Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2024

XXXXVô gia đình 2

Vô gia đình 2

Chương XII

Người bạn thứ nhất của tôi

Bà mẹ An-Tuyên là người Anh, tên gọi Mỹ-Lưu. Bà góa chồng và tôi tưởng An-Tuyên là con một của bà; – nhưng sau tôi được biết bà còn có người con đầu lòng bị mất tích trong một trường hợp bí ẩn mà người ta không tìm thấy dấu vết gì. Việc đó xảy ra trong khi ông Mỹ-Lưu hấp hối mà bà Mỹ-Lưu thì ốm trầm trọng: mê mẩn không biết gì. Khi bà tỉnh dậy thì chồng đã ra người thiên cổ và con cũng biệt tích bao giờ. Việc tìm kiếm bà giao cho ông Mỹ-Giang là em chồng bà. Người ta thấy có sự bất lợi trong sự ủy thác đó, vì nếu chồng bà chết mà không có con thì đến lượt Mỹ-Giang được thừa hưởng sản nghiệp của người quá cố.

Tuy vậy, Mỹ-Giang không được quyền thừa kế đó là vì sáu tháng sau khi chồng mất, bà sinh hạ được một người con trai, chính là cậu An-Tuyên bây giờ.

Nhưng đứa trai đó mảnh dẻ, yếu ớt, khó lòng nuôi được, các thầy thuốc bảo thế, ngày một ngày hai nó sẽ chết. Đến lúc đó Mỹ-Giang sẽ đương nhiên được hưởng tước vị và tài sản của anh, vì luật lệ về quyền thừa kế mỗi nước một khác, nên ở nước Anh, trong một vài trường hợp người anh mất đi, em có quyền thừa kế, người vợ góa phải chịu thiệt thòi.

Cháu trai ra đời làm cho Mỹ-Giang thất vọng, nhưng không phải tuyệt vọng, vì ông ta có thể đợi.

Ông ta đã đợi.

Những lời tiên đoán của thầy thuốc không nghiệm. Đứa bé tuy ẻo lả thật nhưng nó vẫn dai dẳng, không chết, có hy vọng nuôi được, đó là nhờ lòng hy sinh săn sóc của bà mẹ. Và ơn Thượng-Đế! Đó là một sự kỳ diệu.

Đã hai mươi lần người ta tưởng nó chết, đã hai mươi lần nó lại được cứu sống. Rồi cứ quặt quẹo luôn, có khi hàng trăm thứ bệnh sả vào mình nó.

Gần đây nó mắc chứng đau xương hông. Thầy thuốc khuyên nên đi tắm ở suối nước có chất lưu hoàng. Bà Mỹ-Lưu không quản ngại, đã sang Pháp tìm đến núi Py-rê-nê, nhưng dùng nước suối đó vô hiệu. Một danh y lại cho cách điều trị khác là giữ cho thân thể bịnh nhân nằm thẳng, không được bước chân xuống đất.

Vì thế bà Mỹ-Lưu phải đặt làm ở Boóc-Đô cái thuyền lạ kiểu mà hiện thời tôi đang nương náu ở đó.

Bà nghĩ không thể giam con mãi trong nhà được, nó sẽ chết mòn vì buồn và thiếu khí lành. An-Tuyên không đi được thì cái nhà sẽ đi thay cho An-Tuyên.

Người ta đã chế cái thuyền thành một thứ nhà nổi, có buồng ngủ, có bếp, có phòng khách và hiên ngồi hóng mát, thuyền đó đặt tên là Thiên-Nga. Chính ở trong phòng khách ấy hay ở dưới mái hiên ấy, tùy theo tiết trời, An-Tuyên ra nằm đó từ sáng đến chiều, chuyện trò với mẹ hay nhìn phong cảnh luôn luôn diễn ra trước mắt, không mất công di chuyển và cũng không phải nhọc nhằn gì. Con thuyền khởi hành từ Boóc-Đô đã hơn một tháng nay rồi. Sau khi ngược sông Ga-ron, thuyền vào sông Nam. Do sông này, thuyền qua những cừ, những lạch, lượn theo ven bờ biển Địa-Trung-Hải để đến sông Rôn. Lại ngược sông Rôn và phụ lưu Sa-ôn để sang sông Loa, đến tỉnh Briare thì rẽ vào sông đào tỉnh ấy. Rồi từ sông này vào sông Xen, xuôi xuống hải cảng Ru-En; ở đó bà Mỹ-Lưu cùng con sẽ đáp tàu về Anh-Quốc.

Hôm tôi xuống thuyền, tôi chỉ biết cái buồng dành cho tôi thôi. Mặc dầu nó dài chừng hai mét, rộng độ một mét, nhưng rất điểm dáng và sạch sẽ. Đồ đạc trong buồng chỉ có một cái tủ thấp, nhưng cái tủ này chẳng khác gì cái chai của một nhà vật lý học, bên trong chứa đựng không biết bao nhiêu là thứ. Mở nắp tủ ra người ta thấy một cái giường đầy đủ đệm, gối, chăn. Dưới giường là một ngăn kéo có đủ các thứ dùng về việc tắm rửa. Dưới ngăn kéo này lại có cái ngăn kéo thứ hai chia làm nhiều ô để xếp quần áo. Không có bàn, không có ghế. Nhưng ở đầu giường, một tấm gỗ xinh xắn, đóng vào bức ngăn, hạ xuống thành cái bàn; cuối giường một miếng gỗ nhỏ hơn, hạ xuống thành cái ghế dựa.

Một cái cửa sổ tròn, chọc ra ở sườn thuyền, có cánh lồng kính, dùng để lấy ánh sáng và thay đổi khí trời.

Những bức ngăn, đều bằng gỗ thông sơn bóng. Trên sàn rải một cái khăn bằng vải sơn kẻ ô vuông đen và trắng.

Cái buồng này không những làm đẹp mắt mà còn làm cho lòng tôi thích thú nữa.

Sau khi cởi áo rồi, lên giường nằm, tôi có một cảm giác êm đềm mới. Lần đầu tiên tôi được đặt mình trên cái khăn trải giường mịn màng, không cắn da. Ở nhà mẹ tôi, tôi nằm trên cái khăn bằng gai cứng ráp. Đi với thầy tôi, chúng tôi thường ngủ trên rơm, trên cỏ có khi vào nhà trọ thì chỗ nằm chẳng hơn ổ súc vật bao nhiêu.

Ôi! Cái chăn mềm ấm và thơm tho biết bao! Cái nệm êm ái hơn ổ lá thông hôm trước rất nhiều. Cái yên lặng ban đêm không làm cho tôi lo lắng, bóng tối cũng không chập chờn như ma nữa! Và cả những ngôi sao nhìn tôi qua cửa sổ, khích lệ tôi và hứa hẹn rất nhiều.

Tuy được ngủ ngon trên chiếc giường êm ấm, tôi không quên dậy sớm, vì tôi vẫn nghĩ đến những bạn tôi không biết đêm qua ngủ ngáy thế nào.

Tôi thấy tất cả gia nhân tôi đều nằm yên ở chỗ tối qua tôi xếp đặt và ngủ dài như ở nhà mình. Khi tôi lại gần, những con chó thức dậy, vui mừng chạy lại cho tôi vuốt ve. Còn Hảo-Tâm tuy một mắt có hé mở, nhưng không cử động và nó cứ ngáy khò khò như tiếng kèn hai ống.

Thấy thế tôi hiểu ngay. Ngài Hảo-Tâm bản chất hay chạnh lòng, mỗi khi phật ý thì giận rất lâu. Vì hoàn cảnh bắt buộc, hôm qua tôi không để ngài ngủ trong phòng cùng tôi, nên ngài giận tôi và giả cách ngủ.

Tôi không làm sao cắt nghĩa cho con Hảo-Tâm hiểu được rằng tôi phải buộc lòng cho nó ngủ ngoài sàn. Tôi liền bế nó lên tay vuốt ve nó và tỏ lòng áy náy của tôi.

Thoạt tiên nó cứ hờn dỗi mãi, một lúc lâu, vì tính hiếu động, nó nghĩ đi việc khác rồi ra hiệu cho tôi biết nếu cho nó lên bộ chơi một lúc thì nó không giận nữa.

Lúc đó người lái thuyền đã dậy và đang lau sàn. Tôi nhờ bác ta bắc cầu cho tôi cùng các con vật lên cánh đồng cỏ chơi một lúc.

Tôi chơi đùa với các con chó và Hảo-Tâm, tôi chạy, tôi nhảy, tôi leo lên cây. Thời giờ đi nhanh quá. Khi chúng tôi trở về chỗ thuyền đậu thì hai con ngựa đã buộc dây sẵn sàng chỉ còn chờ lệnh chạy.

Chúng tôi vội vàng xuống thuyền. Vài phút sau, người chân sào tháo dây ở bờ và rút cầu. Người kéo thuyền lên mình ngựa. Tiếng dây kèn kẹt: chúng tôi bắt đầu đi.

Đi thuyền thú biết bao! Những con ngựa chạy đều trên bờ. Chúng tôi lướt trên mặt nước rất êm. Cây cối hai bên bờ chạy trốn về phía sau chúng tôi. Người ta chỉ nghe thấy tiếng nước lách tách vỗ vào mạn thuyền lẫn tiếng nhạc đồng xoàng xoảng trên bờ.

Đứng ở trên bao lan thuyền, tôi nhìn những cây bạch dương, rễ bò trong đám cỏ tươi, lá hiu hiu động trong bầu không khí yên lặng ban mai. Rặng cây liền xít trên bờ sông như một tấm màn màu lục, ngăn ánh triêu dương, chỉ để lọt qua kẽ lá một vài tia nắng dịu dàng.

Mặt sông có chỗ nước đen thẳm như phủ trên những vực sâu, có chỗ nước trong vắt trông rõ cả những viên sỏi bóng loáng và những đám cỏ mịn như nhung.

Tôi đang mải ngắm cảnh, chợt có tiếng gọi tôi ở phía sau. Tôi quay lại thấy cậu An-Tuyên, người ta đã đưa cậu ra nằm chơi ở đó. Mẹ cậu ngồi bên cạnh. An-Tuyên hỏi:

- Đêm qua anh ngủ được hơn ở cánh đồng chứ?

 Tôi chạy lại gần, tìm những câu lễ phép để trả lời cậu và mẹ cậu.

Cậu hỏi:

- Những con chó đâu?

Tôi gọi chúng đến. Những con chó vừa đến vừa giơ tay chào; Hảo-Tâm nhăn mặt cúi đầu. Chúng tưởng sắp có cuộc diễn trò.

Nhưng sáng nay không phải làm gì cả.

Bà Mỹ-Lưu cho con nằm chỗ khuất nắng và bà ngồi bên cạnh con.

Bà bảo tôi:

- Con đem các con chó và con khỉ ra chỗ khác chơi để chúng ta làm việc.

Tôi theo lời, đưa đàn chó và Hảo-Tâm ra mũi thuyền.

Cậu bé tàn tật cũng có thể làm việc được sao?

Tôi nhìn thấy mẹ cậu cầm quyển sách đọc từng câu và bắt cậu nhắc lại.

Nằm trên tấm ván, cậu miệng lẩm nhẩm nhắc những câu mẹ đọc.

Cậu nhắc khó nhọc lắm, nhắc lại ba tiếng cũng không xuôi, thường nói lộn.

Bà mẹ kiên nhẫn sửa lại nhiều lần những câu sai đó một cách dịu dàng nhưng không kém phần cương nghị. Xong bà nói:

- Con không thuộc bài ngụ ngôn của con rồi.

An-Tuyên kêu bằng một giọng chán nản:

- Ô!

- Hôm nay con đọc sai hơn hôm qua nhiều.

- Con vẫn cố học.

- Và con chẳng thuộc gì cả.

- Con không thể học thuộc được.

- Tại sao?

- Con không biết… bởi vì con không thể học thuộc được… con ốm.

- Óc con không ốm. Mẹ không bằng lòng con không học gì. Con cứ lấy nê ốm mà không học thì lớn lên con sẽ dốt nát.

Bà Mỹ-Lưu tỏ ta nghiêm nghị nhưng bà nói rất ôn tồn, êm ái:

- Tại sao con chán học bài?

- Thưa mẹ, con không sao học được, quyết rằng con không sao học được.

Rồi An-Tuyên khóc òa lên. Nhưng bà không chuyển lòng, măc dầu bà vẫn thương con. Bà nói:

- Hôm nay mẹ định học xong thì cho con chơi với Lê-Minh và đàn chó. Nhưng con lại không thuộc thì chơi làm sao được?

Nói xong, bà đưa sách cho con và bước vài bước định vào trong phòng để mặc con nằm trên tấm ván.

An-Tuyên khóc nức nở. Ở ngoài mũi thuyền tôi cũng nghe thấy tiếng khóc của cậu.

Bà Mỹ-Lưu sao lại quá nghiêm nghị với đứa con ốm yếu mà bà thương yêu nhất đời thế? Cậu không thuộc được bài, không phải lỗi tại cậu, mà là do bệnh nạn sinh ra.

Bà định bỏ con nằm một mình ở đó và không bảo con lời nào hay sao?

Không. Bà không bỏ con nằm đó. Định vào trong phòng nhưng bà lại trở lại. Bà nói:

- Vậy mẹ cùng học với con nhé?

- Thưa mẹ, cùng học, vâng.

Bà liền ngồi cạnh con, cầm lấy sách và đọc rất thong thả bài ngụ ngôn, chó sói và con cừu non. An-Tuyên theo mẹ nhắc lại từng tiếng từng câu.

Bà đọc như thế ba lần, xong bà trao sách cho An-Tuyên bảo con tập đọc một mình và bà vào trong thuyền.

An-Tuyên tiếp tục đọc bài ngụ ngôn. Ở chỗ tôi ngồi, tôi nhìn rõ môi cậu lắp bắp.

Cậu cũng biết nghe lời mẹ và chịu khó đấy chứ?

Nhưng sự chăm chú ấy không được lâu. Lát sau cậu nhìn ra ngoài quyển sách, môi cử động chậm dần rồi im bặt.

Cậu không đọc nữa, không nhẩm nữa. Cậu nhìn quanh nhìn quẩn và trông thấy tôi. Tôi giơ tay làm hiệu, khuyến khích cho cậu tiếp tục học bài.

Cậu mỉm cười như để cảm ơn tôi rồi lại nhìn vào quyển sách.

Nhưng được một lát, cậu lại nhìn ra bờ sông.

Lúc đó, tôi vô tình đứng dậy, làm cho cậu chú ý nhìn tôi, tôi trỏ vào quyển sách, cậu luống cuống, lại nhẩm bài.

Không may, hai phút sau, có con chim trả bay vụt như mũi tên ngang sông, qua đầu thuyền để lại sau nó một vệt màu lam.

An-Tuyên nghến đầu nhìn theo. Khi con chim trả đã biến rồi, cậu nhìn theo tôi và nói:

- Anh ơi! Tôi muốn học lắm, nhưng…

Tôi lại gần cậu và nói:

- Bài ngụ ngôn này không khó lắm đâu.

- Ô! Khó lắm chứ!

- Tôi thấy dễ. Nghe bà đọc ban nãy, tôi đã nhớ cả rồi.

Cậu mỉm cười có ý nghi ngờ.

- Cậu có muốn tôi đọc lại cho cậu nghe không?

- Đọc làm sao được?

- Không. Tôi đọc được. Cậu cầm sách dò, tôi cố đọc xem có đúng không?

Cậu cầm sách nhìn, tôi đọc lại. Cậu chỉ phải chữa một hai tiếng tôi quên thôi. Cậu hỏi:

- Thế anh thuộc thực à?

- Không được thuộc lắm. Nhưng bây giờ tôi có thể đọc lại không sai.

- Anh làm thế nào mà thuộc được?

- Tôi nghe bà đọc, nghe một cách rất chăm chú, không để ý hoặc nhìn những vật chung quanh tôi.

Cậu đỏ mặt, nhìn ra chỗ khác. Xong, hết thẹn, cậu bảo tôi:

- Tôi đã hiểu cách nghe của anh thế nào rồi. Tôi sẽ cũng nghe như anh. Nhưng anh làm thế nào mà nhớ được tất cả những tiếng ngổn ngang trong óc?

Tôi đã làm thế nào? Tôi cũng không biết vì không bao giờ tôi để ý đến điều đó. Tuy nhiên tôi cũng theo kinh nghiệm của tôi, cắt nghĩa cho cậu nghe, tôi nói:

- Bài ngụ ngôn nói về cái gì? Về con cừu. Tôi bắt đầu nghĩ đến những con cừu. Rồi tôi nghĩ đến chúng nó làm gì: “Những con cừu đang ở yên lành trong vườn”. Tôi trông thấy những con cừu nằm và ngủ trong vườn vì chúng được yên ổn. Và đã nhìn thấy chúng tôi không quên được.

Cậu nói:

- Phải đấy, tôi cũng trông thấy chúng: “Những con cừu ở yên lành trong vườn”. Tôi trông thấy có con trắng, có con đen, tôi trông thấy cả những con cừu cái, cừu con. Tôi trông thấy cả vườn rào giậu thưa.

- Như vậy cậu không quên được nữa chứ?

- Ô! Không quên được.

- Thường thì ai giữ việc chăn cừu?

- Những con chó.

Khi chúng không cần coi cừu vì những con này đã được yên lành thì chúng làm gì?

- Chúng chả làm gì cả.

- Lúc đó chúng có thể ngủ được. Vậy ta nói: “Những con chó nằm ngủ cả”.

- Chính thế! Dễ quá!

- Có phải dễ lắm không? Bây giờ, ta nghĩ đến cái khác. Ai thường coi cừu với chó?

- Trẻ chăn cừu.

- Nếu những con cừu được yên lành, trẻ chăn cừu ngồi rỗi thì nó dùng thì giờ để làm gì?

- Để thổi sáo.

- Cậu có nhìn thấy không?

- Có.

- Vậy nó ở đâu?

- Dưới bóng cây du.

- Nó có chơi một mình phải không?

- Không. Nó chơi với những trẻ mục đồng khác.

- Bây giờ cậu đã trông thấy cừu, thấy vườn, thấy chó và trẻ chăn cừu. Vậy cậu có thể nhắc lại không sai đoạn đầu bài ngụ ngôn được không?

- May ra được.

- Cậu cố nhắc lại xem.

Nghe tôi nói và cắt nghĩa cách học bài thế nào cho chóng thuộc. An-Tuyên nhìn tôi vừa cảm động vừa e sợ vì không tin điều tôi nói là thật, tuy nhiên, sau vài giây ngập ngừng, cậu nhất định đọc:

- “Những con cừu ở yên lành trong vườn. Những con chó nằm ngủ cả. Em bé chăn cừu ngồi dưới bóng cây du đang thổi sáo chơi với mấy trẻ mục đồng khác”.

Xong cậu vỗ tay reo:

- Tôi thuộc nhẵn, không sai chữ nào!

- Vậy cứ theo cách đó, cậu học các đoạn sau.

- Ừ! Với anh, tôi tin rằng tôi có thể học thuộc hết được. A! Mẹ tôi sẽ sung sướng biết bao!

Rồi cậu theo phép học đoạn đầu, cậu tiếp tục đọc đoạn dưới.

Không tới 15 phút, cậu thuộc hết và đọc rất trôi chảy. Khi cậu đọc vừa xong thì mẹ cậu ở trong ra, đứng sau chúng tôi.

Thoạt tiên, bà có ý không bằng lòng tưởng chúng tôi họp nhau để chơi, nhưng An-Tuyên không để bà hỏi, nói luôn:

- Mẹ ơi! Con thuộc rồi! Chính Minh đã dạy con học đấy!

Bà Mỹ-Lưu ngạc nhiên nhìn tôi. Bà định hỏi tôi thì An-Tuyên không chờ mẹ bảo, đọc luôn bài ngụ ngôn một mạch, không ngập ngừng và không sai chữ nào, đôi mắt sáng ngời đắc thắng.

Trong khi đó, tôi nhìn bà Mỹ-Lưu gương mặt kiều diễm của bà tươi hẳn lên, hai mắt long lanh ướt. Bà cúi xuống ôm lấy con hôn, không biết bà có khóc không.

An-Tuyên nói với mẹ:

- Những chữ, tồi quá, không nghĩa lý gì, nhưng những vật thì người ta nhìn thấy. Minh bảo con nhìn thấy trẻ chăn cừu với cái sáo của nó. Khi con học con không nhìn vơ vẩn chung quanh con, con chỉ nhìn thấy cái sáo của trẻ chăn cừu và con nghe thấy cả điệu sáo thổi nữa. Mẹ muốn nghe con hát điệu đó không?

Rồi cậu hát một bài điệu hơi buồn bằng tiếng Anh.

Lần này thì bà khóc thực. Khi bà đứng dậy, tôi trông thấy những giọt nước mắt đã rỏ trên má cậu con. Rồi bà bước tới cạnh tôi, cầm tay tôi và bắt rất chân thành khiến tôi vô cùng cảm động. Bà nói:

- Con là một đứa trẻ tâm địa tốt.

Tôi kể lại việc phụ này hơi dài dòng là cốt để độc giả biết vì đâu mà địa vị của tôi ở trong thuyền từ đó bỗng nhiên thay đổi. Hôm qua, người ta cho tôi là một đứa trẻ diễn trò để làm vui cậu bé ốm, nhưng hôm nay, bài ngụ ngôn đó đã chia rẽ tôi với các con vật của tôi, tôi trở nên một người bạn, một người bạn thân của cậu An-Tuyên.

Cũng nên nói ngay rằng – điều này về sau tôi mới biết – bà Mỹ-Lưu rất sầu não thấy con chẳng học gì được. Mặc dầu con ốm yếu, bà muốn cậu làm việc đôi chút vì bệnh cậu còn kéo dài, bà muốn luyện ngay từ bây giờ cho óc cậu bắt những thói quen để dễ kéo lại những thời gian đã mất khi mà cậu bình phục hẳn.

