họ, rồi thành yêu chung trọng lẫn nhau tôi nhiều lúc coi mình là người đường rừng mà vẫn lấy làm vui. Trước còn ở miền dưới cũng thừa thấy yên thân. Nhưng lâu ngày quên cả chuyện trước, tính thích xông pha lại đến giục giã, tôi cứ lần hồi đi ngược mãi lên. Mỗi bước như một kích thích thêm lòng hiếu kỳ. Trong cái phong thổ hầm thiêng nước độc, còn chứa chất không biết bao nhiêu cái dị thường lẩn quẩn ở bóng tối vòm cây, ở giải nước sâu váng xanh, ở những trận gió ồn ào như có rất nhiều thanh âm gở lạ. Tiếng chim kêu cũng phảng phất thành những lời nói. Những tên đất, tên làng là những tên, những tiếng khác tai. Mỗi cảnh vật đều có một sự tích oan khiên, hay khủng khiếp. Tôi từng nghe tiếng ngọn suối ban đêm như than khóc, người Thổ nói là tiếng kêu khóc của đôi trai gái bị hại ở lưng bờ. Hang núi, mạch rừng, thác, đèo... mỗi nơi có một tên phát tích ở một chuyện thảm khốc hay rùng rợn. Bóng oan khuất như gây ra các sự kinh hoàng, người ta dù cứng bóng vía đến đâu cũng không thể không thấy một thứ ghê rợn lạnh lùng rất khó nói. Đâu đâu cũng toàn là những chuyên kinh người hết. Nào chuyện ma gà, chuyện hùm tinh, chuyện lợn biết hát, chuyện thần rắn, chuyện Mán làm mắm trẻ con... Họ thuật lại cho tôi nghe như những việc hiển nhiên, sự khủng khiếp lộ ra trên nét mặt kính cẩn đạng đột.

*

Chỗ tôi ở lâu nhất là một làng ở phía bắc trấn Lạng Sơn, tên gọi là Bản Khau, hay, là Khau Gié. Tiếng là một làng song chỉ lác đác mươi nóc nhà tranh, hoặc dựng cao trên sàn, hoặc lèn đất làm tường. Dân cư, phần lớn là người Nùng, sinh nhai bằng nghề trồng hồi với nghề săn bắn. Người Nùng ở đấy săn rất giỏi, cung nỏ bách phát bách trúng, lại riêng có tài dùng hỏa mai học được chẳng biết ở một người Tàu nào họ truyền dạy cho đã lâu đời. Những cuộc đi săn của họ, họ coi trọng lắm; rất nhiều nguy hiểm mà cũng cực kỳ vui. Tôi ở với họ liền ba bốn năm rất lấy làm vừa lòng, không muốn đi nơi khác nữa. Khi nào săn ở rừng xa, rừng dữ, thì gần hết cả làng cùng đi.

Lần ấy định săn ở tận cùng Lùng Sa, Mùng Sáy, gần miền cương giới. Sáng hôm đi, bạn săn dậy thực sớm. Hơn hai chục đàn ông tay lao tay nỏ, gậy gộc khí giới đủ mọi thứ, cơm nước xong, mỗi người đèo thêm một nải gạo hoặc lương khô đủ dùng trong mười mấy ngày. Đàn bà con trẻ với những ông cụ già tuổi quá thì sắm sửa giúp những vật dụng lặt vặt. Đầu canh tư thì lên đường. Bọn ở lại ra tận đầu làng để tiễn chân. Gặp những dịp này, tôi là người hăm hở bận rộn hơn hết, vì mỗi năm họ mới đi như thế có một lần, vào hồi cuối thu.

Từ canh tư hôm trước, đi không nghỉ. Đường càng gần tới càng gập ghềnh. Phải qua những nguồn suối dềnh lên bất ngờ, có khi phải chịu ngừng lại lâu, ngồi đợi cho nước rút xuống. Qua canh năm đêm hôm sau thì đã trông thấy Lùng Sa. Sương sớm còn đặc. Giải rừng lớn, hình bóng còn chập chờn. Tuy mô núi không cao, xem ra chỉ ấp thoai thoải giữa những đồi trụi mống trọc kỳ khu hơn nhiều. Nhưng cứ nhìn cái dáng lù đen của những vòm già lá kết cũng đủ đoán biết cái tính ác dữ không phải là ngoa truyền. Lùng Sa có tiếng là hoang hiểm. Thực là một cảnh săn tốt đối với con nhà đi săn.

Chúng tôi không ai tưởng đến nghỉ ngơi, thẳng bước vào tìm chỗ làm chòi. Trú ngụ ở đâu khác cũng làm cho dân làng quanh quất đó kinh nghi. Đi toán đông thì chỉ ăn ngủ ngay trong rừng là tiện.

Tìm được một khoảng vừa ý, từ cửa rừng đi vào không xa lắm, chúng tôi đang chia nhau người đẵn cây, người kéo lá, thì một anh trong bọn bỗng reo lên, gọi tất cả chạy đến một đám cây thấp bùm tum. Phát cành rứt rợ vào xem, thì ra đấy là một tòa cổ miếu. Chung quanh miếu có tường quây, nhưng tường phần lớn sập đổ gần tới móng. Mái cũng vậy, bẹp trĩu dưới những đợt lá nặng, chỉ ở một góc bên trong còn lại dấu vết mấy chiếc rầm mục với vài ba miếng ngói đen sì. Ánh sáng qua những tán cây soi xuống tha hồ. Trước miếu có một khoảng sân khá rộng gạch đã nứt vỡ hay bật chồi lên vì rễ cây to, mà hầu hết bị cỏ lá với đất rêu phủ kín khắp mặt. Không còn cảnh nào có vẻ hoang phế hơn nữa. Cả cái bệ chính giữa cũng lở nứt, có chỗ như bị xô, bị húc nhiều lần. Hương ngói lạnh lẽo hẳn đã lâu lắm rồi, sự linh thiêng có lẽ không bằng một cái chòi lá đơn sơ dựng ở một quãng nách đèo hay hốc suối. Nhưng tôi vẫn lấy làm nghĩ ngợi mãi trong lúc bọn người Nùng sạo sục mà chẳng tìm thấy gì thêm. Miếu tuy bỏ vắng nhưng cũng đã phụng sự một uy quyền nào ở đây. Không thì cũng đã yên ủi một vong hồn nào bị oan khuất. Cái nơi nguy hiểm ghê gớm là cảnh rừng này, một thuở xa xăm nào đó, cũng đã từng có vết chân người. Mấy chữ đá thảo còn sót lại ở những chỗ trước kia là cột viết câu đối. Tôi không thể nào đọc rõ: hẳn chữ với màu mực đã mòn lẫn mất hết. Một mảnh đại tự mập mờ không đủ cho minh đoán được là chữ “Hải” hay là chữ “Mai”.

Có người bàn nên dùng chỗ này, đắp đất chất gạch cho cao tường thêm, để thay cho cái chỗ ở bằng chòi định làm khi trước. Ý kiến ấy được mọi người khen hay. Chúng tôi liền đem chỗ cây, lá mây, nứa, đã kiếm được chất cả lại trước khu miếu. Rồi lèn vách, trồng cột, lợp gồi, đan liếp, không mấy chốc dựng thành cái nhà một gian rộng rãi, có tường dầy, có cửa phên chắc chắn, vừa làm nơi ăn chốn ngủ, vừa có chỗ chứa sấy vật săn được, tiện lợi không đâu bằng. Làm xong nhà thì ống cơm nếp lùi cũng vừa chín. Chúng tôi ngả lưng ra ăn uống no nê rồi vun thêm lá khô bên ngoài giải lên đất mà nghỉ ngơi.

Đi đường xa, lại vừa lợp lát, tuy có mệt nhưng tôi cũng không muốn ngủ. Mình là người hay thẩn thơ: Gặp cảnh lạ cảnh mới bao giờ cũng thấy lòng bồi hồi náo nức. Tôi ra cửa ngồi đó một mình. Cái khoảng phát quang chạy ngang trước mắt như một con đường, mà bên kia đường chằng chịt, uốn éo chùm rủ cả một phần rừng xanh lúc đó như sấn lại trước mặt. Tôi vui mắt mải xem bầy khỉ đu nhảy trên nhữmg dây võng cành lá gần đó. Một vài con men xuống bám ở những chạc thấp nhất, nhòm nhòm nghé nghé vào gian nhà mới của chúng tôi ra vẻ hết sức ngạc nhiên.

Bỗng có tiếng lạ tai. Tôi giật mình. Cùng một lúc với tiếng sột soạt lùm cây rậm trước cửa rung động một vẻ khác thường. Hình như có một con vật đang rẽ lá lách cành mà tiến đến. Tôi sửng sốt, đứng phắt dậy, quay vào trong lều. Các bạn săn ngủ ngon giấc quá. Tôi không đánh thức ai vội, vớ lấy một cái nỏ, chĩa vào bụm cây một hai chỉ đợi bắn. Thì bụm cây lại thấy yên, không còn run rẩy nữa. Nhưng có tiếng chân rẽ về phía khác. Bước chân mau nhẹ, dẫm lên một lối chừng quang phắng nhất, mà nghe mỗi lúc một xa dần. Tôi đoán có lẽ không phải là thú dữ, vì nếu phải nó tất đánh hơi thấy, đã xông ra hại mình rồi. Nghĩ thế nên vững tâm hơn, tôi liền rẽ ngang, chạy theo một lối nhỏ cây thưa, cứ tiếng chân dẫm lá của con vật làm chừng mà đuổi nó. Tôi hết sức đuổi, cố tình tìm bắn cho bằng được. Được chừng quá trăm bộ đến một chỗ ngoặt, cây chen mau, nhưng lối không dốc, tôi sấn bước nhảy cho chóng tới gần con vật. Thoáng một cái, trong một vùng quanh có ánh nắng ló xuống tận cổ tôi thấy bóng một người. Không thể trông rõ mặt được; tuy cách nhau chỉ vài chục bước nhưtig hắn lẩn nhanh lắm, như biến vào đám cây lá, mà từ lúc ấy không để lại một tăm hơi nào. Chỉ kịp nhận ra là người ấy to béo, quần áo màu chàm bạc, đầu lại có đuôi sam. Chắc hẳn là một người Tàu. Nhưng người Tàu ấy là hạng người nào, ở đâu đến đây, mà đến cái chốn nguy hiểm này làm gì? Bảo là đi săn chăng? Người Tàu họ không săn ở đây. Mà có chăng nữa tất phải đi thành đoàn, thành bọn; mấy ai dám xông pha vào một mình. Điều kỳ dị hơn nữa là sao hắn lại có vẻ lẩn lút, thấy tôi lại trốn chạy như một kẻ gian đồ? Hay có lẽ hắn quả là một tên cường bạo? Một tội nhân vượt ngục hay một kẻ vong mệnh bị truy tầm tróc nã gì đây chăng?

Tôi vừa quay trở về vừa nghĩ bụng thế, thỉnh thoảng vẫn trợn trợn ngoái lại đằng sau. Về nhà, ngồi vẩn vơ mãi cũng không đoán ra người khách ban nãy là người thế nào. Bọn người Nùng ngủ dậy, thấy tôi vẫn tư lự. Tôi đem việc vừa rồi kể lại rành mạch cho họ nghe. Không ai tin. Họ bảo tôi rằng không có gì đâu, không đời nào có người dám táo tợn một mình vào trong nơi ghê sợ này như thế cả. Tôi nói là chính mắt tôi trông thấy người khách, tôi lại cầm chính cái nỏ kia đuổi theo hắn. Họ vẫn một mực không chịu tin. Mà như thế không phải để chọc tức tôi. Họ quả quyết bảo không thể có người nào dám cả gan vào rừng này được. Người nhiều tuổi nhất trong bọn phân giải câu chuyện tôi như thế này: cái người mà tôi trông thấy, không phải là người. Hẳn trước đây có anh khách nào đó, vì không biết mà đi qua rừng một mình rồi bỏ mạng; vong hồn không tiêu tan được, vẫn lẩn quất ở đây, rồi bây giờ làm ma rừng, hiện lên để trêu tôi đó. Rồi mọi người thành thực tin, khăng khăng tin là thế. “Phải, phải, ma khách đấy. Ở trong rừng thì nhiều ma lắm, nhưng đừng sợ nó thì nó sợ mình”. Ý nghĩ của họ thật đơn giản quá. Tất nhiên tôi không thể cũng tin như họ được, nhưng cũng không cố biện bạch gì, dẹp chuyện đó lại cũng như họ thản nhiên gạt hẳn ra ngoài tâm trí. Đến lúc sửa soạn khí giới, bàn tính cuộc săn đêm thì tôi cũng không còn chút băn khoăn nào nữa.

Chúng tôi ở đó được ba hôm, ngày thì ngủ, đêm lại đóng cửa kéo nhau khua động vây đón rộn cả mấy khu rừng. Săn có hai đêm mà được cả một hổ, con đực to lớn lạ thường, hai con hoãng, ba con nai, một con hươu nhung. Hổ thì chỉ lột da, dóc cốt. Những con khác mới giữ lấy cả thịt phần lớn phơi sấy, hoặc ướp; còn thì nướng ăn tại trận cùng với lương thực đem theo từ nhà. Vụ săn xem chừng còn mắn nhiều; cuộc xông pha càng nguy hiểm càng thấy có hứng thú. Mọi người đều lấy làm vui vẻ sốt sắng, thường cười nói bảo nhau: “Giời giáng thiên tai cho rừng này nên sai toán thiên tướng chúng ta xuống sát phạt một mẻ”.

Chiều ngày thứ ba tôi thức dậy trước nhất. Tôi mở cửa vừa bước chân ra khỏi miếu vụt đã thấy bóng người khách kỳ dị hôm lâu. Lần này thì tôi trông thấy mặt và nửa người phía trên của hắn. Khuôn mặt to phình, nhô ra giữa cụm lá lặng lẽ mà nham hiểm, lại như vừa ngạc nhiên vừa căm tức. Trong có giây lát mà hình ảnh ấy như in mãi trong tâm trí tôi. Nhất là hai con mắt sếch của hắn tuy nhỏ mà sáng lạ, sắc lạ, long lanh một vẻ độc ác ghê người. Thấy tôi, chừng sững sờ hắn chưa kịp lủi. Rồi tức khắc, hắn thụt vào, mau như biến. Thoáng cái, đã mất hút y như là không có bao giờ! Tự nhiên cơn giận bừng bừng nổi, tôi trở vào, vớ lấy cái cung sắt lớn, miết đuổi theo. Tôi không cần gọi bọn người Nùng, rắp tâm thề trông thấy thì dù là người khách hay là ma khách tôi cũng bắn chết.

Tôi sấn chạy vào lối hắn lủi, nhảy những bước rất táo tợn qua những đám gai sắc. Được một chặp, hết sức khẩn bách, tôi đã trông thấy hắn chỉ cách tôi độ dăm chục bộ. Sợ hắn sớm lách vào đám rậm mất tôi không đợi gần đích vừa chạy vừa giương cung. Khoan bước để hất một cành lá đâm ngang thì thằng khách đang khom người. Nó tìm cách lẩn đây! Tôi liền phóng ngay phát tên ra. Rắc rắc! Mấy tiếng cành gẫy cùng với tiếng lá xô. Mười phần chắc bắn trúng cả mười, nhưng trông lên thằng khách đã đâu mất. Rồi ngay lúc ấy, từ cái phía sột soạt ấy, một vật loáng dài như một thân cây quẫy cựa trong khoảnh vòm tối tranh sáng. Tôi nhận ngay ra là con trăn! Một thứ trăn lớn nhất, khỏe nhất! Nó lẳng lặng mà tiến thẳng lại trước mặt tôi chậm chạp, lừ lừ lại có vẻ thản nhiên, nhưng quả thực là ghê gớm! Tôi biết cái nguy hại cấp thiết đến mức nào rồi. Phát tên vừa buông đã thành hư vô. Rút bắn phát nữa tôi lại thấy trật đích, mà trật một quãng xa như người bắn vụng! Trong lúc đó con trăn vươn lên một chặng đáng sợ. Tôi vội càng quay đầu chạy. Con trăn lặng lẽ trườn theo. Gần về đến khu miếu tôi hét rất lớn để kêu gọi bạn săn. Họ đã ngủ dậy cả. Nghe tiếng tôi, một vài người nhanh chân xông ra trước. Con trăn coi như không thấy ai. Nó cứ tôi đuổi mãi. Sau, tất cả bọn giáo mác gậy gộc ồ cả ra, kẻ sỉa người nện nó mới quẫy ra chạy. Con trăn khỏe mà lại dai đòn một cách quái lạ. Suýt nữa nó quấn được mấy người lúc nó vượt qua cửa miếu. Tuy bị thương nhiều vết nặng mà nó còn bắt được chúng tôi phải đuổi xa đến mấy trăm bộ nữa mới chịu nằm im. Con trăn chết rồi, hai mắt vẫn mở như sống.

Bọn người Nùng hỏi tôi sao đi ra sớm thế, mà đi xa trong rừng sao không gọi ai cùng đi? Tôi thuật chuyện đuổi thằng khách cho họ nghe. Họ cười ồ cả lên. Tôi ngạc nhiên, họ lại càng cười to. Rồi ôn tồn phân giải cho tôi biết rằng; “Nó là ma đấy, thằng khách là ma rừng đấy sao lại đuổi bắn nó? Bây giờ thì nó đây rồi; con ma ấy đây rồi!”

Vùct nói, họ vừa trỏ vào con trăn, vỗ tay lên vai tôi để yên ủi tôi. “Con ma ấy mới nhập vào con này bây giờ con này nó chết, con ma nó cũng chết”.

Câu nói của họ rất thành thực có một giọng quả quyết rất chắc chắn. Tôi cũng thấy sờn lòng, thế gian quả có những sự biến ảo hiển nhiên đến thế được sao? Thằng khách kia chỉ là một hình ma! Mà con ma lại hóa ra con trăn bị giết chết? Thực là kỳ quái hơn cả mọi điều kỳ quái! Tôi nhìn xuống. Hai mắt con vật mở như vẫn nhìn tôi trừng trừng! Tôi rợn người lên một lượt, sợ hãi tràn lạnh khắp thịt da. “Có lẽ là ma quái thực cũng nên. Lúc trước rõ ràng phát tên của mình nhằm trúng thằng khách. Thoát được tất phải do một sự may mắn kỳ diệu lắm lắm, không thì tất phải do một sức huyền bí nào! Vậy mà nó thoát khỏi, nó biến mất, rồi tức thì thấy tiến ra cái quái vật này”. Tôi vốn không tin ma quỷ mà lúc đó cũng phải nhận rằng yêu dị chưa hẳn là chuyện hoang đường.

Nhưng dù sao tôi cũng qua cơn hiểm nguy rồi. Người khách kia dù có phải là giống hung thần nào tôi cũng không còn quan tâm nữa. Người Nùng nói có lý lắm, đuổi bắt nó làm gì. Tự dưng chúng nó có làm hại được mình bao giờ đâu?

Phải đến ba bốn người mới lôi cái xác con trăn được dễ dàng. Ai nấy gật gù bảo nó lắm mỡ, ép ra thắp đèn thì tốt không gì hơn; da nó là thứ bịt chuôi dao rừng vừa bền vừa quý. Tôi đi đầu đoàn. Đến quãng rẽ trông thấy được cửa miếu tôi hốt nhiên kêu lớn tiếng kinh ngạc. Tôi thoáng thấy thằng khách! Nó vừa lẻn vào trong lều.

Tôi hét ầm lên bảo cho các bạn săn biết.

Bọn người Nùng vẫn chưa nghe ra, đủng đỉnh hỏi:

- Lại cái gì đấy?

- Thằng khách!

- Thằng khách nào?

- Thằng khách chứ còn thằng khách nào!

- Nhưng thằng khách làm sao?

- Nó vừa vào trong miếu.

Tôi bảo họ bỏ con trăn đấy, cùng xông vào với tôi. Nhưng không một ai vội vàng. Họ lại còn ra ý không tin.

- Không có gì đâu mà, không có gì đau, anh trông lầm đấy.

Tôi phải nhắc đi nhắc lại:

- Chính nó tôi trông thấy chính nó! Không thể sai được!

Rồi săm săm tôi chạy về! Chợt chột dạ. Tôi đứng lại giục họ vẫn chùng chình vừa lắc đầu vừa gàn:

- Đã bảo không có gì mà, sợ gì mới được chứ?

Tôi bực dọc quá phát gắt lên:

- Thì cứ vào với tôi xem nào! Chẳng lẽ tôi lại mờ quáng đến thế?

Mãi lúc ấy họ mới miễn cưỡng mà theo tôi.

Tuy để chậm mất một quãng khá lâu, nhưng lúc đó tôi vẫn không rời mắt khỏi cửa miếu. Chiều đã mát bóng, nhưng đến một con chuột ra vào bấy giờ tôi cũng thấy được rõ. Thằng khách chắc chắn vẫn còn trong lều.

Tôi vung thanh đao giật ở tay một người để xông lên trước, quyết bắt, mà thế nào cũng bắt được thằng khách cho bọn người Nùng hết nói là ma.

Tôi bước vào. Bọn người Nùng cũng đã ồ tới chật cả cửa. Trong lều im phăng phắc. Tôi quắc mắt nhìn đến cùng kẽ mọi xó tối. Kỳ dị thật. Không thấy qua bóng vết thằng khách đâu.

Đánh đuốc lên xem nào.

Lửa sáng soi cũng chẳng thấy gì khác. Cũng không có gì thay đổi, đồ vật mọi chỗ vẫn y nguyên. Trong lều còn một vài chỗ dấp lá khô, nhưng đống tháp, bới tìm chi thêm việc. Tường vách làm để phòng ngừa thú rừng, một con mèo cũng không lọt được, mà lúc đó vẫn kín không một dấu đào khoét nào qua. Vậy thì thằng khách trốn đằng nào? Chỉ có lối cửa thì tôi đã để ý chăm chú lắm rồi, không thể bảo nó ra khỏi mà tôi không trông thấy được!

Tôi kinh ngạc hết sức. Nhớ lại thì cái bóng thằng khách lúc lẻn vào vẫn rõ rệt, cái mình áo chàm, cái đuôi sam đen, cả đôi ống quần nịt quấn của nó, nhất nhất tôi thấy rành rẽ. Cả cái vẻ lén lút của nó nữa. Thế mà rồi thành hư ảo, mà sự biến ảo chỉ có tôi trông thấy, hình như chỉ ngạo nạt riêng một mình tôi. Các bạn săn thì không ai ngẫm nghĩ lâu. Họ cứ tin theo ý họ vẫn tin, một mực bảo tôi rằng “Chỉ là ma đấy thôi đừng sợ nó, ma không bao giờ làm chết những người ngay thẳng hiền lành”. Tôi không hiểu nên cho thế nào là phải, tâm trí như rối loạn, vừa hoảng sợ ngấm ngầm, vừa tức giận, bó gối ngồi bực dọc một xó, mặc những người Nùng này hì hục lột da con trăn.

Họ thấy tôi chưa từng băn khoăn quá như thế bao giờ, thấy một người gan dạ vui vẻ như tôi mà bỗng có thái độ đổi khác đến thế, họ cũng phải sinh ngờ vực, cũng phải hiểu rằng những điều tôi trông thấy tất hẳn là những điều phi thường. Sau cùng người trưởng đoàn cho là tôi gặp bóng thần rừng, hay chính thần miếu. Vị thần khu cổ miếu này bị bọn tôi đến quấy rối sự yên tĩnh, hiển hiện lên để tỏ ý giận dữ; đã thế thì chỉ có việc cúng bái là yên ngay. Họ vừa sửng sốt vừa trầm trồ như mới vỡ ra một lẽ tất nhiên không thể nào khác được. Trong bọn có người thường nhật làm thầy “mo” cho cái ý vừa rồi phải đem làm ngay. Hắn liền đốt lửa giữa lều, gõ thanh la, niệm thần chú để tạ ông “thẻng”, ông “thần” ở đầy. “Xin ông ‘thẻng’ ông ‘thần’ ở đây cho phép bọn người đi săn giết nhiều hổ, nó vẫn làm hại con cháu người dân người làng, nó vẫn ăn trộm con lợn, con bò của người dân người làng, xin ông đừng giận người đi săn làm chi nữa”.