Bà lại thất bại trong việc rèn luyện đó. Cậu rất dễ bảo về phương diện làm việc, nhưng rất khó bảo về phương diện chú ý và chuyên cần. Cậu không sợ sách. Khi người ta trao cho cậu quyển sách, cậu sẵn sàng mở hai tay ra đón, nhưng còn óc cậu, cậu không mở và giống như cái máy; miệng cậu nhắc lại không hay không dở, hoặc dở nhiều hơn hay, những tiếng mà người ta đem nhồi vào óc cậu.

Vì thế, bà rất sung sướng thấy con thuộc được bài ngụ ngôn cùng học với tôi trong có nửa tiếng đồng hồ, mà chính bà, bà vẫn dạy cậu trong bao nhiêu ngày mà cậu không thuộc.

Bây giờ, mỗi khi tôi nhớ lại những ngày đã ở trong thuyền Thiên-Nga với bà Mỹ-Lưu và cậu An-Tuyên, tôi cho là những ngày sung sướng nhất trong thời thơ ấu của tôi.

Cậu An-Tuyên đối với tôi có một tình hữu ái nồng nàn. Còn tôi, tôi cũng tự nhiên và coi cậu như tình ruột thịt. Chúng tôi không bao giờ cãi nhau. Về phần cậu, cậu không hề tỏ ra chút chi là quyền quý. Về phần tôi, tôi không thấy chút chi là bịn rịn, mà tôi không bao giờ nghĩ đến điều đó.

Sự làm thân đó là do tuổi thơ dại của tôi chưa biết việc đời là thế nào, mà cũng là do tính tình cao nhã và lòng tự ái của bà Mỹ-Lưu, bà coi tôi như con đẻ của bà.

Cuộc đi chơi bằng thuyền này đã đem lại cho tôi nhiều thích thú. Không một giờ nào buồn, không một giờ nào mệt. Từ sáng đến chiều giờ nào cũng thanh thản.

Từ ngày thiết lập đường hỏa xa, người ta không viếng và không biết đến sông Nam nữa, đó là một khuyết điểm vì sông này cũng là một kỳ cảnh của nước Pháp.

Từ tỉnh Villefranche, qua Avignonnet tới Naurouse, người ta thấy dựng ở đây một đài kỷ niệm để nghi ơn ông Riquet, người đã khai con sông này. Đài kỷ niệm đó ở trên đỉnh đất phân cách hai triền sông: một chảy về Đại Tây Dương, một chảy về Địa Trung Hải.

Lần lượt chúng tôi qua Castelnaudary, thành phố lắm cối xay, qua Carcassonne, một thành thị của thời trung cổ, tới đập Fouserannes có tám thủy hạp kết liền nhau, rồi đến tỉnh Béziers.

Qua miền nào đẹp lạ thì chúng tôi đi chậm lại, mỗi ngày độ vài dặm, trái lại miền nào hiu quạnh thì chúng tôi đi nhanh.

Chính đường đi định đoạt tốc độ và giờ khởi hành của chúng tôi. Chúng tôi không thể bận óc như những kẻ bộ hành, chúng tôi không thể phải đi những thôi đường dài để chóng tới quán trọ tìm nơi ăn, chốn ngủ.

Ngày nào cũng giờ ấy, bữa ăn dọn sẵn ở ngoài hiên. Trong khi ăn chúng tôi lặng nhìn những phong cảnh linh hoạt ở hai bên bờ sông.

Khi mặt trời lặn, chỗ nào màn đen tỏa xuống thì chúng tôi cắm thuyền; chúng tôi nghỉ ở đó cho tới khi ánh trời tỏ rạng, chúng tôi lại nhổ sào. Lúc nào cũng ở nhà mình, chúng tôi không biết những giờ vô sự của buổi chiều, dài dằng dặc và buồn tẻ cho những khách bộ hành.

Trái lại, những giờ hôm-tăm đó đối với chúng tôi, rất ngắn. Có khi đến giờ ngủ mà chúng tôi không buồn đi nằm.

Khi thuyền dừng lại, nếu trời lạnh, chúng tôi ở phòng khách. Sau khi đã đốt than củi, để khu trừ khí ẩm và hơi sương không tốt cho bệnh nhân, người ta thắp đèn và đưa An-Tuyên đến cạnh bàn. Tôi ngồi bên cậu. Mẹ cậu giở cho chúng tôi xem những sách có tranh vẽ hay những tấm ảnh đẹp và giảng cho chúng tôi nghe. Cũng như con thuyền kiểu đặc biệt kia, những tranh và những hình ảnh đó đã được lựa chọn và dự bị sẵn cho cuộc đi chơi này.

Khi chúng tôi xem tranh ảnh chán rồi, bà kể cho chúng tôi nghe những chuyện cổ tích hay những dã sử thuộc về miền chúng tôi đi qua. Bà vừa nói vừa nhìn vào mắt con, cảm động nhất là những lúc bà vỗ trán cố tìm những tiếng dễ hay cố phát biểu những ý vừa sức cho con hiểu.

Còn tôi, những buổi chiều đẹp, tôi cũng có công việc để hoạt động. Tôi vác đàn lên bộ, tìm một gốc cây tỏa bóng sẫm đen, ngồi đó, tôi hát và đánh lại tất cả những bản nhạc tôi thuộc. Cậu An-Tuyên thích nghe những tiếng đàn trong đêm vắng, không trông thấy người chơi nhạc. Cậu thường kêu to “Đánh nữa đi!”. Tôi lại gảy lại khúc đàn cậu ưa thích.

Đó là một đời sống êm đềm và sung sướng cho một đứa trẻ như tôi, đã rời bỏ mái nhà tranh của bà Bảo-Liên để rong ruổi trên con đường vô tận của Vỹ-Tiên, thầy tôi.

Món khoai suông của mẹ nuôi tôi với thịt đông, với bánh nhân mứt, cờ-rem, và bánh ngọt của bà Mỹ-Lưu bây giờ có khác nhau nhiều.

Cuộc đi đường trường dưới mưa dầm nắng rát lẽo đẽo theo thầy tôi so với cuộc du lịch bằng thuyền này cũng khác nhau xa.

Cho được công bình, tôi phải nói rằng trong cuộc sinh hoạt mới này, sự nương tựa về vật chất không làm cho tôi cảm động bằng sự nương tựa về tinh thần.

Thực vậy, được ăn miếng ngon cũng thú, không phải chịu nắng, chịu rét, cũng sung sướng lắm. Nhưng có điều thú hơn và sung sướng hơn là một tình yêu thương đã tràn ngập vào trái tim tôi.

Đã hai lần cái dây vô hình ràng buộc tôi với những người tôi yêu bị cắt đứt: lần thứ nhất là khi tôi bị dứt trong tay mẹ tôi, bà Bảo-Liên; lần thứ nhì là tôi bị chia lìa ông Vỹ-Tiên, thầy tôi. Cả hai lần tôi đều thấy tôi bơ vơ trên đời. Không nơi nương tựa, không chỗ cậy nhờ, chỉ có mấy con vật làm bạn bên mình.

Trong lúc bơ vơ, trong cơn khổ não, tôi đã gặp được người rất yêu thương tôi và tôi rất quý mến, một bà kiều diễm, hiền hậu và dịu dàng; và một cậu con trai bằng tuổi tôi, coi tôi như tình ruột thịt.

Sung sướng biết bao cho một trái tim – như trái tim tôi – đang khát tình thương.

Đã bao lần, nhìn cậu An-Tuyên nằm trên tấm ván, xanh xao, yếu ớt, tôi thèm hạnh phúc của cậu, tôi, một người lành mạnh!

Không phải vì đời sống sung sướng của cậu mà tôi thèm, không phải vì những sách quý của cậu, vì những đồ chơi đắt tiền của cậu hay cái thuyền du lịch của cậu mà tôi thèm, tôi chỉ mơ ước được cái tình mẫu tử tuyệt vời của mẹ đã chan hòa cho cậu.

Cậu thực sung sướng biết nhường nào! Không bao giờ tôi lại có được mẹ hôn đến mười lần, hai mươi lần một ngày và được hôn người mẹ hiền, mà tôi chỉ được sờ tay khi bà giơ cho tôi.

Lúc đó, tôi âm thầm nghĩ ngợi: không bao giờ tôi lại có một người mẹ hôn tôi và tôi được hôn lại. Có thể một ngày kia tôi được gặp bà Bảo-Liên, tôi sẽ sung sướng lắm, nhưng hôn bà và gọi bà là “mẹ” thì thật là dối lòng, vì bà không sinh ra tôi.

Một mình, suốt đời tôi chỉ có một mình!

Vì thế tôi không nên yêu sách quá về phần hạnh phúc trên đời. Tôi không có mẹ, không có anh em, không có gia đình, tôi phải biết nhận rằng tôi rất sung sướng vì có bạn.

Tôi nên sung sướng và thực ra tôi đã được sung sướng!

Nhưng than ôi! Mẩu đời sung sướng này ngắn ngủi quá! Tôi phải từ bỏ để trở lại cuộc đời cũ, lang thang trên đường vô định.

Chương XIII

đứa con bỏ rơi

Những ngày nương náu dưới thuyền vùn vụt như tên bay. Thấm thoát đã gần đến ngày thầy tôi được tha về. Lòng tôi sung sướng nhưng không khỏi bồi hồi.

Chúng tôi càng xa Tu-lu bao nhiêu thì lòng tôi càng bứt rứt bấy nhiêu.

Ngày ngày an nhàn trên chiếc thuyền du lịch vui thú biết bao! Nhưng rồi đây sẽ phải rời thuyền để đi bộ cũng về nẻo ấy.

Còn đâu nữa giường êm, bánh ngọt! Còn đâu nữa những buổi chiều tụ họp xung quanh bàn! Buồn biết bao!

Tôi lại buồn hơn nữa nghĩ đến lúc chia tay An-Tuyên và mẹ cậu. Tôi sẽ phải dứt tình luyến thương của bà Mỹ và cậu Tuyên, mất bà và cậu cũng như tôi đã mất mẹ nuôi tôi. Nghĩ lại đời tôi, tôi yêu và được thương để rồi phải chia lìa những người âu yếm tôi mà tôi không muốn xa rời.

Có thể nói được rằng mối tư lự đó ví như một đám mây, tự nhiên đến làm vẩn đục những ngày tươi sáng của tôi.

Hôm sau, tôi báo tin cho bà Mỹ-Lưu biết và hỏi bà từ đấy về Tu-lu mất bao nhiêu thì giờ vì tôi muốn đến cửa nhà lao đúng lúc thầy tôi ở đó bước ra.

Nghe tôi nói đến chuyện đi, An-Tuyên kêu to:

- Tôi không muốn Minh đi đâu!

Tôi phải giảng giải cho cậu biết rằng thân tôi không được tự do. Tôi thuộc quyền thầy tôi vì cha mẹ tôi đã thuận cho thầy tôi thuê, bây giờ thầy tôi cần đến tôi phải trở lại giúp việc cho thầy tôi.

Khi tôi nhắc đến cha mẹ tôi, tôi không nói rõ là cha mẹ nuôi, sợ phải thú nhận mình là đứa con bỏ rơi.

An-Tuyên nói tiếp:

- Mẹ ơi! Mẹ phải giữ anh Minh lại cho con.

Ngoài giờ học tập thì An-Tuyên nhất nhà, bảo gì mẹ cũng phải nghe.

Bà đáp:

- Giữ được Lê-Minh lại thì mẹ sung sướng lắm, vì con quyến luyến Minh mà mẹ cũng thương em lắm. Nhưng muốn cho em ở luôn đây phải có hai điều kiện mà mẹ và con không thể định đoạt được. Điều kiện thứ nhứt phải là Lê-Minh thích ở đây…

An-Tuyên ngắt lời:

- Anh Minh ơi! Anh thích ở đây chứ? Anh không muốn về Tu-lu phải không?

Bà Mỹ-Lưu không để tôi trả lời nói tiếp:

- Điều kiện thứ hai là thầy em có bằng lòng thì mới được.

An-Tuyên nói:

- Lê-Minh, cần Lê-Minh trước đã.

Đành rằng Vỹ-Tiên, thầy tôi rất thương tôi và tôi phải nhớ ơn thầy tôi dạy dỗ và săn sóc tôi, nhưng cuộc sống bên cạnh thầy tôi không thể nào so sánh được với cuộc sống mà bà Mỹ-Lưu đã dành cho tôi. Hơn nữa tôi nói câu này không hối hận – cái tình thương của thầy tôi cũng không thể nào so sánh được với lòng âu yếm của bà Mỹ-Lưu và tình quyến luyến của cậu An-Tuyên đối với tôi. Khi tôi nghĩ như thế, thì tôi lại cho là không phải, dám coi những người lạ; quen biết chưa được bao lâu hơn người đã cùng tôi dãi dầu, kham khổ. Nhưng thực tình là như thế, tôi không hiểu sao lòng tôi cứ quyến luyến bà Mỹ-Lưu và cậu An-Tuyên.

Bà Mỹ-Lưu nói tiếp:

- Trước khi trả lời, Lê-Minh còn phải nghĩ vì ở đây không phải là chỗ ăn chơi, còn phải học, còn phải làm, còn phải giúp con học nữa. Lê-Minh tất phải cân nhắc xem ở đây với các công việc đó hơn hay sống tự do trên đường hơn.

Tôi nói luôn:

- Thưa bà, bà tin rằng con không có điều gì phải cân nhắc. Con nhận thấy ý định của bà rất quý.

An-Tuyên kêu to:

- Đấy! Mẹ xem Lê-Minh bằng lòng ở lại, mẹ ạ!

Rồi cậu vỗ tay. Tôi đã làm cho cậu hết lo vì cậu vốn là người sợ sách nhất. Khi mẹ cậu nói đến việc làm và sách vở, tôi thấy mặt cậu tái đi. Nếu tôi từ chối, không biết cậu sẽ lo buồn đến thế nào! Tôi thì trái ngược hẳn với cậu, tôi không sợ sách, những sách không làm cho tôi sợ hãi mà còn hấp dẫn tôi nữa. Gần đây bà Mỹ-Lưu có trao cho tôi mấy quyển sách. Những sách đó làm cho tôi rất ham thích. Vì thế, ý bà muốn lưu tôi lại làm cho tôi rất sung sướng và cảm ơn lòng bao dong của bà. Nếu thầy tôi thuận, tôi sẽ không phải rời bỏ thuyền Thiên-Nga, rời bỏ đời sống êm đềm và không phải xa cách cậu An-Tuyên và mẹ cậu.

Bà Mỹ-Lưu nói tiếp:

- Bây giờ tính đến sự đồng ý của ông Vỹ-Tiên. Muốn thế ta phải viết thư mời ông đến tìm ta ở thành Cette, vì ta không thể lộn lại thành Tu-lu được. Ta sẽ gửi tiền lộ phí cho ông và cho biết những lý do khiến ta không thể đi xe hỏa được. Ta mong ông sẽ vui lòng đến. Nếu ông ưng thuận ý định của ta, ta chỉ còn phải giàn xếp với cha mẹ Lê-Minh là xong vì cũng cần phải hỏi ý kiến cha mẹ em.

Những lời bà nói làm cho tôi hả dạ vô cùng. Nhưng câu nói sau cùng, đã làm cho tôi choáng cả người như bị vỡ tan giấc mộng mà trở về với sự thực đáng buồn.

Hỏi ý kiến cha mẹ tôi tức là ông Bảo-Liên! Chắc chắn ông bà Bảo-Liên sẽ nói hết những điều mà tôi muốn giấu. Sự thực sẽ nổ tung ra: Tôi là đứa con bỏ rơi! Xấu lắm!

Lúc đó, cậu An-Tuyên hay bà Mỹ-Lưu sẽ không dung tôi nữa!

Nghĩ thế, tôi tái mặt lại.

Bà Mỹ-Lưu nhìn tôi và hỏi sao thế? Tôi không dám trả lời. Bà tưởng tôi bối rối về việc thầy tôi sắp về nên không hỏi gặn nữa.

May sao, lúc đó sắp đến giờ ngủ, nên tôi lẩn được đôi mắt tò mò của An-Tuyên nhìn tôi, mà về phòng ngủ.

Đêm đó, một đêm buồn nhất cho tôi từ ngày xuống thuyền. Tôi trằn trọc, lo lắng suy nghĩ.

Làm thế nào bây giờ? Nói thế nào bây giờ?

Tôi không tìm được lối thoát. Sau khi đã vần đi vần lại một ý nghĩ đến hàng trăm lần trong óc, sau khi tìm câu nói xét ra lẩn quẩn giấu đầu hở đuôi, tôi nhất định một kế, kế này chắc chắn nhưng hơi hèn, là chẳng nói gì và chẳng làm gì. Mặc kệ cho việc nó đến. Tôi cam chịu tất vì không có cách gì hơn nữa. Có lẽ thầy tôi không muốn rời tôi. Lúc đó tôi lại đi theo thầy tôi, như thế không phải lo bày tỏ sự thật.

Tôi chỉ sợ sự thực vỡ lỡ ra, sợ quá đến nỗi tôi lại cầu mong ông Vỹ-Tiên bác lời của bà Mỹ-Lưu đi và không thể nào ổn định về việc của tôi được.

Như vậy, dù tôi có phải xa cậu An-Tuyên, xa bà Mỹ-Lưu thực và có lẽ không bao giờ gặp nhau nữa, nhưng tôi vẫn thích rằng cậu và mẹ cậu sẽ không giữ một kỷ niệm xấu về tôi.

Viết thư cho Vỹ-Tiên được ba ngày thì bà Mỹ-Lưu nhận được phúc đáp. Bằng mấy câu vắn tắt, Vỹ-Tiên nói rất hân hạnh nhận được thơ bà và hẹn thứ bảy tới, ông sẽ đi chuyến tàu hỏa 2 giờ để đến thành Cette.

Tôi xin phép bà Mỹ-Lưu ra ga đón thầy tôi và đem cả ba con chó và Hảo-Tâm đi theo.

Chúng tôi đợi tàu đến.

Những con chó có vẻ buồn vì hình như nó biết sẽ có chuyện gì xảy ra. Hảo-Tâm thản nhiên như thường. Còn tôi, tôi rất xúc động. Những ý kiến tương phản nổi lên tranh chấp trong đầu óc thơ dại của tôi. Tôi ngồi trong một góc sân ga, một tay cầm dây ba con chó, một tay ôm con Hảo-Tâm vào ngực. Tôi ngồi đợi mà mắt tôi chẳng nhìn thấy gì ở chung quanh tôi.

Chính những con chó báo cho tôi biết là tàu đã đến và chúng đã đánh hơi thấy chủ chúng rồi. Tự nhiên tôi bị lôi đi, rồi vì tôi không để ý nên mấy con chó tuột xích chạy thẳng. Chúng vừa chạy vừa kêu. Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy chúng nhảy quớ chung quanh ông Vỹ-Tiên trong bộ y phục thường, vừa hiện ra. Lãnh-Nhi nhanh nhẹn hơn, nhảy vào hai cánh tay ông giơ ra, Hiệp, Thùy-Nhi quấn quít hai chân ông.

Đến lượt tôi chạy đến. Ông vội đặt Lãnh-Nhi xuống đất, giơ hai tay ôm lấy, hôn tôi là lần thứ nhất và nói lại nhiều lần:

- Khốn nạn cho con!

Thầy tôi không bao giờ nghiêm khắc và cũng không bao giờ ngọt ngào. Nên sự biểu lộ chân tình thốt nhiên của thầy tôi đã khiến tôi mủi lòng và nước mắt tràn ra, vì trái tim đầy tình cảm của tôi dễ khép và dễ mở.

Tôi nhìn kỹ thầy tôi, tôi thấy thầy già đi, lưng còng hơn, mặt xanh xao, môi mất sắc.

Thầy tôi hỏi tôi:

- Con ơi! Con nhìn ta thấy khác đi nhiều phải không? Nhà lao không phải là nơi cư trú tốt, phiền não là một bệnh hao mòn. Nhưng bây giờ ta sẽ khá dần dần.

Rồi thầy tôi sang vấn đề khác hỏi tôi:

- Bà gì viết thư cho ta, tại sao con lại biết bà.

Tôi liền kể lại trường hợp tôi gặp thuyền Thiên-Nga, cuộc sống của tôi bên cạnh bà Mỹ-Lưu và cậu An-Tuyên, những cảnh tôi đã trông thấy, những việc mà tôi đã làm.

Câu chuyện rất dài, tôi lo đến đoạn chót phải nói đến một vấn đề mà tôi vẫn sợ, vì dù sao tôi cũng không thể ngỏ cho thầy tôi biết là tôi rất mong thầy sẽ đồng ý cho tôi ở lại với bà Mỹ-Lưu.

Nhưng tôi không phải ngỏ ý kiến ấy vì tôi kể chưa hết chuyện thì chúng tôi đã tới khách sạn mà bà Mỹ-Lưu đợi ở đấy. Vả lại thầy tôi không đá động gì đến những lời đề nghị rất có thể có trong thư.

Khi chúng tôi tới khách sạn, thầy tôi hỏi:

- Bà ấy đợi ta ở đâu?

- Con sẽ đưa thầy vào.

- Không cần, cho ta số buồng rồi ngồi đây cùng các con chó và Hảo-Tâm đợi ta.

Khi thầy tôi đã nói ra điều gì, tôi không hay có tính hỏi hoặc cãi lại. Nhưng lần này tôi muốn xin theo vào để được gần bà Mỹ-Lưu, đó là một việc rất tự nhiên công bình. Nhưng, thầy tôi giơ tay không cho tôi nói. Tôi đành vâng lời, ở lại ngoài cửa khách sạn, ngồi trên chiếc ghế dài cùng các con chó dưới chân tôi. Những con chó này cũng muốn theo chủ, nhưng chúng cũng thui thủi như tôi quay lại không dám trái lệnh chủ. Thầy tôi thực biết chỉ huy.

Tại sao thầy tôi không muốn cho tôi nghe chuyện giữa thầy tôi và bà Mỹ-Lưu? Tôi cứ xoay đi xoay lại câu hỏi này đủ phía mà không tìm thấy câu trả lời thì vừa thấy thầy tôi bước ra. Thầy tôi bảo:

- Con lên chào bà ấy đi. Ta đợi con ở đây. Chúng ta sẽ khởi hành trong 10 phút.

Tôi đang phân vân, bỗng câu nói đó làm cho tôi ngã ngửa ra.

Không thấy tôi đi, thầy tôi liền giục:

- Sao. Không nghe thấy gì à? Ngồi đó như bụt thế? Có đi hay không?

Thầy tôi không có tính nói nặng và từ khi tôi ở, thầy tôi không hề mắng tôi như thế bao giờ!

Tôi liền đứng dậy như cái máy, chẳng hiểu gì.

Nhưng đi được vài bước để lên buồng bà Mỹ-Lưu, tôi quay lại hỏi:

- Vậy thầy đã nói…

- Ta nói rằng con cần cho ta và ta cũng cần cho con. Do đó, ta không thể nhường con cho bà được. Đi đi rồi lại đây.

Nghe thầy tôi nói thế, tôi hơi vững lòng, vì cái chuyện “con bỏ rơi” cứ ám ảnh tôi, làm cho tôi tưởng rằng phải đi ngay trong mười phút là vì thầy tôi đã kể hết gốc tích của tôi.

Bước chân vào phòng bà Mỹ-Lưu, tôi thấy cậu An-Tuyên đang khóc và bà cúi đầu dỗ dành cậu. An-Tuyên thấy tôi liền hỏi:

- Anh Minh! Có phải anh không đi không?

Bà Mỹ-Lưu trả lời thay tôi, bảo rằng tôi phải theo ý thầy tôi.

Xong bà quay rồi bảo tôi, tôi cảm động rơi lệ:

- Ta đã nói với ông Vỹ-Tiên, cố giữ con ở đây, song ông không chịu. Không làm thế nào cho ông ta chuyển lòng.

An-Tuyên kêu:

- Con người độc ác.

Bà nói:

- Không phải là người độc ác. Con cần cho ông và xem ra ông cũng thật tình thương yêu con lắm. Nghe những lời ông nói thì ông không phải là người thường, một người ở trên cái địa vị hiện thời của ông nhiều. Ông đã từ chối như thế này: “Tôi yêu đứa bé ấy, nó cũng yêu tôi. Những thử thách trong đời sống vất vả của nó ở bên cạnh tôi còn có bổ ích nhiều hơn cái trạng thái nô lệ trá hình mà vô tình bà muốn dắt nó vào. Bà sẽ dạy dỗ nó, cho nó đi học, thực đấy, bà sẽ tu dưỡng óc nó, thực đấy, nhưng không rèn luyện được tâm tính nó. Nó không thể thành con bà. Nó vẫn sẽ là con tôi. Sống một đời thiếu thốn nhưng tự do còn hơn là làm cái đồ chơi cho đứa con yếu đuối của bà, mặc dầu tôi nhận thấy con bà tỏ ta rất hiền lành, ngoan ngoãn. Nó đi với tôi, tôi cũng dạy nó chứ!”

An-Tuyên nói:

- Ông ta có phải là cha Lê-Minh đâu mà giữ?

- Ông ấy không phải là cha Lê-Minh, ai cũng biết, nhưng là thầy của Minh, Minh phải chịu quyền ông ta vì cha mẹ Minh đã cho ông thuê. Bắt buộc Minh phải tuân lời ông ta.

- Con không muốn cho Minh đi.

- Minh phải theo thầy Minh chứ! Nhưng có thể Minh sẽ chỉ phải đi trong một thời gian ngắn thôi. Mẹ sẽ viết thư cho cha mẹ Minh để bàn tính về việc đó.

Tôi kêu:

- Thôi! Thưa bà, xin thôi!

- Sao lại thôi?

- Xin bà thôi cho.

- Chỉ còn cách đó thôi, con ạ!

Nếu bà không nói đến cha mẹ tôi thì có lẽ tôi còn kéo dài cuộc từ giã hơn thời gian thầy tôi đã ấn định cho tôi.

- Ở làng Tả-Văn-Ông phải không?

Tôi không trả lời, tôi đến bên cạnh cậu An-Tuyên ôm lấy cậu và đem tất cả tình hữu ái trong lòng tôi ra hôn cậu. Xong rút ở tay cậu ra, tôi chạy lại chỗ bà Mỹ-Lưu, quỳ xuống và hôn tay bà.

Bà cúi xuống hôn trán tôi và nói:

- Thương hại con quá!

Đoạn, tôi vùng dậy vừa ra cửa vừa quay lại nức nở nói không ra lời:

- Cậu An-Tuyên ơi! Tôi sẽ yêu cậu mãi mãi! Thưa bà, con sẽ không bao giờ quên ơn bà!

An-Tuyên gọi:

- Anh Minh, anh Minh ơi!

Nhưng tôi không nghe được gì nữa vì tôi đã ra ngoài và khép cửa lại rồi.

Một phút sau, tôi đã đến bên thầy tôi. Thầy tôi bảo:

- Chúng ta lên đường!

Rồi chúng tôi rời thành Cette và đi về đường Frontignan.

Thế là tôi phải rời bỏ người bạn thứ nhất của tôi và lại lao mình trong những cuộc phiêu lưu hình như đã dành sẵn cho tôi.

Chương XIV

mưa tuyết và chó sói

Tôi lại bắt đầu, vai vác đàn, lẽo đẽo theo sau thầy tôi, dong ruổi trên những con đường dài, dưới trời mưa nắng cũng như trong cát bụi và bùn lầy. Tôi lại phải làm con vật trên những công trường và giả cười, giả khóc để mua vui cho “quý khán giả”.

Cuộc tiếp liên này có phần khó chịu cho tôi vì người ta dễ quen sung sướng hơn là kham khổ.

Sau khi nếm thú phong lưu, bây giờ tôi thấy toàn những buồn, chán, nhọc nhằn mà trước kia tôi không biết đến.

Khi tôi ở gần bà Mỹ-Lưu thì tôi nhớ ông Vỹ-Tiên, bây giờ được gần ông Vỹ-Tiên thì tôi lại nghĩ đến bà Mỹ-Lưu.

Đã hơn một lần, đi trên đường dài, tôi lùi lại đằng sau để được tự do nghĩ đến An-Tuyên, đến mẹ cậu, đến thuyền Thiên-Nga và đem óc tưởng tượng sống lại cuộc đời êm đềm ấy cho tiêu sầu.

Than ôi! Cuộc sống êm đềm ấy đâu còn nữa?

Khi đêm xuống, nằm trong quán trọ, tôi lại nhớ đến cái buồng con của tôi ở thuyền Thiên-Nga, và thấy cái vải giường tôi đang nằm nó gờn gợn như gai.

Sáng dậy, tôi thấy lòng tôi trống trải. Tôi không được chơi với cậu An-Tuyên nữa! Tôi không được nghe những tiếng êm ái của bà Mỹ-Lưu nữa!

Tuy nhiên, trong cơn buồn của tôi, tôi thấy có một điều an ủi: thầy tôi tỏ ra dịu hiền hơn bao giờ hết. Đó là một sự thay đổi rất lớn trong cách đối đãi với tôi. Tôi đỡ buồn tủi phần nào. Tôi thấy thân tôi không cô độc trên đời và cảm thấy thầy tôi tỏ ra ân cần thương hại tôi hơn là một ông thầy.

Lắm lúc tôi muốn ôm lấy thầy tôi, hôn thầy tôi và tôi cần phải phát lộ mối thâm tình chan chứa trong lòng tôi, nhưng tôi không dám vì thầy tôi không phải là người để cho ai nhờn được.

Ngày tôi mới theo ông, tôi rất sợ ông, lúc nào cũng giữ gìn và không dám đến gần ông. Nhưng bây giờ như có một mối thông cảm khiến cho tôi kính yêu ông.

Khi bước chân ra khỏi làng tôi, tôi coi ông như những người đàn ông khác vì lúc đó tôi chưa biết phân biệt.

Nhưng sau ngày lưu trú ở gần bà Mỹ-Lưu, mắt và trí khôn tôi được mở rộng ra, thì lạ quá! Khi tôi ngắm kỹ thầy tôi, tôi nhận thấy cử chỉ, dáng điệu và kiểu cách của thầy tôi có nhiều điểm tương đồng với cử chỉ, dáng điệu và kiểu cách của bà Mỹ-Lưu.

Tôi tự nghĩ có lẽ tôi nhận lầm chăng vì thầy tôi chỉ là một người diễn trò rong, còn bà Mỹ-Lưu là một bà khuê các. Nhưng đúng thế vì mắt tôi nhìn không sai. Khi nào thầy tôi muốn, thì thầy tôi tỏ ra trang trọng chẳng khác gì bà Mỹ-Lưu. Có chỗ khác nhau là bà Mỹ-Lưu lúc nào cũng trang trọng, còn thầy tôi thì tùy trường hợp, nhất là khi đối với những kẻ hung hăng, vô lễ.

Tuy tôi không hung hăng, không vô lễ, nhưng tôi vẫn sờ sợ, vì thế tôi không dám mạn phép thổ lộ những cảm tình nồng nàn của tôi, mặc dầu những lúc thầy tôi tỏ dấu thương yêu tôi.

Sau khi rời tỉnh Cette, trong nhiều ngày, chúng tôi không hề nói chuyện về bà Mỹ-Lưu và đến thuyền Thiên-Nga nữa. Nhưng dần dần vấn đề đó lại được nhắc đến trong những câu chuyện của chúng tôi mà bao giờ thầy tôi cũng là người nêu ra trước. Rồi cái tên của bà Mỹ-Lưu chẳng hôm nào không được nhắc tới.

Ông Vỹ-Tiên bảo tôi:

- Con mến bà ta lắm phải không? Ta biết lắm. Bà ta rất tốt với con. Con nên nhớ ơn.

Rồi thầy tôi thường nói thêm:

- Phải làm thế!

Phải làm thế là làm gì?

Trước tiên tôi không hiểu câu nói đó, sau dần dần tôi mới vỡ nghĩa ra rằng “phải làm thế” tức là phải từ chối bà Mỹ-Lưu về việc giữ tôi.

Chính mỗi khi nghĩ đến việc này mà thầy tôi đã thốt ra câu “phải làm thế”. Và hình như trong mấy tiếng đó có bao hàm một ý hối hận. Thầy tôi cũng muốn cho tôi ở với cậu An-Tuyên những không thể làm thế được.

Trong tâm khảm tôi, tôi rất cám ơn thầy tôi về sự hối hận đó, mặc dầu tôi chưa đoán được tại sao thầy tôi lại không thể nhận lời bà Mỹ-Lưu được, những lý do của thầy tôi đưa ra, bà Mỹ-Lưu đã nhắc lại cho tôi nghe nhưng tôi vẫn không sao hiểu được.

Một ngày kia thầy tôi có lẽ bằng lòng chăng? Đó là một hy vọng lớn cho tôi.

Chúng tôi lẽ nào lại không gặp thuyền Thiên-Nga?

Thuyền đó ngược sông Rôn, mà chúng tôi đương đi trên bờ sông này.

Vì thế, trong khi đi, mắt tôi chỉ nhìn xuống sông, không hề để ý đến những đồi, những ruộng phì nhiêu ở hai bên bờ.

Khi chúng tôi đến một tỉnh nào như Arles, Tarascon, Avignon, Montélimar, Valence, Tournon, Vienne, cuộc đi thăm thứ nhất của tôi là ra bến tàu để kiếm thuyền Thiên-Nga, và mỗi khi nhìn xa xa thấy một con thuyền thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, tôi đợi cho đến khi con thuyền lớn dần xem có phải là Thiên-Nga không.

Nhưng không phải là Thiên-Nga.

Một đôi khi, tôi đánh bạo hỏi những người thủy thủ ở bến xem có ai trông thấy con thuyền lạ ấy đi qua không. Nhưng chẳng ai nhìn thấy cả.

Bây giờ thầy tôi nhất quyết nhường tôi cho bà Mỹ-Lưu – óc tôi nghĩ thế – thì tôi cũng không sợ người ta nói rõ lai lịch tôi hay viết thư cho bà Bảo-Liên. Nội vụ có thể giải quyết giữa thầy tôi và bà Mỹ-Lưu. Óc thơ dại của tôi dàn xếp như sau: bà Mỹ-Lưu muốn nuôi tôi, thầy tôi ưng thuận bỏ quyền của thầy tôi, thế là ổn.

Chúng tôi ở lại Ly-Ông trong mấy tuần lễ. Những lúc rãnh việc tôi lại ra bến sông Rôn và sông Sa-Ôn, tôi đi lại nhiều lần đến nỗi tôi thuộc cả tên cầu, tên khách sạn hơn cả người sinh trưởng ở thành Ly-Ông.

Tôi hết lòng đón mà không thấy thuyền Thiên-Nga đâu cả.

Rồi chúng tôi phải rời Ly-Ông để đi Dijon. Lúc đó cái mơ ước được gặp bà Mỹ-Lưu và cậu An-Tuyên bắt đầu tan, vì ở Ly-Ông tôi đã nghiên cứu các bản đồ nước Pháp ở những hiệu sách cũ, biết rằng thuyền Thiên-Nga sẽ bỏ sông Sa-Ôn ở tỉnh Chalon vào sông Trung để sang sông Loa.

Chúng tôi đến Chalon rồi lại rời Chalon không được gặp Thiên-Nga. Thế là hết hy vọng, hết mơ ước!

Nỗi khổ não trong lòng tôi lúc đó tả sao cho xiết!

Đúng lúc đó, thời tiết xấu lại đến làm tăng nỗi buồn sâu xa của tôi. Những ngày thu tàn, chúng tôi lặn lội trong mưa rất là vất vả. Chiều đến, chúng tôi áo ướt tận da, người lấm như chôn như vùi, nhọc mệt, vào lều vào quán tạm trú, đêm nằm không sao ngủ được.

Sau khi rời khỏi tỉnh Dijon, chúng tôi phải qua dẫy đồi Côte d’or, giá lạnh thấu xương, con Hảo-Tâm buồn rầu, nhăn nhó hơn tôi.

Mục đích của thầy tôi là phải tới Ba-Lê sớm ngày nào hay ngày ấy để có thể diễn trò trong mùa đông họa may mới có lợi. Nhưng hoặc vì thầy tôi không đủ tiền đi xe hỏa, hoặc vì một lẽ nào khác, chúng tôi cứ phải đi bộ hết ngày này sang ngày khác trên con đường từ Dijon đến Ba-Lê.

Cứ đi như thế, lúc nào thuận tiện, chúng tôi dừng lại ở các tỉnh các làng đi qua để diễn một hai buổi rồi lại đi ngay vì tại các nơi đó không thu nạp được mấy.

Từ Dijon đến Châtilon, các việc được điều hòa, mặc dầu mưa rét.

Khi chúng tôi ra khỏi tỉnh này thì trời hết mưa và gió quay về hướng bắc.

Thoạt tiên chúng tôi không phàn nàn gì về những luồng gió buốt mặt, vì dù sao cũng còn chịu được hơn là những cơn mưa tầm tã làm cho chúng tôi ủng người trong mấy tuần qua.

Không may, gió dần dần ẩm, trời bắt đầu kéo mây đen, mặt trời biến mắt. Đó là điềm tuyết sắp xuống.

Chúng tôi đủ thì giờ vào một làng lớn gần đó để tránh mưa tuyết. Nhưng ý thầy tôi lại muốn đi luôn đến tỉnh Troyes vì tỉnh này là một thành thị lớn, chúng tôi có thể kiếm ăn ở đó lâu ngày nếu thời tiết bắt chúng tôi phải lưu lại.

Tối đến, khi chúng tôi vào nhà trọ, thầy tôi liền bảo tôi:

- Con ngủ đi! Sáng mai chúng ta đi sớm, nếu chậm thì gặp mưa tuyết.

Thầy tôi không ngủ sớm. Thầy tôi ngồi bên cạnh lò sưởi, còn phải sưởi cho con Hảo-Tâm bị lạnh từ sáng đến giờ, co quắp và rên rỉ, mặc dầu chúng tôi đã cẩn thận lúc nào cũng ủ nó trong một cái chăn.

 Sáng hôm sau, tôi dậy rất sớm. Bầu trời đen và thấp, không có một ngôi sao, trông như một cái vung lớn úp xuống đất đè bẹp mọi vật. Cánh cửa vừa mở, một luồng gió lạnh luồn vào lò sưởi làm hồng những miếng than vùi dưới tro tự đêm qua.

Người chủ quán bảo thầy tôi:

- Ông hãy ngồi lại. Không đi được đâu. Trời đổ tuyết bây giờ.

Vỹ-Tiên đáp:

- Tôi có việc cần khẩn phải đến tỉnh Troyes trước khi mưa.

- Ông không thể đi trong một giờ quãng đường dài 30 cây số.

- Thế mà chúng tôi vẫn cứ đi.

Vỹ-Tiên ủ Hảo-Tâm trong áo để truyền hơi ấm của mình cho nó. Mấy con chó không biết rét, mừng rỡ chạy trước chúng tôi. Thầy tôi đã mua ở Dijon cho một đôi áo da cừu. Tôi mặc cũng đỡ rét.

Gió thổi vù vù. Mở miệng ra rất khó chịu. Chúng tôi ai nấy đều lẳng lặng, bước vội vàng, vừa cho nhanh chóng đến nơi, vừa cho ấm người.

Tuy lúc đó là ban ngày mà bầu trời vẫn cứ tối om.

Chợt ở phương đông một giải trăng trắng hiện ra trong bóng đen, nhưng mặt trời không lên. Đêm hết rồi, nhưng sáng vẫn chưa tảng.

Tuy nhiên, một thứ ánh mờ ở chân trời phương đông như từ cái cửa hầm lớn phát ra, chiếu là là trên mặt đất. Trên cánh đồng, cảnh vật đều rõ dần dần. Những cây to trụi hết lá như giơ bộ xương khô. Gió thổi vào bờ giậu, bụi cây, qua những chiếc lá khô còn dính ở cành thành những tiếng xào xạc khô khan.

Không một bóng người trên đường cái. Không một bóng người trong cánh đồng. Không một tiếng xe chạy, không một tiếng quất roi. Những sinh vật duy nhất trong lúc đó là giống chim mà người ta chỉ nghe thấy tiếng hót chứ không thấy bóng hình, vì chúng ẩn cả dưới lá cây. Duy mấy con chim khách nhảy nhót trên mặt đường, đuôi cong, mỏ nghếch lên trời, khi chúng tôi đến gần thì bay vụt lên ngọn cây, ở đó chúng kêu khách khách như để rủa chúng tôi hay báo cho chúng tôi biết có điềm chẳng may.

Chợt ở phía bắc có một điểm trắng hiện ra to dần dần và tiến về phía trước mặt chúng tôi. Chúng tôi nghe thấy những tiếng xào xạc lộn xộn. Đó là những con ngỗng trời ở phương bắc chạy rét về trú ở miền nam. Chúng bay qua đầu chúng tôi, rồi phút chốc ngoảnh lại chúng tôi chỉ nhìn thấy còn bay trên không những nắm tơ trắng nổi bật nền trời đen.

Miền chúng tôi đang đi qua cảnh tượng buồn vắng, quạnh hiu. Hết tầm con mắt, nhìn thấy những cánh đồng hoang, những đồi trơ trụi và những rừng đỏ hoe.

Gió bắc vẫn thổi nhưng muốn đổi chiều. Từ chân trời phía ấy đổ đến những đám mây đỏ, nặng và thấp như muốn đè trĩu xuống ngọn cây.

Phút chốc, một vài cánh tuyết rơi xuống trước mặt chúng tôi, nhởn nhơ như những con bướm khi lên, khi xuống, lúc xoay tròn, không chấm mặt đất.

Chúng tôi chưa đi được bao nhiêu đường đất, tính ra không thể tới Troyes trước cơn mưa tuyết. Tuy vậy tôi chẳng lo ngại, yên trí rằng tuyết xuống sẽ cản gió bắc lại thì đỡ rét.

Đó là tôi chưa biết thế nào là một cơn bão tuyết.

Nhưng rồi tôi được nếm mùi ngay, đến nỗi không bao giờ quên được bài học đó.

Bỗng nhiên, những đám mây từ tây bắc kéo đến. Một thứ ánh trắng sáng lòa kèm theo. Rồi hai bên sườn đám mây tỏa ra: đó là tuyết.

Không phải là những cánh bướm trắng bay lượn trước mặt chúng tôi nữa, mà là một trận mưa rào bằng tuyết bao trùm chúng tôi.

Thầy tôi bảo tôi:

- Nhất định không đi đến được Troyes rồi. Bây giờ ta phải tìm nhà nào nghỉ vậy.

Đó là một ý kiến rất đẹp, rất hay, nhưng tìm đâu ra chỗ trú bây giờ? Trước khi tuyết xuống tôi đã nhìn rất xa mà cũng chả thấy nhà nào hoặc làng nào ở bên đường chúng tôi cả. Trái lại, chúng tôi sắp đi vào một cánh rừng sâu thẳm cũng như hiện giờ hai bên đường toàn là đồi cả.

Vì vậy cũng chẳng nên quá tin tưởng vào cái nhà mong ước ấy.

Tuyết vẫn xuống, mỗi lúc một nhiều hơn.

Chỉ trong giây lát, tuyết phủ đầy đường hay nói cho đúng hơn nó phủ tất cả những gì ngăn nó lại: đống đá, mô đất, vừng cỏ ở ria đường, bụi cây ở cạnh hố, đều hóa trắng ngần vì gió thổi ngang mặt đất dồn tuyết vào những vật đó.

Khổ cho chúng tôi vì chúng tôi cũng là thứ chướng ngại vật cho tuyết. Nó đánh vào mặt, vào người chúng tôi, lọt vào khe quần áo như bụi rồi tan ra.

Tôi thấy một làn nước lạnh từ cổ xuống mình tôi. Thầy tôi để hở áo cho Hảo-Tâm thở cũng bị tuyết thấm vào người không ít. Tuy nhiên, chống với gió, chống với tuyết, chúng tôi cứ im lặng tiến, thỉnh thoảng lại quay mặt sang bên cạnh cho dễ thở. Những con chó cũng không tranh đi trước nữa. Nó đi sau chúng tôi để tránh tuyết nhưng thân chúng tôi cũng không đủ che chở cho chúng.

Chúng tôi dò từng bước, mệt nhòa, mờ cả mắt, thân thể giá buốt, quần áo ướt đầm. Chúng tôi vào rừng đã sâu mà vẫn chưa tìm được chỗ trú.