Cầu cúng xong, thế là yên chuyện. Bọn họ lại nói đến cuộc săn, không ai nhắc đến người khách hay ông thẻng thần nữa. Gặp phải sự cản trở cho công việc họ thì họ giết phắt kẻ làm trở ngại kia đi. Nếu lại là thần thánh hay tà ma xui nên thì họ cầu đảo, phù chú. “Đói khát thì ăn thì uống, đau ốm thì thuốc thì bùa”. Sự cầu cúng họ tin có hiệu lực vững vàng như kết quả của mọi sự thiêu thực. Phần tôi, tôi không thể dễ dãi yên lòng được như thế. Tuy không lộ vẻ lo ngại nhiều, vì không muốn họ cho mình quá nhút nhát, song tôi thành ra ít nói, lúc nào cũng trầm ngâm cố giải những điều kỳ quặc nọ. Cả những lúc săn bắn trong rừng, tôi cũng không thể quên đi được, mỗi chốc lại tưởng chừng sắp thấy một sự lạ nào xảy ra.

Chiều tối hôm sau, nhân phấn khởi về số vật săn khá nhiều trong đêm vừa qua, lại hăm hở sửa soạn cuộc săn vây lớn đêm sắp tới, mọi người ăn uống một bữa ồn ào vui vẻ khác thường. Họ rót cho tôi một gáo rượu đầy, bông đùa mấy câu về những chuyện ma rừng, lại ép tôi uống thực nhiều để thêm vững trí. Tôi không hay rượu, nhưng bữa này lây vui, rượu cẩm ngon một hương vị riêng, tôi cũng sẵn lòng cười nói như thường. Tâm trí nhẹ hẳn đi; những việc quái dị, những điều lo ngại không còn gì quan trọng mấy nữa, mình lại tự nhủ: ừ, tội gì mà thắc mắc. Mình là người chính trực không làm hại ai, không có gì tà khuất trong lòng, thế thì dù có những loài yêu quỷ hung bạo thật hăng nữa, chúng nó đã dám làm gì được mình. Chuyện nói bữa đó nhiều câu thực hào hứng, rượu uống cũng hăng hái, lúc sực nhớ đến cái hại quá chén, biết nghĩ đến sự nên ngừng lại để khỏi phải bỏ cuộc săn, thì đã say mất rồi. Tôi đứng lên được nhưng bước đi cố gắng cũng không giữ nổi thăng bằng, ăn được chút nào thì chỉ chực những nôn ra hết. Một người bạn săn phải đỡ lấy tôi. Mấy người khác phải dọn vội lấy một góc kín rồi cùng vực tôi đến, đặt nằm yên đấy. Tôi mơ hồ thấy mấy bộ mặt cười cợt hiền lành cúi xuống, rồi từng khoảng ánh lửa trong lều đổi chỗ bước chân của bạn săn nhẹ nhõm với những tiếng trò chuyện như thấp xuống, như thì thào!

Tôi ngủ một giấc thẳng cẳng không biết được bao lâu. Lúc thức dậy, bàng hoàng nhưng tỉnh ngay tức khắc. Chừng đã khuya lắm. Trong lều tối như bưng. Bấy giờ hơi rượu đã tan hết. Sờ quanh mình thì biết là đang đè lên đám lá khô. Trên bụng đắp một manh chiếu cói. Nằm rốn một lúc nhìn đến rức mắt cũng không biết được là đang ở khoảng nào, cũng không rõ cửa ở phía nào. Bạn săn có lẽ đi đã lâu lắm. Thử cố nghe xem có thấy tiếng tù và hay tiếng thanh la đưa vọng lại không. Tịnh không. Bầu tối nghịt đen. Tiếng rừng đêm cũng như nhỏ xuống mãi. Trong lòng tôi tự nhiên thấy ghê sợ quá; mình như bị bõ vào chốn ngục sâu lạnh lẽo kín mít trong đó đầy những sức âm u quái gở, không mong có ai ngó ngàng cứu vớt mình. Tôi lại nhớ ngay đến thằng khách, nhớ đến con trăn lớn, nhớ hết các việc dị kỳ mấy hôm vừa qua. Nghĩ cứ giận bọn người Nùng sao nỡ để tôi trơ trọi chốn này. Chắc hẳn tôi say quá họ biết không thể đi săn được, đành để tôi ngủ yên ở nhà. Nhưng họ có ngờ đâu là tôi không thể yên tâm được, đối với những điều xảy ra kia, tôi có dửng dưng được như họ đâu?

Có tiếng động khác lại.

Bên ngoài, những bước chân như đang tiến lại. Tôi lắng nghe. Không thể lầm được. Tiếng chân bước đều thong thả, mà như quen đi trên đường lối gần đấy. Nhưng khi gần tới chỗ mà tôi đã nhận ra là phía cửa thì bước đi lại ra chiều dè giữ rón rén. Loáng thoáng có ánh lửa đuốc. Vì thế tôi mới nhận được phương hướng cùng với chỗ mình vẫn còn nằm. Bước đi càng thêm nương nhẹ, có vẻ nghe ngóng, lá khô bên ngoài bị xéo dị xuống mà tiếng nghe vẫn êm. Rồi im hẳn. Lửa đuốc như sáng to hơn. Một tiếng cọt kẹt từ từ mở cửa phên. Một bó đuốc đưa vào cùng một cánh tay áo chàm, rồi cả một người lách vào. Tôi nhận được mặt ngay:

Chính là thằng khách!

Tôi tái hẳn người đi. Mép chiếu đã kéo lên tới gần mắt, tôi cố thu mình lại, mong cho nó không biết trong này có người. Cũng may, bấy giờ tôi nằm ở một góc miếu phía trong cùng, nơi xếp những lương khô, mình khuất sau mấy nải gạo mà bọn người Nùng kéo ra có lẽ để dọn cho tôi được chỗ kín gió mà sạch sẽ cao ráo nhất. Từ góc đó, tôi có thể trông qua những quãng hở để xem cử động của thằng khách mà nó thì khó thấy được tôi.

Thằng khách giơ bó đuốc nhựa lên, nhìn khắp lều một lượt, xem chiều yên trí rằng bọn đi săn thực không còn một ai ở nhà. Tuy vậy, lúc nào nó cũng vẫn có vẻ giữ gìn, đề phòng, hai mắt sắc, nhanh như lửa, liếc đây liếc đó; mà tai thì lúc nào cũng như lắng nghe. Nó bước lên một bước, ngoảnh nhìn ra cửa một cái, cúi xuống cắm bó đuốc ở một kẽ gạch, rồi rút ở lưng ra một con dao rừng lớn, nhìn thẳng về phía tôi. Trống ngực tôi đánh mạnh rất dữ! Có lẽ nó nghe tiếng mất. Nó cứ nhìn về phía tôi mãi, nhất định không rời mắt đi đâu. Nó nghĩ ngợi, như còn lưỡng lự nghi ngờ một lát, rồi thong thả bước lại góc miếu, lôi một nải gạo áp tường bê lên rồi vứt lên người tôi. Tôi phải hết sức nhịn mới khỏi kêu. Hai nải gạo nữa lại đè lên tôi, một ở chính giữa bụng, một ở dưới đầu gối. Dễ thường nó giữ cho tôi không dậy được chắc. Tôi vừa nghĩ thế thì nó đã nhặt con dao lên ướm, trỏ cái mũi vừa sắc vừa nhọn vào cạnh sườn tôi. Tôi không còn hồn vía nào. Toan vùng chạy nhưng chân tay lại bị bó ép trong mảnh chiếu dưới ba nải gạo nặng, thì con dao đã cắm xuống cách đùi tôi chỉ độ một gang. Thằng khách cúi khom người mặt nó sát gần với mình tôi, đang lúi húi vun những lá khô đất vụn mới rấp tại chỗ ấy. Nó chưa biết có tôi ở đó cũng là một sự lạ. Cái khăn chàm quấn trên đầu tôi tuy sổ ra nhưng búi tóc tuột xuống, thò ra ngoài mép chiếu khá nhiều. Hay nó biết mà làm như không? Tôi thực khổ sở vì điều ngờ vực ấy. Nhưng có lẽ ánh đuốc xa, nó lại sấp bóng, mà những áo tơi, bao tải thì hỗn độn trong góc miếu, vì thế mà tôi chưa bị lộ diện cũng nên. Tôi nhíp mắt nhìn xuôi xuống xem nó làm gì thì cái chuôi dao đang bị hai tay nó ấn xiêu về phía lòng nó; nó đang bẩy một gì ở dưới đất. Tôi không phải chú ý lâu đã thấy chồi lên một phiến gạch lớn, dầy lắm, vuông mà to gấp hai ba chiếc bàn cờ. Tiếng động chạm lúc thằng khách lôi nhích phiến gạch, nghe có âm vang khác lạ. Tôi nhận ra đó là nắp đậy của một cái hầm đào.

Người tôi mỗi lúc một cứng ra như gỗ, hết sức ghìm giữ hơi thở, vì để nó biết thì chỉ một nhát dao kia là uổng đời. Lúc đó nó có còn mải chưa để ý, nhưng lát nữa nó đem bó đuốc lại soi xuống hầm, mà tôi thì nằm sờ sờ ra đấy, dưới ánh sáng rõ, thì thoát sao cho khỏi đôi mắt sáng như hai mũi gươm kia!

Thằng khách tra dao vào vỏ, nâng phiến gạch nặng lớn như thế mà coi ra vẻ rất nhẹ nhàng. Lúc nó kéo hẳn sang một bên miệng hầm thì bỗng thình lình cái nải gạo trên bụng tôi lăn ngay xuống. Cổ tôi tắc lại vì sợ. Lần này thì hẳn nó biết. Nhưng nó vô tình. Nó cho là việc tự nhiên lúc xê dịch phiến gạch vừa rồi, nên lấy chân ấn hai nải gạo còn lại trên người tôi vào quá phía trong. Có lẽ lúc ấy cả người tôi cũng chỉ là một bọc lương hay một bó chiếu gì đó. Nó hắng giọng khạc nhổ một cái rồi vừa lẩm bẩm nói vừa bước ra phía cửa phên. Cửa vẫn chỉ mở hé. Nó mở rộng thêm chút nữa, đến bên toan nhổ bó đuốc, nhưng sau ra khỏi lều tay không. Tôi dè chừng nó còn định mang xuống hầm một vật gì nữa.

Tôi liền hất chiếu vùng dậy. Phải lợi dụng cái khoảnh khắc thằng khách vắng mặt ở đấy. Chưa kịp có mưu kế gì, tôi nhảy một bước đến bên vách, hẵng nhấc lấy cung tên treo ở tầm tay. Trông trước trông sau, không có một chỗ nào khả dĩ ẩn được kín đáo, thì tiếng lá khô bên ngoài đã lạo xạo. Túng thế, tôi thấy chỉ còn cách trốn xuống ngay dưới hầm. Cái tiếng nải gạo rơi xuống đó lúc trước, nghe gần lắm, hầm tất cũng chẳng sâu bao nhiêu. Tôi bèn lẹ chân nhảy xuống. Trong trí bây giờ đã tính sẵn: nếu không tìm được chỗ nào khuất, nếu thằng khách xuống hầm còn có thể vớ được tôi, thì thừa lúc anh chàng bất ngờ, cắm ngay cho mấy mũi tên sắt này vào gáy là rảnh chuyện.

Chân tôi chạm tới đất thì vừa vặn ngồi lên nải gạo lăn xuống vừa rồi. Đất dưới chân ẩm, nhưng không mềm nhẽo. Hầm tối như hũ nút. Quờ tay sờ soạng chỉ thấy quãng không đen ngòm. Trông lên, chếch phía trên đầu là cái khung vuông, ánh sáng đổ mờ mờ; đó là cái miệng hầm nắp mở ra gần hết.

Cứ trông qua cái miệng hầm ấy cũng đoán được hành vi thằng khách trên miếu lúc đó. Bó đuốc chừng nó đã nhổ lên, rồi đi xoi mói khắp mọi xó. Khoảng mái lá tôi trông được bên trên, ánh sáng lúc tỏ, lúc mờ, có lúc tối hẳn. Có lẽ thằng khách bấy giờ mới sinh nghi, hoặc vẫn chưa đành tâm về hồi xem xét sơ qua lúc đầu, nên soi lại để cho thực vững bụng. Xem chừng nó không bỏ sót một chỗ nào. Tôi nghĩ mà hú vía. Giá nó cẩn thận như thế từ lúc trước, lúc tôi còn nằm dí ngay trước tầm dao của nó thì muôn phần không có một phần mong vẹn toàn.

Ánh lửa biến dần, rồi lại sáng lên rất mau. Rồi sau cùng, tôi trông thấy cả ngọn đuốc. Thằng khách đã cắm bó củi nhựa ngay cạnh miệng hầm. Nhờ có ánh sáng, tôi nhận ngay được một cái hõm thụt vào vách đất cách tôi không đầy ba bước, khuất sau một thứ cột cây mà lúc ấy tôi mới thấy hiện ra. Tôi nép ngay vào cái hõm để ẩn. Trên kia, thằng khách đưa xuống một cái thang. Một cái thang nhỏ ngắn, làm sơ sài bằng những gióng cây không thẳng. Nhanh nhẹ như nó mà phải dùng thang mới xuống được, đã một điều bất ngờ. Lúc nó xuống thang, tôi lại thấy nó phải dò dẫm. Chân nó chậm chạp đặt vào từng bậc như miễn cưỡng bị ai bắt xuống. Thì ra nó mang trên vai một vác lớn, một thứ bọc vải dài xem chừng khá nặng, lại đèo thêm một gói nhỏ cũng bọc vải, buộc ở bên. Xuống hết bực, nó đi ngay vào trong bóng tối, có vẻ quen chân lắm. Tôi đoán chừng chứ không trông thấy nó đặt cái vác nặng xuống một chỗ. Một lát, tay không, nó trở ra leo lên thang lấy bó đuốc xuống nhân thể đậy lại cái nắp hầm.

Nó đem bó đuốc vào, cắm bên cạnh cái bao đã đặt trước một bệ đất, trên đó có mấy đồ thờ cũ, kiểu lạ, chỉ thấy ở những đình chùa của người Tàu. Chỗ ấy cách chỗ tôi chừng hai chục bộ. Nó còn trở lên xem lại cái miệng hầm một lần nữa. Biết là nắp hầm đã đậy thực kín nó mới yên tâm xuống, đến bên hai cái bọc, mở cái nhỏ lấy ra vàng, hương, xếp trên mặt bệ. Nó thắp hương cây cắm vào hai cái lọ vuông, châm thêm điểm hương vòng rất lớn vẫn treo đó từ trước, rồi đốt bốn ngọn nên sáp cắm sẵn trên bốn cái giá nến bằng đồng hun. Lúc đó tôi mới để ý xem xét.

Hầm này không biết có từ đời nào, hầm đào do hạng người nào, mà sâu rộng được đến thế! Chu vi có ngót ba miếng, gần theo hình chữ nhật, song không được ngay gọn; bề cao một người trung bình cố nhảy lên mới với được đến trần. Bề đất trần dày non một thước, có những đầm lớn bắc ngang giữ lấy những bắp tre dài đặt dọc. Bảy tám súc cây để nguyên thân chỉ đẽo có vỏ ngoài dựng thành hai hàng cột không thẳng, không đều, xiêu vẹo, cong queo. Từ chỗ bệ thờ, lửa nến, lửa đuốc chiếu tóe ra những hình đen ngả lên mặt đất, giải lên trên trần, to lạ lùng và dài ngoằng ngoẵng, nhích động như linh hoạt, theo những lúc ánh sáng bập bồng. Bóng tối, lửa đỏ, cảnh tượng chập chờn âm u, tôi khác nào ở giữa một nơi yêu dị kinh hoàng. Không khí trong hầm lại bức nặng. Hơi mục, hơi ẩm, hơi dễ ngái, đất lạnh, bọc thấm tận da thịt mình: mà lẫn với mùi hương nến, mùi khói nhựa ở đuốc tàn ngọn, lại thoảng những hơi cá ươn, cóc chết trong đám vẩn rác ruộng hôi. Một thứ sương mờ loe quanh mấy quầng sáng trên bệ đất.

Phía trước chân bệ, một khoảng đá lớn bằng nửa cái chiếu, phẳng liền như chỉ độc một phiến. Thằng khách lom khom quỳ trên đó, bên cạnh cái bao lớn đặt chếch một bên. Vách hầm bên hữu, treo hai thanh mác cực lớn: tuy hoen rỉ nhưng vào hạng cổ khí rất tốt. Sát vách bên tả, một bản gỗ to, cao gấp rưỡi cánh phản, dày đến ngót nửa gang, dựng đứng như một thứ bia. Trước mặt bản gỗ lủng lẳng những vòng sắt móc sắt với xích sắt mắc treo tận dầm trần. Dưới chân bản gỗ cuộn nằm ngổn ngang những sải dây thừng nhỏ có lớn có. Thoạt tiên, tôi cho chốn này là một thứ sào huyệt của bọn giặc cướp nào, không thì cũng là một nơi ngục thất bí hiểm đặc biệt, mà nhũng hình cụ đó tất dùng vào một việc tra tấn hành phạt riêng. Từ lúc thấy thằng khách vẫn quỳ gối trước bệ, lầm rầm như khấn khứa, nhân lại thấy nó mang cái bao xuống theo, thì tôi đoán ngay rằng: có lẽ thằng khách, đem yểm vàng, yểm ngọc chi đó. Cái bao kia tất không đựng cái gì khác một số của vĩ đại phi thường. Sự tình cờ khiến tôi bắt gặp cái công việc mà nó hết sức giữ kín đáo. Tôi nghĩ bụng: hắn là thế thực. Có vàng bạc đem chôn giấu tất nhiên phải cẩn mật lắm lắm: những việc rình mò lẩn trốn của thằng khách mấy hôm trước kia cũng không có gì lạ lùng quá đáng nữa. Thế thì mình chỉ việc đợi cho nó cất xong bao của rồi lên khỏi là mình sẽ có cách thoát thân. Tôi nghĩ vậy, nên kiên lòng vừa chờ vừa xem.

Sau khi cầu cúng vị thần mà tôi đồ là Tài Thần của nó, thằng khách dậy lôi cái bao vải chàm ra để nằm chính giữa phiến đá, rụi tàn cho cháy to chỗ đuốc còn có một đoạn ngắn, rồi dùng lưỡi dao rạch ngược để mở cái bao ra. Nó rút bỏ một ít mảnh vải lót đi, bên trong còn bọc một lần chăn màu tro. Khi những mối buộc, thắt ở mấy góc đã cởi đến nút sau cùng, thì kỳ dị quá, tôi thấy lại là một người, một người con gái Tàu, quần áo thường ngày nhưng vào hạng lịch sự khác xa với cách ăn mặc thô dày của thằng khách. Người con gái trạc độ mười tám hai mươi tuổi. Nước da xanh, lúc đó xám mét vẫn không làm kém vẻ đẹp của khuôn mặt nhỏ, nét đều mà thanh. Hai mắt nhắm nghiền dưới ánh đuốc sáng gần đó, cô ta im bặt như chết. Nhìn kỹ mới biết là hơi thở rất nhẹ, như chỉ còn thoi thóp. Thằng khách không ra vẻ để ý đến vội thong thả kéo cái bọc nhỏ lại, mở lấy ra một cái bầu, bình tĩnh đổ vào miệng người con gái, rồi lặng lẽ ngồi chờ. Tôi thốt nhiên trợn lòng, sực nhớ đến một điều kinh khủng, một công việc ghê gớm trong những chuyện yểm vàng của người Tàu.

Mình thường nghe nói đến nhiều phép người Tàu họ giấu của ở nước ta, mà cách hiểm độc nhất là bắt một người con gái còn trinh, cho ngậm nhân sâm, gắn trám đường vào mồm mà táng sống trong một sinh phần riêng hay trong một hầm huyệt nào để làm thần giữ những của để trong đó. Tôi chắc hẳn một cảnh tượng giết người độc địa như thế sắp diễn ra trước mắt tôi. Thằng khách đem người con gái vào nơi rừng sâu hoang tịch này làm gì? Chẳng phải cũng là đem khóa miệng một cách thái ác, rồi bắt chết dần ở đây sao? Duy tôi còn ngợ một điều: bọn người Tàu thường bắt con gái nước Nam ta để phong thần, chứ chưa từng nghe thấy họ dùng con gái nước họ. Tôi nghĩ bụng, hay đây là một sự bất đắc dĩ, một biến thái cũng nên.

Người con gái dần dần tỉnh dậy. Cô ta ngồi lên, ngơ ngác giữa các cảnh lạ như còn trong mộng. Mắt cô ta chớp đến ba bốn lần, rồi lại chớp nữa. Lúc gặp mắt thằng khách, cô ta trân trân nhìn một lát, bỗng biến hẳn sắc mặt, miệng há, con ngươi long, người co rúm lại, tất cả thân hình cô ta thành một dáng khiếp sợ dữ dội mà im lìm. Cô ta muốn gào thét mà đã như tuyệt hắn mất hơi. Rồi mãi sau, mới run run khắp mình, vừa run vừa lê dần, cố lùi xa lại đằng sau. Thằng khách bất thình lình vồ sấn ngay lấy hai tay cô ta, nhoẻn miệng cười như người nhăn, cười lên những tiếng đắc ý ngạo nghễ mà nghe thực quái lạ. Thoắt một cái, nó ngừng bặt, hai mắt mở như điên khùng, nó nghiến răng lại vừa rít vừa trỏ tay lên bệ thờ, gầm ghè nói một thôi một hồi những câu tôi không hiểu gì, chỉ đoán già là những lời nạt nộ tức tối. Người con gái cố vùng được, ríu chân mà chạy. Thằng khách chỉ nhảy một bước nắm được vai cô ta lại, rồi xô cho ngã lăn trên phiến đá, dúi vào chân bệ, Những tiếng đe dọa chửi mắng lại tuôn ra không ngừng. Người con gái giấu mặt khóc, cố nói to trong những tiếng nức nở. Tất nhiên tôi không hiểu gì hết. Cứ thấy câu nói nhắc đi nhắc lại những tiếng như: “Ngộ, ngộ... ngộ dẩu cái gì. Chồi cô”. Giọng nói như van vỉ, như phân trần.

Thằng khách thấy thế, lớn môi lên cười trông đến là khả ố. Nó quắc hai mắt sáng như hai điểm lửa lạnh rồi chõ cái mặt đầy những hằn học sát vào tận mặt cô ta. Người con gái quay cổ đi. Nó liền nắm ngay lấy mớ tóc xõa, vặn cho đầu cô ngẩng lên mà khạc nhổ ra một mẻ những lời cục cằn nữa. Người con gái chỉ biết khóc, hai bàn tay nắm lấy nhau, run bật lên. Nó trỏ ngón tay đâm vào tận trán cô ta, rồi sấn sổ đến định lột áo người con gái. Cô ta hết sức chống cự, úp sấp người xuống để giấu ngực. Thằng khách phải giằng co mãi, sốt ruột, xoắn ngay lấy tóc lôi cô ta đến chân bản gỗ dày. Nó xách cô ta kéo dậy như xách một con mèo, đẩy cho đứng dựa vào bản gỗ, lấy dây thừng trói mỗi cổ tay vào một vòng xích lủng lẳng rủ xuống. Hai tay cứ thế giơ mãi lên phía trần hầm. Hai chân cô ta giãy đạp vung lên, nó ghì xuống, buộc vào hai cái vòng sắt phía dưới. Trói xong cả bốn chân tay, nó hục hặc vừa mắng chửi vừa giằng rứt hết mấy lần áo trên thân người con gái. Vải lụa tơi tả thành trăm mảnh theo hai bàn tay vũ phu. Cô ta không thể vùng vẫy ngăn cản được, cứ thảm thiết mà gào khóc. Nó mặc kệ. Lột hết áo, thằng khách lại xé đến quần.