May sao (không biết có phải may hay không?) những trận cuồng phong đã yếu dần. Nhưng tuyết lại xuống nhiều, đáng lẽ nhỏ như bụi, bây giờ là những hạt to và chắc. Chỉ trong vài phút, đường đã ngập một lớp tuyết dầy, chúng tôi bước lên không có tiếng động.

Thỉnh thoảng thầy tôi lại nhìn sang tay trái như để tìm gì, nhưng tôi chỉ nhìn thấy toàn một khoảng rừng thưa đã đốn từ đầu năm, những cây non chừa lại, cây nào cũng cong vì đeo nặng tuyết.

Thầy tôi định tìm cái gì ở phía đó?

Còn tôi, tôi cố nhìn thẳng trước mặt tôi, trên đường cái, xem sắp hết rừng chưa hay có một nhà nào không.

Nhưng nhìn qua những giọt mưa rào trắng làm sao được? Cách vài thước mọi vật đều mờ đi, chúng tôi chỉ nhìn thấy một màn tuyết dầy buông xuống khác nào như một cái lưới lớn vây lấy chúng tôi.

Chúng tôi vẫn phải đi không được nản chí mặc dầu tuyết lội đến đầu gối và mũ nặng như đội đá.

Chợt thầy tôi trỏ tay về phía bên trái ra hiệu cho tôi. Tôi nhìn lờ mờ thấy trong chỗ rừng thưa ấy có một cái lều làm bằng cành cây tuyết phủ trắng xóa.

Tôi không hỏi lại, hiểu rằng thầy tôi chỉ cho tôi cái lều đó không phải để cho tôi ngắm cảnh mà để bảo tôi tìm lối vào.

Khó vào quá. Tuyết dày đặc không tìm thấy di tích đường vào. Tuy nhiên chỗ tiếp giáp với rừng già hình như có lối để vào, nhưng phải qua cái hố đầy tuyết.

Tuyết không lún, chúng tôi đi thoát qua hố và không mấy lúc đã đến lều.

Lều bằng củi gỗ xếp chung quanh, trên mặt những cành cây làm mái. Mái đó khít và dày nên tuyết không lọt xuống được.

Đó là một lều trú vững chãi không kém gì nhà.

Nhanh chân hơn chúng tôi, những con chó chạy vào trước. Chúng lăn mình trên đất khô và cát bụi, sủa những tiếng kêu mừng rỡ.

Chúng tôi cũng vui mừng không kém những con chó. Nhưng chúng tôi không lăn lộn như chúng, chúng tôi tìm cách khác để biểu lộ nỗi vui, đồng thời cũng để làm cho khô ráo.

Thầy tôi nói:

- Ta biết chắc trong khu này thế nào cũng có lều của tiều phu. Bây giờ tha hồ cho tuyết xuống!

Tôi cũng đắc chí nói:

- Cứ mưa nữa đi. Không cần!

Tôi ra cửa, nói cho đúng hơn là chỗ hổng của mặt lều, vì nó không có cửa vào và cửa sổ, để giũ áo và mũ cho khỏi ướt trong lều.

Cái lều đó rất sơ sài về cách xây dựng cũng như về phương diện đồ đạc. Có một cái ghế dài đắp bằng đất và mấy viên đá dùng làm chỗ ngồi. Nhưng có vật này quý giá hơn cả là năm, sáu viên gạch xếp đứng trong góc lều thành một cái bếp.

Đốt lửa! Chúng tôi có thể đốt lửa được rồi. Muốn đốt lửa có một cái bếp cũng chưa đủ, cần phải có củi nữa mới được.

Ở trong một cái nhà như nhà chúng tôi đang ở, vấn đề củi không khó khăn gì. Chỉ việc rút ở vách hay ở mái ra mỗi nơi một cái cho đều để khỏi xiêu vẹo trống trải.

Chúng tôi vào việc luôn. Nên trong giây lát đã có một ngọn lửa hồng tỏa trên bếp, nổ những tiếng lẹt đẹt vui tai.

Ôi! Ngọn lửa đẹp biết bao! Ấm biết bao!

Bếp không có ống thông hơi, khói xanh tỏa đầy nhà. Nhưng chúng tôi không cần chi, miễn là có ánh sáng, có khí ấm.

Trong khi đang chống hai tay xuống đất thổi lửa, những con chó ngồi chồm hổm chung quanh lò, cổ vươn ra, bụng ướt lạnh ghé gần vào tia lửa.

Con Hảo-Tâm cũng vạch áo chủ, cẩn thận thò mũi ra xem đấy là chỗ nào. Nhận xét kỹ địa điểm rồi, nó mới nhảy xuống tìm một chỗ tối nhất bên cạnh lò, ngồi giơ hai bàn tay run run ra lửa.

Bấy giờ chúng tôi yên tâm không chết rét nữa. Nhưng còn vấn đề đói chưa được giải quyết. Trong lều, không có hũ bánh, không có lò hấp, không có chảo thơm.

Nhưng thầy tôi là người dày kinh nghiệm và biết lo xa nên sáng nay, lúc tôi chưa dậy đã mò đi mua thức ăn đường: một ổ bánh mì và một miếng phó-mát. Lúc này không phải là lúc tỏ ra khó tính, vì thế khi nhìn thấy bánh mì mắt mọi người đều lộ ra một tia mừng. Nhưng buồn thay phần bánh ít ỏi quá. Thầy tôi chỉ đem chia có một nửa ổ bánh thôi. Thầy tôi nói:

- Ta không biết rõ đường đi, vì thế không biết từ đây đến Troyes, có hàng quán nào không. Lại nữa, ta không biết phải qua rừng này, chỉ biết rằng miền này có nhiều rừng liên tiếp nhau: rừng Chaource, rừng Rumilly, rừng Ôthe, rừng Aumont. Có thể ta còn cách xa chỗ dân cư. Và cũng có thể ta phải giam ở lều này nhiều bữa. Vì thế phải giữ lại chút lương thực.

Đó là những lý do mà tôi nghe ra ngay vì trong thời gian thầy tôi bị giam và khi rời Tu-lu tôi đã phải ăn dè quen rồi. Nhưng những con chó không chịu, khi chúng nhìn thấy nửa bánh còn lại bỏ vào túi, chúng chìa chân ra xin hay gãi vào đầu gối chủ ra hiệu còn đói bụng.

Những kêu xin và vuốt ve đó vô ích. Túi của chủ vẫn thắt chặt.

Tuy nhiên, bữa ăn thanh bạch đó cũng làm cho chúng tôi lại sức phần nào. Chúng tôi được chỗ trú tốt, được sưởi ấm, chỉ còn việc đợi cho ngớt tuyết.

Ở trong lều đó, tôi không lo ngại gì: hơn nữa tôi nghĩ cũng không phải bị giam ở đây lâu như thầy tôi đã nói cốt để giữ chút lương thực lại, vì không thể nào tuyết cứ xuống mãi được. Tuy nhiên không có điềm gì báo là mưa sẽ tạnh cả.

Qua cửa lều, tôi nhìn thấy những hạt tuyết xuống nhanh và dầy.

Vì không có gió, nó rơi thẳng, hạt này đè lên hạt khác, không ngừng.

Người ta không nhìn thấy trời đâu cả. Ánh sáng đáng lẽ ở trên cao rọi xuống thì đằng này lại từ dưới đất hắt lên, nghĩa là từ những lớp tuyết phủ trên mặt đất.

Tôi nhìn những con chó nằm quanh lửa: con thì cuộn tròn, con thì nằm nghiêng, Lãnh-Nhi vùi mõm vào tro đang ngủ.

Tôi cũng muốn bắt chước chúng. Sáng nay tôi dậy sớm quá, bây giờ cũng nên chu du trong giấc mộng để tìm thuyền Thiên-Nga, còn hơn là ngồi nhìn tuyết tơi.

Tôi không rõ là tôi đã ngủ được bao lâu rồi. Lúc tôi dậy thì tuyết đã tạnh. Tôi nhìn ra ngoài. Lớp tuyết trước lều đã lên cao. Nếu ra đi lúc đó thì tôi phải lội quá đầu gối.

Mấy giờ rồi?

Tôi không dám hỏi thầy tôi. Mấy tháng gần đây, số tiền thu được không đủ bù lại những khoản phí tổn trong thời bị cáo vì ngồi tù. Thầy tôi túng đến nỗi khi qua Dijon, đã phải bán cái đồng hồ bạc to tướng của thầy tôi – mà con Lãnh-Nhi vẫn đọc giờ – để mua áo da cừu cho tôi và sắm một vài thứ cần dùng.

Như thế tôi chỉ có thể hỏi trời thay cho đồng hồ thôi.

Nhưng trông ra chẳng đoán được là giờ giấc nào vì dưới đất một giải trắng xóa, trong không, sương tỏa đen ngòm, trên một ánh sáng lờ mờ vẩn lên những màu vàng úa.

Tất cả những hiện trạng đó không thể cho tôi biết được là mấy giờ.

Những tai cũng không biết gì hơn mắt. Bốn bề lạnh ngắt. Cảnh đêm cũng không đến nỗi im bặt như cảnh ngày hôm đó.

Tuyết đã làm tê liệt mọi cử động. Tuyết đã hóa mọi thứ thành đá. Thỉnh thoảng có một tiếng động tắt ngay, người ta khó nghe thấy. Đó là một cành thông lung lay trước gió, chùm tuyết nặng giúi đầu nó xuống đất. Khi cành bị uốn găng quá, chùm tuyết phải tuột xuống, cành lá xanh đen được tự do, bật mạnh lên, quệt vào bộ áo tuyết của những cành bên cạnh làm cho rách thủng. Vì thế trông xa người ta thấy lỗ chỗ những hổng đen ở tấm áo khoác trinh bạch của nhiều cây.

Tôi đứng ở cửa lều mải nhìn cảnh lạ đó thì có tiếng thầy tôi gọi:

- Con muốn đi bây giờ không?

- Con không biết. Tùy thầy.

- Theo ý ta, ở lại thì hơn, ít nhất chúng tôi cũng có chỗ ẩn và có lửa.

Tôi nghĩ chỉ còn thiếu một thứ nữa là bánh mì nhưng không dám nói ra.

Thầy tôi nói tiếp:

- Ta chắc tuyết xuống chưa hết. Không nên phiêu lưu quá sợ không tìm được nhà trọ. Vả ở giữa bãi tuyết ban đêm thì rét không chịu được. Ở đây còn có cái lợi là chân không bị ướt.

Thầy tôi không nói gì về vấn đề ăn. Tuy nhiên, nếu đi ngay bây giờ thì đến chiều không biết có gặp được chỗ trú không. Hơn nữa lớp tuyết vừa xuống đường chưa rắn chắc phải lội thì khổ lắm.

Vậy phải thắt bụng mà ở lại lều, có thế thôi.

Đến bữa ăn thầy tôi đem nửa ổ bánh chia làm sáu. Chúng tôi phải bẻ thành những miếng rất nhỏ ăn cho được lâu.

Khi ăn xong, tôi tưởng các con chó lại giở trò đòi ăn như bữa sáng, vì trông chúng còn thòm thèm lắm. Nhưng không phải thế, và một lần nữa tôi lại được dịp nhận xét cái thông minh của chúng.

Thầy tôi bỏ dao díp vào túi quần, thế là xong bữa ăn. Lãnh-Nhi đứng dậy, lấy đầu ra hiệu cho hai bạn nó rồi lại ngửi cái túi đựng bánh và lấy chân nắn ngoài túi. Sau khi đã kiểm soát xong, nó biết là không còn gì, nó về cạnh lò lửa ra hiệu cho hai bạn nó lần nữa rồi nằm xuống thở dài:

- “Không còn gì nữa, đòi cũng vô ích!”

Điệu bộ nó đã nói rõ hơn là lời nói. Các bạn nó hiểu lời nói đó, cũng cùng nhau lại nằm bên lửa. Tuy vậy, con Hiệp-Nhi vẫn hậm hực vì nó có tính háu ăn, nên thấy khó chịu hơn là hai con kia.

Tuyết lại đổ xuống đã lâu. Mỗi giờ lớp tuyết lại dầy thêm khác nào một lớp triều bạc dâng lên, sắp trùm hết các chồi cây non.

Ăn xong chúng tôi nhìn ra ngoài lều, thì màn đen đã xuống.

Đêm cũng không cản được tuyết, từ trên trời cứ rơi xuống từng cuộn lớn xuống mặt đất trắng ngần.

Vì chúng tôi phải ngủ ở đây, thì tốt hơn hết là đi ngủ sớm.

Chiếc áo da cừu của tôi ban ngày sấy đã khô. Tôi mặc vào và cũng theo mấy con chó nằm dài bên lò lửa. Đầu gối vào một viên đá nhẵn.

Thầy tôi bảo:

- Bây giờ con đi ngủ đi. Lát nữa đến phiên ta ngủ, ta sẽ gọi con dậy, ở lều này tôi không sợ người hay vật đến hại nhưng ta phải giữ luôn luôn cho lửa khỏi tắt, vì khi tuyết rơi thì trời giá lạnh lắm.

Không để thầy tôi giục đến lần thứ hai, tôi đi ngủ ngay.

Khi thầy tôi đánh thức tôi thì lúc đó đêm đã khuya lắm rồi. Tuyết không xuống nữa và lửa của chúng tôi vẫn còn.

Thầy tôi bảo:

- Bây giờ đến lượt ta ngủ. Con chỉ có việc thỉnh thoảng bỏ thêm củi vào lò. Ta đã lấy sẵn một đống củi để kia.

Thực vậy, một đống củi lớn đã xếp ở cạnh lò. Thầy tôi rất tỉnh ngủ, sợ tôi rút củi ở vách làm động chăng nên đã chuẩn bị củi cho tôi dùng.

Đó là một sự cẩn thận rất hay, nhưng than ôi! Nó đã không đem lại những kết quả mà thầy tôi mong muốn.

Thấy tôi đã dậy và nhận việc rồi, thầy tôi ấp con Hảo-Tâm vào ngực; chùm chăn nằm cạnh lò lửa. Một lát, những tiếng thở to và đều báo cho tôi biết là thầy tôi đã ngủ. Tôi liền đứng dậy, gión gién ra cửa lều, nhìn ra ngoài.

Tuyết đã vùi lấp tất cả: cỏ, bụi gai, cây non, cây lớn. Đưa mắt nhìn xa, tôi chỉ trông thấy một lớp tuyết mấp mô, trắng xóa.

Trên trời, những ngôi sao lấp lánh. Dưới đất ánh tuyết xanh xanh chiếu lên cảnh vật. Bên ngoài, trời lạnh cóng, thỉnh thoảng lại đưa vào lều một ngọn gió cắt da. Trong bầu không khí buồn lặng ban đêm, người ta chỉ nghe thấy đó đây những tiếng nứt trên mặt tuyết đông.

Chúng tôi thật may mắn và sung sướng được gặp túp lều này, nếu không, bơ vơ giữa rừng chúng tôi sẽ trở nên thế nào trong cơn bão tuyết với cái rét thấu xương?

Tôi đã có ý, bước rất khẽ thế mà cũng làm thức những con chó. Hiệp-Nhi theo tôi ra cửa. Vì nó không biết ngắm ánh tuyết ban đêm như tôi nên chóng chán và muốn chạy ra.

Tôi lấy tay vẫy nó vào. Không biết nó nghĩ thế nào mà lại muốn ra ngoài chơi, trong lúc đêm lạnh này nằm bên lò lửa chả hay hơn sao? Nó tuân lời, nhưng cứ ngồi hếch mõm trông ra ngoài như muốn bảo thủ ý kiến.

Tôi còn đứng ở cửa một hồi lâu nữa để ngắm tuyết mặc dầu cảnh đó gây cho tôi một mối buồn xa xăm và làm cho tôi muốn khóc, tôi cứ thích đứng lặng ở đó.

Sau cùng tôi trở vào đống lửa, bỏ thêm mấy thanh củi gác chéo lên nhau rồi tôi ngồi lên hòn đá đã dùng để gối đầu.

Thầy tôi ngủ yên. Những con chó và con Hảo-Tâm cũng ngủ cả. Lò lửa được tiếp củi thêm bốc lên những ngọn lửa vàng đẹp và cao, phát ra những tia lách tách khua tan khí yên lặng trong lều.

Tôi nhìn những tia lửa đó thích lắm. Nhưng dần dần tôi thấy mỏi mệt rồi tê mê không biết gì.

Nếu tôi phải kiếm củi bỏ lò thì tôi phải đứng dậy đi quanh nhà luôn, tôi sẽ tỉnh táo. Nhưng đằng này chỉ có ngồi và thò tay ra bốc củi, nên tôi mơ màng dần đi, cứ tưởng mình thức nhưng rồi ngủ lại lúc nào không biết.

Chợt một tiếng sủa dữ dội làm tôi giật mình tỉnh dậy. Tối đen như mực. Có lẽ tôi đã ngủ được một giấc dài, vì lo lửa đã tắt, không còn chút ánh sáng nào.

Tiếng sủa vẫn tiếp tục: Đó là tiếng con Lãnh-Nhi. Có điều lạ là không thấy tiếng hai con Thùy, Hiệp đáp lại.

Thầy tôi cũng trở dậy, hỏi:

- Cái gì thế? Có việc gì xảy ra?

- Con không biết.

- Con đã ngủ và lửa tắt cả.

Lãnh-Nhi chạy ra cửa và cứ đứng đó sủa ran.

Câu hỏi của thầy tôi, tôi nhắc lại để tư hỏi tôi:

- Có việc gì xảy ra?

Có hai ba tiếng kêu bi thảm đáp lại. Tôi nhận ra tiếng con Thùy-Nhi. Tiếng đó ở sau lều và không xa lắm.

Tôi chực chạy ra, thầy tôi kéo lại và bảo:

- Cho củi vào lò đã!

Trong khi tôi dóm lửa, thầy tôi tìm một thanh củi chưa tắt lửa thổi lên cho đỏ. Rồi thầy tôi cầm thanh củi đó mà bảo tôi:

- Chúng ta đi xem. Con đi sau ta. Lãnh-Nhi! Đi trước đi!

Khi chúng tôi đang ra, một tiếng kêu dữ dội phát ra như xé bầu không khí yên lặng. Con Lãnh-Nhi chùn lại, chui vào chân chúng tôi, sợ hãi.

Thầy tôi bảo:

- Chó sói đấy! Hiệp-Nhi đâu? Thùy-Nhi đâu?

Tôi không biết trả lời thế nào. Có lẽ trong khi tôi ngủ quên đi, Hiệp-Nhi cố tình thực hiện ý muốn của nó mà tôi đã cấm, và con Thùy-Nhi cũng theo bạn nó.

Chó sói đã tha chúng đi rồi chăng?

Giọng nói của thầy tôi đã tiết lộ sự lo sợ đó. Thầy tôi bảo tôi:

- Vào lấy một que củi đỏ. Chúng ta đi cứu hai con chó.

Ngày còn ở làng, tôi thường nghe thấy người ta kể lại những chuyện ghê gớm về chó sói. Nhưng tôi không ngần ngại. Tôi lấy que củi và đi theo thầy tôi. Nhưng khi ra đến rừng, chúng tôi không thấy Thùy, Hiệp-Nhi mà cũng không trông thấy chó sói. Chúng tôi chỉ trông thấy trên tuyết những vết chân của hai con chó.

Chúng tôi theo vết chân đó đi: những vết chân đó đi chung quanh lều, rồi trong một chỗ tối gần đó có nhiều vết lõm sâu xuống như là những vết lăn lộn.

Thầy tôi bảo Lãnh-Nhi:

- Lãnh-Nhi! Tìm đi! Tìm đi!

Và thầy tôi cũng huýt còi gọi chúng.

Nhưng bốn bề vắng ngắt không có một tiếng sủa trả lời thầy tôi và con Lãnh-Nhi đáng lẽ phải theo lệnh đi tìm, nhưng nó cứ nép vào chân chúng tôi, vẻ hãi hùng, tuy nó là con chó vâng lời và can đảm hơn cả.

Ánh phản chiếu của tuyết không đủ ánh sáng để chúng tôi theo rõi vết tích. Nhìn xa một chút là mắt tôi đã lòa trong bóng tối.

Thầy tôi lại huýt còi, lại gọi to:

- Hiệp-Nhi! Thùy-Nhi!

Chúng tôi lắng tai nghe. Vẫn im lặng. Lòng tôi se lại.

Tội nghiệp cho Hiệp-Nhi! Tội nghiệp cho Thùy-Nhi!

Thầy tôi kết thúc:

- Chó sói đã bắt chúng rồi. Tại sao con lại để cho chúng ra?

Không biết trả lời thế nào, tôi chỉ nói:

- Để con đi tìm.

Tôi chạy lên, thầy tôi giữ tôi lại và hỏi:

- Con định tìm chúng ở đâu?

- Con chưa biết, con đi tìm mọi chỗ.

- Tối thế này thì biết lối nào mà mò? Và phải lội tuyết!

Thực vậy, việc tìm không phải dễ. Tuyết ngập gần đến đầu gối. Chúng tôi lại chỉ có hai cái que lửa thì soi làm sao mà đi được.

Thầy tôi nói tiếp:

- Nếu chúng không trả lời ta, tức là chúng đã… ở xa. Vả chúng ta cũng không nên mạo hiểm, chó sói có thể hại được chúng ta vì trong tay chúng ta không có khí giới gì.

Đau đớn thay phải bỏ hai con chó đó, hai bạn thân của tôi. Tôi hối hận vô cùng, tôi phải chịu cái trách nhiệm về lỗi của chúng. Nếu tôi không ngủ quên thì đâu đến nỗi này?

Thầy tôi trở về lều. Tôi đi sau. Mỗi bước, tôi lại quay lại nhìn đằng sau tôi và đứng lại nghe ngóng, nhưng mắt tôi chỉ nhìn thấy tuyết trắng, tai tôi chỉ nghe thấy tiếng tuyết nứt nẻ.

Về đến lều, một việc lạ nữa đã đợi chúng tôi. Trong khi chúng tôi đi vắng, những cành cây tôi đã bỏ vào lò cháy to và sáng rực cả lều. Tôi không nhìn thấy Hảo-Tâm đâu cả. Chăn nó đắp vẫn còn y nguyên bên cạnh lò, nhưng thấy bẹp xuống, biết rằng nó không ở trong chăn.

Tôi gọi nó. Thầy tôi cũng gọi nhưng chẳng thấy nó đâu.

Thầy tôi nói khi thầy tôi dậy thì nó vẫn còn nằm nguyên. Đúng là lúc chúng tôi ra ngoài thì nó đi mất.

Hay nó đã theo chân chúng tôi?

Chúng tôi lấy một nắm củi cành đang cháy ra cửa, cúi xuống soi trên tuyết xem có dấu vết gì của Hảo-Tâm hay không.

Chúng tôi không thấy gì cả. Đã hay rằng chúng tôi và con Lãnh-Nhi đi đi lại lại có thể giẫm lên vết tích của Hảo-Tâm, nhưng dù sao cũng không thể xóa hết được dấu chân của Hảo-Tâm.

Như vậy thì nó không hề ra cửa.

Chúng tôi trở vào xem nó nấp trong vách củi không.

Chúng tôi tìm kiếm khá lâu: chúng tôi đi tìm lại một chỗ đến cả mười lần; thầy tôi lại kiệu tôi lên vai để khám phá cả những cành khô dùng làm mái lều.

Thỉnh thoảng chúng tôi lại dừng lại để gọi nhưng vẫn chẳng thấy gì.

Thầy tôi tỏ ra buồn rầu, tôi cũng thất vọng. Khốn nạn cho con Hảo-Tâm!

Tôi hỏi thầy tôi:

- Chó sói có thể bắt nó chăng?

Thầy tôi trả lời:

- Không, những con chó sói không dám vào chỗ có ánh sáng. Chúng có thể vồ hai con chó của ta vì những con ấy ra ngoài, chứ không xông vào đây đâu. Chắc con Hảo-Tâm sợ, đi nấp chỗ nào trong khi ta ra ngoài. Chính vì lẽ đó ta buồn, trong thời tiết này, nó dễ bị nhiễm lạnh và cái lạnh rất nguy hại cho nó, chúng ta cố tìm đi.

Chúng tôi lại tìm, nhưng lần này cũng như lần trước, chẳng lượm được kết quả gì.

Thầy tôi bảo:

- Đành để đến sáng vậy.

- Độ mấy giờ nữa?

- Độ hai hay ba giờ nữa, ta phỏng chừng thế.

Rồi thầy tôi ngồi, hai bàn tay ôm lấy đầu.

Tôi không dám làm rối thầy tôi. Tôi ngồi im bên cạnh, thỉnh thoảng sẽ cầm cành củi bỏ vào lò. Thỉnh thoảng thầy tôi lại đứng dậy ra cửa, nhìn lên trời và nghiêng mình ra nghe. Rồi lại trở về chỗ. Giá thầy tôi mắng tôi thì tôi còn dễ chịu hơn là trông thấy thầy tôi rầu rĩ và im lìm.

Thời gian ba giờ mà thầy tôi nói đi chậm đến phát bực người, tưởng chừng như đêm kéo dài không bao giờ hết.

Nhưng rồi những sao cũng xanh dần, và trời bắt đầu trắng ra. Bình minh đến. Sáng rồi. Gió ban mai sao mà lạnh thế!

Nếu chúng tôi tìm được Hảo-Tâm, không biết nó còn sống không? Biết đâu trời sáng lại không kéo cả tuyết đến, thì làm thế nào để tìm con Hảo-Tâm?

May sao tuyết không kéo đến. Đáng lẽ âm thầm như hôm qua, bầu trời hôm nay nhuộm một ánh hồng báo một ngày tươi đẹp.

Đợi cho sáng rõ, chúng tôi đi tìm. Thầy tôi cầm một cái gậy lớn. Tôi cũng vác một cái không kém.

Lãnh-Nhi bây giờ không co ro sợ sệt như ban đêm, hai mắt nó nhìn chủ và đợi lệnh.

Chúng tôi đang cúi tìm vết chân của Hảo-Tâm ở dưới đất, Lãnh-Nhi ngẩng đầu và sủa lên những tiếng vui vẻ có ý bảo chúng tôi nên tìm ở trên không chứ kiếm ở dưới đất thì uổng.

Chúng tôi liền nhìn lên mái lều, nhiều chỗ tuyết đã lún xuống để lộ một cành cây lớn chấm mái lều.

Chúng tôi theo cành đó của cây sồi đâm sang, nhìn lên ngọn cây thấy ở một cái chạc có bóng một vật màu nâu sẫm.

Đó là Hảo-Tâm. Chúng tôi hiểu ngay: đêm qua nghe tiếng chó sói và chó nhà sủa vang, đáng lẽ phải nằm yên cạnh lửa, nó sợ quá lại thấy trong nhà đi vắng cả, liền nhảy tót lên mái lều, truyền sang cây sồi, leo lên ngọn nấp cho được chắc chắn, chủ gọi cũng không xuống nữa. Con vật khốn nạn phải bữa rét cóng.

Thầy tôi ngọt ngào gọi nó! Nó không động đậy, cứng đờ như chết. Thầy tôi gọi mãi đến cả mười phút mà nó vẫn không tỏ ra dấu hiệu gì là sống cả.

Tôi muốn chuộc lại cái lỗi đã sơ khoáng ban đêm liền bảo thầy tôi:

- Thầy để con trèo lên ôm nó xuống.

- Ngã thì khốn!

- Không nguy hiểm đâu, thầy ạ!

Thực ra rất nguy hiểm. Cây đã cao lại to. Thân và cành đều trát tuyết, rất khó trèo. May sao, từ thuở nhỏ tôi đã biết trèo cây và cái khoa trèo của tôi đã từng nổi tiếng là giỏi hơn mèo.

Tôi dùng mấy cành nhỏ ở dưới làm bậc leo lên. Tay bám làm tuyết rơi cả vào mắt hóa mờ. Thầy tôi đỡ tôi lên cho đến chạc thứ nhất. Từ đó trở lên trèo dễ hơn, tôi chỉ phải chú ý cho khỏi trượt.

Tôi vừa leo vừa ngửa mặt lên nói ngọt ngào với Hảo-Tâm. Nó không nhúc nhích nhưng hai mắt vẫn chừng chừng nhìn tôi. Tôi đến gần chỗ nó, vừa giơ hai tay ra bắt thì nó đã nhảy sang cành khác.

Tôi lại leo sang cành này nhưng, người lớn hay trẻ ranh dù tài giỏi đến đâu cũng vẫn kém xa giống khỉ về môn trèo cây. Vì thế tôi sẽ không thể nào với được nó nếu cành cây không có tuyết. Vì tuyết làm ướt tay chân nó, sức chạy của nó cũng chóng mệt và giảm đi một phần nào. Lúc đó nó dò cành này sang cành khác rồi nhảy phắt xuống vai thầy tôi và chui vào trong vạt áo.

Bắt được Hảo-Tâm đã vất vả nhưng nào đã hết đâu. Chúng tôi còn phải tìm hai con chó nữa.

Chúng tôi đi vài bước nữa đến chỗ tìm đêm qua.

Bây giờ sáng sủa, chúng tôi dễ nhận những điều đã xảy ra. Tuyết còn in sâu vết tích về cái chết của hai con chó.

Chúng đã ra ngoài lều, con trước, con sau, còn vết chân trên một quãng dài hơn 20 mét. Rồi những vết này biến mất trong đám tuyết bới lộn. Chỗ đó người ta nhìn thấy nhiều dấu vết khác: một bên là những vết nhảy dài của những con sói sang chỗ hai con chó, một bên là những vết tỏ ra rằng những con sói đã cắn chết những con chó mà tha đi. Những vết máu đào còn lang-lỗ trên tuyết.

Chúng tôi đành lộn lại. Hai con chó đã bị giống sói cắn chết và tha vào rừng rậm rồi. Bây giờ chúng tôi cần săn sóc và sưởi cho Hảo-Tâm.

Chúng tôi vào lều. Khi thầy tôi cầm tay chân Hảo-Tâm sưởi trên lửa như chăm chút cho con thơ, tôi đem hơ chăn của nó cho ấm. Rồi chúng tôi cuộn vào mình nó. Giá lại có giường êm và đồ uống nóng thì con HT cũng bớt mệt, nhưng ở lều này thì tìm đâu ra. May mà có lửa cũng cứu cấp được phần nào.

Thầy tôi và tôi ngồi chung quanh lò lửa, chẳng ai nói câu gì, im lặng nhìn lửa cháy. Chúng tôi tuy không dùng lời nói, không dùng đến con mắt nhưng cũng biểu lộ được lòng đau xót của chúng tôi lúc đó.

“Thương thay cho Hiệp-Nhi! Cho Thùy-Nhi! Những bạn thân mến của ta!” Đó là lời của chúng tôi đang lẩm nhẩm nếu không ít ra cũng là tiếng nói của lòng chúng tôi.

Thực vậy, chúng đã làm bầu bạn với chúng tôi, lúc vui cũng như lúc buồn đều có nhau. Đối với tôi, trong những ngày bơ vơ và hoạn nạn, chúng đã là nguồn an ủi cho tôi. Không những coi chúng là bạn, tôi còn thương chúng như em tôi nữa.

Nay vì tôi mà chúng đã thiệt mạng!

Tôi không thể nào chối cãi được, nếu tôi để ý coi chúng, nếu tôi không ngủ, chúng sẽ không ra ngoài. Chó sói dầu có đến cũng phải đứng xa vì e sợ ánh lửa.

Tôi chỉ muốn thầy tôi mắng tôi, đánh cho tôi một trận thì mới hả dạ. Nhưng thầy tôi chẳng nói năng gì, và cũng không hề nhìn tôi. Thầy tôi ngồi rũ bên cạnh lò lửa, chắc hẳn trong lòng đang nghĩ về ngày mai. Thiếu chúng, chúng tôi diễn trò làm sao?

Chúng tôi sống làm sao được?

Chương XV

ngài hảo tâm

Hứa hẹn của bình minh đã thực hiện. Mặt trời chói lọi trên nền trời cao thẳm không một vẩn mây. Những tia sáng rọi xuống tuyết trắng phản chiếu lại thành ánh xanh xanh. Những giải rừng ảm đạm hôm qua, bây giờ vàng rực đến chói mắt.

Thỉnh thoảng thầy tôi lại luồn tay xuống dưới chăn để sờ Hảo-Tâm. Thân thể nó vẫn lạnh vì tôi nghe có tiếng rên. Thì ra chúng tôi làm sao sưởi ấm được máu ở trong huyết quản của nó đã bị nhiễm lạnh.

Thầy tôi đứng dậy bảo tôi:

- Nếu ta không tìm vào làng ngay thì con Hảo-Tâm chết ở đây mất. Cố sao cho nó khỏi chết đường. Chúng ta đi đi!

Chiếc khăn lại hơ nóng. Thầy tôi quấn cho nó và ấp nó vào bên ngực.

Chúng tôi chuẩn bị xong.

Thầy tôi nói giọng run run:

- Đây là cái quán trọ nó đã bắt ta trả đắt quá!

Nói xong, thầy tôi ra trước, tôi theo sau. Tôi phải gọi con Lãnh-Nhi vì nó cứ nằm lì ở hè quay mõm về chỗ hai bạn hôm qua.

Mươi phút sau, chúng tôi ra đến đường cái. Chúng tôi gặp một cái xe bò, người đánh xe cho chúng tôi biết đi bộ một giờ nữa thì đến làng. Lời nói đó làm cho chúng tôi phấn khởi. Nhưng đi rất khó khăn và vất vả vì tôi phải lội tuyết đến đầu gối.

Thỉnh thoảng tôi lại hỏi thăm bệnh Hảo-Tâm, thầy tôi bảo nó vẫn run run bên ngực thầy tôi.

Sau cùng, ở dưới chân đồi hiện ra những mái nhà trắng của một làng khá to. Cố gắng chút nữa thì chúng tôi tới nơi.

Chúng tôi không quen vào những quán trọ lớn, bề ngoài đồ sộ hứa hẹn những phòng ngủ tốt và những bữa ăn ngon. Trái lại chúng tôi thường dừng chân ở đầu làng hay ở ngoại châu thành để tìm những nhà trọ bình dân, ở đó người ta không hắt hủi và bóc lột chúng tôi.

Nhưng lần này không thế, đáng lẽ nghĩ ngay ở đầu làng, thầy tôi đi thẳng đến một khách sạn ngoài cửa treo một tấm biển vàng. Nhìn qua cửa bếp mở rộng người ta trông thấy một bàn đầy thịt và ở trên bếp rộng có nhiều cái chảo đồng sáng loáng đang sèo sèo vui tai và đưa lên trên trần những đám hơi xanh. Từ ngoài phố, người ta đã ngửi thấy mùi thơm của súp béo, khai vị cho những dạ dày lép xẹp của chúng tôi.

Thầy tôi lấy bộ nghiêm trang, vào trong bếp, mũ trên đầu, mặt hơi ngửa, bảo người chủ tiệm dành cho một phòng tốt có lò sưởi.

Người chủ tiệm trông có vẻ mẫn tiệp, thoạt đầu hạ cố nhìn chúng tôi rồi như có ý ngần ngại, nhưng cái phong độ của thầy tôi đã làm cho chủ tiệm phải kính. Rồi người đầy tớ gái được lệnh đưa chúng tôi nhận buồng.

Khi người đầy tớ gái dóm lò sưởi, thầy tôi bảo tôi:

- Con lên giường ngủ đi.

Tôi sững người, ngạc nhiên: sao lại đi ngủ? Tôi muốn ngồi vào bàn hơn là lên giường.

- Nhanh lên, con!

Tôi phải vâng lời.

Trên giường có một cái chăn. Thầy tôi kéo đắp cho tôi đến cằm, và bảo tôi:

- Cố nằm cho ấm, càng ấm bao nhiêu càng tốt.

Lúc đó, tôi nghĩ con Hảo-Tâm cần được ủ ấm hơn tôi vì tôi không rét lắm.

Trong khi tôi nằm im trong chăn để lấy ấm. Thầy tôi làm cho cô đầy tớ gái phải trố mắt nhìn: thầy tôi cầm con Hảo-Tâm quay đi quay lại trên lửa như người muốn thui.

Lát sau thầy tôi hỏi tôi:

- Con đã thấy ấm chưa?

- Thưa thầy, con ngột cả người!

- Tốt lắm, cần phải thế.

Rồi thầy tôi nhanh nhẹn lại chỗ tôi, đặt con Hảo-Tâm vào trong chăn, bảo tôi ủ nó vào ngực.

Con vật khốn nạn kia ngày thường rất bướng bỉnh khi người ta bảo nó làm việc gì mà nó không thích, bây giờ nó chịu đựng được hết. Nó bám vào ngực tôi không động đậy, nó không rét nữa, nhưng mình nó nóng như lửa.

Thầy tôi xuống bếp rồi trở lên với một chén rượu vang nóng có pha đường. Thầy tôi định cho nó uống một vài thìa nhưng nó cứ cắn chặt lấy răng. Hai con mắt nó lóng lánh nhìn chúng tôi vẻ buồn rầu, như kêu xin đừng dày vò nó nữa.

Đồng thời nó thò một cánh tay ra ngoài chăn và chìa cho chúng tôi. Nó nhắc đi nhắc lại cử chỉ đó nhiều lần, chúng tôi không hiểu sao cả.

Thầy tôi cắt nghĩa cho tôi:

- Khi con chưa gia nhập đoàn này, có một lần Hảo-Tâm bị sưng phổi, người ta phải trích máu ở tay nó ra. Bây giờ nó ốm, nó lại giơ cánh tay ra để chữa cho nó khỏi như lần trước.

Thực là cảm động.

Ông Vỹ-Tiên không những cảm động, ông còn lo buồn nữa.

Bệnh nó thực trầm trọng. Nó không thiết uống rượu vang là một thứ mà xưa nay nó vẫn ưa thích, là sự không vừa.

Thầy tôi bảo tôi:

- Vậy con uống rượu đi. Rồi nằm nghỉ. Ta đi mời thầy thuốc cho Hảo-Tâm.

Tôi xin thú thực rằng tôi vốn thèm rượu vang ngọt, lại thêm đói lòng, tôi không để mời đến hai lần, tôi uống luôn một hơi rồi nằm xuống đắp chăn, men rượu làm nóng thêm, tôi suýt nghẹt thở.

Thầy tôi đi không lâu. Lát sau thầy tôi về cùng một ông đeo kính gọng vàng: đó là thầy thuốc.

Sợ rằng một vị thượng lưu không muốn mất thì giờ để đi chữa bệnh cho một con vật, ông Vỹ-Tiên lúc mời thầy thuốc, không dám nói rõ là chữa cho con khỉ. Vì thế, thoạt nhìn thấy tôi nằm trong chăn, mặt đỏ như quả bồ quân chín muồi, thầy thuốc liền đến sờ trán tôi và nói:

- Sung huyết.

Và ông lắc đầu ngụ ý bệnh khó chữa.

Nếu tôi không cải chính ngay sợ ông ta trích huyết tôi, tôi liền nói:

- Thưa ông, tôi không ốm.

- Thế nào? Đứa trẻ này không ốm? Nó nói mê.

Không trả lời, tôi lật chăn ra và trỏ vào con Hảo-Tâm nó đang quàng tay vào cổ tôi, và nói:

- Chính con này ốm.

Ông thầy thuốc lùi lại hai bước và hất hàm hỏi thầy tôi:

- Một con khỉ? Thế nào? Vì một con khỉ mà ông làm phiền tôi, phải đi trong lúc giá rét này?

Ông ấy tức giận quay ra. Thầy tôi vốn là người khéo nói và có tính bình tĩnh. Với lễ độ và bằng bộ kẻ cả, thầy tôi làm cho ông thầy thuốc không ra được. Thầy tôi trình bày cảnh ngộ: chúng tôi gặp bão tuyết làm sao, con Hảo-Tâm sợ chó sói trốn lên cây và nhiễm lạnh thế nào.

Thầy tôi nói tiếp:

- Thực vậy, con bệnh chỉ là một con khỉ, nhưng một con khỉ rất khôn. Nó không phải là con vật giúp việc mà là bạn của chúng tôi. Giao một kịch sĩ đại tài như nó cho một ông lang vườn ở làng thì coi sao được. Mọi người đều biết các ông lang vườn đều dốt cả. Mọi người đều biết các vị y sĩ đều là những nhà bác học, đến nỗi mà ở một làng xa xôi hẻo lánh người ta cũng tin ở tài năng và đại độ mà lặn lội tìm đến gõ cửa các vị y sĩ. Nay, mặc dầu con khỉ chỉ là một loài vật, nhưng theo các nhà thiên nhiên học thì nó gần giống người hơn cả, đến nỗi các bệnh của nó không khác gì bệnh của người. Như vậy, về phương diện kỹ thuật, việc nghiên cứu những bệnh đó giống bệnh người ở chỗ nào và khác ở chỗ nào, chẳng phải là một điều bổ ích hay sao?

Cái tài tán dương của những người Ý-đại-lợi không thể chê được. Nghe bùi tai, nhà y sĩ bỏ chỗ cửa và chạy đến cạnh giường.

Khi thầy tôi thuyết thì con Hảo-Tâm, có lẽ đoán ông đeo kính là thầy thuốc, nên cứ thò cánh tay nhỏ xíu của nó ra để xin trích huyết.

Thầy tôi được dịp nói thêm:

- Đấy ngài xem, nó có thông minh không? Nó biết ngài là y sĩ nên nó chìa tay cho ngài chẩn mạch.

Thầy thuốc càng tin và nói:

- Trường hợp này cũng lạ thực!

Than ôi! Chúng tôi đau buồn biết bao khi thầy thuốc cho chúng tôi biết Hảo-Tâm bị chứng sưng phổi.

Thầy thuốc cầm lấy cánh tay Hảo-Tâm và dùng dao nhọn trích vào tĩnh mạch, nó không hề rên rỉ chút nào, biết rằng có thế mới khỏi.

Trích xong, thầy thuốc cho thuốc cao, thuốc đồ, thuốc pha, thuốc sắc. Lẽ dĩ nhiên, tôi thành một người khán hộ bên cạnh Hảo-Tâm dưới quyền điều khiển của thầy tôi.

Con Hảo-Tâm đáng thương hại, nó ưa tôi săn sóc nó và thường thưởng cho tôi những nụ cười biết ơn. Cái nhìn của nó trông hệt như mắt người. Ngày thường, nó khó bảo, bướng bỉnh, cứng cổ là thế, hiếu động là thế mà bây giờ nó “từ bi” và ngoan ngoãn một cách lạ lùng. Xem ra nó thích người ta vuốt ve, nâng niu nó, nó bắt cả con Lãnh-Nhi thường là nạn nhân trong những trò hóm hỉnh của nó, phải chiều đãi nó.

Như một đứa con nuông, nó muốn tất cả mọi người phải ở luôn cạnh nó. Nếu ai bỏ đi thì nó giận dữ.

Bệnh của nó theo đúng bệnh thế của chứng sưng phổi, nghĩa là đến thời kỳ ho. Mỗi khi lên cơn, nó ôm ngực ho sù sụ, rung chuyển cả tấm thân bé nhỏ còm gầy.

Cả cơ nghiệp tôi có 5 xu. Tôi mua kẹo mạch nha cho nó ngậm. Thành ra đáng lẽ làm cho nó bớt đau, tôi lại làm bệnh nó tăng thêm.

Nó thấy mỗi khi nó ho tôi lại cho nó một viên kẹo, nó liền lợi dụng chỗ đó, giả cách ho suốt ngày để được ngậm thứ thuốc mà nó rất thèm, vì thế cái vị thuốc của tôi đáng lẽ có hiệu quả lại thành ra làm cho nó ho thêm.

Khi tôi biết mưu của nó, tôi giấu kẹo đi. Nhưng nó không nản lòng: bắt đầu nó đưa mắt xin tôi, thấy vô hiệu, nó liền ngồi dậy, cúi gập mình xuống, một tay ôm bụng, nó dặn ho ra, mắt nó đỏ bừng, gân trán nổi lên, nước mắt nước mũi ràn rụa, cuối cùng nó lử ra không phải là để đóng kịch mà chính là nó hết hơi.