Tôi đứng trong xó tối, bấy giờ vừa lo sợ vừa kinh dị, lại vừa tức giận, chưa biết thằng khách còn hạ những thủ đoạn đê mạt độc địa tới bực nào. Chân tay tôi như bị tê liệt đi, thần trí không được yên vững. Tuy sẵn cung tên đó mà tôi không dám dùng; không những khó lựa chiều vì hàng cột án ngữ, tay cung của tôi bấy giờ lại không được thực mấy, tôi sợ rằng bắn ra rất dễ sai, không khéo nhằm thằng khách mà lại trúng vào cái thân thể lõa lồ kia mất. Tôi lại tính đến cái nguy khác nữa, thằng khách mà biết tôi ở đó tất không để cho tính mệnh tôi vẹn toàn. Dưới cái hầm bí hiểm của nó đây, nó khác nào một bạo thần vô địch. Mỗi lúc xem thái độ nó, nhìn cử chỉ nó, tôi một nhận thêm nó có một sức lợi hại chẳng phải vừa. Trông người con gái thảm hại quá! Vừa khiếp hãi, vừa thẹn thùng, kêu gào cũng vô ích, van vỉ chỉ chuốc lấy sỉ nhục thêm: cô ta tỏ ra một vẻ tuyệt vọng bi đát đến cùng cực. Hãm trong cái cảnh ác hại ghê gớm này, cô ta chắc hẳn không còn một ai biết đến, không thể có một sự tình cờ nào đến cứu được mình.

Bó đuốc tắt hẳn rồi. Bốn ngọn nến hoe quầng như rung rinh hoài. Thằng khách ngạo nghễ nhìn từ đầu đến chân người con gái, cười gằn lên mấy tiếng thô bỉ. Nhân đó tôi ngờ rằng đây là một chuyện cưỡng dâm, một chuyện hãm hiếp ô uế cũng không biết chừng. Có lẽ, ở nơi khác, thằng khách đã bị xấu hổ, đã bị người con gái khinh bỉ, cự tuyệt, nên nó lập mưu bắt cô ta xuống đây để tha hồ mà lăng nhục. Mấy phen tôi giương cung toan bắn, nhưng sau cùng lại thôi. Tâm thần tôi không định. Thằng khách lại không ở ngoài cái đường xuyên nguy hiểm cho người con gái. Phát tên buông ra, rất có thể giết chết người tôi muốn cứu vả lại, như tôi đã nói, chỉ sớm gây họa cho chính mình tôi.

Tôi hồi hộp mà cứ phân vân mãi. Cái ý nghĩ cứu người con gái liền theo với cái ý nghĩ liều chết? Liệu cứu có nổi không? Hay đành cứ đứng yên mà coi cái hành vi khốn mạt của con vật bỉ ổi đó? Tôi thở thấy bức nặng. Cái không khí bấy giờ sao mà kỳ lạ, y như ám ảnh mình, làm mê loạn trí minh mẫn của mình, thằng khách lại cười. Tiếng cười hề hề, nghe mà thêm lợm tởm cả mình lên. Nó đã áp đến gần người con gái Tàu. Người con gái đã ríu cả lưỡi vào, nói khóc không ra tiếng nữa. Tôi bất giác nhắm mắt lại quay mặt đi, như không nỡ nhìn một cảnh nhễ nhại rác rưởi, cả tấm lòng bất bình chợt thấy hổ thẹn quá đỗi thấy mình vô lý, thấy mình hèn nhát không đáng làm người con trai! Chẳng biết mình giận mình hay giận nó hơn, nhưng sự phẫn nộ lúc đó ghê gớm lắm. Tôi quay lại, quả quyết, chân dọn sẵn bước nhảy ra. Nhưng điều trông thấy trước mắt lại thực bất ngờ. Tôi kinh lạ, đứng sững đó, không hiểu ra sao hết.

Thằng khách lúc ấy lại đang quỳ gối trước bệ! Mình cúi gằm, hai tay chống đất, gần như phục vị trên phiến đá, không một chút cử động nào. Thế là nghĩa lý gì? Nó cứ im lặng như thế mãi, tưởng không bao giờ ngồi lên. Mãi sau tôi mới thấy hai vai nó dần dần rung rẩy, mỗi lúc một rõ, nhịp với tiếng sụt sùi, rồi nức nở, trước còn nhỏ sau to thêm, rồi sau cùng bỗng òa lên những tiếng khóc lớn. Tiếng khóc nghe ra thảm thiết cay đắng, bào xé gan ruột, vang âm đầy cả cái hầm đất. Thằng khách vừa khóc, vừa đen đét vỗ hai tay lên phiến đá, trước bệ thờ. Từ những ngọn lửa bập bồng cho đến các đồ đạc, hình ảnh trong chốn này lúc đó như có một cảm giác, một tâm hồn, như xúc động cùng với tôi. Tiếng khóc càng lớn, tôi càng thấy kinh dị, tưởng đâu như trời đất điên đảo, rừng núi chuyển lay, tất cả sập đổ xuống cái hầm này mà lấp đi cả, mà chôn tươi vùi sống ba sinh mạng, thằng khách, người con gái, lẫn tôi.

Trong có chốc lát thì giờ, tôi thấy kế tiếp diễn qua mỗi điều một thêm kỳ quặc, mà mau chóng quá, đến nỗi trí tôi không kịp hiểu, không kịp suy lường. Ngờ thằng khách là gian đồ, rồi tức khắc tưởng nó là một kẻ có của mà hiểm ác. Đang cho nó là một con dâm quỷ khốn mạt, thì lại thấy cái cơ sự vừa rồi; mỗi lúc nó lại hiện ra một hình trạng khác hẳn. Có lúc tôi chực không tin rằng mình còn là người dương gian. Trong cảnh huống kia, gặp những diễn biến đổi dị thường ấy giống như ở giữa một trường ác mộng, ai là người chẳng bất thần? Tôi đi săn trải những phen rất hiểm nghèo, đã từng bị hổ báo nhảy chồm đến tận vai mấy lần hút chết. Nhưng tôi đều coi thường. Ngay lúc lâm nguy mà trí vẫn tỉnh gan vẫn vững. Là vì những nguy nan đó dẫu đến thế nào cũng không ra ngoài chừng mực, người đi săn ai cũng đón đợi những phen như thế, ai cũng trải qua ít ra cũng vài ba phen. Nhưng mà những cảnh tượng trong cái hầm đất kia, tôi tưởng chả cần phải gặp thêm một lần nào nữa mới biết thế nào là sợ hãi. Suốt đời tôi, tôi có quên được bao giờ đâu?

Thằng khách khóc một hồi lâu lắm. Bỗng nó vùng dậy, khạc nhổ, rồi lấy ở đâu ra bốn năm cái roi mây dài, vẫn còn màu xanh chắp cả lại mà vút ngang mình từ mặt đến chân người con gái. Cô ta gào lên những tiếng rất đau đớn, răng rít chặt, mình oằn oại như con rết bị chịt đầu. Trong lúc đánh, thằng khách quát tháo không ngơi mồm, như muốn nhồi nhét bao nhiêu câu nguyền rủa căm hờn vào những vết lằn đỏ nổi trên khắp thân thể người con gái. Vụt bằng roi chán, nó lại cứ mặt cô ta nó vả. Hai bàn tay hộ pháp ấy vả chán lại cầm roi vút. Người con gái khóc khàn cả cổ, tiếng sặc nghẹn vì nước mắt, vì máu mồm trào ra. Nhưng nó vẫn không nghỉ tay. Mớ tóc dài rũ từng món hỗn độn ở bên mình cô ta mỗi lần vướng vào bàn tay hay vào ngọn roi, lại bị nó dật đến nghẹo hẳn đầu đi trong lúc nó phải gỡ. Sự đau đớn tưởng đến ê chề rồi, đến một độ khiến xác thịt người ta không biết đau thêm nữa. Thằng khách bật lên cười mấy tiếng quái ác, lấy trong bọc ra một nắm lá tươi, trông tựa như lá trúc đào, cùng với một nắm muối. Nó vò hai thứ ấy với nhau rồi đem cái bã xanh nhào nhớt kia mà sát vào những lằn roi rớm máu: Người con gái thét lên một tiếng rùng rợn, mặt sắt lại, đầu gục xuống ngực, người lịm bặt đi. Trong hầm lặng lẽ một lát ngắn, rồi lại vang ầm lên vì tiếng thằng khách vừa líu lô kể lể, vừa gào khóc. Nó quỳ gối, lưng cúi, tay chống lên phiến đá, vẻ khúm núm trước cái bệ thờ.

Khóc chán, nó lại đứng lên xỉa xói người con gái cô ta vẫn bất tỉnh hồi lâu. Nó đi vốc nước đọng ở một chỗ hõm sâu bên vách hầm toan vã lên mặt người con gái, thì cô ta đã thở một hơi mạnh. Đôi mắt nhắm chậm chạp mở. Cô ta cất tiếng rền rĩ, lời nói gắt những đoạn nức nở, giọng tha thiết như kêu van. Cái câu ngộ... chồi cô vẫn thấy nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhưng thằng khách không thôi xỉa xói, chửi rủa. Không cần phải hiểu nghĩa cứ nghe lời tuôn ra từng thôi, từng tràng vội vã, tôi cũng biết thằng khách nạt nộ những câu ghê gớm chừng nào. Cô ta vừa lắc đầu vừa năn nỉ luôn miệng. Biết cô ta đã tỉnh hắn, thằng khách mới lấy ra một con dao nhọn, sáng như tráng bạc, giơ lên tận mặt cho cô ta nhìn. Người con gái lặng người đi vì vừa nghe thấy một câu dọa ghê sợ. Dứt lời, thằng khách mở hẳn cái gói riêng, tãi ra một bó đến ngót hai chục con dao nhọn cũng sáng cũng sắc như con trước. Nó gằn lên mấy tiếng cười mà nhảy lùi lại. Người con gái vừa rú một tiếng thì một con dao đã cắm sát vào sườn cô ta. Nó nhặt con dao thứ hai, lùi đứng chỗ cũ, một tiếng cười, một rút tay, ánh sắc loáng, mũi dao bập sát bên vú. Nó ném mấy con dao sau cùng một điệu như thế. Dao chỉ bén sát da thịt chớ không hề phạm vào người. Dao đến cắm bên cổ, dao đến cắm hai bên đùi, con thì nằm trên đỉnh đầu, con thì chỉ ly sợi tóc nữa cắt mất tai. Thì ra thằng khách dùng một phương pháp khủng bố cực kỳ nham hiểm. Mỗi nhát dao nó ném ra, nó khiến người con gái tưởng là tối độc. Lần nào người con gái cũng tưởng bị dao giết chết. Như thế tức là chết đi rồi sống lại, sống lại để chịu chết thêm chưa biết đến bao nhiêu lần. Chẳng biết rắp tâm từ bao giờ mà thằng khách tìm được cách hành hình hiểm độc đến thế. Dao ném đã gần hết. Còn lại con sau cùng nó sợ người con gái chết khiếp từ trước khi nó giết, nên còn giữ lại, cầm lủng lẳng ở hai đầu ngón tay. Im lặng một lúc hồi hộp. Người con gái xem chừng cũng hiểu. Tính mệnh cô ta sắp đến lúc kết liễu: nhát dao ấy mới thật là nhát hại người. Thằng khách nhìn như để hưởng cái thảm khốc sau cùng ở tội nhân của nó. Mắt nó nheo lại, long lanh cái ánh quái ác hơn cả mọi lúc trước. Tiếng cười của nó làm tôi sởn lạnh khắp mình. Nó nhảy lùi đến cữ trước, miệng mím, răng nghiên nổi gân hàm, nó lừ lừ mắt nhằm một chỗ hiểm trên thân người con gái. Con rắn độc ngó cổ lên để rình bổ, vẻ ghê gớm thế nào thì dáng điệu thằng khách cũng thế. Nó thong thả, nó chậm chạp nữa đưa cái bàn tay cầm dao lên cạnh vai, nhè nhẹ sẽ đưa về phía sau, theo điệu tay giơ. Cái cử chỉ khủng khiếp lạ lùng. Tôi nóng bừng mặt lên. Cái tên lắp sẵn ở cung để giữ mình vút ra cùng một lúc thằng khách hất tay qua sau gáy. Con dao văng ra một chỗ, thằng khách chỉ: “Ây a!” một tiếng rồi bóp lấy tay mà nhăn.

Vẻ rõ rệt nhất trên mặt thằng khách không phải là đau mà là kinh sợ. Nó không hiểu một sức thần bí gì vừa hiện ứng, trước hết trông lên bệ thờ, rồi lấm lét quay nhìn về phía tôi. Tôi biết là cơ sự đã đến lúc kịch liệt. Tôi không thấy mình sợ hãi thái quá nữa, cũng không hề ân hận về sự liều lĩnh vừa rồi. Tôi lắp sẵn tên để đợi, trí xếp đặt đường lối sẽ đối phó. Ngoài kia thằng khách đã rút được mũi tên ra khỏi cánh tay. Vết thương khá nặng mà không làm nó tê liệt. Nó chẹt lấy chỗ áo thủng cho máu đỡ chảy, lắng tai nghe ngóng rất cẩn thận, vẻ kinh ngạc trên mặt dần dần thêm vẻ tức giận trông dữ dội không biết ngần nào. Hai con mắt sắc dị thường của nó nhìn soi vào khoảng bóng tối như trông được thấy tôi. Nó bước một bước, hai bước, định tiến đến phía tôi ẩn, nhưng dừng ngay lại ra chiều e dè, rồi từ từ nó đi giật lùi lại đằng sau, xiên về phía người con gái, cử chỉ lờ đờ bí hiểm, nhưng tôi đoán trên cái khuôn mặt mờ tối sấp bóng kia đang hiện những ý nghĩ, những mưu mô quỷ quyệt khó lường. Nó cứ lùi hoài. Tôi chưa đoán được nó giở ngón gì thì thoáng một cái, rất nhanh nó vùng tay giằng một con dao bên cạnh người con gái. Tức khắc một ánh loáng sắc bay vào người tôi. Tôi né mình tránh được, thì con dao khác đã cắm phập vào mé dưới cái cột gỗ, ngay cạnh chân tôi. Con thứ ba liệng tới một bên vai, nhưng không cắm vào vách hầm, rơi xuống, tôi cúi toan nhặt, vừa may thoát được một mũi chí nguy: đứng thì thế nào cũng bị trúng giữa ngực. Không thể yên chỗ được. Tôi liền nhảy bổ ra, bắn cho nó một tên vào giữa bụng. Nhưng nhanh như vượn, thằng khách gạt được rất dễ dàng. Nó ném con dao nữa ra, lại rút mũi tên đâm cạnh bản gỗ mà ném lại tôi. Tôi bắn phát nữa thì nó lánh ngang, bắt ngay được chiếc tên mà cười. Tôi rợn tóc gáy lên vì thấy cái tài nghệ phi thường ấy. Nó ném tên lại, tôi may mắn tránh được. Hai bên cách nhau chỉ còn hơn chục bước, cùng lấy những cột cây để lẩn nấp, nhưng xem chừng thằng khách nó tiến đến tôi mau hơn. Nó không cần giữ gìn nhiều nữa. Tôi chắp tên bắn ra giữa lúc nó hở mình nhất, nhưng nó lại tránh được như chơi. Tôi vừa đặt phát nữa thì nó đã xông lại trước mặt gạt tay tôi, đấm thẳng một cái miếng thượng. Tôi né được, vội nhảy giữ thế. Nó đánh gấp ra, khiến tôi sợ bí đường phải tiến về phía bệ thờ, sau hàng cột tay phải. Tôi đã tưởng nó chỉ cốt chẹn lối ra, nhưng sau tôi nhận thấy ngay là nó còn có ý xem xét: ngoài tôi, còn có người nào khác xuống đây nữa chăng. Thừa lúc đó, tôi vớ được thanh mác đương treo, liền múa hết vòng rộng ra. Vừa múa vừa định trí.

Hiệp xung đột vừa rồi, vì may mà không chết. Còn thằng khách thì quả thực là một tay tuyệt giỏi; to béo thì to béo nhưng mau lẹ một cách bất ngờ. Ngón võ của tôi lúc ban đầu chừng nó không coi ra trò gì cả. Tuy thế, hết sợ hãi, lại thêm kích thích, chiếm được thanh mác, tôi thấy cũng có thể bất chấp được tài thuật của kẻ thù. Trong lúc giao tranh, thắng thế thì dễ lạm, võ thư thường khẩn thiết răn người ta về cái họa khinh địch. Tôi nhớ điều đó lắm. Thanh mác lợi hại thực, nhưng không hẳn để cho mình cầm được phần thắng dễ dàng đâu...! Nhưng không nguy hiểm như lúc tay chỉ có cung tên, tôi không luống cuống chút nào như trước nữa. Tiến đã vững, lui đã có ích. Thằng khách chỉ có một mũi tên sắt sau cùng của tôi để đối lại. Tôi chú ý không cho nó lấy được thứ khí giới nào khác, nhất là cố ngăn không cho nó giằng thêm dao ném lại tôi. Nó cúi xuống, nhảy lên, tránh được những miếng công phu nhất của tôi mà chỉ đầu mũi tên của tôi trong tay nó cũng khiến được tôi luôn phải tinh ý thủ ngự.

Nó biết rằng tôi khó lấy được đà chém bổ xuống, vì trần hầm thấp mà phạt ngang thì chỉ có lợi ở khoảng giữa hầm. Vì thế gần hàng cột vẫn là một phương hay nhất để cầm cự với đường mác của tôi. Nó cứ giữ một mực thế mà đợi lúc tôi hở cơ: Tôi quen mưu nó rồi, bèn tính sẵn cách trừ nó. Tôi tính thế này: hết sức đánh cho nó phải xa hàng cột, lừa khi nó áp gần vách tôi sẽ dùng lối hư công. Dử đánh một chiêu, làm như để hết tinh thần về một bên, rồi tức thì, đá lưỡi mác cho một phát phản diện, thế là xong đời anh chàng.

Song nó chống giữ rất kín, rất vững, không một lúc nào sự sệt lại thường trực lấn đất của tôi. Cái chủ ý rõ rệt của nó có lẽ là mong tôi chém mạnh, hụt nó, bập lưỡi mác vào cột gỗ. Tôi biết thế vì hai ba lần suýt mắc phải cái nước đó. Một lần chỉ thiếu một ly nữa là tôi bị nó bắt được tay. Dụng tử công phu mới khiến được nó đi vào được thế của mình. Lưỡi mác của tôi cấp thiết mà ý tứ lắm lắm. Nó phải chuyển chỗ dần dần lùi về một bên, chỗ ấy là sau hàng cột phía hữu. Tôi mừng thầm. Lại thấy như nó không ngờ vực gì, tôi càng thêm phấn khởi. Nó vẫn tỏ ý ngạo mạn; mình né chân lượn, mà miệng vẫn cười một vẻ rất khinh thường. Tôi nổi giận, đánh càng hăng. Sau cùng, sự tiến thoái của nó đã có vẻ hỗn loạn. Tôi không để nó kịp điều khiển lại cử chỉ, sấn đến công kích rất dữ. Rồi, xuất kỳ bất ý, tôi thét lên một tiếng, lưỡi mác hết sức vằng đưa ngang cổ nó. Đến loáng một cái, cả mấy ngọn nến, cả cái bệ, đảo lộn một vòng, cùng với hình người, chân cột, trần hầm, cùng dốc ngược quanh tôi.

Tôi đã lăn quay dưới đất. Thằng khách nhảy ngay lại. Cả cái thần xác vạm vỡ của nó ngồi đè lấy ngực tôi.

Thì ra, ngay từ lúc đầu, thằng khách đã biết ý tôi định. Lợi dụng ngay cái mưu tôi toan đem lừa nó tương kế tựu kế, nó mớm cho tôi ham đánh, rồi chờ lúc tôi xuất lực bình sinh ra chém, nó đâm soài người xuống đất, đưa cả sức mạnh lừa tay mà gạt ống cẳng tôi. Tôi thình lình xiêu người đi, gần như bị hất tung lên, đầu chao xuống theo một đường cánh cung nguy hại.

Lưỡi mác văng ra, tay tôi bị trói nghiến lại. Hai chân đá đạp quãng không cũng bị giữ nốt, kẹp ở trong bàn tay nó thắt lại như gọng kìm. Không thể nào vùng được lên. Trên người tôi, một quả núi đè nén dị xuống. Lúc thằng khách đứng dậy thì hai cổ tay tôi quặt ra sau lưng, cùng chung một dây thừng trói lẳn vào thịt.

Nó không nói nửa tiếng từ lúc tôi ra mặt. Bấy giờ cũng vẫn lẳng lặng, nó kéo tôi lại gần cái phiến gỗ dựng đứng, cạnh chân người con gái Tàu. Cô ta nhìn tôi chăm chăm đầu tóc rũ rượi, nét mặt thiểu não, có vẻ tự hỏi, không hiểu tôi là người thế nào vào đây có ý gì để cho thằng khách tóm được.

Tôi bụng bảo dạ: “Thôi thế là hết. Định cứu người con gái, mà rồi đến mình cũng khó lòng cứu nổi mình”. Cái chết thực mười phần cầm chắc cả mười. Chỉ còn cách là đành tâm mà chịu. Oán thán nữa, có ích gì đâu? Chỉ hận rằng mình phải chết mà không biết người con gái đáng thương kia phải đau đớn ô nhục đến thế vì tội tình gì. Tôi nhìn lên, cô ta vẫn chưa khỏi lấy làm lạ, nhưng đôi mắt ra chiều cũng ái ngại cho tôi. Cô ta cũng biết rằng đã vào tay giống lang sói kia thì chỉ có việc đợi nó giết chết. Tôi cũng chẳng còn một chút hy vọng nào khác, chỉ mong cho nó hạ thủ mình càng mau chóng càng hay. Nhưng ao ước đến như thế cũng không xong. Thằng khách đâu có chịu cho tôi thoát nợ ngay! Nó cúi xuống, soi mói nhìn khắp người tôi, để lộ một cái vui ác nghiệt, miệng nó nhếch ra, một vẻ cười hóm hỉnh, ngạo nghễ, như bảo cho tôi biết rằng nó đã nghĩ được lối ghê gớm để làm tội tôi.

Cái vết thương do mũi tên tôi bắn, chừng đến bây giờ mới bắt đầu tấy; hoặc vì mải đối địch với tôi nên lúc nãy nó chưa để tâm. Tôi thêm sởn gáy vì chợt thấy cái vẻ căm tức im lặng của nó. Đôi mắt kia hẹn cho tôi một hình phạt xứng đáng. Nó liếc nghiêng nhìn tôi một cái trong lúc quẳng mũi tên nó vừa nhặt lên xem. Tôi cứ lấy làm tiếc rằng đó chỉ là thứ tên bịt sắt dùng để giết thú lớn vì sức mạnh thôi, chứ nếu là tên tre ngâm thuốc độc thì tình thế có lẽ ổn tiện lắm.

Máu ra cũng khá nhiều, đọng quện lại ở ngoài lần vải, nhưng vết thương không nặng lắm. Nó vén ống tay áo lên tôi mới biết nó bị toạc đứt thịt ở khoảng giữa bắp nhỏ: xương cửa tay không việc gì. Lấy một nắm lá dấu mà người đi rừng ai cũng nhớ mang theo, nó nhai dịt vào chỗ đau cùng với một thứ thuốc bột; xé vải buộc lại, co duỗi mấy cái nhẹ nhàng, rồi cứ giữ cánh tay thực thẳng, chừng nó dùng một phép nội công mà tôi từng nghe nói đến sự công hiệu, để cho thương tích khỏi làm liệt gân về sau. Phàm chi thể bị đau, cần phải giữ yên một chiều, để thuốc ngấm càng lâu càng có cơ chóng lành, lại cũng phải giữ yên cả thần thái.