Thầy tôi có tính đã nghĩ việc gì thì âm thầm làm, không bao giờ nói cho tôi biết. Cũng là một sự ngẫu nhiên mà tôi biết đã bán cái đồng hồ quý để sắm áo cừu cho tôi. Nhưng trong tình trạng khẩn trương này, thầy tôi đã phá lệ đó.

Một buổi sáng, sau bữa ăn, trong lúc tôi đang ngồi trông con Hảo-Tâm thì thầy tôi bảo tôi rằng chủ tiệm vừa đòi tiền ăn tiền trọ, thầy tôi đã trả cả, nay trong túi chỉ có 5 phật-lăng thôi.

- Tính sao bây giờ?

Cố nhiên tôi không biết trả lời thế nào về vấn đề đói. Thầy tôi đã nghĩ được cách giải quyết là phải đi diễn trò ngay buổi chiều.

Một cuộc diễn không có Hiệp-Nhi, Thùy-Nhi và Hảo-Tâm tôi nghĩ không sao thành được.

Nhưng chúng tôi không chịu ngừng bước trước sự khó khăn. Dù đến thế nào cũng phải chữa cho con Hảo-Tâm khỏi bệnh. Tiền thầy, tiền thuốc, tiền buồng, tiền than, thôi thúc chúng tôi phải kiếm sao cho được 40 phật-lăng để trả chủ tiệm vì họ có ngửi thấy hơi tiền thì mới cho chúng tôi ở chịu.

Kiếm 40 phật-lăng ở làng này trong lúc rét mướt với những phương tiện hiện hữu của chúng tôi, thực là một việc cố gắng phi thường.

Tuy nhiên thầy tôi không để chậm, sữa soạn gấp để thực hiện buổi đó. Khi tôi ở nhà trông con Hảo-Tâm thì thầy tôi mượn được một rạp hát ở chợ, vì trời rét quá diễn ngoài trời không tiện. Thầy tôi viết và tự đi dán những giấy quảng cáo. Thầy tôi xếp một vài tấm ván làm sân khấu và hy sinh cả 5 phật-lăng để mua nến về cắt ra làm đôi để thắp nhiều ngọn cho sáng.

Nhìn qua cửa sổ buồng, tôi thấy thầy tôi đi đi lại lại trên tuyết qua cửa khách sạn nhiều lần. Tôi tự nghĩ và băn khoăn không biết chương trình buổi diễn sẽ ra sao. Chợt người phu đánh trống, đầu đội một cái mũ lưỡi trai đỏ, dừng ở trước cửa khách sạn đọc to chương trình buổi diễn.

Thầy tôi đã quảng cáo một cách quá đáng như sau “Nào là một nghệ sĩ đại tài – tức Lãnh-Nhi, nào là ca sĩ thần đồng – tức là tôi”.

Những phần đặc biệt nhất của lời rao là chủ nhân không định giá chỗ ngồi và không bán vé, tùy lượng khán giả thưởng cho sau khi đã trông, nghe và vỗ tay.

Điều này hơi táo bạo: đã chắc đâu công chúng vỗ tay? Con Lãnh-Nhi thì có thể được vì nó rất hay, còn tôi, tôi có là thần đồng đâu?

Khi nghe thấy tiếng trống, con Lãnh-Nhi sủa lên những tiếng vui vẻ, con Hảo-Tâm cũng ngóc đầu lên, lúc đó nó đang mệt. Cả hai con biết hiệu là sắp diễn trò. Con Hảo-Tâm cứ cố ngồi dậy, tôi phải giữ lại. Nó lại đòi bộ áo Đại tướng Anh-Quốc: áo quần đỏ viền lon vàng và mũ quan của nó.

Đòi không được, nó chắp tay và quỳ xuống để kêu van.

Khi nó biết kêu xin không ăn thua, nó ra mặt giận, rồi nó khóc.

Tôi nghĩ chiều nay rất khó giữ không cho nó ra, phải tìm cách trốn nó mới xong.

Không may, thầy tôi không biết việc nó đòi, ở đâu về bảo tôi sửa soạn đàn và những đồ cần thiết để biểu diễn.

Nghe nói, nó hiểu. Nó lại bắt đầu xin đi, lần này nó van lơn thầy tôi bằng điệu bộ, bằng tiếng kêu, bằng nước mắt và những cái hôn vào bàn tay thầy tôi. Thầy tôi hỏi nó:

- Con muốn đi diễn à?

Nó đem hết sức của tấm thân dúm dó của nó và kêu những tiếng như:

- Dạ, dạ…

- Nhưng con còn ốm lắm, Tâm ạ.

Nó lại kêu như đáp lại:

- Hết ốm!

Thực cảm động đến rơi lệ khi trông thấy một con vật chỉ còn hơi tàn, phải gò cổ kêu, phải vận động xác ve để ra hiệu, đứng lên ngồi xuống khó nhọc, chỉ tha thiết đi để đền ơn chủ. Nhưng chiều nó thế nào được; cho nó đi tức là giết nó.

Đã đến giờ chúng tôi phải ra rạp. Tôi bỏ thêm những thanh củi lớn vào lò cho giữ lửa được lâu. Rồi tôi đắp chăn lại cho con Hảo-Tâm. Nó khóc thảm thiết và hôn tôi mãi không dứt. Sau cùng chúng tôi phải đi.

Chúng tôi cùng đi trên đường đầy tuyết. Thầy tôi dặn dò tôi trước những công việc phải làm.

Chúng tôi không thể diễn những trò mọi ngày được vì những vai chính thiếu cả. Nhưng chúng tôi, Lãnh-Nhi và tôi, phải đem hết nghị lực ra trình bày cho được kết quả mong muốn: 40 phật-lăng.

40 phật-lăng! Khó lắm!

Trong rạp mọi thứ đều chuẩn bị; ông Vỹ-Tiên chỉ còn có việc thắp nến nữa thôi, nhưng chúng tôi không dám hoang phí thắp trước khi đông đủ khán giả vì phải giữ sao cho nến không hết trước khi mãn trò.

Khi chúng tôi đã có mặt trong rạp rồi, trống cổ động còn khua lần cuối cùng trong các phố. Chúng tôi nghe thấy tiếng trống lúc gần lúc xa, tùy theo vị trí quanh co các phố trong làng.

Sau khi tôi và Lãnh-Nhi đã sắm sửa áo mũ xong, tôi ngồi vào một góc cột để nhìn các khán giả đến xem.

Không bao lâu, tiếng trống về gần rạp, phụ họa thêm những tiếng ồn ào. Đó là tiếng cười nói của hơn hai chục đứa trẻ đi theo sau trống đánh dịp chân. Người phu cổ động đem trống về cửa rạp hai bên có treo đèn lồng và tiếp tục đánh luôn tay.

Ai muốn xem thì cứ việc vào ngồi để đợi giờ khai mạc.

Nhưng sao mà họ đến chậm thế, mặc dầu những tiếng “tùng tùng” vui vẻ như giục giã bên tai. Rạp đã có người nhưng toàn là những đứa trẻ tinh ranh trong phố. Chúng không phải là những người đem lại cho chúng tôi 40 phật-lăng. Vì thế chúng tôi phải đợi những nhân vật quan trọng có túi tiền đầy và có bàn tay dễ mở.

Sau cùng, trong rạp còn trống, thầy tôi nhất định mở màn vì chúng tôi không thể đợi lâu sợ thiếu nến.

Tôi phải ra trò trước tiên, vừa đánh đàn vừa hát hai ca khúc ngắn. Cho được thành thực, tôi phải thú thực rằng hát xong chỉ có một vài tiếng vỗ tay.

Không phải tôi giàu lòng tự ái như các nghệ sĩ khác, nhưng trong trường hợp này, sự lãnh đạm của khán giả làm tôi buồn lòng. Nếu tôi không làm cho khán giả thỏa ý thì túi họ không mở. Không phải vì hư danh mà tôi cố hát, chính vì con Hảo-Tâm đáng thương.

Chán thay! Tôi cố hết sức làm cho họ cảm động, làm cho họ vui cười, làm cho họ say mê, nhưng tôi càng trông xuống rạp thì tôi càng thấy họ ít chú ý đến tôi, họ không nhận tôi là thần đồng.

Con Lãnh-Nhi may mắn hơn. Người ta vỗ tay hoan nghênh nó nhiều lần và hoan nghênh nhiệt liệt.

Cuộc diễn tiếp tục. Nhờ có Lãnh-Nhi buổi hát đã chấm dứt trong những tiếng hoan hô. Người ta vỗ tay, người ta nện cả chân xuống đất nữa.

Giờ quyết định vận vận mệnh đã đến. Trong khi ông Vỹ-Tiên đánh đàn cho tôi nhảy điệu Bồ-Đào-Nha trên sân khấu, con Lãnh-Nhi ngậm cái bát gỗ đi chung quanh hàng khán giả. Nó có thu được 40 phật-lăng không? Tôi vừa nhảy vừa nghĩ thế vừa mỉm cười với khán giả bằng một dáng điệu tác dụng cho thật đáng yêu.

Tôi đã mệt nhưng cứ phải nhảy đợi cho con Lãnh-Nhi trở lại mới thôi. Nó không vội vàng. Tới vị nào không móc tiền cho nó, nó lấy chân vỗ vào túi và đứng ỳ ra.

Sau cùng tôi thấy nó trở lại chỗ tôi. Tôi định thôi nhảy nhưng thầy tôi đưa mắt bảo tôi tiếp tục. Tôi lại cố nhảy và nhìn vào bát của Lãnh-Nhi thấy chưa đầy, còn thiếu nhiều.

Lúc đó thầy tôi cũng nhìn thấy số tiền thu được ít ỏi quá, liền đứng dậy nói:

- Thưa quý vị, chương trình của chúng tôi đến đây là hết. Nhưng, nến còn cháy, nếu quý vị muốn, tôi xin cống hiến quý vị một vài ca khúc. Lãnh-Nhi sẽ lượn thăm quý vị lần thứ hai. Những vị nào chưa tìm thấy miệng túi khi Lãnh-Nhi đi qua lần trước, lần này tất tinh mắt hơn. Vậy xin kính báo quý vị biết trước.

Tuy Vỹ-Tiên là nhạc sư của tôi thực, nhưng tôi không thấy ông hát thực sự hay hát như buổi tối hôm đó bao giờ!

Ông chọn hai bài Tình-ca mà mọi người đều biết – nhưng thuở đó tôi không biết – là “Thời niên thiếu” và bài “Tình yêu”.

Ngày ấy tôi không biết phân biệt thế nào là hát hay, hay không hay, có nghệ thuật hay không nghệ thuật. Nhưng tôi nghe tiếng hát của ông đã khiến cho lòng tôi thổn thức, tôi phải lẩn vào góc rạp khóc thầm.

Qua làn nước mắt rưng rưng, tôi nhìn thấy một thiếu phụ ngồi hàng ghế nhất vỗ tay rất nhiều. Bà ta không phải là một người nhà quê như các bà ngồi bên cạnh, mà là một thiếu phụ trẻ, đẹp, cứ trông cái áo khoác bằng da rái cá của bà, tôi đoán bà vào hạng giàu có nhất trong làng. Cạnh bà là cậu bé cũng thích Lãnh-Nhi lắm, có lẽ là con trai bà vì trông giống bà như đúc.

Sau bài thứ nhất, Lãnh-Nhi lại bắt đầu đi quyên. Không thấy bà ta cho gì, tôi cũng hơi lạ. Đến khi thầy tôi hát xong bài thứ hai, bà vẫy tôi đến gần.

Bà nói:

- Tôi muốn nói chuyện với thầy em.

Tôi lấy làm ngạc nhiên sao lại có một người đàn bà đẹp thế muốn nói chuyện với thầy tôi. Giá bà cứ cho ngay vào bát có lẽ thú hơn. Tuy nhiên tôi phải chuyển lời yêu cầu đó đến thầy tôi. Lúc đó Lãnh-Nhi cũng theo chân tôi. Lần quyên thứ hai, kết quả lại kém lần trước nhiều.

Ông Vỹ-Tiên hỏi tôi:

- Bà ấy muốn gì?

- Nói chuyện với thầy.

- Ta không có gì để nói.

- Bà ta không cho Lãnh-Nhi gì. Có lẽ bà ta định cho.

- Thế thì con Lãnh-Nhi phải đến chứ, ta không phải đến.

Nói thế, nhưng thầy tôi cũng đến, tay dắt con Lãnh-Nhi, tôi cũng theo sau.

Lúc đó, có người nữ tỳ cầm đèn lồng và một cái khăn choàng đến đón bà ta và cậu bé.

Ông Vỹ-Tiên đến gần và cúi chào nhạt nhẽo.

Bà khách nói:

- Xin ông tha lỗi đã làm phiền ông. Tôi muốn khen ngợi ông.

Ông Vỹ-Tiên lại cúi mình không nói gì.

Bà khách nói tiếp:

- Tôi vốn biết về âm nhạc. Được nghe ông hát, tôi rất cảm phục. Ông thực là một ca sĩ đại tài.

Một đại tài ở thầy tôi, một người hát rong, một người làm xiếc! Tôi sửng sốt cả người.

Thầy tôi đáp:

- Đại tài gì đâu, một kẻ già lão như tôi.

Bà khách nói:

- Xin ông đừng cho rằng tôi có ý thóc mách.

- Bà không hiểu tại sao một người diễn trò rong lại hát tạm được như thế, phải không? Tôi xin nói để bà khỏi lạ.

- Không phải lạ, mà kinh dị!

- Một việc rất thường. Không phải từ trước đến giờ tôi vẫn thế này. Ngày trước, hồi tôi còn niên thiếu, đã lâu lắm rồi, tôi đã là… phải, đã là một người đầy tớ của một ca sĩ đại tài. Rồi tôi bắt chước như con vẹt, nhắc đi nhắc lại một vài bài mà thầy tôi đã hát, có thế thôi.

Bà khách không nói gì, nhìn kỹ ông Vỹ-Tiên làm cho ông có vẻ luống cuống.

- Thôi kính chào ông – bà khách nhấn mạnh tiếng “ông” – và một lần nữa xin cảm ơn ông đã cho nghe những bài rất hay và rất cảm động.

Rồi bà cúi xuống bỏ vào bát con Lãnh-Nhi một đồng tiền vàng.

Tôi tưởng thầy tôi phải tiễn chân bà khách, nhưng không, sau khi bà ta đã đi khỏi, thầy tôi lẩm nhẩm mấy tiếng “rủa” bằng tiếng Ý.

Tôi nói:

- Nhưng bà ta cho Lãnh-Nhi 20 đồng phật-lăng.

Tôi tưởng thầy tôi giơ tay tát tôi song lại rụt lại. Rồi như chợt tỉnh lại sau một giấc mê, thầy tôi bảo tôi:

- Đồng 20 phật-lăng! À! Phải, phải đấy, con Hảo-Tâm khốn nạn, ta quên mất. Bây giờ về thăm nó xem sao.

Rạp dọn trong nháy mắt đã xong, chúng tôi không mấy lúc đã về đến khách sạn.

Tôi lên thang trước tiên và chạy ngay vào phòng. Lửa còn cháy, nhưng không lên ngọn. Tôi liền thắp đèn. Không nghe thấy tiếng Hảo-Tâm đâu, tôi liền tìm.

Nó nằm xõng xượt trên chăn, mình mặc bộ lễ phục Đại tướng nước Anh, hình như nó đang ngủ. Tôi cúi xuống sẽ cầm tay nó khơi dậy. Bàn tay nó lạnh quá.

Lúc đó thầy tôi vào phòng. Tôi quay lại bảo thầy tôi:

- Hảo-Tâm lạnh lắm, thầy ạ.

Thầy tôi cúi xuống bên tôi và kêu:

- Trời ơi! Hảo-Tâm đã chết rồi! Việc này tất phải đến. Minh ơi! Con có coi thấy không? Tại ta đã chia rẽ một tình mẫu tử, rứt con ở trong tay bà Mỹ-Lưu ra, trời trừng phạt ta bắt con Hiệp-Nhi, Thùy-Nhi, nay lại đến con Hảo-Tâm của ta! Mà cũng chưa hết đâu, con ạ!

Chương XVI

vào ba-lê

Chúng tôi hiện còn xa Ba-Lê lắm. Chúng tôi phải khởi hành, trên những con đường tuyết phủ, lặn lội từ sáng đến chiều, gió bắc hắt vào mặt mũi không lúc nào ngớt.

Những độ đường dài làm sao! Ông Vỹ-Tiên đi đầu, tôi đi giữa, Lãnh-Nhi đi sau. Chúng tôi đi nối đuôi nhau, cái đuôi ngắn ngủn, chẳng ai nói với ai câu nào, im lặng đi hàng giờ, mặt mét xám xanh, chân dẫm tuyết, dạ dày rỗng không. Những khách qua đường thường dừng lại nhìn theo chúng tôi.

Chắc họ cũng lấy làm lạ: không biết ông già đưa đứa bé và con chó đi đâu?

Sự yên lặng làm tôi buồn quá, tôi cần nói cho quên đường dài, cho khuây khỏa. Nhưng thầy tôi chỉ trả lời tôi bằng một hai tiếng cụt ngủn mà cũng chẳng thèm ngoảnh đầu lại.

May có con Lãnh-Nhi, con vật nhiều tình cảm, thỉnh thoảng lấy lưỡi liếm vào tay tôi như bảo tôi rằng:

- Anh nên biết, còn có Lãnh-Nhi đây là bạn của anh.

Tôi lại vừa đi vừa lấy tay xoa đầu nó.

Tôi và Lãnh-Nhi đều thấy phấn khởi: chúng tôi hiểu nhau và mến nhau. Nó nương tựa tôi, tôi nương tựa nó, tinh thần chúng tôi ấp ủ cho nhau vì trái tim con chó không kém phần cảm xúc bằng trái tim một đứa trẻ con.

Nhờ sự vuốt ve của tôi, con Lãnh-Nhi cũng quên được cái chết của các bạn nó. Nhưng đôi khi, theo thói quen, tự nhiên nó đứng dừng lại như để duyệt lại bạn đồng đội khi nó còn làm Đội trưởng. Nhưng trong một vài giây, nó sực nhớ ra cái lý do mà bạn nó không bao giờ đến nữa, nó liền vượt lên trước chúng tôi, quay lại nhìn chủ để chủ chứng nhận cho rằng không phải lỗi tại nó không làm hết bổn phận. Sở dĩ Thùy-Nhi, Hiệp-Nhi không đến là vì chúng không bao giờ đến nữa. Nó nhìn ông Vỹ-Tiên bằng đôi mắt đầy ý nghĩa hơn là lời nói, khiến chúng tôi mủi lòng.

Khắp đồng quê chỗ nào cũng thấy trắng xóa một màu. Mặt trời không có, chỉ có một thứ ánh sáng xanh xao. Không trông thấy nông dân hoạt động ở ngoài đồng. Không nghe thấy tiếng ngựa hí, bò kêu. Trên cành trơ trụi, chỉ còn mấy con quạ quàng quạc kêu vì không có một chỗ đất nào có thể xuống được để kiếm mồi. Trong làng không có nhà nào mở cửa sổ, im lặng như tờ vì trời rét người ta ở cả trong nhà, bên cạnh lò lửa hay làm việc trong chuồng bò, trong vựa thóc.

Đường trơn như mỡ, chúng tôi đi thẳng trước mặt không dừng, chỉ nghỉ trong những giấc ngủ ban đêm ở các chuồng ngựa hay trại cừu. Bữa ăn chiều thường chỉ có một khoanh bánh mỏng, có khi kiêm cả bữa sáng và bữa tối.

Đêm xuống, gặp một trại cừu thì sung sướng biết bao. Hơi nóng của cừu ủ cho chúng tôi đỡ rét, mùa đó là mùa cừu cái nuôi con, những người chăn cừu thường cho tôi uống sữa cừu.

Vẫn giữ giá, chúng tôi không hề tỏ ra là sắp chết đói. Ông Vỹ-Tiên, một người rất khôn khéo thường tán với người coi cừu rằng: “Cháu Minh thèm sữa cừu lắm vì thuở bé quen dùng sữa cừu và được uống thì nó tưởng tượng như là ở quê nhà”. Câu ngụ ngôn này không phải là lúc nào cũng có hiệu quả. Nhưng một khi có hiệu quả thì tôi thấy tôi thèm sữa cừu thực và khi được uống, tôi thấy sáng hôm sau trong người rất khoan khoái và khỏe hẳn lên.

Những cây số thêm vào những cây số. Những độ đường thêm vào những độ đường. Dần dà chúng tôi tới gần Ba-Lê. Tuy rằng những cột bên đường không đề rõ, nhưng tôi đoán được vì sự lưu thông thấy sầm uất hơn và sắc tuyết trên đường cũng thấy bẩn hơn, không trắng ngần như ở bình nguyên Champagne.

Có điều tôi lấy làm lạ là cảnh quê không thấy đẹp hơn mà làng mạc cũng chẳng khác những miền mà chúng tôi đi qua mấy hôm trước. Đã bao lần tôi nghe nói Ba-Lê có nhiều kỳ quan, óc thơ dại của tôi cứ tưởng tượng rằng những kỳ quan đó tất báo trước bằng những cái gì khác thường. Tôi không dám hỏi thầy tôi. Nhưng tôi cố đợi xem những điều kỳ diệu như cây cối bằng vàng, ngọc, lâu đài bằng đá hoa, phục sức nhung gấm lụa là, mà tôi cho là tất nhiên phải có.

Dù để hết tinh thần tìm những cây vàng ngọc, tôi cũng nhìn thấy những khách đi đường gặp chúng tôi mà chẳng để mắt tới chúng tôi, chắc hẳn họ vội vã hoặc họ quen nhìn những cảnh khổ hơn cảnh thầy trò tôi.

Tôi chẳng chắc dạ chút nào!

Chúng tôi sẽ làm gì ở Ba-Lê, nhất là đang ở trong cảnh cùng khốn này?

Đó là một câu hỏi rất buồn mà nó cứ lẩn quất trong óc tôi suốt quãng đường trường.