Trong thời khắc thằng khách ở yên, có lẽ vừa để nghỉ ngơi, nó phục vị xuống trước bệ thờ. Tôi nghe thấy tiếng lầm rầm từng hồi. Chừng nó tạ cái tội bất cẩn để cho người ngoài lẻn được vào đây. Tiếng khấn nhè nhẹ, đều đều, rồi sau dần im hẳn, chẳng biết nó đắm chìm vào những tư lự trầm ngâm nào. Nó cứ nằm phục vị như thế hoài. Nến trên bệ còn có vài đốt ngón tay, lửa không gió nhưng chốc chốc lại khe khẽ tạt ngọn. Tôi nằm hơi nghiêng ra, mình đè lên một cánh tay bị trói, người chênh chếch với chiều dọc phiến đá, đầu về phía cửa hầm. Hai vòng sắt mắc vào rầm trần ở ngay trên mắt tôi thắng lên. Gần đấy là hai hàng xích sắt kéo hút tay người con gái Tàu. Tôi ngoảnh nhìn cô ta thì thấy cô ta đang mấp máy môi như muốn nói gì, đầu cử động, mắt long lanh những ý muốn cho tôi hiểu. Tôi chăm chú một lúc mới nhận thấy cô ta đưa mắt cho tôi để ý đến con dao rơi ở bên cạnh mình. Tôi càng lấy làm lạ: có lẽ nó xui mình tự tử để tránh khỏi cái đáng sợ sau cùng hay sao? Nhưng người con gái vẫn ra hiệu, cấp bách hơn trước. Mắt cô ta vừa cau vừa trợn, đảo đưa nhìn con dao, nhìn thằng khách, nhìn tôi. Tôi chợt hiểu, liền se sẽ lê mình, cho tay thu được con dao, cố lựa lưỡi dao lách vào những vòng dây thừng trói cổ tay, rồi hết sức cứa. Dao sắc, chỗ buộc tuy chặt nhưng cũng dễ đứt. Tôi vừa nhìn thằng khách vừa thong thả gấp chân lại cho gót sát với mông. Tìm mãi không thấy đầu mối tôi đành phải cắt giữa khúc quấn. Thằng khách vẫn nằm phục, thấy tôi thở mạnh, ngoảnh đầu xuống nhìn. Tôi đờ người ra. Cổ tắc nghẹn. Nhưng may chân lúc ấy chưa gỡ xong, mà tay vẫn quặt ra sau lưng giữ nguyên cái vẻ bị trói. Nó không ngờ vực gì, lại cúi trán sát đất, lại phục vị như cũ. Bấy giờ tôi mới dám thở. Người con gái sợ quá, vẫn chưa hoàn hồn. Thoát được dây trói chân, không một tiếng động nhỏ, tôi đứng lại một lúc ngắn, rồi lấy thế gân ức nương giữ cho êm nhẹ tôi đứng dậy, rón rén bước đến chỗ thằng khách lăm lăm con dao, nhằm một chỗ trên lưng nó để đâm. Trước khi cắm ngọn lưỡi dao vào cái xác thịt to béo kia, làm sao tay tôi như chùn lại, làm tôi thấy ngần ngại một cách thực kỳ dị. Trong giây thoáng mà bao nhiêu ý vương vít. Tôi phải giận mình là nhu nhược vô lý, phải thúc giục mình bạo dạn để lấn át cái thứ tâm trạng quái lạ lúc ấy... Không giết nó chết là nó giết chết mình kia mà!

Thằng khách như sẵn lưng đón cái chết. Tôi lăm lẳm cầm vững chuôi dao trong nắm tay, giơ cao lấy đủ tầm, mắm môi đâm xuống. Bất đồ thằng khách vừa đến lúc ngồi thẳng dậy! Con dao trượt sát cánh tay trái nó. Tôi chúi ngã xiêu theo đà, cố đứng lại thì nó đã vội cướp sấn lấy tay tôi bóp cho con dao rơi xuống. Túng thế, tôi xuất lực đấm trái một đấm vào bên má. Hai mắt nó hốt hoảng, mặt bì ra trong lúc kinh ngạc. Tôi giật được cánh tay phải về. Rồi “chát” một cái liền theo, tôi cho luôn một tống vào mang tai nữa. Nó đã bíu được tôi lại, nhưng quả đấm sau rất dữ lại vào chỗ phạm, nên nó gục xuống ôm lấy chân tôi. Tôi đạp nó ngã ngửa ra, rồi vội vàng đến bên người con gái toan gỡ trói hộ. Cô ta thở như bị đè nén, nhất định không chịu, lấy đầu ra hiệu giục dã, như bảo tôi trốn ra ngay tức khắc. Tôi chưa có chủ định gì rõ rệt lại thêm luống cuống vì thấy thằng khách đang cựa mình. Tôi liền chạy lại cửa hầm, leo lên thang, lấy tay nâng phiến gạch bên trên, nhưng không thấy chuyển. Càng vội vàng càng thấy sức đuối, hì huỵch mãi, cái nắp hầm vẫn không nhích qua chút nào. Ngảnh xuống xem thì thằng khách đã trỗi dậy được. Nó loạng choạng bước tới chân thang. Tôi lo cuống lên. Còn bao nhiêu gân sức dồn cả lên đẩy một cái cực mạnh. Cửa hầm mới thấy bật hé được ra. Chỉ gắng húc một cái mạnh nữa cho phiến gạch nhích thêm ít nữa là tôi chui qua được, nhưng thằng khách đã đến nơi rồi. Tôi liền bám mép gạch, đu hẫng người lên, đạp rối rít vào đầu vào ngực, vào vai thằng khách. Nó điên tiết nắm lấy hai chân tôi lôi tuột xuống, rồi cứ thế kéo thẳng đến trước bệ thờ. Lần này nó trói tất nhiên là kỹ lưỡng. Dây nghiến tưởng cắt được ống chân cổ tay mình. Ấy là nó bị thương đấy, chứ không thì chưa biết tôi còn đau đớn tới bậc nào. Tay tôi ngoặt ra sau, bị trói cũng như lần trước, và cũng như lần trước cùng một sợi dây cổ chân. Rồi từ mắt cá lên đến vai, một cuộn dây chão quấn thêm mấy vòng nữa. Thực là hết mong lại có cách thoát thân! Vả lại cũng đừng hòng thằng khách lại sơ ý đến lần nữa. Nghĩ mà cứ lấy làm hối hận mãi, mình thực đáng giận vì đã quá ngu ngốc. Thằng khách bị điếng người lúc nãy, sao tôi không biết thừa cơ lấy dao, lấy mác hay cái gì đó mà giết phăng ngay nó đi. Thực chắng dại nào giống cái dại nào. Mà cái dại dột này, mới thực là cay đắng, thực là khốc hại! Nhưng lúc bối rối thì cũng không thể nói mạnh được, vả lại tôi cũng tưởng có thể thoát khỏi tay thằng khách mà không phải giết nó kia! Tôi còn mong có thể đi gọi bọn người Nùng xuống giúp tôi bắt sống lấy nó. Tôi vốn không bao giờ khinh sát. Người Nùng cũng vẫn cười tôi về chuyện đó, họ bảo tôi lẩn thẩn, hay nghĩ rắc rối. Nếu ở địa vị tôi thì họ không hề do dự, xử gọn được ngay. Ăn năn thì sự đã rồi. Thằng khách trói tôi xong đang chọn một sợi dây thừng to, ra ý sửa soạn cho tôi một hình phạt mới.

Nó chập cái dây, chung đôi lại, ném quãng gấp khúc cho mắc lên một chiếc móc sắt trên trần rồi kéo tôi lại, buộc một đầu dây vào chỗ thừng trói chân tôi, rồi sau cùng cầm nửa phần dây kia mà kéo. Hai chân tôi bị rút ngược lên gần chạm tới cái rầm ngang, đầu dốc xuống, cách mặt đất độ hơn một sải tay. Người tôi lủng lẳng như một bó giò treo. Mọi vật trong hầm tôi trông đều đảo lộn lại một vẻ kỳ quặc. Người con gái ở cách tôi vài ba bước không hiểu sao lại nức nở khóc. Thấy vậy thằng khách quắc mắt, tuôn ra một mẻ lời tức giận, cột đầu dây xuống một vòng sắt dưới đất rồi lấy roi vun vút quất lên mình cô ta. Không chịu nổi, người con gái lại bật lên tiếng khóc. Tiện tay, thằng khách quất luôn cả tôi.

Một chuyện ghê gớm (2)

Bấy giờ máu khắp mình tôi dồn cả xuống mặt. Đầu ù, mắt hoa, da mặt nóng như hơ lửa, cổ chân đau như bị tiện, mình mẩy nhức nhối vừa bởi lằn dây thắt, vừa bởi lằn roi. Hình như thằng khách có một thuật riêng về đòn vọt. Mỗi cái vút của nó tôi lại phải nghiến răng lại để khỏi kêu. Tôi cố giữ vững lòng khảng khái. Nét mặt không đổi, nhất quyết không lộ ra vẻ sợ hãi đau đớn. Mắt tôi lẳng lặng nhìn thằng khách cho nó thấy tôi khinh bỉ nó không biết ngần nào. Nó càng thêm tức tối. Nó tưởng rồi tôi phải van vỉ nó, có lẽ nó muốn xem tôi khổ sở kêu khóc cũng nên. Tính mệnh tôi ở trong tay nó, đã đành. Nhưng như thế chưa hẳn là tôi bị thua nó. Tôi còn một thứ để nó phải thấy là phần thắng ở tôi ấy là sự nhẫn nhục, sự thản nhiên, cái thái độ khinh sinh của người quân tử. Thành thực mà nói, tôi đã phải gắng sức kiên cường, phải tưởng nhớ đến các gương oanh liệt, mới cầm vững được can trường. Nó thấy tôi không thèm coi sự hành hạ của nó vào đâu, nó giận sôi lên. Nó rít răng lại mà đánh tôi như một thằng điên cuồng. Roi rát như đốt da thịt tôi, quất gấp trận đổ hồi lên cái thân trơ trơ sắt đá, mồ hôi đã thành giọt lăn trên mặt tôi. Tôi hết lòng mong nó tức giận nữa lên, đến phát khùng lên mà giết ngay tôi tức khắc.

Nó vẫn không quên người con gái. Vì thế ngừng được một lát, tiếng khóc của cô ta lại từng chặp nổi lên ảo não thê thảm bên tai tôi. Có gan chịu nổi thứ đòn thù dữ dội kia, tôi lại không nén được lòng thương con người tội nghiệp ấy. Thực đáng thương lắm. Trai trẻ như tôi bấy giờ mà còn phải trẹo hàm răng đi để cố nín thinh, huống chi một người con gái yếu ớt, thân thể lại bộc lộ. Thằng khách lúc đó trông hung bạo hơn cả loài ác thú. Tôi thù ghét nó đến cực độ. Sự phẫn nộ đã đến lúc khó nén được yên. Tôi đem hết khinh bỉ vào trong một câu rẽ rọt ghê gớm như một lời tuyên án, một lời nguyền. Tôi nhìn thẳng vào mặt nó mà nói: “Đồ phi nhân, chúng tao chết đi vong hồn sẽ báo oán sẽ theo đuổi mày không biết đến mấy mươi đời”. Thằng khách dừng tay lại nhìn tôi sừng sộ một lúc, rồi mặt đang trang nghiêm, nó bỗng nhăn tít lên mà cười. Nó vừa đưa đẩy gật gù cái đầu vừa cúi xuống gần mặt tôi, sì sồ nói như bảo cho tôi biết rằng: “Mày cứ đợi đó, ta cho mày biết một lối chết thực là hay hay”.

Nó đi lấy nến đốt nối vào bốn cây cháy gần hết, rồi nhăn nhở đi nhổ một con dao trên phiến gỗ, đưa qua mắt cho tôi xem. Nó nói gì tôi không hiểu nhưng vỡ nghĩa ngay, vì con dao kia nó đem chồng đằng chuôi xuống đất, mũi dao trổ thẳng lên chính đầu tôi. Tôi đoán lát nữa, dao cắm đã vững chặt, nó sẽ cắt đứt cái phần dây vẫn giữ tôi lửng lơ dưới trần hầm; tôi sẽ rơi tuột xuống, đầu tôi sẽ đâm xuống lưỡi dao, hay nói đúng hơn, lưỡi dao sẽ cắm ngập vào đầu tôi.

Nhưng nào nó đã cho tôi hưởng cái chết nhanh chóng ấy! Như thế chẳng khác nào thí ngay cho tôi một nhát rảnh đời sao? Cái phần dây rút tôi lên móc sắt trần hầm, vẫn buộc một quãng ở cái vòng sắt đầu phiến đá lớn: thằng khách quay mình tôi lại để tôi dễ nhìn thấy nó cởi nút buộc ra. Cởi xong, hai tay nó nắm chắc lại, rồi thả dần ra cho đầu tôi hạ xuống đất. Nghĩa là nó muốn làm một ác thần cầm giữ cái giờ tận số của tôi. Nó thả xuống, chỉ cho mũi dao chạm vào da tóc, là lại kéo người tôi lên ngay. Kéo hết mực lại thả xuống. Cứ thế tái tam tái tứ, lần nào tôi cũng tưởng là lần quyết liệt cuối cùng! Có lúc buông từ từ, để tôi thấy cái ghê buốt xuyên từ óc vào suốt sống lưng; rồi thoắt lúc lại buông mau. Tay nó điều khiển một cách khôn khéo rất tinh ma, vừa kéo tôi lên cao, bỗng nó để buột dây, đầu tôi vừa chấm mũi dao thì nó giữ lại kịp. Nó cười khoái trá lắm, trong lúc ấy thì tôi toát mồ hôi lạnh. Lối giả vờ quái gở ấy nhắc lại luôn mấy lần. Ví phỏng tôi giàu có mà nó dùng cách ấy để khảo của thì có dễ tôi đến phải xưng. Nhưng đòi lấy một lời năn nỉ bấy giờ thì có phương khủng khiếp hơn cũng vô ích. Tôi không dám nói là mình không sợ chết, nhất là cái chết theo kiểu độc địa kia. Lòng tôi lúc ấy chua xót vô cùng, tâm trí cũng dị kỳ lắm. Vẫn mong cho nó giết đấy, lúc tưởng phải chết lại mong nó khoan tay. Cái lòng muốn rút cho xong tức thì lại có lòng muốn sống thêm chút nữa đối ngay lại. Thằng khách có biết tâm sự tôi không mà nó làm khổ tôi đến thế? Tuy vậy tôi nhất định không để lộ một vẻ gì khiếp nhược ra bề ngoài, cả đến sắc mặt tôi cũng cố không để biến.

Thằng khách thấy tôi trơ trơ, không một tiếng kêu thốt nhiên, không một hơi thở mạnh, thì căm giận lắm. Cái lối hành hình của nó hóa ra nhàm, hóa ra nhụt trước sự kiên cường, khó chuyển của tôi. Trước nó còn hầm hầm phun ra những lời tức tối, sau nó như lấy làm lạ, nhìn tôi chăm chú lẩm bẩm nói như thách thức, như nạt nộ: “Được lắm được lắm, rồi mày biết tay ta!”. Rồi nó cột dây lại như cũ, ngồi nhìn quanh quẩn ra vẻ suy nghĩ nhiều lắm. Tôi biết nó đang nghĩ cách hiểm ác hơn để làm tôi đến điều khốn khổ. Nhưng tôi đã nhất quyết không để nó được vui sướng mà trông thấy cái chết trong lòng tôi lúc bấy giờ.

Người con gái rũ rượi lõa lồ kia vẫn không nhịn được rên khóc. Tiếng khóc nấc lên từng hồi. Tóc cô ta xõa thành nhiều món hỗn độn bết vào nước mắt nước mũi, với những vết máu rướm trên mình. Tôi bị treo cách bản gỗ dựng không xa, song dần dần mắt tôi hoa lên, lắm lúc chỉ trông thấy một hình thể mờ trắng, có những ánh lửa lấp lóe trên mấy lưỡi dao sát cạnh cô ta. Thằng khách chừng không để tâm đến cô ta nữa.

Nó đứng dậy quay đầu nhìn khắp hầm, dáng vẻ băn khoăn suy tính. Mắt nó gặp mắt tôi hai ba lần, hằn học, thâm hiểm. Bỗng nó phát tay lên dúi một cái reo lên chặng cười thích ý, nói lảm nhảm một thôi một hồi. Tôi chớp mắt, chăm chắm đợi, thì thấy nó ôm ở đâu ra một tảng đá lớn, rồi nhanh nhảu đi lôi cái nải gạo ở chân cầu thang vào để một bên. Trong hầm đất này, cái hình vóc to sù kia qua lại, cử động có một vẻ hoạt bát dị kỳ như một bóng ác quỷ trong một địa ngục lạnh lẽo.

Nó hạ tôi xuống. Lựa cho ngực với bụng tôi nằm áp mặt đất, bên cạnh con dao nhưng chân vẫn bị treo ngược. Tôi không rằng, không nói, không một mảy may chống cự vô ích cứ lẳng lặng mà xem nó làm. Nó cởi bỏ cái dây chão quấn bó người tôi ở lần ngoài cùng đi, rồi kéo hai tay trói kẻ sau lưng tôi mà buộc làm một với hai chân; gối tôi liền gấp lại. Tôi chẳng khác gì một con vật sắp bị đem làm thịt. Người tôi lủng lẳng sát đất, ngực ưỡn mũi dao sắc, búi tóc sổ rủ xuống hai bên thái dương.

Thằng khách lại rút tôi lên, rút lên giữa chừng cái khoảng từ trên hầm với mặt đất. Giữ như thế làm mực nhất định, nó bắt người tôi bị kéo lên hạ xuống mấy lượt nữa. Chỗ mỏ sắt dây thừng cọ đi cọ lại từ trước lúc đó đã nhẵn bóng, tay kéo đã thêm dễ mà tiếng dây siết đã êm hơn. Chán rồi nó mới đem buộc kỹ lưỡng đầu nải gạo với tảng đá lúc nãy vào với nhau, lại buộc phần dây thừng buông kéo tôi vừa rồi vào hai thứ ấy. Buộc xong, nó còn thử xem nải gạo với tảng đá có đủ nặng cho người tôi khỏi lôi bỗng lên được không. Thử đã vừa ý - sức nặng của tôi với hai vật kia vẫn thăng bằng, thằng khách liền buông tay ra. Người tôi lúc ấy lửng lơ, không rơi lên được lưỡi dao dưới đất. Thằng khách bèn lấy con dao khác, chọc một lỗ, ở đáy nải cho gạo chảy ra dần. Bấy giờ tôi mới hiểu cái độc kế của nó.

Nó khoanh tay ngắm cái công trình cơ xảo độc dữ của nó, vẻ đắc chí hớn hở trên mặt. Tôi lấy làm ảo não mà hiểu rằng lần này thế là hết, lần này thi cái phép tuyệt diệu của nó sẽ đưa thẳng tôi đến cái chết sau cùng. Nó đang ngồi chăm chú dò xem thần sắc của tôi, sực nhìn lên thấy người con gái nức nở. Nó đùng đùng nổi giận, vớ roi nhảy lên vừa quát tháo vừa thẳng cánh vụt. Người con gái lại gào khóc. Nó càng hăng đánh. Tiếng roi bay vun vút như quật đen đét vào trong những tiếng kêu thảm thê. Tôi nghe chừng người con gái đã nhược sức lắm. Trận đòn vẫn dư, mà tiếng khóc như yếu đi, nghe càng chua xót, càng não lòng thêm nhất là vì tôi biết cái số mệnh của tôi cũng không được bao lâu nữa.

Dòng gạo trắng bên cạnh tôi vẫn không ngừng chảy. Cái dây treo tôi bắt đầu cựa ở chỗ móc sắt, các thớ da thịt thân thể tôi gai sởn cả lên. Huyết mạch chuyển qua từng đợi sóng bàng hoàng. Người tôi chốc chốc lại tưởng tụt mau xuống một cái.

Nải gạo đã vơi đi chừng ba bốn đấu, hạt gạo rơi bắn tản mạn trên mặt đất đã thấy dần dần thành có chỏm, mà mỗi khắc một cao dần. Thằng khách chợt để ý. Nó vội lấy chân vun hết gạo hất thật xa. Từ lúc ấy nó vẫn coi chừng giữ cho cái khoảng đất xung quanh con dao bao giờ cũng quang phẳng.

Lưỡi dao loáng sắc yên lặng chĩa cái mũi nhọn lên ngực tôi, như đợi chờ ở đó đã lâu như một thứ khí giới yêu ma, chỗi mọc từ một cõi âm ty nào. Lưỡi dao đó chỉ lát nữa sẽ ngập vào tim phổi tôi, tôi sẽ giẫy giụa hấp hối biết bao lâu, rồi người sẽ cứng còng, chân tay co quặt trong một dáng thiểu não!

Gạo cứ chảy. Tôi cảm thấy từng mẩu dây chậm chạp tuột qua vòng móc. Chẳng mấy chốc nữa đồng cân bên gạo rút đi, mà người tôi sẽ gấp mau sức nặng thêm.

Tôi thực là trông rõ thấy mình chết.

Mặt tôi nóng như tức máu, những vết trói, dấu đòn không biết đau nữa, trống ngực đập đến tức thở, hai tai nghe ào muôn nghìn tiếng rất lạ lùng. Ồ! Cái chết phi thường, cái chết tai quái! Nải gạo kia tức là một thứ đồng hồ, mà gạo trong nải tức là những giọt nước vô cùng thảm khốc, vô cùng khắc nghiệt, mà mau chóng làm sao! Gạo tuy cứ đều đều từ từ mà rơi, nhưng thoát ra lẻ nào vực nào là cái chết nghiêm khẩn, khắt khe lại gần chừng ấy! Cái thời khắc vừa quá ngắn, lại vừa dài ghê!

Tôi bắt đầu nghĩ đến thân thế tôi, đến quê hương tôi, nghĩ đến tất cả các bằng hữu thân thích tôi, đến cuộc đời của tôi đáng lẽ còn dài, còn nhiều bước hạnh ngộ tốt đẹp, còn bao nhiêu hứng vị sẽ được hưởng ở bao nhiêu độ tiến của tuổi trời. Đột nhiên đến bây giờ là đoạn tuyệt! Tôi phải chết. Mà chết bởi một kẻ thâm độc ở đâu chợt đến, chết vì một việc kỳ quái, vô nghĩa lý, chết thầm kín, chậm chạp, giữa lúc khỏe mạnh, tỉnh táo: trong giờ bi đát không được xuôi ruỗi, không ai phủ khăn vuốt mắt; chịu để cho một lưỡi dao bình yên giết hại; chết trong lúc làm trò vui mắt cho một con quái vật nó lấy câu nguyền rủa để làm lời tiễn tống mình. Bao nhiêu ý nghĩ chua xót thấm thìa!

Người tôi hạ xuống một gang rồi hai gang.

Nhưng tôi biết trước rằng chẳng mấy chốc, khi nải gạo vơi quá nửa, nhẹ bổng đi thì tôi sẽ rơi xuống thẳng một mạch, chứ không dần dà được mãi như lúc này. Ý nghĩ cay đắng ấy chói buốt tâm can. Chẳng biết tôi làm thế nào mà giữ được thần sắc lạnh lùng chứ thực tôi thấy lòng tôi thảm hại quá, thiểu não quá. Mắt tôi đến lúc lóa thêm rồi, nhìn cái chân quét gạo của thằng khách chỉ thấy một hình thù sẫm xanh cử động, nhưng lưỡi dao như sáng thêm, dài thêm. Cái dây chão kia thực là dây treo tính mệnh tôi, mà thực cũng mảnh hơn sợi tóc.

Dòng gạo trắng đổ xuống một vệt thẳng mơ hồ, cái thăng bằng đã thiên lệch nhiều. Nải gạo với tảng đá không ở tầm nhìn của tôi nữa. Càng khắc tôi càng thấy người thêm nặng giá tôi quẫy mạnh lên một cái thì xong nợ tức thì. Nhưng tại sao lại không? Tôi cứ ở yên, cố sức lặng yên. Cứ y như là vẫn trông mong một sự gì đây: nhưng bấy giờ thì trông mong gì được! Nải gạo nhẹ lắm rồi. Dây chuyển qua chỗ móc sắt cấp thiết thêm. Tôi nín thở lại mà gạo vẫn cứ chảy. Chẳng biết vì cớ gì người con gái gần tôi vẫn khóc: thằng khách đã nghỉ tay đánh từ lâu. Tôi phảng phất thấy một khuôn mặt tròn, nhăn nhở cười, nhe trắng một mảnh răng. Nó áp mặt rất gần để xem tôi hấp hối. Miệng nó thổ ra những tiếng như gầm ghè, hục hặc. Rồi lại hề hề cười. Vừa cười, vừa hô, vừa lấy tay đánh nhịp để thúc giục cho gạo chảy mau hơn nữa, cho tôi thêm mau rơi xuống, cho mũi dao cắm ngay vào ngực tôi.

Tôi chịu sự khốn khổ đến mức cùng tột mất rồi, phải nhắm mắt lại để đợi, mà cũng là để thôi nhìn cái mặt ác thú kia. Tôi buông sức cố gắng ra, tâm thần hồ thành mê loạn. Chỉ trong khoảng hai hơi thở, hai nhịp trống ngực mà tôi thoáng nghĩ đến trăm nghìn muôn ức hình ảnh kỳ quặc, thoáng nghe thấy hỗn hòa những tiếng ồn ào. Mà bên tai vẫn nhận rõ tiếng người con gái vẫn thút thít, với lại tiếng thằng khách hô nhịp không ngơi mồm. Rồi như xôn xao tiếng người thưa thưa gọi gọi, lại như huỳnh huych những tiếng tấp nập chen chúc ở đâu đây. Người tôi như ngã từ trên mây, rơi tuột xuống rất nhanh. Nhưng không có một chút gì là đau đớn hết. Có tiếng gọi ôn tồn ngay bên cạnh.

- Anh Triệu à, anh còn tỉnh chứ?

Tôi thấy tôi hẫng lên, rồi hạ nằm nghiêng dưới đất. Tiếng vừa rồi tưởng như nói trong thế giới nào. Tôi mở mắt, thấy toàn là người quen cả: không biết xuống đây từ bao giờ? Bạn săn của tôi đã lấy dao gỡ hết dây trói, chân tay tôi đã thoát nhưng vẫn tê dại, họ phải xốc đỡ tôi ngồi lên. Tôi vẫn mơ màng chưa hiểu ra sao. Bao nhiêu miệng cùng thăm hỏi mà mình vẫn cứ ừ ào chưa nói lên được. Trông đến người con gái thì mặt xám ngắt như chàm đổ, bấy giờ bất tỉnh, vẫn bị giằng trói, vẫn trần truồng. Tôi cũng không phân giải được câu nào, chỉ lấy tay ra hiệu cho họ nhổ dao quanh mình rồi cởi trói cho cô ta. Còn thằng khách thì đã bị năm sáu người đè xuống, đang lấy dây quấn chịt từ đầu đến chân.

Bấy giờ tôi biết là thoát nạn rồi, nhưng phải nghĩ mới dám tin là chắc chắn.

Một lúc lâu nữa tôi mới thực hoàn hồn. Người con gái hơi thở đã mạnh, mắt đã lại sắc dần, họ đã lấy quần áo của tôi mặc cho, đặt nằm một nơi đợi cô hồi tỉnh. Tôi bèn đem việc ở dưới hầm sơ lược kể cho họ nghe nhân lại hỏi sao họ biết được tôi bị khốn ở đây mà xuống cứu.

Người Nùng đêm ấy bàn nhau nghỉ săn sớm, cuối canh ba đã gọi nhau trở về khác hẳn lệ thường cứ đến gần sáng mới nổi hiệu mãn cuộc. Họ định trưa mai đem da cọp đi trình ông châu Lùng Sa. Vào đến miếu, họ không thấy tôi đâu, điểm xem thì lại thấy mất một nải gạo. Họ còn chưa hiểu duyên cớ thì bỗng văng vẳng nghe tiếng rên khóc cùng với tiếng quát tháo. Họ ngạc nhiên lắm, lẳng lặng tìm sục các nơi xem. Không thấy gì cả, nhưng tiếng khóc tiếng mắng vẫn còn. Trước họ còn tưởng là chính ông thần miếu này đang nạt nộ sau mới chợt tìm ra lối xuống hầm. Thì ra lúc tôi chực trốn lên, tôi đã hé mở được phiến gạch mà thằng khách vô tình không đậy lại. Tiếng dưới hầm do đấy vẳng lên, người Nùng mới vì thế biết được lối xuống. Cũng may, họ không làm ồn. Còn thằng khách thì phần vì đang mải, phần không ngờ, nên không nghe thấy gì hết. Họ mở nắp hầm lên, trước hết trông ngay thấy người con gái trước phiến gỗ, thấy tôi đang bị treo, rồi thấy thằng khách quay lưng ra, tay đang khoa, miệng hò hét. Họ máy nhau rón rén xuống cả nấp sau bóng cột rồi cùng một lượt ồ lại bắt thằng khách. Hai bên xung đột một lúc thằng khách mới chịu thua. Trong khi đó, hai người đến cứu tôi. Họ vừa kịp đón lấy tôi chính giữa lúc tôi tuột thẳng xuống. Trước hết lấy chân xéo đổ con dao dưới đất, một người bế nâng tôi lên cho người kia cắt dây.

Thực hú vía! Muôn phần tôi không ngờ được một là còn được sống ở đời. Trong bụng vui mừng mà tôi vẫn trơ trợn bàng hoàng, tâm thần như chưa thực hẳn.

Chúng tôi bàn định ngay hôm ấy sáng rõ thì dẫn người con gái với thằng khách lên châu Lùng Sa, để quan châu tra vấn. Tôi bảo bạn săn hãy vực người con gái lên trên miếu để khi tỉnh dậy khỏi phải trông thấy quang cảnh khủng khiếp dưới hầm.

Bỗng từ chỗ thằng khách nằm, mấy chặng cười rống lên. Tiếng cười nghe thực ghê rợn, không ra tiếng cười ròn, không ra tiếng khúc khích mà cũng không hẳn tiếng cười nữa. Cứ thấy khê nặc lên từng hồi những tiếng “hô hô” “hệch hệch” rất lớn, vang âm quái gở, nghe gần tựa như tiếng ễnh ương hay ếch trâu nó ỳ òa ỳ oặc liên thanh sau những trận mưa rào. Ai nấy kinh ngạc đứng phỗng ra. Lúc đến gần, soi đuốc xem thì trên mình thằng khách máu trào ra như chan, đổ ngòm hai tay nó lại vũng cả một khoảng mặt đất. Thì ra tay bị trói đè lên bụng nó đã cố lần lách vào lần áo trong móc ruột ra mà tự tử! Ngăn cản thì đã quá muộn. Thằng khách không giãy giụa, chỉ co giật mấy cái rồi đờ người, nằm im. Nó chết mà hai mắt vẫn trừng trừng còn mở, nhìn trao tráo vào mắt tôi. Tôi rùng mình bất giác lại tưởng đến hai mắt tôi bất chợt hôm nào, rồi lại nhớ đến hai mắt con trăn... Mắt người đã chết rồi mà sao vẫn có cái sức yêu ma đến thế! Suốt đời tôi khó mà quên đi được, mà mỗi thốt nhiên nghĩ tới thì vẻ nhìn quái gở lúc đó vẫn còn xiên qua khắp tâm hồn tôi. Lại còn tiếng cười kia nữa, tiếng cười kỳ quặc, khủng khiếp! Tôi tưởng như đó là những câu đe dọa ghê gớm: trước khi nó chết, hình như thằng khách hẹn với tôi rằng nó sẽ không quên tôi, nó còn tìm được mưu độc hại cho bằng được tôi để báo oán. Trong cuộc đời tôi sau này, mỗi khi bị hiểm trở, mỗi lần mắc phải tai ương nào, tôi lại nghĩ là do vong hồn con ác quỷ kia xui nên. Cả trong yên vui tôi cũng thường chột dạ. Oan khí như không bao giờ tiêu tan hết, bao nhiêu căm hờn, bao giờ cũng theo đuổi bước đời của tôi ám ảnh sự thái bình của tôi: không có cách nào trừ đi được.

Cả bọn người Nùng đều lắc đầu lè lưỡi trước cái chết đột nhiên mà phi thường này. Còn tôi thì như đã quen, đã dạn những điều quái đản từ trước, tôi không lấy sự thằng khách cấu rốn tự tử làm quá đỗi lạ lùng. Chỉ ngấm ngầm lo sợ không dám nhìn đôi mắt mở của thằng khách, tôi nín thinh, vừa rờ tay thăm lại những dấu đòn trên người, vừa đi xem xét khắp hầm vừa ngẫm nghĩ.

Tôi bụng bảo dạ: những việc xảy ra dưới hầm này đêm hôm đó, tất thằng khách đã rắp tâm từ lâu, mà chừng làm quen tay lắm, cho nên mới sẵn những hình cụ như bản gỗ, những móc xích với những dây thừng. Các thứ ấy đã cũ đã rỉ ra cả. Công việc hắn làm có lẽ không hề ai biết, không từng có ai cản trở. Bỗng đến nay, thấy một bọn người từ đâu đâu kéo đến làm cho hắn kinh lạ. Hắn phải để mắt dò xét cẩn thận: những lúc thốt nhiên thấy cái bóng áo chàm xanh trong rừng, có lẽ chính là những lúc thằng khách lẩn lút quanh quất đó mà dòm dỏ chúng tôi. Cả bận hắn lẻn vào trong nhà lều, hẳn cũng là một phen trốn tránh những lúc bí thế; không chừng thằng khách nhân dịp ấy còn muốn gây cho cái thói mê tín của người Nùng thêm vững, để cho họ đừng chú ý đến các tính cách công việc riêng của hắn cũng nên. Hay ngoài ra, lẻn vào lều hắn còn chú ý gì khác nữa, thì tôi không đoán ra được. Lúc hắn lẻn vào trong miếu, chỉ có tôi trông thấy hút; nhưng dù cho cả mọi người trông thấy nữa, hắn cũng biến mất tích như một bóng ma. Lúc ấy thì nào ai ngờ đâu đến cái hầm dưới đất? Thằng khách chỉ việc lật cái phiến gạch, nhảy xuống, đậy lại như cũ, thế là đủ cho bọn người sẵn lòng tin chuyện biến ảo, yên trí là vừa gặp vía quỷ thần. Trốn ở dưới hầm, giá thằng khách biết rằng trên miếu người ta đang lửa hương cầu cúng hắn, chắc cũng phải lấy làm buồn cười. Rình mò nghe ngóng mấy hôm, thằng khách dò biết chắc chắn rằng chúng tôi là bọn đi săn, mà chỉ ban đêm mới kéo ra khỏi miếu, hắn mới đem tội nhân của hắn xuống. Hắn không ngờ là trong miếu đêm ấy lại có tôi, sự tình cờ đã khiến tôi biết được những “chuyện kín” ghê gớm dị thường kia, lại cũng khiến tôi phải một phen kinh khủng hút chết.

Song thằng khách là người thế nào? Vì những lý do gì mà lại đến tận chốn này mà thi hành những việc độc ác như thế? Trong mình nó không có qua một thứ giấy má nào để người ta có thể biết được tên tuổi, lai lịch của nó.

Thằng khách đã chết thì bao nhiêu ẩn tình về chuyện này họa chăng chỉ có người con gái Tàu kia là biết được ngành ngọn. Từ hôm đưa cô ta đi trình Ông châu thì cô ta bị một cơn sốt kịch liệt rồi cứ mê mê mẩn mẩn, khi cười khi khóc như người hóa điên. Ông quan châu biết chưa thể tra vấn được, nên cắt người săn sóc thuốc thang đợi cô ta hoàn lại tính người. Trong khi đó, thổ dân ở những thôn gần đó, không mấy ngày là không nói đến việc xảy ra trong rừng lớn Lùng Sa. Người thì cho rằng người con gái kia là một vật hy sinh đem đến cho con yêu trong miếu ăn thịt, người thì lại bảo là thằng khách cưới vợ cho Thần Rừng. Vì thế có kẻ lo sợ rằng vị thần Lùng Sa sẽ oán bọn người Nùng đi săn, rồi oán lây cả đấn dân làng, vì bọn đi săn đã làm chết mất thằng khách là người hằng năm vào trong hầm cúng tế. Nhiều người kể cho tôi nghe rằng, mấy năm trước đây, họ trông thấy một người khách to béo thường vào trong rừng hoang, khi đi một mình, khi dắt theo một người con gái; cứ gặp thấy người làng là ù té chạy, rồi không biết biến đằng nào mất.

Những điều ức đoán với cách giảng nghĩa của họ cũng như của bọn người Nùng bạn săn với tôi, đều mơ hồ lắm. Lòng tin tưởng của họ ngây ngô, đơn giản nhưng là vững mạnh. Tôi cũng không muốn biện bạch với họ làm gì. Tuy vậy, cũng có điều khiến tôi suy nghĩ, là thấy họ nói đã từng gặp thằng khách một vài lần. Về điều này nhiều người cam đoan là không sai, vì đã có nhiều người trông thấy. Thế thì có lẽ cái cảnh tượng tôi được “thực mục sở thị” đêm hôm xưa, quả như điều tôi đã đoán trước, không hẳn chỉ mới diễn ra lần đầu. Mà nếu thằng khách không bị bại lộ thì chưa biết chừng nó còn ngấm ngầm tác ác đến bao nhiêu phen nữa.

Ông châu Lùng Sa cùng những người có trách vụ hoặc chú ý đến chuyện này, trong khi đợi người con gái bình phục, đều băn khoăn như tôi. Thằng khách là hạng người nào? Cái hầm đất kia với nó có những quan hệ gì? Những việc nó hành động là do những căn nguyên nào? Khó lòng phân giải được cho xuôi ổn.

Khám xét trong hầm cũng không thấy ngách ngả nào thêm nữa. Hầm đào chừng lâu lắm, cách chống đỡ rất kiên cố, mà xem ra đào cùng thời dựng tòa miếu. Không thể nào đoán được miếu ấy thờ ai. Có lẽ miếu dựng lên chỉ để làm nơi đánh dấu, hoặc để người ra vào hầm đó không bị nghi ngờ gì. Cửa hầm thì ở một góc miếu phía tay tả (kể lúc mình ngoảnh mặt vào trong), nhưng hầm lại đào ở hẳn khu ngoài. Tìm kỹ lưỡng, thì thoạt tiên ngoài những cái tôi trông thấy ngay đêm bị nạn, chỉ thấy thêm được ít lương khô cùng với mấy nén bạc thằng khách đem theo. Mãi sau vì cái mùi thối nát khác thường, không thể ngờ là do xác chết của thằng khách xông ra được, người ta mới đào một vài chỗ lên xem thì thấy những xương người đen sì; thịt chưa rữa hết, có đến hai ba bộ. Những sự kỳ bí chỉ tối tăm dày đặc thêm lên.

Người con gái Tàu thì ngày càng kiệt lực. Cô ta không mê hoảng như mấy hôm đầu nữa, song bệnh tình trầm trọng như thế, xem chừng cũng không đậu được bao lâu. Một hôm tôi ở bản Khau đến thăm cô ta bên châu, cô ta ứa nước mắt không nói gì cả. Tôi lấy giọng ôn tồn dịu ngọt yên ủi cô ta. Tuy không hiểu tiếng, nhưng cũng biết là lời ân cần khuyên nhủ mình, cô ta nhè nhẹ mỉm cười, đầu khe khẽ gật.

Cách đó ít bữa, tôi lại đến châu Lùng Sa thì được tin người con gái Tàu đã chết. Tôi bùi ngùi lắm, toan trở ra về thì ông châu cho người lưu lại, mời tôi vào nói chuyện. Ông ta lấy trong tráp, đưa ra cho tôi một phong thư dày, nói là của người con gái Tàu để lại, dặn gửi riêng cho tôi. Bức thư dài lắm, nét bút ẻo lả, viết lối hành khải, nhiều dòng chữ líu ríu chi chít nhưng cũng đủ rõ ràng. Ông châu nói rằng trước hôm cô ta tắt nghỉ, lại thấy tươi tỉnh, ra hiệu mượn bút giấy, nhờ người đỡ ngồi dậy để viết bức thư này. Trong thư, người con gái Tàu kể rõ tên tuổi, lai lịch mình, với cái duyên cớ vì đâu cô ta bị thằng khách hành hạ. Nhờ đó tôi biết được phần lớn câu chuyện. Mãi mấy năm về sau, được gặp một viên quan Tàu trong sứ bộ Trung Quốc sang giao thiệp với triều đình ta, ngẫu nhiên tôi nhắc đến việc xưa thì thấy ông phó sứ ấy nói là đồng quận với thân nhân người con gái Tàu. Hợp với lời trần bạch trong thư của cô ta, câu chuyện ông quan Tàu thuật lại với tôi đã khiến tôi biết được hết đầu cuối những điều mà tự mình suy tầm, tưởng khó lòng thấu rõ được.

Một chuyện ghê gớm (3)

Cô ta tên Thúy Liễu, con gái họ Lâm, quê ở mạn Phù Nam bên Tàu, cha mẹ nhà nghèo, chỉ có một mụn con gái làm của báu. Năm cô ta lên chín, hai ông bà kế nhau tị trần. Trong họ có bà dì nhà cũng khá giả, động lòng vì cái cảnh thương tâm cùng mực đó, đem Thúy Liễu về nuôi. Thúy Liễu ngoan nết lại thông minh, bà dì hết lòng chăm nom dạy dỗ, nhan sắc ngày một thêm dịu dàng, được nhiều người quý mến khen ngợi. Đến năm cô ta mười tám, bà dì từ chối các đám giàu có, gả Thúy Liễu cho một viên huyện quan họ Mã, tính tình thuần lương.

Mã Sinh là người ở xa đến, mãi đâu từ trên Hàn Khẩu. Nhậm huyện này kể đã năm sáu năm, mà chưa lần nào về thăm quê nhà. Từ ngày lấy nhau, vợ cũng không từng về được chào lạy họ mạc bên chồng. Mã Sinh quý vợ lắm, tình ngày thêm khăng khít mà hai người trọng lẫn kính chung. Nhưng Mã Sinh vốn ít nói, về chuyện tổ phụ mình, chàng lại kín đáo lạ thường. Thúy Liễu thường bất chợt thấy chàng băn khoăn lo lắng, có hỏi thì chỉ đáp là bận lòng về việc quan. Được dịp, giục về thăm quê, chàng bao giờ cũng tìm được cớ thoái thác. Mã Sinh làm quan hết lòng chăm chỉ, rất mực liêm khiết; thái độ nhũn nhặn; tính hiếu thiện, hay thương giúp người khốn cùng. Cả huyện ai cũng yêu mến mà nể sợ. Cảnh gia đình tuy thanh bạch song thực là đằm thắm êm ái. Mã Sinh như thế có thể gọi là người được sung sướng ít ai bì. Nhưng cái mối u uẩn kia bởi đâu, khiến vẻ mặt chàng lúc nào cũng có bóng ưu phiền? Thúy Liễu hết cách ý tứ để dò xét cũng không thể nào biết được. Có những buổi chồng nàng lặng lẽ thái quá, lại có những khi cười nói hớn hở một cách không được tự nhiên, những lúc đó Thúy Liễu lại lo hơn, mắt chàng thoáng qua những vẻ hoảng hốt.

Một hôm, thần sắc Mã Sinh biến loạn, một vẻ rất đáng sợ. Chàng bỗng như cuồng dại, không thể giữ gìn được cử chỉ, cả ngày bứt rứt đứng ngồi không yên chỗ, mà cứ quanh quẩn ở hậu đường. Đến tối, sai tôi tớ mỗi người một việc, chàng gọi Thúy Liễu vào phòng, cầm lấy hai tay nàng rồi rưng rức lên khóc. Thúy Liễu hết lời khuyên van căn vặn mãi, chàng mới đem chuyện kín ra kể cho vợ nghe.

Ông thân sinh ra cha Mã Sinh là Mã Hồng, trước kia làm quan cao phẩm, có thế lực lớn. Khi hồi hưu, vẫn giữ thói thị oai thường làm nhiều điều tà khuất ức bách dân gian. Tuổi tuy già nhưng tính đam mê nữ sắc đẹp không bớt. Đàn bà con gái, cứ thấy ai lia mắt là sai bắt về cho bằng được, gây ra nhiều tình cảnh oan khổ mà không ai dám hé răng. Sự buông túng ngày một tệ thêm, vợ con trong nhà khuyên can thế nào cũng không nổi.

Trong bọn người bị cưỡng đoạt có Trương Thị là người nhan sắc hơn cả. Trương Thị khảng khái trinh liệt, một mực không chịu để người nhục phạm được mình. Mã Hồng dụ dỗ chỉ uổng lời, đe dọa cũng không thấy chuyển. Sau cùng Hồng sai lột hết xiêm áo của Trương Thị, trói chân tay lại mà hành hạ, dùng cách tàn ngược để bắt phải theo. Trương Thị phần đau đớn, phần hổ thẹn, đến hôm thứ ba, Mã Hồng mở cửa phòng giam bước vào thì đã thấy người đàn bà cắn lưỡi chết. Mã Hồng vội sai người đắp điếm rồi ngầm đem vùi một góc vườn ngoài.

Chồng Trương Thị là Lý Chu, cùng với con trai đi buôn ngọc ở các nơi xa về căm tức đến phẫn uất, Chu biết rằng mình thấp cổ bé miệng, dù có phá sản để đi kêu đi khiếu cũng vô ích; cái quyền thế của họ Mã vững chắc như thành liền. Những nhà giầu có chẳng kém gì nhà Lý, vai vế lại không phải tầm thường mà đối với sự tàn ác của Hồng cũng đành phải nhịn nín. Chu nuốt hận, nuôi chí báo thù.

Chu để tâm hết sức dò xét, biết được chỗ đất chôn Trương Thị, nhân một đêm tối, đào lên đem xác về mai táng hẳn hoi. Trông thấy cái thân hình lõa lồ của vợ, Chu cuồng dại lên vì đau xót, thề nguyền rất độc rằng sẽ ăn gan uống máu Mã Hồng. Nhưng Mã Hồng đã dự mưu từ trước, dùng luôn việc báo thù của Lý Chu để hại Lý Chu.

Một đêm Chu lẻn được vào tướng phủ, thấy Mã Hồng ngồi đọc sách ở đại sảnh một mình Chu nhảy xổ lại đâm thì bị gia đinh của Hồng phục sẵn đó đổ ra bắt Chu trói lại. Muốn trừ tiệt hậu họa, Hồng bèn nghĩ ra một kế thâm độc là mua chứng cớ, hãm Lý Chu vào tội thái ác, Mã Hồng vu cho Lý theo nghịch đảng ước với giặc về mưu sát công thần. Trong nước bấy giờ, vào khoảng năm Đạo Quang thứ mười, bề ngoài vẫn bình trị, nhưng ngấm ngầm đã có những mối loạn lẩn nấp lẫn với những bọn cường khấu ở một vài nơi. Đạo sớ của Mã Hồng tâu lên, triều đình tin ngay, tức khắc truyền chỉ bắt lấy cả nhà Lý Chu và hạ lệnh tru lục, Mã Hồng tịch thu lấy sản nghiệp của họ Lý, bao nhiêu bạc vàng châu báu riêng lượm lấy hết, trích ra phần lớn đút lót cho mạnh thêm vây cánh, cho việc mưu tính của y chóng xong: Việc bức tử Trương Thị, người ta có đoán biết cũng làm ngơ, lấp liếm dưới của hối lộ và quyền thế.

Con trai lớn của Lý Chu là Lý Thạch đang trên đường lên Bắc Kinh để chạy chọt cố kêu oan cho cha nghe tin biến, tức khắc quay lại, nhưng không dám về nhà nữa. Hắn phải ẩn náu trốn tránh đến điều cơ cực. Khi cả nhà bị đem xử tử thì Lý Thạch đã lẩn lút ở miền Nam. Đến đâu cũng thấy bị truy nã, hắn phẫn chí, theo bọn cướp lớn Linh Lâm, một đảng có tiếng là xuất quỷ thần.