Tôi định hỏi thầy tôi song lại thôi vì thấy thầy tôi ủ rũ và nói rất ít.

Rồi có một hôm, ông Vỹ-Tiên thân mật ngồi cạnh tôi, trông con mắt của ông, tôi đoán sắp được thỏa mãn những điều băn khoăn trong lòng tôi.

Đó là một buổi sáng, sau khi ngủ nhờ trong một cái trại thuộc một làng to, theo chiếc biển xanh cắm ở cạnh đường thì gọi là làng Boissy, chúng tôi dậy sớm và lên đường vào lúc rạng đông. Khi đi hết địa phận làng này, đứng trên một cái dốc, chúng tôi nhìn về phía trước mặt, xa xa có một đám khói đen bay là là trên một thành phố lớn.

Tôi cố phân biệt những mái lâu đài, những gác chuông, những ngọn tháp trong đám khói đen lẫn sương mù ấy, chợt thầy tôi đi chậm lại, đợi tôi đến gần và nói như là tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở:

- Thế là đời chúng ta thay đổi hẳn. Trong 4 giờ nữa chúng ta đến Ba-Lê.

- A! Thế Ba-Lê ở trước mặt kia à?

- Phải.

Chợt một tia sáng trên trời chớp xuống, tôi nhìn thấy lấp lánh như vàng. Nhất định tôi không lầm. Tôi sắp được xem những cây cối bằng vàng, bằng ngọc.

Thầy tôi nói tiếp:

- Tới Ba-Lê thầy trò ta phải lìa nhau.

Vụt tối lại. Cây cối vàng ngọc biến hết.

Tôi quay lại nhìn thầy tôi, thầy tôi cũng nhìn tôi. Thấy sắc mặt tôi xám lại, môi tôi run run; thầy tôi biết có mối xúc động lớn trong lòng tôi, nên bảo tôi:

- Ta biết con buồn lắm. Thầy đây cũng khổ tâm.

Tôi kêu:

- Trời ơi! Thầy trò chia lìa!

- Con ơi!

Hai tiếng nói bằng giọng đầy yêu thương làm cho tôi rỏ nước mắt, vì đã lâu không được nghe những lời âu yếm đó.

Tôi kêu:

- Thầy ơi! Thầy tốt quá!

- Chính con tốt, là đứa trẻ tốt, một trái tim đảm! Con ơi! Ở trong đời, nên có những lúc để tỏ những tâm tình đó, để thông cảm nhau và thương yêu nhau. Khi mà mọi việc đều hay, người ta cứ bước thẳng đường không cần nghĩ đến những kẻ đi sau. Nhưng khi mọi việc đều thất bại, khi người ta thấy đang xuống dốc, nhất là khi người ta thấy mình già yếu, nghĩa là không có tin tưởng vào ngày mai, người ta cần phải nương tựa vào những người ở chung quanh và người ta rất sung sướng thấy họ đến cạnh mình. Ta cần nương tựa vào con, điều đó có phần làm cho con lạ, phải không? Nhưng chính sự thực là như thế. Những giọt nước mắt của con đã chứng minh điều đó. Ta thấy lòng ta nhẹ nhàng, vì ta, con ơi! Ta cũng đau khổ.

Mãi về sau này, tôi có người để yêu thương, tôi mới biết và cảm thấy lời cụ già nói không sai.

Ông Vỹ-Tiên nói tiếp:

- Cái họa phân ly nó thường đến đúng lúc người ta cần phải gần nhau.

Tôi rụt rè nói:

- Nhưng thầy không định bỏ con ở Ba-Lê chứ?

- Không con ạ. Ta không muốn bỏ con. Con hãy tin như thế. Một mình con, còn bé thế, con làm gì được ở Ba-Lê? Vả lại ta không có quyền bỏ con, có thể nói được như thế. Từ ngày mà ta không thể cho bà Mỹ-Lưu giữ để nuôi dạy con như con đẻ, ta thấy có bổn phận phải đem hết sức mình chăm nom và gây dựng cho con. Không may, những biến cố đã phản ta. Trong lúc này ta không thể làm gì cho con được, vì thế ta nghĩ đến nước phải chia tay con nhưng không phải là vĩnh viễn, mà chỉ trong một thời gian vài tháng thôi để thầy trò ta mỗi người một ngả có thể tìm sống cho qua mùa đông này. Chúng ta sẽ đến Ba-Lê trong vài giờ. Chúng ta sẽ làm trò gì với đoàn của ta rút lại còn có một con Lãnh-Nhi?

Nghe nhắc tới tên nó, con Lãnh-Nhi lại gần chúng tôi, lấy tay giơ lên ngang tai để chào theo kiểu nhà binh rồi đặt tay vào ngực ý nói chúng tôi hãy tin vào lòng trung thành của nó.

Trong tình trạng bi đát của chúng tôi, lòng trung nghĩa của con Lãnh-Nhi cũng không sao làm cho chúng tôi nguôi được.

Ông Vỹ-Tiên ngừng một lúc để xoa đầu con chó và bảo nó:

- Còn con nữa, Lãnh-Nhi! Con cũng là một con vật đảm. Ở đời người ta không thể chỉ sống về lòng tốt được. Đành rằng lòng tốt cũng cần phải có, để tạo hạnh phúc cho những người ở chung quanh ta, nhưng ngoài lòng tốt ra ta cần phải có điều khác. Mà điều khác ấy ta không có. Con muốn ta làm trò gì với một mình Lãnh-Nhi? Bây giờ chúng ta không thể diễn trò được nữa. Con có hiểu không?

Lãnh-Nhi gật đầu như có ý nói:

- Thực vậy.

Ông Vỹ-Tiên nói tiếp:

- Những trẻ ranh sẽ chế nhạo ta, lấy những miếng khoai ném chúng ta. Chúng ta không thể thu được 20 xu một ngày, đủ nuôi thế nào được 3 miệng ăn. Rồi những ngày mưa gió, những ngày tuyết giá kiếm đâu ra tiền?

Tôi nói:

- Nhưng còn cái đàn của con?

- Nếu ta có hai đứa trẻ như con thì may ra đứng vững được. Nhưng một ông già với một đứa bé con thì khó khăn lắm. Ta không đến nỗi già lắm. Nếu ta già yếu hơn nữa hay ta mù chẳng hạn… nhưng không may ta lại còn khỏe, nghĩa là không ở vào cái tình trạng gợi lòng thương của mọi người, và ở Ba-Lê này, muốn được lòng thương hại của những người có công việc vội vã, phải có một bộ dạng tiều tụy, thiểu não và không biết xấu hổ chìa tay xin. Điều đó ta không thể làm được. Phải tìm cách khác. Vì thế ta đã nghĩ và định gửi con cho một ông thầy diễn trò để con cùng với các trẻ khác biểu diễn nghề đàn.

Khi tôi nhắc đến cây đàn của tôi không phải là tôi mong được như thế.

Thầy tôi không để tôi ngắt lời, nói tiếp:

- Về phần ta, ta dạy thụ cầm, đàn pi-va, đàn vi-ô-lông cho những trẻ người Ý đang làm nghề hát rong ở các phố Ba-Lê. Ở Ba-Lê nhiều người biết ta vì ta ở đó đã lâu, và chính từ Ba-Lê ta đã về qua làng con. Chúng ta đều sống được tuy thầy trò ta ở mỗi người một nơi. Trong khi ta dạy đàn, ta có thể luyện thêm cho hai con chó nữa để thay cho con Hiệp-Nhi và Thùy-Nhi. Ta sẽ cố gắng việc rèn luyện đó cho đến đầu mùa xuân, thầy trò ta lại có thể lên đường, con ơi! Để không phải xa nhau nữa, vì cái số phận không xấu mãi cho những người có can đảm phấn đấu. Chính bây giờ là lúc ta cần con có can đảm và nhẫn nại nữa. Rồi ra cũng đến ngày sáng sủa. Ta chỉ phải chịu đựng trong một thời gian ngắn thôi. Đến mùa xuân, chúng ta lại trở về đời tự do của chúng ta. Ta sẽ đưa con sang Đức, sang Anh. Bấy giờ con đã lớn và trí con đã mở rộng. Ta sẽ dạy con nhiều điều và làm cho con thành người. Ta đã cam đoan trước mặt bà Mỹ-Lưu điều đó, ta sẽ giữ lời. Vì cốt đưa con đi các nước nói trên, nên ta chả đã bắt đầu dạy con học tiếng Anh, Pháp và Ý đấy ư? Với tuổi con, được như thế là khá lắm không kể sức khỏe của con. Coi đó, con ơi! Ta sẽ không đến nỗi mất cả.

Cái giải pháp đó có lẽ sẽ thích hợp với hiện tình của chúng tôi. Ngày nay mỗi khi tôi nghĩ đến, tôi nhận thấy thầy tôi đã khổ tâm lắm mới nghĩ được lối thoát đó. Nhưng ngày ấy, tôi lại nghĩ khác.

Qua lời thầy tôi nói, tôi trông thấy hai điều: sự chia ly và ông thầy diễn trò.

Trong những cuộc lữ hành của chúng tôi qua các làng và các tỉnh tôi thường gặp những ông thầy diễn trò dắt những trẻ con – mà các ông ấy đã mộ tập ở các nơi – đi diễn trò và đánh đập rất tàn nhẫn.

Họ không được như ông Vỹ-Tiên. Toàn là những hạng người độc ác, bất công, khó tính, rượu chè, lúc nào cũng cầm roi. Tôi rất có thể sa vào tay một người trong bọn đó.

Nếu sự ngẫu nhiên đưa tôi vào cửa tử tế, thì lại là một sự thay đổi.

Sau bà mẹ nuôi tôi, đến ông Vỹ-Tiên, sau ông Vỹ-Tiên đến một người khác.

Có phải cứ bắt thay đổi mãi thế không?

Có phải tôi không bao giờ tìm được người để kính yêu suốt đời?

Tình thâm mỗi ngày một nảy nở đã khiến tôi coi ông Vỹ-Tiên như cha tôi.

Như vậy, không bao giờ tôi có cha ư?

Cứ phải trơ trọi suốt đời hay sao?

Cứ phải lưu lạc trên cõi đất này không bao giờ tìm được một chỗ dừng chân?

Tôi có nhiều câu để nói với thầy tôi, những lời đó phát tự đáy lòng lên tới miệng tôi, nhưng tôi phải nén xuống.

Thầy tôi đòi hỏi tôi phải can đảm và nhẫn nại, tôi phải nghe lời và không dám tăng nỗi đau khổ của thầy tôi.

Vả lại thầy tôi cũng không đứng cạnh tôi nữa. Có lẽ thầy tôi sợ phải nghe những câu sắp nói mà thầy tôi đã đoán được, nên thầy tôi bước vội lên trước cho cách xa tôi.

Tôi lẳng lặng theo thầy tôi. Không mấy lúc chúng tôi đến một bờ sông con, qua một cái cầu đầy bùn, tuyết đen như trộn than, lội đến mắt cá chân.

Đầu cầu là một làng có những phố hẹp. Qua làng đó đến một miền quê chen chúc những cửa nhà tiều tụy.

Trên đường, xe cộ ngược xuôi như mắc cửi. Tôi phải đi sát cạnh thầy tôi về bên tay trái, còn con Lãnh-Nhi cắm đầu theo gót chúng tôi.

Không bao lâu đi hết miền quê vào một đường phố mà không nhìn thấy đầu phố đâu. Hai bên, xa xa có nhiều nhà, nhưng những nhà nghèo nàn và bẩn thỉu, không được như những nhà ở Boóc-Đô, Tu-lu và Ly-Ông.

Tuyết đã hốt thành từng đống ở bên vệ đường. Trên những đống tuyết đen và rắn đó, người ta vứt nào tro nào rau úa cùng đủ thứ rác rưới. Không khí sực mùi hôi thối.

Trẻ con chơi ở trước cửa, đứa nào cũng xanh xao. Thỉnh thoảng có những xe ngựa chở nặng đi qua, chúng tránh rất lẹ và chẳng e ngại gì.

Tôi hỏi thầy tôi:

- Đây là đâu thầy?

- Ba-Lê, con ạ.

Ba-Lê…

Đây là Ba-Lê, có tin được không?

Vậy thì những nhà cửa bằng đá hoa của tôi đâu?

Những thị dân y phục nhung gấm lụa là đâu?

Mới biết sự thực vẫn xấu và tồi tàn!

Có phải kia là Ba-Lê mà tôi hằng mơ ước được để chân đến không?

Than ôi! Phải đó. Chính nơi đó mà tôi sắp phải ở cho qua mùa đông, mà tôi sắp phải chia tay ông Vỹ-Tiên, thầy tôi và Lãnh-Nhi, bạn tôi.

Chương XVII

ông thầy diễn trò ở phố lục-sinh

Mặc dầu cảnh tượng ghê tởm, tôi cứ giương mắt, quên cả cái cảnh huống trầm trọng của tôi, nhìn khắp chung quanh.

Càng đi sâu vào, tôi càng thấy mọi thứ trái hẳn với hình ảnh mà tôi đã mơ tưởng và hy vọng. Những rãnh nước đông đặc. Bùn lẫn tuyết biến thành màu đen. Chỗ nào tuyết lỏng, mỗi khi xe đi qua, bắn lên từng mảng dính vào tủ hay cửa kính các hiệu tạp hóa xơ xác, tồi tàn.

Tôi nghĩ Ba-Lê không bằng Boóc-Đô.

Qua phố này chúng tôi đến một phố rộng hơn, càng đi càng thấy các hiệu buôn và nhà cửa đẹp hơn, sạch sẽ hơn. Chúng tôi rẽ vào một ngõ bên tay phải. Những nhà đen và cao như chụm đầu vào nhau. Rãnh nước chảy giữa đường. Những đám đông đi lại trên hè rất thản nhiên, không để ý đến mùi hôi hám ở rãnh đưa lên. Mặt người nào trông cũng xanh xao. Bạo nhất là những trẻ con xông xáo đi lại giữa những đám đông người. Những quán rượu huyên náo hơn cả, đàn ông, đàn bà đứng trước cái quầy bằng kẽm uống rượu và cười nói rất to.

Trên một bức tường, tôi đọc thấy tên phố là Lục-sinh.

Thầy tôi biết lối đi, lách qua những đám người ngổn ngang trước mặt. Tôi theo sát đằng sau.

Thầy tôi bảo tôi:

- Khéo khỏi lạc!

Lời dặn đó hơi thừa, vì không những tôi theo sát gót mà còn bám vào áo thầy tôi nữa.

Sau khi qua một cái sân rộng, chúng tôi vào một cái hẻm tối tăm; hình như mặt trời không lọt vào đây bao giờ, tôi ghê cả người.

Thấy một người đàn ông đang soi đèn và mắc những miếng giẻ rách vào vách, thầy tôi hỏi:

- Ông Phú-Lợi có nhà không?

- Tôi không biết. Ông cứ lên tầng gác thứ tư. Vào cái cửa ngay đầu thang gác.

Chúng tôi lên những bực thang dầy cộm những đất vừa bẩn vừa trơn. Thầy tôi vừa lên thang vừa bảo tôi:

- Phú-Lợi là ông thầy diễn trò mà ta đã nói chuyện với con. Nhà ông ấy ở đây.

Ôi! Phố ấy, nhà ấy, thang ấy làm cho tôi nản lòng. Không biết ông chủ sẽ là người thế nào?

Lúc tới nơi, thầy tôi không gõ, mở luôn cái cửa quay ra cầu thang. Chúng tôi nhìn thấy một căn rộng, như một vựa lúa, giữa nhà để không. Chung quanh có 12 cái giường con. Tường và trần phủ một màu không biết là màu gì, sắc trắng trước kia đã bị khói ám và đủ thứ bụi bẩn dính vào thành đen, nhiều chỗ tường lở, sâu hoắm vào. Lại có vẽ cả cái đầu người bằng than, bên cạnh khắc những bông hoa, những con chim.

Thầy tôi vừa bước vào vừa hỏi:

- Ông Phú-Lợi đâu? Nhà không có ai cả à? Tối quá, ông ở chỗ nào? Tôi đây, Vỹ-Tiên đến thăm ông đây!

Nhờ ánh đèn dầu treo ở tường, người ta nhìn thấy phòng không. Nhưng có tiếng yếu đuối của một đứa trẻ vọng ra:

- Ông Phú-Lợi đi vắng, độ hai giờ nữa mới về.

Ngay lúc đó, đứa trẻ trả lời chúng tôi đã hiện ra. Đó là một đứa trẻ độ mười tuổi, nó bước lò dò đến chỗ chúng tôi. Có thể gọi đó là một quái thai. Nó như không có chân, một cái đầu to tướng đặt trên bộ chân khẳng khiu trông như trong một bức tranh hài hước. Đầu nó hình như chứa nhiều đau khổ, mặt biểu lộ một sự chịu đựng vô bờ. Người nó như thế nên trông rất xấu. Nhưng đôi mắt hiền lành của nó làm cho người ta phải thương và cái miệng của nó trông đáng yêu.

Thầy tôi hỏi:

- Có thực hai giờ nữa ông Phú-Lợi về không?

- Thưa ông, đúng, vì là bữa ăn, và bao giờ ông ấy cũng phải trông nom lúc ăn.

- Vậy nếu ông ấy về sớm thì em nói có ông Vỹ-Tiên sẽ trở lại trong hai giờ.

- Trong hai giờ, thưa ông vâng.

Tôi định theo thầy tôi ra thì thầy tôi bảo:

- Con ở lại đây nghỉ ngơi, lát nữa thầy sẽ trở lại.

Dù tôi mỏi mệt tôi cũng muốn theo thầy tôi, nhưng khi thầy tôi ra lệnh, bao giờ tôi cũng phải vâng lời. Tôi ở lại.

Khi không nghe thấy tiếng chân nặng nề của thầy tôi xuống thang nữa, đứa trẻ ghé tai ra cửa nghe ngóng rồi quay lại hỏi tôi bằng tiếng Ý:

- Anh ở quê lên đấy chứ?

Thầy tôi có dạy tôi ít nhiều tiếng Ý, tuy không nói được nhưng nghe tôi hiểu. Tôi trả lời bằng tiếng Pháp:

- Không.

Đứa trẻ nhìn tôi một cách buồn rầu rồi nói:

- Nếu anh ở quê lên thì hay quá.

- Quê nào?

- Làng Lục-ca. Nếu anh ở làng đó, tôi sẽ được nhiều tin tức.

- Tôi là người Pháp.

- A! Thế thì may đấy!

- Anh thích người Pháp hơn người Ý?

- Không. Tôi nói “may” không phải là cho tôi, mà cho anh vì nếu anh là người Ý đến đây tất để ở cho ông Phú-Lợi. Mà đã ở cho ông thầy diễn trò này thì không bao giờ gọi là “may” được.

Câu này làm cho tôi lo lắng. Tôi hỏi:

- Ông ấy ác lắm sao?

Đứa trẻ không trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, nhưng cái nhìn của nó đã là một lời đáp rất hùng hồn. Rồi như không muốn nói về vấn đề ấy nữa, nó quay đi và đến chỗ bếp ở đầu nhà.

Những củi bằng thứ gỗ cũ đang bốc cháy trong lò. Một cái nồi lớn bằng gang đang sôi.

Tôi lại gần bếp để sưởi. Tôi trông thấy cái nồi kỳ quá. Vung nồi một bên có bản lề, một bên có khóa, khóa vào miệng nồi. Trên vung có gắn một cái ống nhỏ để dẫn hơi. Tôi vẫn biết không nên trống trải hỏi về chuyện ông Phú-Lợi, nhưng về cái nồi…

- Tại sao nồi lại có khóa?

- Để cho tôi khỏi ăn vụng. Tôi giữ việc nấu súp mà thầy tôi thì không tin tôi.

Tôi không thể nhịn cười được.

Đứa bé buồn rầu nói tiếp:

- Anh cười vì anh tưởng tôi có tính tham ăn. Nhưng nếu anh ở địa vị tôi anh cũng sẽ làm như thế. Tôi không tục ăn, nhưng tôi đói, mùi thơm của súp ở ống đưa ra làm cho cái đói hành hạ cực khổ.

- Vậy ông Phú-Lợi để anh chết đói à?

- Nếu anh ở đây với ông Phú-Lợi, anh biết người không chết đói nhưng người ta đau đớn vì đói. Tôi chịu đau đớn đã nhiều vì tôi bị phạt.

- Bị phạt! Nhịn ăn?

- Phải đó. Tôi nói thêm cho anh biết. Nếu ông Phú-Lợi là chủ anh, cái gương của tôi sẽ có ích cho anh. Ông Phú-Lợi là chú tôi và ông đã làm phúc đem tôi về nuôi. Mẹ tôi góa, anh có thể đoán được là không giàu có gì. Năm ngoái chú tôi về quê để mộ tập trẻ con, chú tôi bảo mẹ tôi nên cho tôi đi. Điều này làm cho mẹ tôi buồn lắm. Nhưng, cảnh huống phải thế, biết làm thế nào. Nhà tôi có 6 anh em mà tôi là lớn nhất. Chú tôi muốn bắt đứa em liền tôi là Mã-Đô vì em tôi đẹp trai, còn tôi thì xấu xí. Và muốn kiếm tiền, không được xấu, những kẻ xấu chỉ được ăn roi và những lời chủ mắng. Nhưng mẹ tôi không ưng cho em Mã-Đô đi và nói: “Mã-Tư là con cả, Mã-Tư phải đi. Nếu phải bớt một đứa thì trời đã định thế, tôi không dám trái lệnh trời”. Thế là tôi phải đi theo chú tôi. Anh tưởng tượng xem nỗi phân ly của chúng tôi. Mẹ tôi thương con khóc, em Tuyết-Nga cũng khóc vì nó bé nhất được tôi bế ẵm luôn. Rồi các em tôi, bạn tôi và người quen kẻ thuộc cũng buồn.

Nghe Mã-Tư tả, tôi lại nhớ lại ngày tôi phải xa lìa quê tôi và cố nhìn theo cái mũ vải trắng của mẹ nuôi tôi.