Cách đó ba năm, Mã Hồng đương ung dung tác uy, tác hại thì bị một người giữa đêm nhảy vào nội đường giết chết, cắt đầu mang đi. Bên cạnh thây, một bức thư ký tên Lý Thạch. Trong thư, Lý Thạch thách thức, đe dọa hẹn rằng sẽ giết ba đời họ Mã để rửa hờn. Việc ám sát Mã Hồng, người nhà hết sức bưng bít để tránh thêm phần nhơ nhuốc cho gia thanh, vì thế, người đến phúng viếng có hỏi, Mã phu nhân đều trả lời rằng tướng công vì ngộ cảm mà tạ thế. Mã Hồng bị giết, tống táng vừà được ba ngày, thì chính thất phu nhân tự dưng không biết đi đâu mất. Cả nhà chưa hiểu sao, cũng chưa kịp thăm hỏi các chỗ thân thích bỗng một buổi sáng Mã Hoằng là trưởng nam nhà họ Mã dậy sớm chợt thấy một mũi tên cắm ở cửa phòng phu nhân. Cuối tên buộc một cuốn giấy. Giở ra đọc thì chỉ có năm chữ: “Hảo hán báo mẫu cừu”. Mã Hoằng nhớ ngay đến bức thư bên cạnh thây cha, biết rằng mẹ chàng cũng mắc tay Lý Thạch. Hoằng lo sợ lắm. Mấy lời nguyền cả quyết báo thù kia, Lý Thạch tất không đời nào quên. Vậy thì mình, cùng với anh em mình, rồi vợ con mình, rồi đây tất sẽ lần lần bị hại. Cơ nguy bao bọc lấy con cái họ Mã trong cái trùng vây thù oán vô hình. Họ không cho tiếng tăm lọt ra ngoài, nhưng ngày đêm vẫn tìm hết phương kế phòng ngừa.

Mã Hoằng có độc nhất một con trai là Mã Sinh, bấy giờ tuổi đã mười bốn. Mã Sinh đang ham chuyên việc khoa cử thì thấy cha bắt sửa soạn gấp rồi gửi mình cho một người cố hữu ở tận Quảng Tây. Trước khi chia tay, Mã Hoằng ghé tai dặn dò cẩn thận rằng, việc nhà chớ nên đem thổ lộ với ai, đi xa như thế lấy tiếng là du học, nhưng chính là để lánh họa. Mã Sinh cứ đi xuống Quảng trước, rồi độ dăm bữa nửa tháng gì, khi nào thu xếp cửa nhà xong, cha mẹ sẽ liệu xuống sau.

Mã Sinh đến Quảng Tây được hai hôm thì có hai tên đầy tớ cẩn tín ngày đêm đi từ nhà đến báo luôn mấy tin dữ. Mã Hoằng bị một mũi dao phóng chết trong phủ rồi ngay đêm sau Mã Thao, em ruột Hoằng cũng bị giết vì một mũi tên. Tìm hung thủ không những không thấy mà rồi mẹ với cô dì Mã Sinh cũng không biết bị bắt đi bằng cách nào.

Thế là chỉ trong vòng hai tháng trời, con gái anh em nhà họ Mã cùng bị hại về tay Lý Thạch. Trong lá thư đầu nó đã nói: Lý Thạch còn báo thù nữa kỳ lấy được mạng đủ ba đời thù nhân để hả oan hồn của cha mẹ họ hàng. Vậy thì rồi cũng đến lượt Mã Sinh. Sinh còn sống ngày nào còn phải lo sợ ngày ấy.

Ở nhà vị thân nhân của cha, Sinh hết sức kín tiếng. Quảng Tây cũng xa nơi hoạn họa hàng trăm nghìn dặm sơn xuyên. Tuy vậy Mã Sinh không mấy lúc dám ra ngoài. Một tiếng động cũng khiến chàng nghẹn hơi. Chàng e dè những kẻ ra vào, ngờ vực cả kẻ hầu cận. Thỉnh thoảng phải đi đâu, chàng tránh hết những đường vắng, nhưng cũng không yên bụng ở những chỗ đông người. Sinh thấy kẻ thù đón mình ở khắp các nẻo.

Nhưng hết năm nọ sang năm kia, lạ thay, Mã Sinh vẫn vô sự.

Chàng không ứng thí nhưng được hưởng lệ tập ấm ở Quảng được năm năm thì chàng đặc cách được bổ nhiệm một huyện ở Phù Nam. Kẻ thù chết rồi, hay bị bắt rồi chăng? Sao chàng không được tin tức gì? Sinh quyết rằng sự yên ổn đó không phải là do ở sự Lý Thạch lạc mất tăm tích chàng: chàng trốn tránh ở đâu mà cái chí báo thù kia không tìm thấy được? Có lẽ Mã Sinh vốn là người chuộng nhân nghĩa, đã hết lòng làm điều thiên, cố ý chuộc lại tội lỗi của ông cha, nên đã được thần minh giữ gìn chăng? Mã Sinh nghĩ thế nên khi làm quan, cái phẩm hạnh với đức độ liêm khiết của chàng trong quan liêu không ai sánh kịp. Hai mươi tuổi thì lấy vợ. Gặp được Thúy Liễu là người vừa đẹp vừa hiền, Mã Sinh thầm tạ ơn trời, tưởng sẽ được yên tâm mà hưởng thú đình viên. Không ngờ, một buổi sớm ra công đường lúc chưa có ai, một phát tên cắm trên án với một bức thư của Lý Thạch, thư rằng:

“Cha mẹ họ hàng ta đang an cư lạc nghiệp, tổ phụ nhà ngươi dùng thủ đoạn thái ác mà giết hại, khối máu căm giận chưa biết bao giờ mới tan. Ta may còn lọt sống lại đây, nên quyết đem cái mạng thừa này làm cho ba đời nhà ngươi cùng chịu với cha mẹ ta một số phận. Bấy lâu ngươi chưa phải chết là vì ngươi chưa có gia đình để ta đến phá. Bây giờ ngươi đã có vợ, là đã đến giờ ta ra tay. Thủ cấp ngươi, ta đem tế cha ta, còn tính mạng vợ ngươi ta sẽ đem tế mẹ ta ngày nay ở dưới cửu tuyền vẫn đợi trông ta báo phục”.

Thúy Liễu nghe chồng kể hết căn do câu chuyện kia, lo sợ lắm, bàn với chồng tìm cách tị lánh hoặc đề phòng. Mã Sinh lắc đầu thở dài, chàng biết rằng kế nào cũng vô hiệu: vì nếu mình còn có thể trốn chạy, ngăn ngừa để thoát khỏi tay nó được, tất nó đã không bắn thư đe trước làm gì. Vả lại Mã Sinh vẫn giấu kín việc nhà, cả đến Thúy Liễu mãi bây giờ sự đã đến nơi, chàng mới đem tâm sự ra thổ lộ cho hết. Thúy Liễu nghĩ cũng không thấy được mưu nào có thể tránh được họa nữa, phần thương chồng phần tự thương mình, rồi hai người chỉ biết ôm nhau mà khóc.

Mã Sinh cùng với vợ ngồi sợ hãi thâu đêm. Tường tuy cao cửa tuy kín, nhưng thâm nghiêm sao được bằng dinh phủ của cha ông chàng? Mã Hoằng cũng vẫn biết trước có ngày Lý Thạch đến, đã tìm hết phương đề phòng cẩn mật. Thế mà tên cướp rừng tự xưng là hảo hán kia cũng lẻn được vào tận nơi mà trả thù. Huống chi một khu huyện đường bé nhỏ này thì ngăn ngừa sao nổi cái tài nghệ thần bí của nó. Mã Sinh đành bó tay chịu, phó mặc thân mình cho số mệnh, kẻ thù đến chỉ cố hết lời kêu xin cho Thúy Liễu khỏi chết oan vì chàng.

Qua mấy trống canh nôn nao trong sự lặng lẽ hãi hùng, bỗng có tiếng động trên mái ngói. Rồi cửa phòng bật mở, một người to béo, nai buộc gọn ghẽ, nhảy vào, tay giơ một con dao sáng. Thúy Liễu rú lên một tiếng, ngất lịm đi. Rồi về sau tâm thần hoang mang, cứ ngơ ngác như ăn phải bùa; Lý Thạch đem đi đâu cũng theo, bảo gì cũng nghe nhưng không hiểu gì hết.

Mãi cho đến lúc Lý Thạch bỏ vào đẫy vác nàng xuống cái hầm kia, Thúy Liễu mới tỉnh lại để chịu hành hạ.

Hầm đất này trước kia nguyên là một nơi giấu của Lý Chu tìm được cùng với một bọn chuyên đi tìm vàng các nơi. Bao nhiêu vàng ngọc của người Tàu cất ở đó từ xưa, đều về tay bọn Lý Chu hết; của cải không còn gì ở trong nữa, Lý Thạch bèn dùng cái hầm bỏ không làm nơi mai táng hài cốt song thân, rồi sắm các hình cụ để làm tội các kẻ hắn đem xuống. Cái hình phạt Thúy Liễu phải chịu đó, nó nói cho biết là để tế vong hồn cha mẹ nó. Vì thế, trước khi ra tay, nó nhớ đến cái thảm cảnh nhà nó phải chịu nên động lòng gào khóc trước cái bệ nó thiết lập lên như một bàn thờ. Trong cơn thịnh nộ, Lý Thạch vừa nguyền rủa vừa quát tháo, hét vào mặt Thúy Liễu mà bảo rằng: bao nhiêu con trai nhà họ Mã đều phải chết như phụ thân nó, mà con gái, con dâu nhà họ Mã cùng chịu một khổ hình cay độc nhơ nhuốc như mẹ nó đã bị hành hạ khi xưa. Khi nó đã giết được đủ ba đời nhà Mã Hồng, nó sẽ đào lấy những thủ cấp chưa kịp cắt đem xuống chôn cùng với những thây bị hành hình ở trong hầm này, để cho cha mẹ nó ở dưới âm ty còn được báo thù một phen nữa.

Duyên do câu chuyện ghê gớm kia, phần lớn thuật lại ở bức thư của Thúy Liễu viết cho tôi lúc biết mình không sống được nữa. Bức thư tôi vẫn còn giữ. Lời chân tình có một giọng tha thiết mà cảm động, nhất là đoạn cuối cùng:

“Tiện thiếp nhờ được tráng sĩ ra tay hào hiệp, nên thoát khỏi lưỡi dao độc địa của thù nhân. Những tưởng thân được sống để còn mong có ngày báo đáp cái ơn cứu mệnh. Nào hay bấy nhiêu hình cực khổ, cùng với bấy nhiêu điều khủng khiếp, đã khiến thiếp mang trọng bệnh mà từ bỏ trần gian.

Những việc trên đây, đáng lẽ thiếp phải biết giữ kín nhưng nghĩ rằng chiếc thân gửi nơi đất lạ, không đành làm một khối oan hồn kỳ bí, khiến cho ân nhân không hiểu những tội tình kia thiếp chịu là duyên cớ vì đâu. Vậy tiện thiếp không quản bại nhược cố tĩnh tâm thần, để lại mấy hàng này, xin ân nhân soi xét”.

Giấc mơ

Xe hơi tắt máy dừng lại. Nguồn âm nhạc huyên náo bặt ngừng. Hai bên đồng không, phẳng buồn và bát ngát, trăng lạnh lùng treo cao.

Thanh và tôi đã đứng trên đường rất ngạc nhiên trong sự im lặng mênh mang của hơi sương bao phủ. Một điểm sao lạc trên bầu trời pha loãng. Một vừng cây đơn chiếc hiện lên trước một giải vân xa.

Chân mây mơ hồ như kéo gần lại.

Thanh tiến lên trước. Tôi theo. Đây là đâu thế này?

- Ai biết!

Chúng tôi đi về một phía đường đất lẩn vào cõi mịt mùng; ở đây, một dãy hình bóng mờ đen; cây cối, nhà cửa như bềnh bồng trong sương.

*

Chúng tôi tới một xóm nhà tranh liên tiếp nhau. Bóng đen rải trên lối đi cỏ mọc cằn, len với những gạch ngói lổn ngổn. Không một tiếng động. Không một ánh đèn lửa. Lạnh lẽo, im lặng. Mọi nhà im ỉm đóng. Chúng tôi qua hết dãy này đến dãy khác, như trong một làng bỏ hoang.

Một vài con chó lài ở đâu lui lủi bước về, dửng dưng, trông thấy chúng tôi đến thì vẫy đuôi mà đi xa ra huýt gọi cũng không trở lại.

Chúng tôi rẽ về một xóm khác, vắng lặng hơn. Bóng dãy nhà bên này ngả kín khắp lối đi và chỉ để sáng một nửa trên cửa những căn nhà trước mặt.

Chúng tôi bỗng quay lại một phía. Sau một tấm cửa phên lạ lùng quá! - Mấy tia lửa sáng yếu ớt xuyên qua. Đó là ánh lửa một ngọn đèn hoa kỳ. Căn nhà này ẩn trong bóng tối. Một thứ bóng xanh đen, trong trẻo và lạnh lùng và hư huyền.

*

Im lặng kỳ dị!

Vô tình, hai ba tiếng dế cất lên đâu đây rồi nín ngay lại, chìm đi mất, biến hẳn, không để lại một vết thanh âm nào trong tâm tư. (Sự ấy qua đi như một ý nghĩ chưa thành hình, và quá mau, khiến trí ta không kịp ghi nhớ).

Rồi tất cả lại vẫn im lặng, một bầu im lặng không hồn.

*

Không bảo nhau, mà chúng tôi cùng bước lại nơi ấy, hai bàn tay cùng đẩy tấm phên nhẹ mở, và hai người cùng thản nhiên vào. Nhà rộng thênh, vách trống trơn, ngọn đèn lặng sáng trong bên chiếc giường dài. Trên giường một thiếu nữ nằm lịm.

Nàng mặc toàn trắng; màu trắng mềm, xanh phớt, nếp lụa mỏng, êm dịu, buông xếp trên tấm thân nàng những nét yêu kiều.

Chúng tôi đứng yên, chờ đợi một điều không bao giờ đến. Vì thiếu nữ không bao giờ cử động hình như đã nằm đó từ muôn nghìn năm xưa.

Bao nhiêu lần, một tư tưởng sắp hiện vào trí tôi, nhưng vội biến mất. Một chút băn khoăn ở đâu vươn tới sự bình tĩnh của tâm hồn ngạc nhiên.

Tại sao anh Thanh lại nhìn tôi buồn rầu thế kia?

Anh thở một tiếng dài, rất não nùng; trong đó thầm vang lên những ý thúc giục, những lời khuyên nhủ, những giọng van lơn.

Tôi thong thả gật đầu.

Thanh lặng cảm ơn tôi và đưa tay cho tôi cầm lấy.

Tôi dắt Thanh bước tới bên chiếc bình phong nét vẽ đơn sơ chỉ cho anh trông thấy chiếc dương cầm đặt trên cái giá thấp. Mọi vật trong nhà ấy tôi quen thuộc hết: biết được chỗ nào thì có vật gì. Bình hoa pha lê kia, tôi nhớ ra vẫn để trên bàn mà lúc nào tôi không chú ý. Cái lư trầm khói lạnh vẫn lẻ loi trên chiếc đôn gỗ ở góc phòng.

Tôi cầm một ống đích ở trước tầm tay, nâng lên ngang môi.

Bên ngoài, trong nhà trong lòng chúng tôi, vẫn im lặng.

*

Một câu âm nhạc chưa từng biết dặt dìu trong tâm hồn. Tôi thấy lả lướt qua những chữ uyển chuyển của thanh âm. Lòng tôi reo động những tình cảm chập chờn.

Tôi không biết vì đâu, không biết tự bao giờ, một khúc thanh âm thoát lên, uốn nắn trong bầu không khí thẫn thờ, nhịp theo những ngón tay nhấn trên cung bậc.

Tiếng dương cầm cũng nảy lên, như những tinh hoa của ánh sáng du dương.

Và tiếng địch, tiếng dương cầm vấn vít đê mê, tản mạn đầy căn phòng dần dần đầm ấm.

Tôi thấy rùng rợn êm ái tràn xuống khắp người. Nỗi cảm xúc dâng lên tràn trề. Vì dưới ánh đèn mờ, một giọt lệ ở khóe mắt Thanh đang lấp lánh.

*

Cảnh như đổi khác từ lúc nào.

Màu tường đất biến ra màu gấm vàng cũ. Bình hoa lồng ánh ngọc lư hương tỏa khói huyền trong ánh sáng dịu xanh.

Trên giường, người thiếu nữ cựa mình, nét mặt đăm đăm nở tươi. Nàng thong thả ngồi lên, lặng nhìn về phía chúng tôi, mỉm một nụ cười buồn, đưa hai bàn tay trắng mềm sửa gọn lại ánh tóc đen buông hỗn độn.

Nàng khoan thai đặt chân dưới đất, nhẹ nhàng đứng dậy, và uyển chuyển đi về phía chúng tôi.

Nàng đi rất dẻo, rất đều, đặt từng bước lên từng nhịp đàn và uốn mình theo điệu lả lơi của tiếng địch.

*

Bên ngoài, mây kéo đầy trời, cả vũ trụ kinh hoàng chuyển gió khắp nơi. Mưa vẫn ào ào đổ thác.

Nàng vẫn lặng lẽ bước. Điệu nhạc gay gắt giục giã. Nhưng nàng vẫn còn xa... Không! Nàng vẫn xa hoài, vẫn tiến mà vẫn không tiến tới gần: miệng cười, đôi mắt ân ái nhìn chúng tôi, dịu dàng âm thầm, nồng nàn và quyến rũ.

Tôi đưa tay ra đón lấy nàng, chiếc địch rơi gẫy tan dưới chân, nhưng khúc đê mê vẫn không dứt.

Tôi đứng dậy, định đón lấy nàng, nhưng Thanh một tay vẫn đánh dương cầm một tay với giữ tôi lại, nhất định không cho bước.

*

Tôi nghẹn ngào vì căm tức.

Tay Thanh vẫn bíu nặng bên vai. Tôi thu hết sức bình sinh đưa cả người tiến lên. Giật mình tỉnh giấc mơ, mà vẫn còn chưa nguôi giận.

*

Thanh lay tôi gọi:

- Ngủ giỏi thế! Xong việc rồi về thôi!

Tôi hỏi Thanh sau một tiếng ngáp gắt gỏng:

- Đi đâu mà lâu thế? Mấy giờ rồi?

Và trước khi cho xe chạy về, tôi còn nhìn ra cánh đồng sương dưới ánh trăng lạnh lùng. Từng dải hơi trắng nhẹ vắt ngang, xóa hết cảnh làng xóm ở chân trời. Một cây đèn nổi bật lên giữa quãng không bên một con đường đất mờ mịt.

Thanh nghe tôi kể lại câu chuyện và cười vang lên khi thấy tôi có ý ngộ nghĩnh thử đi vào đó để tìm căn nhà lá với người thiếu nữ trong giấc mơ.

Rút trong tập “Gió trăng ngàn”

Cô Thơ

Mấy tiếng chim hót sau vườn, dài và trong trẻo.

Tâm đứng dạy mở cửa trông ra. Ánh bình minh có một vẻ đẹp khác thường sau mấy trùng núi biếc. Những vùng cây hỗn độn trong sương hồng tía là những hình ảnh mới lạ, như ở tận đâu hiện lên đêm vừa rồi. Ruộng lúa và đồi núi chung quanh sạch sẽ như mới gột rửa.

Tâm vươn vai, sung sướng, thấy lòng cởi mở ra trước cái buổi sáng rực rỡ tốt lành kia.

Anh lấy cái áo trắng dài mặc cho đỡ lạnh, rồi chạy lên phía đồi cạnh nhà, miệng nở tươi, tâm hồn phơi phới xác thịt khoan khoái được tắm trong thứ gió dịu ngọt và tĩnh mịch của cảnh thiên nhiên này.

Anh không đi trên lối đường đất nhõ, cứ lăng băng để cho đôi guốc nhẹ dẫm tan từng đám mạng nước chăng trên nền cỏ non. Đế guốc mộc trắng phau vì được chùi sạch trên tấm thảm xanh ướt.

Đứng trên đỉnh đồi. Tâm nhìn xuống làng Nưa Tóc bé nhỏ trong đám cây lá chen xít giữa quãng đồng rộng mênh mông. Vài ngọn núi đá xanh lẫn với màu sương trên các mái nhà. Tiếng gà gáy sót, tiếng vịt ngỗng ỉ eo đưa vang đến tai Tâm.

Một cái suối nhỏ chảy vờn chân đồi. Anh nhoẻn cười, liếc nhìn bầu trời mỗi lúc một xanh thêm, một tươi thắm hơn lên và lắng nghe tiếng nước reo không ngớt. Rồi anh chạy xuống bờ suối, thọc tay xuống tận đáy trong vắt quờ nhặt những đá cuội đủ các màu. Một dòng nước nhỏ chảy rẽ sang một bên tới một cái lều con, cách đó chừng ba chục bước. Trong lều đưa ra những tiếng kẽo kẹt nhịp theo những tiếng đập êm và đều. Anh biết đó là một cái cối giã gạo chạy bằng sức nước như anh thường thấy ở đây.

Tâm chạy lại đứng bên lều, chăm chú nhìn cái máy móc cổ sơ kia và ngẫm nghĩ đến cái đời thong thả bình thường của người Thổ.

Thực là một đời giản dị mà sung sướng, sản vật thiên nhiên dồi dào, sự cần dùng cũng ít, công việc cày cấy không vất vả lắm. Rồi đến lúc được thóc thì đã có suối nước đến giã gạo hộ người.

Anh lại gật gù, và hứng khởi đầy lòng, anh lẩm bẩm nói một mình bằng tiếng Pháp:

- Ở đây sự sống mới đáng yêu làm sao! Người ở đây họ có biết là sung sướng? Ô! Những người mộc mạc, những tâm hồn mộc mạc!

*

Bỗng một tiếng gọi đằng sau khiến Tâm quay lại:

- Kìa thầy giáo! Thầy giáo đi chơi sớm thế!

Trên bờ suối bên kia, một cô gái Thổ xinh tươi đang bước lại gần, cô mặc bộ quần áo chàm gọn ghẽ, thắt ở ngang lưng, trên vai cô đeo một cái “dậu” (một thứ thúng có hai quai) treo ở đầu đòn đằng trước, miệng vẫn tươi nở và đôi mắt đen láy nhìn Tâm cũng tươi cười.

Lúc tới bờ suối, cô với một tay xuống kéo hai ống quần để lội qua. Hai chân trắng khoa dưới nước suối như đôi chân ngọc. Tâm sững sờ không nói. Cái tiếng gọi đột nhiên lúc nãy, cái thân hình kiều diễm với khuôn mặt sáng sủa bây giờ với cái tình thế khác thường anh gặp cô ta trong lúc cả buổi sớm mai huyền ảo dưới sương hồng nắng dịu; tất cả mọi sự đều như hoa mỹ văn vẻ theo một nhịp thơ.

- Thầy giáo vừa rồi nói chuyện với ai thế?

Đôi mắt của cô lại ra chiều hỏi tiếp câu hỏi vừa rồi. Một câu hỏi yên lặng mà Tâm tưởng đoán đựơc ý nghĩa. Anh cũng mỉm cười đáp:

- Tôi ấy à?! Không? Tôi nói một mình thôi.

Rồi anh lại tiếp luôn:

- Tôi thì còn có ai mà nói chuyện với nữa.

- Thiếu gì? Chỉ sợ không có người đáng được nói chuyện với thầy giáo thôi.

Câu ấy khiến Tâm êm dịu cả tâm hồn. Anh biết rằng đấy là khởi đầu một câu chuyện thơ ngây êm đềm, từ đó vang dậy những cảm tình man mác, nhẹ nhàng và chân thực. Anh chân thực trả lời:

- Không cô ạ. Tôi lên đây chẳng biết ai cả, ở một mình cũng chán, chỉ ước được một người bạn gái ở chung cho vui.

- Người bạn gái à? Người ấy không biết là ai, thầy giáo nhỉ?

Tâm cười và lặng im.

Cô Thổ đã sang bờ bên này và đi đến bên cái cối gạo. Tâm thấy trong “dậu” có thóc thì hỏi:

- Cô đem thóc đến cho vào cối phải không?

- Vâng. Em đem thóc cho vào cối đấy. Em đổi chỗ thóc này lấy chỗ kia đem về. Chắc ông không biết em. Em là chị của Minh, học trò ông ấy mà!

- Thế ra cô là cô Thơ phải không?

- Vâng, em là cô Thơ nhưng sao ông giáo biết?

- Tôi hỏi chuyện Minh nên biết. Trước cô có đi học, sao bây giờ lại thôi?

Thơ cười nụ:

- Vì em lớn rồi. Em thôi học từ năm ngoái, trước khi ông giáo đổi về đây cơ. Lớn rồi, đi học em thẹn quá.

- Nhưng sao lại thẹn?

- Là vì em thẹn.

Câu chuyện cứ dớ dẩn như thế, nhưng cũng làm Tâm ngây ngất lòng. Anh thấy cô Thổ cười nói tự nhiên, và vì thế vẻ đẹp cô lại trong sáng thêm, nên không e ngượng như lúc mới gặp. Anh say sưa khen

- Cô Thơ! Cô đẹp quá!

Thơ không đáp, cúi xuống dựng cần cối lên đổi mẻ thóc; một lát sau cô đứng lên.

Cô nhìn Tâm và hỏi:

- Ông vừa nói ông muốn có bạn gái cùng ở với ông à? Thế mà em cứ tưởng ông chỉ muốn ở một mình thôi.

- Sao cô lại tưởng thế, cô Thơ?

- Vì em chẳng thấy ông vào làng chơi bao giờ, cũng chả thấy ông cười nói mấy khi. Em vẫn biết ông là thầy giáo của Minh, em cũng trông thấy ông luôn, nhưng em thấy ông trang nghiêm quá. Em đến ở với ông nhé, có được không?

Tâm như được một lời hứa hẹn, ân ái, mừng rỡ quá, vội đến gần để tay lên vai cô ta. Người thiếu nữ gỡ ra, nhắc “dậu” thóc lên rồi bước về phía bờ suối.

Anh chạy theo gọi:

- Kìa cô Thơ! Cô giận tôi đó sao?

- Không! Em không giận ông giáo đâu.

Nhưng cô đã lội qua suối và thoăn thoắt đi xuống làng, không quay lại nữa.

Sương sớm đã tan gần hết. Nắng hồng đã vàng tươi. Trên những thửa ruộng xa xa, một vài người Thổ đang lom khom, da mặt hoe đào trên những bộ quần áo phơi màu như mới.

Lòng Tâm rạng rỡ tình yêu, một thứ tình mờ ảo như buổi gặp gỡ trong sương mai, đẹp đẽ như ánh nắng ấm dịu. Anh lững thững bước về, không muốn tìm hiểu những cử chỉ lạ lùng của cô Thơ. Vì anh mong và tin chắc rằng sẽ được gặp Thơ nhiều lần nữa.

Cái tâm hồn người con gái Thổ, anh đã hiểu. Họ là những tấm lòng lúc nào cũng sẵn sàng rung động vì sự yêu đương. Tình yêu của họ là thứ tình đậm đà thấm thía giản dị và chân thực; họ như những người khát nguồn ân ái, thèm những lời thơ mộng não nuột và chỉ đợi dịp để gợi những thứ tình cảm êm đềm trong lòng người con trai.

Tâm vẫn nói với các bạn hữu ở vùng xuôi rằng:

Mỗi cô gái Thổ là cả một bài thơ mộc mạc và trong trẻo.

Cả ngày hôm ấy tuy anh bận dạy học, nhưng trong trí lúc nào cũng nghĩ mơ tưởng đến hình ảnh cô Thơ. Đến chiều tan học về nhà, Tâm sửa soạn để định đi vào trong làng, có ý mong cho sự tình cờ lại xui mình được gặp người thiếu nữ. Bỗng nhiên, lúc bước ra, anh thấy Thơ hiện ngay đến, ngoan ngoãn và lẳng lơ như một cô tình nhân.

Tâm cầm lấy tay Thơ vừa hỏi vừa vồn vã:

- Cô Thơ. Sao sáng nay cô giận tôi thế?

- Không, em không giận ông giáo bao giờ, sáng nay em vội về thôi. Bây giờ em đến đây ở với ông nhé. Ông có cho em ở không?

Tâm chỉ cầm lấy hai vai cô, không trả lời.

Thơ nhẹ nhàng gỡ ra, đi xem xét khắp phòng Tâm, hỏi từng thứ đồ vật và lật gối lật chăn lên xem. Sau cùng, cô ngồi hắn vào giường, nghiêng đầu nhìn Tâm:

- Ông, ông cho em ngủ đây nhé?

Tâm cười:

- Tùy cô.

Cô Thổ ngả lưng xuống. Nũng nịu như đứa trẻ rồi lại ngồi ngay lên:

- Ông ngồi xuống đây với em đi ông.

Tâm đến ngồi bên vuốt ve cô, âu yếm nói:

- Em Thơ....

- Dạ!

- Bây giờ ta gọi nhau là anh em cho thân, rồi em ở đây luôn với anh nhé!

- Thưa anh vâng.

Nhưng Tâm thấy thoáng vẻ buồn thương trong đôi mắt trong sáng ấy. Tâm hỏi, cô mỉm cười lắc đầu nói là không có gì cả; rồi thở dài một tiếng rất ảo não; cô chạy đến bên cửa nhìn ra ngoài.

Trời tối dần và tối rất mau như những ngày gần rét. Ánh trăng non đã rải màu lạnh sáng lên những khóm dâm bụt chạy qua nhà.

Tâm được có người đẹp bên mình, im lặng để hít thở lấy cái không khí sung sướng. Rồi anh đem bao nhiêu lời ngọt ngào của lòng âu yếm ra nói với Thơ. Anh say sưa man mác như chính những câu ân ái của mình đến du lòng mình, đến vuốt ve mình. Bỗng để ý đến đôi mắt đăm đăm của Thơ, anh thấy đôi mắt ấy đầy những lệ.

- Trời ơi, Thơ của anh khóc đấy ư?

- Vâng!

- Mà sao em khóc?

- Em buồn lắm anh ạ. Chẳng biết anh có thương em thực không?

Tâm ôm rõ chặt Thơ vào cánh tay cứng mạnh của anh áp má mình vào má Thơ, rồi dìu Thơ trở vào nhà.

- Thơ ơi, Thơ ơi, Thơ ơỉ! Yêu Thơ anh yêu Thơ nhiều lắm!

*

Tâm không nghĩ đến những điều ngang trái của cuộc tình duyên thầm kín này. Bởi vì ở đây, luân lý giản dị của người ta không coi đó là một sự ngang trái. Yêu nhau thì đến với nhau và đó là lẽ tự nhiên.

Một đôi khi Tâm cũng có e dè và vì thế trong lúc giáp mặt Thơ anh được hưởng cái thứ oái ăm của những người “ăn quả cấm”. Anh mỉm cười tự nghĩ: “Ta đem cái tình cảm văn minh vào trong một chuyện ái ân hoàn toàn sơn dã thế này, cũng hơi có vẻ một nhà khảo cứu lấy lý luận phân tích những câu thơ hồn nhiên đơn giản của phong dao...”

Tâm rất nồng nàn trong sự yêu đương.

Thơ thì giản dị và im lặng, nhưng trong nhan sắc bình tĩnh ấy. Tâm biết là ẩn chứa một tâm hồn đắm đuối, ham yêu tha thiết và chan chứa những tình tứ lãng mạn thơ ngây.

Từ lúc quen nhau, thỉnh thoảng cô lại đến thăm Tâm ở nhà riêng và chọn những giờ tối vắng người qua lại.

Lần nào cũng thế, trước khi bước vào, cô còn đứng nán lại nhìn qua khe cửa để xem Tâm ngồi đọc sách hay soạn bài dưới ánh đèn. Thơ ưa đến một cách đột nhiên nên Tâm không bao giờ biết trước mà chờ đợi.

Cửa mở, cô ta lẹ làng bước lại gần bàn giấy chào Tâm một câu khẽ rồi bỏ khăn, bỏ áo ngồi xuống giường. Lần nào Tâm cũng lộ hết sự vui mừng. Anh đứng lên cầm lấy bàn tay cô để vào ngực mình. Nói những câu sôi nổi say sưa khiến người con gái giương mắt nhìn anh như không hiểu gì hết. Thơ đưa tay vuốt tóc anh, vịn tay anh kéo ngồi bên cạnh và khi thấy cử chỉ âu yếm của anh đã dịu, mới bắt đầu thuật chuyện cô nói dối nhà để đến với anh:

Hôm nay em bảo em đi “chơi hương” bên nhà chị Tươi...

Hôm nay ăn cưới bên làng, nhưng em không đi... Hoặc một câu tương tự như thế.

Rồi cô lại bẳo: “Anh, anh kể chuyện đi nhé, anh kể những chuyện anh vẫn kể cho em nghe đi nào... Em thích nghe!”.

Những lời ân ái của Thơ bao giờ cũng chỉ có ngần ấy câu, mà Tâm nghe lúc nào cũng vui tai và có vẻ mới lạ.

Anh đem hết nỗi lòng ra nói với người thiếu nữ mà mỗi ngày anh thấy một yêu dấu hơn. Lời anh toàn là những lời êm dịu chân thành, anh dịch ra bằng thứ tiếng Thổ gọn gàng nhưng tươi đẹp. Thơ nhắm mắt lại để nghe, im lặng một cách trầm ngâm hoặc se sẽ rùng mình lên, thu nhỏ người áp má vào cánh tay anh. Tâm thấy những giọt nước mắt nhỏ xuống thấm lên áo. Anh hỏi:

- Thơ của anh khóc đấy ư?

Thì bao giờ Thơ cũng trả lời bằng câu:

- Thưa anh vâng

- Mà tại sao em khóc hả Thơ?

- Tại em buồn.

Nhưng không lần nào Thơ nói rõ vì sao Thơ buồn, dù anh có căn vặn hỏi. Có lần Tâm nói mãi, Thơ mới dùng những lời bóng gió thường sẵn thay ở các câu hát tự tình mà trả lời Tâm:

- Em buồn vì em thấy buồn... vì em thấy anh yêu em; vì em nghĩ rằng những lá cây mùa xuân trên rừng, xanh tốt ít lâu rồi rụng héo. Mà em được yêu anh cũng chỉ giống như thế thôi.

Anh viện các lẽ để tỏ lòng yêu dấu không cùng cửa anh; anh tìm hết lời say đắm để an ủi Thơ; anh chọn những câu thề thốt chặt chẽ nhất để chứng thực lòng anh. Nhưng Thơ vẫn thế. Giữa lúc gần gũi anh, hoặc sau cuộc ái ân, hoặc đang lúc tự tình đằm thắm bỗng nhiên không vì sao cả, Thơ sinh ra ủ rũ gục xuống vai anh khóc, và bíu chặt lấy anh một cách đau đớn van lơn.

Tâm trước còn cho đó là một cách nũng nịu, một lời xúc động của nhũng tấm lòng giàu tình cảm ủy mị và mơ hồ. Nhưng sau anh cũng phải lấy làm lạ. Một hôm, anh vuốt tóc Thơ mà nói:

- Em Thơ ạ, anh hiểu tại sao em buồn rồi cơ.

Thơ giương mắt yên lặng hỏi Tâm. Anh nói tiếp:

- Anh chắc tại Thơ không muốn anh yêu Thơ như thế này mãi, Thơ muốn cho anh kết duyên với em lâu dài...

“Nghĩa là... Nghĩa là anh cũng muốn thế... Anh ở đây vắng vẻ một mình, quê quán anh, anh cũng không tưởng đến nữa, vì anh không còn thân thích nào... cảnh thượng du với lòng yêu của em đã giữ anh rồi, đã là sự yêu đương thiêng liêng của anh rồi, em có hiểu không, nghĩa là... anh không tưởng đến bao giờ nỡ bỏ em; anh là bạn em, là chồng em, anh sẽ hỏi em làm vợ”.

Tâm chưa nói dứt lời Thơ bỗng nức lên, khóc mấy tiếng, ngồi thẳng dậy vội vã, sợ hãi, đội khăn mặc áo rồi không để cho Tâm kịp hiểu, cô ta vùng chạy ra ngoài.

“Lòng một người con gái Thổ sao mà phức tạp đến thế kia ư?” Tâm vẫn tự hỏi lại cho rõ ràng. Anh đã nhất định tìm hiểu cho bằng được, nhất định không để cho Thơ còn có những cử chỉ lạ lùng như thế nữa, và bắt đầu thấy quyến luyên, thấy yêu chân thực, và thấy lòng trống trải vì vắng bóng Thơ.

Nhưng Thơ lại không trở lại nữa.

Bao nhiêu tuần lễ ủ rũ, u ám, Tâm đi thơ thẩn các nơi gần đó sau những giờ học, nhưng không thể nào gặp được Thơ. Anh đến chỗ cối giã gạo là nơi gặp gỡ ban đầu, anh quanh quẩn ở gần làng, anh hỏi dò Minh là em Thơ học ở lớp anh một cách kín đáo. Nhưng đều vô ích. Thơ không đến nữa, không để gặp anh nữa, và hình như không còn tưởng gì đến anh.

Tâm bây giờ mới nhận thấy cái mênh mông của sự buồn thương, thấy nỗi đau đớn nhớ tiếc của lòng yêu đương, và thấy lời nói anh dùng để an ủi Thơ hôm nào chính là lời rất thành thực.

Anh nhắc đi nhắc lại:

“Ô hay! Thế ra mình đi mê một người con gái Thổ ư? Một người Thổ mà cũng làm cho mình buồn tủi đến thế được ư? Vô lý thực!”

Mùa đông tới vội vàng, đem lại tất cả cái lạnh lẽo, buồn tẻ ở nơi chỉ có những rừng núi này.

Mưa phùn bay mù mịt dai dẳng, phủ kín cả cảnh vật, những ngày u ám phóng lên nhau, ngày nọ nhắc lại màu thảm đạm của ngày kia. Trên mấy quãng đồng nước rải trắng xóa giữa những vừng cây âm tối nặng nề. Những nhà trong các thôn xóm đều im lặng trong mưa và như so ro lại vì rét.

Được một ngày chủ nhật tạnh ráo, Tâm mặc ấm áo mở cửa ra đi. Hôm ấy Tâm mới thấy trong người hơi nhẹ nhàng và mừng rằng anh đã có cách ruồng đuổi hình ảnh Thơ vẫn vấn vương trong tâm tưởng.

Bầu trời không có một tí mây nào, không khí trong sạch khiến những cây cỏ không sai lạc màu đi như mấy ngày mưa. Nhưng gió ầm ầm thổi mạnh trong các rừng cây, siết qua mặt người, và khí lạnh thấm vào tận da thịt Tâm đi bít tất dày và kéo cổ áo lên bước nhanh trên mặt đường bắt đầu khô ráo, rồi mạnh bạo bước theo phía Đàng Lang. Đến một cái cầu con hai bên dóng gỗ đóng thành lan can, anh đứng lại tựa vào một bên và lấy thuốc lá ra hút.

Trong khu rừng gần đấy có tiếng chặt cây đưa ra. Tâm liền tìm lối đi vào chỗ đó. Giọng nói chuyện vui vẻ của hai người thiếu nữ khuất sau một bụi cây lớn khiến anh vừa lạ vừa mừng.

“Tiếng ai như tiếng của em Thơ”.

Anh nghĩ bụng thế rồi lại dấn bước lên.

Thì quả thấy Thơ đang ngồi trên một cái cây lớn mới bị chặt đổ, bên một đống lửa bốc cao. Thơ đang vừa khêu lửa cho cháy to thêm vừa nói chuyện với người bạn gái đang chặt một cành củi.

Mặt Thơ bên ánh lửa trông hồng hào, đẹp tươi tắn. Tâm đứng lặng, mắt bao bọc lấy tấm thân yêu quý ấy, lòng hồi hộp như trước một nhan sắc mới gặp gỡ lần đầu.

Anh đứng ở một chỗ khuất đến hơn năm phút, không dám cử động mạnh, hình như sợ rằng Thơ sẽ biến đi. Rồi anh rón rén bước lại gần nhẩm tìm một câu gì để nói cho khỏi đột ngột.

Bỗng một tiếng cành cây gẫy rắc dưới chân anh.

Thơ quay lại, nhận ra anh, kêu lên một tiếng rồi vùng chạy.

Cô lách qua những vùng cây dây leo chằng chịt, nhẹ nhàng như một cái bóng, và bỏ anh một quãng xa. Tâm cố hết sức đuổi theo. Ra khỏi khu rừng, đến nơi thung lũng thẳng và rộng thì anh thấy người con gái chạy rẽ về một lối tắt rồi sau cùng, nhọc quá lăn mình lên một đống rơm phơi khô. Tâm chạy ngay lại đó, thì người con gái ngồi dậy, buộc lại cái khăn xổ, nhìn anh bằng đôi mắt van lơn.

- Sao ông cứ theo đuổi em mãi thế? Ông tìm em làm gì nữa. Đôi ta còn có duyên gì nữa đâu!

- Trời ơi! Sao Thơ lại nói thế?

- Thực đấy, ông ạ. Ông quên em đi là hơn. Bởi vì số em chỉ biết được ông có thế thôi.

- Mà tại sao lại lạ lùng thế, Thơ?

Người con gái quay mặt đi không nói. Anh cầm chặt lấy hai tay cô, giọng tha thiết:

- Sao em nỡ tệ với anh thế? Em không biết rằng vắng em, anh khổ, anh buồn biết chừng nào ử?

“Em không biết bao lâu nay anh chỉ tìm em, anh chỉ mong gặp em, mà em thì...”

- Không, em biết lắm chứ. Em biết ông vẫn ra chỗ cối giã gạo là chỗ ta gặp nhau hồi nọ, vì lúc ông ra đấy, em cũng có ở đấy, nhưng em không muốn ông trông thấy em thôi.

- Mà tại sao thế, hở Thơ?

- Tại... ta không thể gặp nhau được nữa.

Đáp lại lời căn vặn của Tâm, cô Thơ chỉ rưng rưng nước mắt. Anh không hiểu và cũng không biết nên làm gì! Những câu nồng nàn của anh xem ra cũng không thể yên ủi được người thiếu nữ.

Sau cùng, gỡ tay anh ra, cô nói:

- Thôi, ông về đi. Rồi chiều nay em sẽ đến nhà ông... Vâng ông về đi, đừng đứng ở đây...

Tâm chực kéo cô vào lòng, nhưng cô lắc đầu:

- Không! Ông đừng hỏi em gì nữa.

Cả buổi chiều giá lạnh ấy, sự chờ đợi đã làm lòng Tâm ấm áp hẳn lên.

Anh thắp đèn trong nhà được ngót nửa giờ thì Thơ vui vẻ bước vào, ăn mặc gọn gàng và đỏm dáng hơn mọi bận. Thơ ngoan ngoãn để cho anh vuốt ve, rồi nói:

- Anh ạ, tại sao anh yêu em quá thế? Anh coi em như một người bạn gái thường có được không? Chúng ta thân yêu nhau một ít lâu rồi ngày kia ta xa nhau, ta đừng yêu nhau nữa. Như thế có hơn không? Em thấy anh yêu em nhiều, em sợ lắm.

Tâm hỏi sao Thơ lại sợ kỳ quặc thế, thì cô ta chỉ lắc đầu mỉm cười. Nhưng ngoài sự lạ lùng ấy ra thì Thơ vẫn tỏ ra mình âu yếm dịu dàng, và đối với người bạn trai, có một lòng chân thực trong sự ân ái. Sau cùng cô rỉ tai Tâm nói nhỏ:

- Anh yêu em thực lòng nhé. Vì em chỉ gặp anh được lần này nữa thôi. Không, anh đừng hỏi em, anh cứ yêu em thôi. Đêm hôm xưa, em thấy anh nói anh muốn lấy hẳn em làm vợ anh, em biết anh đối với em đã có tình nặng lắm... cho nên em khổ. Em chỉ muốn hễ lúc nào em không gần anh thì anh quên em ngay. Chúng ta đừng thề thốt gì với nhau, thỉnh thoảng em lại đến với anh để được nghe anh nói những câu em rất thích nghe... Duyên ta, em chỉ muốn có thế thôi... Nhưng anh lại muốn lấy em làm vợ! Anh yêu em quá, chỉ làm cho em thêm tủi, vì bây giờ... vì đã lâu... (Thơ nghẹn ngào nói càng nhỏ) vì đã lâu... em đã có chồng rồi.

Lúc ấy Tâm mới tỉnh ngộ ra. Anh cảm động vô cùng. Anh hiểu sự yêu đương trong lòng người con gái Thổ lắm. Đó là sự khao khát những lời ngọt ngào, đẹp đẽ, những cái vuốt ve êm dịu, những tình tứ yên lặng và những tiếng thở dài thấm thía nồng nàn... Bao nhiêu điều đó một người con gái Thổ không thấy trong đời sống mộc mạc với chồng, và phải đi tìm trong những lúc gặp gỡ tình cờ ở các chốn hội hè, hoặc ở những cuộc tình duyên thầm kín. Tính lãng mạn hồn nhiên là bản tính của người đàn bà Thổ khi còn xuân sắc. Tâm thấy nó thực thà, ngây thơ và có những thi vị man mác như cảnh đẹp của núi rừng.

Tâm mỉm cười theo đuổi ý nghĩa riêng và ôm người thiếu nữ trong cánh tay, lẩm bẩm nói bằng tiếng Pháp:

- Ồ, con chim xanh bé nhỏ của lòng tôi... Tôi yêu cái tâm hồn rất chất phát, nhưng rất văn vẻ của em. Tôi yêu em hết sức...

Hai mắt của Thơ tròn xoe đen láy, nhìn Tâm ngạc nhiên ra ý hỏi:

- Anh nói cái gì thế, anh Tâm?

Rút trong tập “Gió trăng ngàn”

Trại Bồ Tùng Linh (I)

Trại Bồ ngày... tháng 9 năm 1930

Anh Bình,

Chỗ tôi đến ở là Trại Bồ. Tôi gọi đùa là Trại Bồ Tùng Linh. Cái tên đặt trong lúc cợt tính đó không ngờ lại hợp với cái cảnh biệt tịch này đến thế (nhất là từ bữa xảy ra ở đây những việc có thể gọi là rất dị thường).

Anh thử tưởng tượng một cái trại rộng ngót hai mẫu và rậm như một khu rừng. Cây toàn là cây cỗi. Gần hết là nhãn, mười gốc mít và mấy thứ cây ăn quả mà người ta không nghĩ đến sự lấy hoa lợi; lại thêm hai gốc đa cổ kính, buông từng súc rễ chằng chịt xuống lối đi. Trên là bóng lá rườm rà. Dưới là cổ và hoa. Những thứ cây bụi không biết tên là gì và thường thường chỉ mọc ở những cánh đồng hoang, cũng tìm đến sống ở đây, chen lẫn với những khóm hoa không được chăm bón. Một vài khoảng đất vuông vắn trên đó cỏ lau đâm lên tự do, có lẽ đã là những thửa vườn cũ. Trên con đường rộng nhất trở vào từ cái cổng xây đã đổ nát và mất cánh cửa, một đoạn còn thấy dấu gạch lát, nhưng gạch chỗ thì lún, chỗ thì bị bẩy chồi lên vì những rễ ngầm. Một cái ao lớn, bèo tấm xanh lè kín gần khắp mặt chắc là một chỗ trước kia rất đẹp: vì trên một phía bờ ao, một rặng liễu già rũ lá xuống tận nước xen lẫn với mây khóm trúc lá mập và mình vàng. Thêm vào đó một ít cây ngọc lan hoàng lan và từng vầng lớn mẫu đơn cao um tùm. Lớp nhà ngói tôi ở, ẩn khuất trong những cây đẹp và quý ấy.

Nhà kiểu cũ, tuy làm trên nền đá nhưng vẫn thấp; hiên trước rộng; bên trong, hai hàng cột lớn chia thành ba gian. Gian giữa cửa bức bàn. Gian hai bên tường bưng, có cửa sổ nhìn ra cảnh trước hiên; cửa sổ chấn song con tiện, nhưng long mất gần hết. Một nơi phảng phất mùi phong lưu và... chứa chất mùi ẩm mốc. Ngay từ sáng hôm đến, tôi để ra cả một nửa ngày bảo quét tước sửa chữa, sắp đặt và làm cho bọn khách bình yên trong ấy - lũ dơi và lũ chuột - phải một bữa hoảng hồn.

Tôi phân ra từng căn riêng (nhưng là những căn tưởng tượng lấy cột làm địa giới). Một cái giường cầu mua lại, một cái va ly đứng và một cái treo áo: đó là phòng ngủ. Ở giữa, một cái án thư cũ và một cái bàn mây: đó là “phòng khách” có tên mà không có thực, vì nhất định sẽ không bao giờ có ai đến chơi. Một cái bàn kê áp cửa sổ căn thứ ba, một ngăn sách, một va ly đựng cũng toàn sách và một cái ghế mây dài dùng để nằm nghỉ: đó là “phòng” làm việc và thư viện, chỗ lịch sự và quan trọng nhất nhà. Cũng nên kể thêm một vài bức tranh mang theo, một bình hoa. Thế là chỗ ở của tôi thành một biệt thự cũng khá tươm tất.

Tôi muốn trốn Hà Nội với sự náo động và bao nhiêu cái bận rộn vội vã, tìm thuê một chỗ tĩnh mịch để làm việc thong thả trong yên lặng; gặp được cái trại bỏ không những tưởng không cần phải mong đâu hơn. Có thể nói cái ý muốn của mình được tô điểm thêm lên nữa. Cảnh tĩnh mịch của tôi lại là một cảnh kỳ thú, giữa một màu cổ kính, bí mật trong bóng những cây cối gần như hoang dại. Tôi đã nghĩ đến một vài chuyện và một vài cảnh tả trong truyện Liêu Trai. Thằng Dần thằng nhỏ tôi đem theo tuy rất ít mồm miệng mà ngay hôm đầu cũng nói lên một ý nghĩ tương tự như của tôi:

- Cậu ạ, trại này trông như một trại có ma ấy.

Nó ngạc nhiên và có vẻ lo sợ khi tôi bảo:

- Có ma thì càng hay chứ sao!

Tôi phải tìm lời an ủi nó ngay, vì xem ra anh chàng chỉ chực những xin trở về. Tuy vậy, nó không phải là một đứa yếu bóng vía.

Chắc anh muốn biết tôi lần mò thế nào tìm được chỗ này. Tôi không phải tìm lâu. Nói là gặp có lẽ đúng hơn. Và do một sự tình cờ kể cũng hơi lạ. Tôi đến thăm một người có họ xa ở Hà Nội, một tin trong báo nói về vụ kiện ở một đồn điền, câu chuyện dây dưa từ đó đến những ấp, những trại và đến một khu trại bỏ không ở Thái Bình. Tôi chú ý liền. Hỏi rõ thêm. Và tức khắc đi tìm chủ nhân trại Bồ hiện vẫn ở Hà Nội. Tôi hỏi thuê ngay từ trước khi đến thăm và người ta rất vui vẻ cho tôi thuê trước khi biết tôi là người thế nào và đến ở đó để làm gì. Giá trả hàng năm và rẻ một cách không thể ngờ được. Hôm tôi tới xem trại, người gác ở đây cũng tỏ ra vẻ mừng rỡ như người chủ mấy hôm trước. Trong câu chuyện qua lại, tôi đoán thấy một vài điều hơi có vẻ bí mật khi người ta muốn tìm cách cắt nghĩa vẻ hoang phế của trại Bồ. “Trại Bồ bỏ không vì không hợp với cụ cố chúng tôi... vì mợ cả đau yếu luôn...” Tôi cũng không gặng hỏi kỹ càng hơn, vì điều quan trọng nhất đối với tôi là có một chỗ ở yên lặng và biệt tịch. Hôm “dọn nhà xuống” - tất cả đồ đạc là hai cái va ly lớn và những thứ ứng biến mới sắm thêm ngay ở đây - tôi cũng có nghe thấy mấy người tôi thuê đến quét dọn nói bóng nói gió đến sự “bỏ không” của trại này. Hình như trong gia đình “cụ lớn” có người chết oan, hoặc tự tử hoặc hóa điên, không rõ lắm; và hình như từ đấy, nhà “cụ lớn” không được phong túc như xưa. Tôi còn thoáng bắt chợt được những tiếng “oan hồn”, “con ma gốc đề” - (cây đề mọc lẻ loi ở cuối trại) - và những câu trả lời lúng túng của họ khi tôi hỏi rõ thêm. Tôi không muốn có một điều gì đến làm vướng bận cái vui của tôi nên không để tai đến chuyện của họ nữa. Tôi lại tự nhủ: cảnh như ở đây tất nhiên gây nên những ý huyền hoặc trong óc người quê mùa... Còn mình chỉ nên để tâm đến vẻ đẹp của cảnh với sự tiện lợi của nơi ở. Vả lại, dù cho có ma nữa, thì đã sao chưa?

Trước sự lo ngại của thằng Dần, tôi cũng vẫn giữ vững cái ý nghĩ vừa rồi: Tôi thành thực tin rằng dù có những việc hiển hiện lên trước mắt, tôi cũng không khiếp sợ - có lẽ lại coi là một dịp tốt cho cái tính tò mò của mình.

Ngày thứ hai ở trại Bồ tôi đã bắt đầu nghĩ đến cái công việc sung sướng tôi định làm ở đây: là khoan thai viết tập tiểu thuyết tôi nghĩ đã lâu, một tác phẩm thân yêu mà tôi vuốt ve từ trước cái hình ảnh mang trong trí. Thực ra không phải là “làm việc” nữa, tôi thấy tôi say mê khoái trá khi nghĩ đến, khi dàn xếp những ý tưởng, khi cầm bút sắp viết, và khi những hàng chữ hiện lần lần trên giấy với tất cả sự rung động của tâm hồn mình

Lúc nghỉ viết lại là những lúc vui thú khác: hoặc đọc sách hoặc thức dậy giữa cái thế giới nhỏ của khu cảnh trong trại Bồ. Những cây cỏ rất nhiều hình sắc ở đây hiện trong vẻ đẹp riêng của sự kích thích tinh thần. Phạm vi của một vùng xanh tươi như rộng rãi thêm; có những trường hợp trùng nhau của cảnh tưởng tượng với cảnh bên ngoài, khi đó thì nhân vật tạo tác thường như hoạt động trong lúc thực hiện.

Cái thói quen làm việc ban đêm để tránh sự náo động ban ngày khi còn ở thành phố khiến cho những lúc viết của tôi thường lẩn xa vào những giờ khuya. Và ban đêm ở đây có một sự yên lặng lạ thường, đầy những tiếng rộng lớn của gió cây rì rào và tiếng giun dế dưới chân hoa cỏ.

Một tối về thượng tuần trăng, tôi mải ngồi ngắm cảnh ở ngoài hiên cho đến lúc trăng lặn đã lâu và trời đã trở lại tối đặc. Hàng liễu trước nhà là hình ảnh đẹp mắt và đáng yêu nhất trong cả buổi. Đến lúc trăng khuất hẳn, những nét mảnh dẻ, mềm mại vẫn như còn in trên những vầng đen nặng, vẫn như còn nhuộm rất huyền ảo một ánh sáng mà trí tưởng vẫn thấy còn sót lại riêng trên những mình óng mượt của lá tơ... Những hình ảnh tưởng tượng nhè nhẹ cử động theo hơi gió đùa qua, phơ phất, lả lướt, chập chờn... Những cảm giác rất mong manh cũng phảng phất qua, gợn trong tâm hồn, gợn trên da thịt... Tôi được hưởng một thú say sưa hiếm có và chóng biến nhưng vẫn để cho tình cảm còn rung mãi một điệu rất êm nhẹ và ngọt ngào.

Khi tôi chợt nhớ đến đoạn văn sẽ viết tiếp trên bàn, tôi trở vào, ngồi ở cái bàn áp cửa sổ rồi cầm bút lên, nhưng trong trí vẫn còn những nét liễu se sẽ động, xiêu xiêu như theo một chiều nghĩ ngợi. Hình ảnh ấy gợi ra những tà áo mỏng manh và những dáng điệu biến hiện trong mờ ảo... Tâm hồn có một ý bâng khuâng, lưỡng lự, hình như sắp định một điều chưa rõ rệt, chơi vơi một chút rồi lại buông xuôi vào một cõi bất định, không biết đâu là bến bờ. Cứ thế, tôi ngồi trên bàn viết, đầu ngả dựa trên một tay chống đỡ, chiếc đèn cây chụp hắt ánh sáng xuống vòng quanh. Tiếng giun dế dóng dả run lên khi tai lắng nghe và dần dần chìm đi, lùi xa vào trong lãng quên để rồi lại giục giã thêm và nài gọi sự chú ý. Tiếng gió hình như vẫn reo hoài và vừa mới ngừng lại. Một luồng nhẹ mát thoáng ùa qua cửa sổ như đem gửi vào một phần đêm bên ngoài.

Tại sao tôi lại rờn rợn người lên? Tôi biết tâm trí vẫn nghĩ bình thường - đang cố nhận lấy từng chút chi ly đổi thay của cảm xúc. Mắt tôi lúc đó đang nhìn hàng chữ cuối cùng trên tờ giấy viết dở chừng.

Không, không có gì khác thường.

Nhưng tôi vẫn thấy một cảm giác lạ. Một cảm giác đột ngột, không liên lạc, hình như vừa chợt đến: gờn gợn, lạnh lẽo, rõ rệt và mạnh mẽ. Tôi nghĩ bụng: “Hừ! Vô lý thực?” Nhưng vẫn cảm thấy như một sức gì, một sự gì... một vật gì đang chú ý đến tôi. Ở đâu? Ở rất gần mình, ở trước mặt mình - từ cái khung đêm tối đen ngòm kia - ở cái chỗ tôi không trông thấy gì, nhưng đối với “nó” tôi hiện ra rành mạch trước ánh đèn sáng.

Chỉ ngẩng lên là tôi sẽ trông thấy - sẽ biết, hoặc sẽ yên lòng là đã nghĩ lầm. Nhưng không, tôi không lầm. Sự ấy tôi có nghĩ ra đâu. Nó đến và bắt tôi nghĩ, và tôi vẫn không nhúc nhích, mắt vẫn đọc hàng chữ viết, cố tình chậm cái lúc nhìn ra, tuy đó là sự rất vô lý... Sau cùng, lấy hết can đảm, tôi ngẩng mặt lên.

Cửa sổ - cái huyệt đen, sâu thẳm và vô cùng - cửa sổ vẫn không có gì khác.

Nhưng ngay lúc ấy, tôi tái hẳn người đi một lượt. Một tiếng động nhẹ - nhưng rành rẽ - một tiếng nhẹ và nhanh do một cử chỉ nào của cái vật đứng bên ngoài. Đứng bên ngoài tường. Và cũng nghe ngóng. Tôi “cảm thấy” - không thể mơ hồ được - rõ ràng nó có ở đây, nó đứng đây...

Tôi tính nhẩm: sẽ gọi thằng Dần dậy - nó vẫn nằm ở cái ghế dài cạnh ngăn sách, và rất tỉnh ngủ - cùng chạy ra cửa, rồi chia hai ngả đuổi (nếu nó chạy): Dù là vật gì cũng không để thế được. Tôi nhẹ nhàng với lấy cái đèn bấm trong ngăn kéo rồi ngẩng lên, và kinh ngạc dị thường.

Giữa khung cửa sổ, một khuôn mặt lặng lẽ, trắng một cách lạ, một khuôn mặt đàn bà rất trẻ, đẹp, một vẻ đẹp tuyệt mỹ, đẹp đến lạnh mình...

Hiện lên như ở đó đã từ bao giờ và thoáng biến ngay, như không bao giờ có...

Trại Bồ Tùng Linh (II)

Viết tới đó, Tuấn ngừng lại, ngón tay cầm bút cứng ra vì mỏi: anh đã viết thẳng một mạch cả câu chuyện lạ lùng lên hơn tám trang lớn lúc đó dùng thay cho giấy viết thư.

Việc xảy ra ở Trại Bồ này cùng với bao nhiêu cảm tưởng chi ly mà thói quen phân tích của nhà văn khiến anh ghi nhớ được, Tuấn đem thuật lại tường tận với một người bạn ở xa. Anh muốn cho bạn biết chuyện để hỏi ý kiến, để xem một người khác sẽ nghĩ và sẽ đoán về việc ấy ra thế nào, và cũng để qua thì giờ. Đêm nay, anh cũng lại thức. Anh không đọc sách hay viết tiểu thuyết như mọi tối, vì anh có ý đợi. Anh chắc hẳn sự kỳ dị sẽ “nhắc lại”, cũng như đã nhắc lại ngay đêm sau.

Cái bóng đàn bà thoáng hiện ra lần đầu, lại hiện ra lần thứ hai, trong đêm vừa qua, cùng một trường hợp giống nhau nghĩa là lúc anh đang làm việc mải miết. Thốt nhiên một cảm tưởng là lạ ám đến, anh trờn trợn như mình có người chú ý ngẩng đầu lên: trong khung cửa sổ, một người rất đẹp đang nhìn anh, lăng lặng, và miệng như mỉm cười. Tuấn chưa hết kinh ngạc thì người ấy đã lui ngay, nhẹ nhàng như lẩn biến vào bóng tối. Tuấn cầm đèn ra soi khắp hiên, tìm quanh nhà sục sạo khắp trại, nhưng đều vô ích: không có một dấu vết nào khác lạ. Người đàn bà đẹp như đã tan vào trong đêm.

Nhưng Tuấn không thể tin đó là một hình ảnh hư ảo được. Tuy hình ảnh chỉ hiện ra trong thoáng mắt, Tuấn cũng còn nhớ rất rõ khuôn mặt tuyệt mỹ với nước da rất trắng và từng nét môi, từng vòng mi, từng vành tai nhỏ và nhất là cặp mắt nhìn đen láy, long lanh sáng và yên lặng một vẻ dị thường.

Không! Không thể là một ảo tưởng được. Một hình ảnh thấy trong lúc kích thích của trí não, hoặc lúc hốt hoảng của tâm thần, tất không có những nét hiện thực và nổi rõ đến thế. Cái ý tưởng rằng đó là một người sống sẽ chiều được trí thiết thực của Tuấn nhưng sẽ đem lại biết bao nhiêu câu hỏi lạ lùng: Một người đàn bà - một người có nhan sắc và yêu kiều như thế, đến nơi hoang dại vắng vẻ này làm gì, và sao lại đến giữa những lúc đêm tối ghê rợn nhất? Cái dáng lặng lẽ, cái lối hiện biến nhanh chóng, những lúc tìm tòi vô hiệu của Tuấn và sự quái lạ của hành vi người đàn bà khiến cho Tuấn như không biết đường nào mà suy nghĩ.

*

Ban ngày anh đã hỏi chuyện mấy người cày cấy quanh trại, cho tìm cả người coi trại đến, nhưng không ai biết người đàn bà nào giống như lời anh mô tả. Họ không giúp anh gỡ được bối rối hoặc chỉ bàn thêm những câu chuyện huyền hồ. Người coi trại còn nhắc đến một vài chuyện ma quái mà hắn đã có lần trông thấy hồi hắn còn ở trại, trước ngày Tuấn đến ở. Anh hết lòng không để ý tới, nhưng sự mê tín của hắn cũng làm anh băn khoăn. Tuấn không muốn nài thêm, gạt ra ngoài tai những ý kiến của mấy người nhà quê và cấm thằng Dần không được nói là cậu nó thấy ma nữa.

Anh nhất định chỉ cho việc xảy ra hai đêm vừa rồi là một sự bí mật chưa khám phá được. Anh tạm cho là mình bất giác chịu ảnh hưởng của cái vẻ um tùm cổ kính trong trại. Cái tên “Trại Bồ Tùng Linh” biết đâu chẳng đã gợi ra đôi chứng dị đoan còn cố hữu trong huyết mạch? Hay biết đâu óc tưởng tượng đã chẳng tạo ra cái hình ảnh mà anh trông thấy trong lúc kích thích mà không ngờ?

Nhưng mà...

Tuấn không muốn suy nghĩ kỹ càng hơn. Anh vội giữ lấy những lý luận sơ sài để yên lòng.

Buổi trưa, anh ngủ một giấc dài hơn mọi ngày để khỏi mệt tinh thần và đến chiều, sau bữa cơm, anh để tâm chỉ hát những bài vui trong khi đi bách bộ quanh trại.

Bóng chiều đổ mau dưới những vành lá nặng um tùm. Tuấn cắt nghĩa mỗi tiếng reo động gần quanh và luôn luôn tự bảo những lúc hồi hộp của mình là vô cớ, là vô lý. Anh đi thăm những cây đa cổ kính, nắm lấy những thân rễ lớn một cách bạo dạn và ngạo nghễ với những vừng bóng xanh tối mỗi lúc một thâm già. Gió rì rào trên đầu cây, trong cành lá, có một âm vang như tự xa về, và hơi lạnh bao vây khiến Tuấn se sẽ rùng mình. Anh tự nhủ đó là do tiết trời về thu. Nhưng Tuấn thấy mình bỗng đi gấp bước. Bóng âm u thay đổi cảnh hoa cỏ ở đây nhanh chóng quá. Tuấn nhìn lại và thấy lạ hẳn những chỗ lúc trước vừa đi qua. Anh bực mình vì không thể cưỡng nổi một ý lo ngại cứ dần dần tăng. Một đôi lần, lúc đang bước, anh quay cổ nhìn trở lại. Không ngờ Trại Bồ về tối lại có vẻ hoang tịch đến thế.

Tuấn bước lên tới thềm nhà mà vẫn còn thấy khó chịu. Anh vội nhảy qua bực cửa: ánh sáng đèn làm anh được tạm yên lòng.

*

Tuấn không thấy muốn làm việc như mọi lần.

Anh cầm bút rất lâu và sau cùng xếp giấy lại, trí nghĩ đi vào những hõm cây, hốc bụi và tưởng sự huyền bí ẩn nấp dưới các hình bóng dị kỳ: Trại Bồ lúc này là một nơi cũ kỹ trong một bầu không khí cổ sơ. Anh nhớ lại những chuyện truyền thuyết, những nhân vật hoang đường. Anh thấy mình có vẻ một chàng thư sinh ngồi dùi mài trong một ngôi chùa và có những sự gặp gỡ quái hoặc.

Sự hiển hiện hai đêm trước không giữ được cái tính cách bí mật “trần gian” mà anh muốn thấy. Tuấn cố xua đuổi những ý tưởng huyền hồ đến dìu dắt tâm trí anh. Sự kỳ dị không để một lối nào để dò theo, không có một đầu mối nào có thể lần gỡ được. Tuấn không biết nên để sự suy xét theo một chiều nào. Anh chỉ biết - mỗi lúc một rõ, một chắc chắn thêm - rằng hắn sẽ hiện về, thế nào rồi cũng lại hiện về. Điều đó thành một sự cố nhiên mà anh cứ yên lặng nhận lấy - và chịu lấy.

Tuấn thấy suy tính cũng vô ích. Anh đành lòng đợi vậy.

“Để xem đêm nay nữa, xem nào!”

Anh muốn đánh thức thằng Dần dậy để cùng đi rình bên ngoài - anh vẫn còn giữ một chút nghi hoặc mơ hồ - nhưng anh trông thấy trước sự khiếp sợ của nó. Tuấn đi dạo ngoài hiên hai, ba lượt. Ánh sáng từ cửa sổ chạy đến một khóm mẫu đơn gần nhất. Đêm tối sấn đến quanh đấy cùng với cả một thế giới bí hiểm và vô hình. Tuấn bắt đầu cân nhắc thử can đảm mình và không thấy vững lòng lắm. Anh gắng đi quanh lớp nhà một vòng nữa, bước chân ghê rợn: lúc trở vào, anh ngồi trước bàn viết và không còn tâm nào để lại bước ra ngoài đêm. Anh nói nhỏ bằng tiếng Pháp:

- Thế mà một người con gái dám ở đâu đến đây!

Tuấn toan nghĩ thêm:

-... Nếu thực là người.

Nhưng anh vội bật cười thành tiếng và nghĩ chuyện khác.

Anh giở sách ra đọc, ngắt quãng từng đoạn để nghe gió chạy ồ ạt từng trận, và chú ý luôn đến các tiếng giun dế ở xa và ở quanh thềm.

Lúc Tuấn nghĩ đến sự viết thư cho Bình, thì anh mừng rỡ như tìm thấy một việc rất ích lợi. Anh tự nhủ: “Không thể quên được thì gì bằng nói ngay đến. Xem Bình hắn đoán việc này thế nào nào?”. Tuấn không nghĩ sắp câu, cầm bút lên là những chữ tiếp theo nhau hiện lên mặt giấy.

Tuấn thấy ham viết cũng như lúc khác viết văn.

Việc mới xảy ra còn rõ từng nét trong trí nhớ, thêm linh hoạt vì sức chiêu gợi: Tuấn thấy sống lại từng phút, từng đoạn cảm xúc trong những hồi đã qua. Sự “có mặt” của người giai nhân bí mật bớt vẻ tỵ hiềm vì sự tô điểm của văn chương. Anh nghĩ thầm: “Giá lúc này ta nhắc đến là nàng hiện ra nhỉ!”. Và mấy lần toan nói to ý nghĩ ấy lên.

Tuấn đọc lại những hàng cuối cùng. Tay đã hết mỏi, anh cầm bút để viết tiếp bức thư.

Anh đoán lúc đó đã khuya lắm và nghĩ thầm: “Hôm qua với hôm kia mười hai rưỡi thì mình thấy...”

Rồi lại đặt bút xuống.

Mười hai rưỡi là khoảng thời gian người đẹp vẫn hiện đến. Anh chắc lúc ấy sớm ra cũng đã hơn một giờ. Nhìn lên, cửe sổ là cái khuôn đen ngòm dẫn vào một chút gió rất chậm và rất yếu. Tiếng đêm ran trong vừng tối vẫn giống như bao nhiêu đêm... Trước khi lại viết tiếp, Tuấn lấy đồng hồ coi và biết mình đoán lầm: mới mười hai giờ hai mươi.

- Quái, thế mà mình tưởng khuya lắm rồi!

Và tự dưng Tuấn như thấy hồi hộp.

Anh cầm bút chấm mực, cho là do thói quen bắt ở hai lần kinh ngạc trước và tự an ủi bằng một câu cứng cỏi vẫn quen nghĩ:

- Ừ! Thì là người, là ma, là tinh nữa, thế đã sao chưa?

Nhưng sự hồi hộp lấn đến rất mau chiếm lấy cả tâm trí anh. Tuấn lại có thứ cảm tưởng lạnh lùng nặng nề, và ghê rợn y như mấy lần trước...

- Chắc lần này lại...

Cả câu nghĩ thầm như cũng nghẹn ngào trong cổ.

Tuấn chợt sinh bực tức, thấy rõ mình bị giễu cợt, trêu ghẹo, dù bởi ma hay người... Sự căm giận nổi lên vì hổ thẹn và phản kháng, như thêm một sức mạnh lạ lùng. Tuấn nắm tay lại, nhìn phắt lên: ngoài cửa sổ vẫn không thấy gì khác.

Hơi Tuấn thở vội, hỗn loạn với nhịp trống ngực. Tuấn sững sờ và thấy mình ngộ nghĩnh đáng nực cười. Anh lại toan cất tiếng cười lên: Muốn tự cho mình là người lo sợ không đâu, và chỉ tưởng tượng ra những điều kỳ dị để tự nát. Nụ cười đã sẵn phác ở miệng Tuấn, nhưng cứ giữ nguyên thế. Tuấn vừa lại “cảm thấy” một sự gì khác thường. Phải, một sự gì vừa xảy ra.

Hình như có tiếng gì vừa động. Nhưng ở đâu?

Tuấn toan nghe ngóng, bỗng quay lại đằng sau: Chưa bao giờ - thực vậy, chưa bao giờ - Tuấn kinh ngạc đến thế.

Một người thiếu phụ - người hai đêm trước - vấn tóc trần, mặc hàng lụa xanh phơn phớt, ngồi bắt chéo chân trong chiếc ghế bành gian giữa, bình yên, lặng lẽ, và tự nhiên như người trong nhà. Tuấn lần này mới nhìn rõ nhan sắc của nàng ta, và nhìn lâu. Và lần đầu tiên anh biết thế nào là sự rùng rợn.

Thế Lữ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mưu Gia Cát

Mưu Gia Cát Thầy thằng Vi với thầy thằng Hoa hồi nhỏ cùng học với nhau một trường, nhớn lên, hai người cùng đỗ một năm, và bây giờ thì cùn...