Mã-Tư nói tiếp:

- Lúc ra đi chỉ có một mình tôi theo chú tôi thôi, Nhưng tám hôm sau, chúng tôi thành 12 đứa và được đưa về Ba-Lê. Chao ôi! Đường dài biết là bao nhiêu! Cũng như tôi, các bạn tôi đều buồn. Sau cùng, tới Ba-Lê, thì chỉ còn 11 đứa vì một người trong bọn chúng tôi bị ốm ở dọc đường và đưa vào Nhà Thương Dijon. Đến Ba-Lê người ta chọn chúng tôi ra từng loại: đứa nào khỏe mạnh thì cho đi ở với những thợ quét lò sưởi hay thợ thông ống khói bếp, đứa nào không có sức để làm nghề thì đi hát hay đánh đàn rong ở các phố. Còn tôi, tôi yếu ớt không làm nghề được mà lại xấu người, đi đánh đàn cũng không ăn thua. Vì thế Phú-Lợi cho tôi hai con chuột bạch để đi làm trò ở các hè, cùng ngõ và mỗi ngày phải nạp thuế cho ông 30 xu. Ông bảo tôi: “Thiếu mỗi xu là một roi”. Kiếm tiền đã khổ mà những ngọn roi còn khổ hơn, nhất là những khi chính tay Phú-Lợi đánh. Tôi hết lòng hết sức để kiếm đủ số tiền đó, nhưng thường thất bại luôn. Những bạn tôi phần nhiều hôm nào về cũng đủ tiền. Riêng tôi, tôi chẳng đủ bao giờ. Điều này làm cho Phú-Lợi tức giận thêm và quát: “Thằng ngu này không hiểu cả ngày nó làm gì?”. Có một đứa khác cũng đi diễn chuột bạch như tôi bị đánh thuế 40 xu mà chiều nào về cũng đủ. Nhiều lần tôi theo nó để học mánh khóe và tôi hiểu tại sao nó kiếm 40 xu dễ dàng mà tôi kiếm 30 xu lại khó. Khi một ông hay một bà nào cho tiền chúng tôi thì y như bà đó cũng nói: “Cho thằng bé xinh kia, không cho thằng khỉ”. Thằng khỉ là tôi. Từ đó tôi không đi chung với bạn tôi nữa, vì chịu 30 roi đòn ở nhà cũng khổ, nhưng để người ta riễu mình là xấu trước mặt mọi người còn đau khổ hơn. Anh, anh không thấu được cảnh đó vì không ai bảo anh xấu bao giờ, còn tôi… Sau cùng, Phú-Lợi thấy dùng roi vọt không hiệu quả liền dùng cách khác và bảo tôi: “ Mỗi xu mày thiếu ta sẽ bớt một củ khoai bữa tối, da mày dạn roi rồi, ta xem dạ dày mày phải mềm vì đói không?”. Những lời dọa đối với anh có hiệu quả không?

Tôi đáp: Còn tùy.

- Tôi thì chịu. Tôi không thể làm hơn được. Chả nhẽ đi chìa tay xin và nói: “Nếu ông hay bà không bố thí cho tôi một xu, thì bữa tối tôi phải bớt một củ khoai” à? Người ta cho tiền trẻ con không phải vì những lẽ đó.

- Thế vì lẽ gì? Người ta thường cho để làm vui lòng…

- A! Anh còn ngây thơ quá! Trước hết người ta cho để làm vui lòng cho chính người ta. Người ta cho bởi vì đứa trẻ xinh đẹp, lý do này đúng hơn cả. Người ta cho vì có một đứa con đã mất hay người ta muốn có một đứa con. Người ta cho vì người ta ấm mà đứa trẻ rét run ở xó đường, đó là lòng thương. Tôi biết tất cả những loại bố thí đó vì tôi đã có nhiều kinh nghiệm. À! Hôm nay trời rét quá, phải không anh?

- Rét lắm.

- Vậy anh thử ra ngồi dưới một hiên nhà kia chìa tay xin một ông vận áo bành-tô bước vội vàng qua mặt anh, anh sẽ bảo tôi biết ông ta cho anh bao nhiêu; trái lại, anh chìa tay xin một ông ấm áp trong áo ba-đờ-suy hay áo lông cừu đi tản bộ gần anh, may ra anh được một hào bạc trắng. Sau một tháng hay sáu tuần lễ tôi theo quy định ăn uống đó, người tôi không còn béo nữa. Da tôi xanh lướt đi đến nỗi tôi nghe chung quanh có những tiếng kêu: “Thằng bé này sắp chết đói”.

Lúc bấy giờ, những người trong phố trông thấy cũng thương tình. Hôm nào tôi không kiếm được nhiều xu, thì tôi lại kiếm được, khi thì mẩu bánh, khi thì đĩa súp. Những ngày đó là những ngày tươi sáng của tôi. Tôi không phải đòn và nếu tôi bị bớt phần khoai tôi cũng chẳng cần vì đã có cái gì để ăn. Không may một hôm Phú-Lợi bắt gặp tôi đang ăn đĩa súp ở nhà bà bán hoa quả, biết tại sao tôi nhịn được khoai không phàn nàn. Bấy giờ ông ta mới cấm tôi ra ngoài và bắt ở nhà dọn dẹp và nấu súp. Nhưng cho tôi nấu súp lại sợ tôi ăn vụng, ông ta mới sáng chế ra cái nồi có khóa. Sáng nào cũng thế, trước khi ông ta đi, ông ta bỏ thịt và rau vào nồi, đậy nắp và khóa lại. Tôi chỉ việc ninh rừ và được ngửi mùi nước dùng thôi. Còn như múc ra, anh cũng biết, không làm sao được vì cái ống hẹp quá. Mùi súp không nuôi sống người chỉ tổ làm đói thêm. Có phải trông tôi xanh lắm không? Vì tôi không được ra ngoài, không ai bảo cho tôi biết và ở đây cũng không có gương soi.

Tôi không có óc kinh nghiệm, nhưng tôi cũng biết không nên bảo thật người ốm để người ta sợ. Tôi đáp:

- Anh không đến nỗi xanh hơn người khác.

- Anh nói thế để tôi yên tâm, tôi biết, nhưng tôi rất thích xanh xao có nghĩa là ốm. Tôi muốn ốm lắm anh ạ.

Tôi kinh ngạc nhìn anh. Anh cười và nói:

- Anh lấy làm lạ, nhưng rất dễ hiểu. Khi một đứa trẻ ốm, người ta sẽ chữa cho nó hay để nó chết. Nếu người ta cho tôi chết. Tôi thích lắm, vì không phải nhịn đói không phải đánh đòn. Rồi những người chết sẽ được lên trời. Ở trên trời, tôi sẽ nhìn thấy mẹ tôi ở quê nhà và tôi cầu xin với Thượng-Đế, người sẽ phù hộ cho em Tuyết-Nga khỏi khổ sở. Nếu trái lại, người ta chữa cho tôi, thì người ta sẽ cho tôi đi Nhà Thương. Tôi thích đi Nhà Thương lắm, anh ạ.

Chính tôi, tôi có cái thành kiến sợ Nhà Thương. Nhiều lần ở dọc đường tôi mệt quá, nhưng nghĩ đến Nhà Thương thì tôi lại sợ mà tự nhiên thấy tỉnh táo và quên mỏi. Nay thấy Mã-Tư nói vậy, tôi rất lấy làm lạ.

Mã-Tư nói tiếp:

- Anh chưa biết, ở Nhà Thương dễ chịu biết nhường nào! Tôi đã ở đó, Nhà Thương Thánh Ơ-giê-ni. Ở đây có một ông thầy thuốc to lớn; da hơi vàng, lúc nào trong túi cũng có kẹo, thứ kẹo vừng rẻ tiền nhưng cũng không kém ngon. Rồi những bà phước ăn nói dịu dàng: “Em đã bớt chưa? Em thè lưỡi xem, em chịu khó uống thuốc đi!”. Tôi thích người ta nói dịu dàng với tôi vì như thế làm cho tôi muốn khóc. Khi tôi muốn khóc thì tôi thấy dễ chịu. Thế có gàn không, anh? Những bà phước cũng nói dịu dàng như mẹ tôi. Tuy không cùng một tiếng nói nhưng cùng một điệu nhạc. Rồi khi bắt đầu đỡ thì được ăn canh thịt, ăn trứng tráng. Bây giờ tôi thấy sức yếu và không được ăn, tôi rất sung sướng và tự nhủ: “Ta sắp ốm và Phú-Lợi sẽ cho ta vào Nhà Thương”. Nhưng bệnh tôi chỉ đủ làm cho tôi đau đớn không đủ để cho Phú-Lợi bận tâm; nên Phú-Lợi còn giữ tôi. Thực là cực khổ. Còn may là Phú-Lợi không bỏ thói đánh tôi và các bạn tôi. Ấy đã 8 hôm nay, ông ta đã giáng một ba-toong vào đầu tôi. Lần này tôi ăn chắc. Đầu tôi sưng lên, anh xem cái bướu trắng hãy còn đây. Hôm qua ông ta bảo tôi: đó là cái nhọt, tôi biết không phải là nhọt, vì đau buốt, nhức nhối hơn khi sưng mộng răng nhiều. Đầu tôi nặng như bị đá đè, lắm lúc choáng váng và tê dại. Ban đêm tôi không thể nhịn rên và kêu lên những tiếng đau đớn. Cứ tình trạng này chỉ trong vài ba hôm nữa là ông ta cho tôi vào nhà thương, vì anh hiểu một thằng nhãi kêu cả đêm thì ai mà ngủ được, nhất là Phú-Lợi tỏ ra rất khó chịu. Có phải phúc cho tôi đã được cái đòn nặng đó? Vậy anh cứ thật thà cho tôi biết có phải tôi trông xanh lắm không?

Nói xong anh lại ngồi trước mặt tôi và nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi không lẽ ngồi im. Tuy nhiên tôi không dám nói thực là mắt anh đỏ bừng, má anh hóp vào và môi anh nhợt nhạt làm cho tôi phải kinh hoàng. Tôi đáp:

- Tôi tin rằng anh đủ ốm để đi nhà thương.

- Thế thì tôi sung sướng quá!

Nói xong vừa lê chân vừa cố cúi xuống để cám ơn tôi. Rồi anh lại chỗ bàn để lau.

Anh nói:

- Tôi nói đã khá đủ rồi, Phú-Lợi sắp về mà chưa dọn dẹp gì được. Anh xem tôi đã đủ thương tích đi nhà thương rồi, không lẽ lại chịu khổ mà nhận thêm nữa.

Anh vừa nói vừa thất thểu đi chung quanh bàn đặt những đĩa ăn vào chỗ. Tôi đếm được 20 đĩa: thế có những 20 đứa trẻ ở cho Phú-Lợi mà tôi chỉ trông thấy có 12 cái giường, có lẽ chúng phải ngủ hai người một giường. Những giường mới thảm hại! Không có đệm, chỉ có những thứ khăn đỏ nhặt ở chuồng ngựa về, vì cũ nát không thể đắp cho ngựa được nữa.

- Ở đâu cũng như thế này à?

- Ở chỗ nào?

- Chỗ nuôi trẻ.

- Tôi không biết, vì có bao giờ tôi đi đâu. Nhưng anh, anh nên tìm chỗ khác.

- Chỗ khác ở đâu?

- Tôi không biết. Bất cứ chỗ nào, còn hơn đây.

Bất cứ chỗ nào, thực mơ hồ quá, nhưng bây giờ làm thế nào để cho ông Vỹ-Tiên thay đổi ý định được?

Tôi đang nghĩ, thì cánh cửa mở ra, một đứa trẻ bước vào, một tay xách đàn, một tay cầm thanh gỗ cũ gỡ được ở đâu. Miếng gỗ đó giống như những miếng đốt lò mà tôi nhìn thấy lúc mới vào. Tôi hiểu ngay Phú-Lợi đã kiếm gỗ đó ở đâu và giá nó thế nào.

Mã-Tư giơ tay và bảo đứa trẻ mới về:

- Mày đưa thanh củi cho tao.

Nhưng đứa trẻ giấu ở sau lưng và nói:

- Không được.

- Cho tao đun cho súp ngon thêm.

- Mày tưởng tao mang về nấu súp chăng? Hôm nay tao chỉ có 36 xu, tao dùng miếng củi này để thế 4 xu còn thiếu để khỏi phải đòn.

- Không thể thế bằng củi được. Mày phải trả bằng tiền. Mỗi người cần phải đòn một lượt chứ?

Mã-Tư nói một cách hung tợn hình như anh rất sung sướng thấy bạn sắp phải chịu hình phạt. Tôi lấy làm lạ sao lại có một luồng ác khí thoảng qua gương mặt rất hiền lành kia. Chính mãi về sau tôi mới hiểu ở với kẻ ác người ta sẽ trở nên ác.

Đã đến giờ các học trò của Phú-Lợi về. Sau đứa trẻ cầm củi, đến một đứa khác, rồi lục tục về mười đứa khác nữa. Mỗi đứa về đến nhà liền treo nhạc khí vào cái đinh ở chỗ giường mình, đứa này cái vĩ- cầm, đứa kia cái sáo, đứa khác cái thụ cầm hay cái đàn quay. Đứa nào không đi diễn trò thì đem nhốt như con vật vào chuồng.

Có tiếng giầy thình thịch lên thang, chắc là Phú-Lợi về. Tôi nhìn thấy một người nhỏ nhắn, mắt đỏ bừng, bước lảo đảo, không mặc kiểu Ý mà vận một cái bành-tô xám.

Phú-Lợi đưa mắt nhìn tôi trước nhất. Luồng mắt làm tôi lạnh cả người. Ông ta hỏi:

- Đứa này là đứa nào?

Mã-Tư vội trình bày việc ông Vỹ-Tiên đã dặn lại.

Phú-Lợi nói:

- A! Vỹ-Tiên về Ba-Lê. Ông ấy muốn gì ta?

Mã-Tư đáp:

- Con không được biết.

- Tao không hỏi mày, tao hỏi thằng bé kia.

Tôi không dám nói thực và đáp:

- Thầy tôi sắp trở lại. Thầy tôi muốn gì sẽ xin thưa chuyện cùng ông.

- A! Đây là một đứa trẻ biết thận trọng lời nói. Mày không phải người Ý.

- Tôi là người Pháp.

Lúc đó có hai đứa trẻ đến cạnh Phú-Lợi có ý đợi Phú-Lợi nói xong. Tôi không hiểu chúng đứng đấy để làm gì. Tôi được trả lời ngay về câu hỏi đó.

Một đứa nhấc mũ ông ta đem đặt nhẹ nhàng lên giường. Đứa kia nhắc ghế đến bên cạnh. Coi bộ quan trọng và lễ phép của chúng dành cho những việc rất tầm thường trên đời, người ta tưởng tượng như hai cậu bé giúp lễ bên cạnh Đức Cha tại một Nhà Thờ nào. Coi đó, người ta biết đám trẻ sợ hãi ông đến mực nào; chắc chắn không phải vì tình chủ thương chúng mà chúng có những cử chỉ ấy.

Khi Phú-Lợi đã an tọa, một đứa trẻ khác đem cái tẩu nhồi thuốc sẵn đến và đứa thứ tư đưa một que diêm đang cháy.

Ông ta cầm diêm ghé qua miệng tẩu rồi vứt luôn vào lò. Xong ông ta mắng:

- Đồ chó! Cái diêm còn sặc mùi thuốc!

Tội nhân vội vã đánh cái diêm khác và đợi cho cháy hết đầu thuốc rồi đưa lại cho chủ.

Nhưng ông chủ không nhận, đẩy nó ra và bảo:

- Không nhờ mày, đồ ngu!

Rồi ông ta quay lại vừa cười vừa bảo đứa khác, cái cười đó chắc là một sự ban thưởng rất quý báu:

- Cát-Độ, cho thầy chiếc diêm, con!

Cát-Độ vội vâng lời.

Khi điếu của ông ta đã bắt đầu cháy, ông vừa hút vừa bảo:

- Bây giờ các “công tử” ra tính toán cho tôi xem. Mã-Tư cầm sổ ra đây.

Phú-Lợi nói chưa dứt lời thì Mã-Tư đã cầm sổ ra đặt trước mặt chủ, một quyển sổ đầy ghét bẩn. Phú-Lợi ra hiệu, đứa trẻ đánh diêm vụng lúc nãy lại gần. Phú-Lợi hỏi:

- Hôm qua mày còn chịu 1 xu, mày khất đến hôm nay, vậy đã có đủ chưa?

Đứa trẻ ngập ngừng và tái mặt trước khi trả lời:

- Con thiếu 1 xu.

- Thiếu 1 xu là thế nào?

- Không phải một xu hôm qua mà là 1 xu hôm nay.

- Thế là 2 xu cả thảy. Không thấy đứa nào chầy như mày!

- Không phải lỗi tại con.

- Đừng nói lôi thôi. Mày đã biết luật. Cởi áo ra, hai roi nợ hôm qua, hai roi hôm nay và truất phần khoai của mày đi. Cát-Độ đâu, mày là đứa trẻ tốt, ta cho phép mày đánh, cầm roi ra đây.

Cát-Độ tháo ở tường ra một cái roi, cán ngắn, đầu có hai dây da dài kết thành những nút lớn. Trong lúc đó, đứa trẻ thiếu một xu cởi áo ngoài; tụt sơ-mi để trần đến ngang lưng.

Phú-Lợi cười gằn, bảo Cát-Độ:

- Thong thả đã. Nó không phải lẻ loi. Nó sẽ sung sướng có nhiều bạn. Mà mày cũng khỏi bận tay nhiều lần.

Những đứa trẻ im lặng đứng trước mặt chủ, nghe thấy câu khôi hài thâm độc đó, đều phải gượng cười.

Phú-Lợi nói:

- Đứa nào cười to nhất chắc là đứa thiếu nhiều nhất. Vậy đứa nào cười to nhất nào?

Mọi đứa chỉ về thằng bé về đầu tiên với thanh củi.

Phú-Lợi hỏi:

- Vậy mày còn thiếu bao nhiêu?

- Không phải lỗi tại con.

- Từ nay hễ đứa nào nói “không phải lỗi tại con” thì phải phạt thêm một roi nữa đấy. Mày còn thiếu bao nhiêu?

- Con đã mang về một thanh gỗ, thanh gỗ rất đẹp! Xin thầy coi.

- Cái này không đến nỗi vứt đi. Nhưng mày đem thanh củi này đến hàng bánh liệu họ có đổi cho mày tấm bánh không? Mày còn thiếu mấy xu, nói đi!

- Con kiếm được 36 xu.

- Còn thiếu 4 xu, đồ khốn nạn! Thiếu 4 xu thế mà mày còn dám vác mặt về. Cát-Độ, mày được dịp sướng tay nhá! Thằng này bỏ áo ra!

- Nhưng còn thanh củi của con.

- Mày được ăn bữa trưa.

Câu khôi hài vô duyên trên làm cho những đứa trẻ không bị phạt nhe răng cười.

Trong cuộc kiểm điểm của Phú-Lợi, mười đứa lần lượt đến nộp thuế. Trong số này có 3 đứa nữa không đủ tiền.

 Phú-Lợi gầm lên:

- Trời ơi! Năm thằng giặc này, chúng mày cướp tao, chúng mày bóc lột tao! Chỉ vì tao nhân nhượng quá. Nếu chúng mày không chịu làm việc thì tao lấy tiền đâu mua thịt, mua khoai cho chúng mày ăn? Chúng mày thích chơi, Chúng mày thích cười. Chúng mày thử nghĩ xem “chìa tay giả cách khóc” hơn hay “chìa lưng khóc thực” hơn? Cởi áo chúng nó ra!

Cát-Độ cầm roi đợi. Năm tội nhân xếp hàng đứng trước mặt nó.

Phú-Lợi bảo Cát-Độ:

- Mày biết rằng tao không muốn nhìn sự hành phạt, nó làm tao đau đớn, nhưng tao nghe được những tiếng roi mạnh hay yếu của mày. Mày phải tận tâm làm bổn phận. Mày làm việc vì bánh mì của mày đó. Nghe không?

Rồi ông ta quay vào lò, như là không dám nhìn cảnh máu rơi thịt nát. Còn tôi, tôi ngồi trong một xó, tôi run người vì phẫn uất và khiếp sợ. Con người ấy sắp thành chủ tôi đó. Nếu mỗi ngày tôi không kiếm nổi 30 hay 40 xu, tôi cũng phải giơ lưng cho Cát-Độ. A! Bây giờ tôi mới hiểu tại sao Mã-Tư lại mong chết. Tiếng roi quất lần thứ nhất làm cho tôi rơi nước mắt. Ngồi trong xó, tôi tưởng mọi người quên tôi nên tôi không nén xúc động, nhưng tôi đã nhầm. Phú-Lợi nhìn trộm tôi và tôi có chứng cớ ngay.

Ông ta lấy tay trỏ tôi và bảo với các học trò:

- Chúng mày hãy trông, kia là một đứa trẻ có lòng tốt. Nó không như chúng mày là đồ giặc cười cợt trước cái đau đớn của bạn và trước cái buồn của thầy. Nếu nó vào đây là bạn chúng mày, nó sẽ làm gương cho chúng mày.

Cái tiếng “bạn” làm cho tôi run từ đầu đến chân.

Roi thứ hai, nạn nhân kêu la thảm thiết. Roi thứ ba, nạn nhân rú lên những tiếng đau xót.

Chợt Phú-Lợi giơ tay lên. Cát-Độ ngừng roi.

Tôi tưởng ông ta ra lệnh tha. Nhưng không phải vấn đề ân xá.

Ông ta nói ôn tồn với nạn nhân rằng:

- Mày nên biết những tiếng kêu của mày làm tao khó chịu vì nếu cái roi nó xé da mày thì cái tiếng kêu của mày nó cũng xé lòng tao. Tao bảo cho chúng mày biết trước, mỗi một tiếng kêu sẽ chịu thêm một roi vì là lỗi tự mày. Mày đừng làm cho tao ốm vì buồn. Nếu mày thương tao, biết ơn tao thì mày im mồm đi! Cát-Độ! Mày đánh nốt đi.

Cát-Độ vung tay, ngọn roi quất vãi vào lưng đứa bé khốn nạn.

Nó rên rỉ:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi!

May sao tôi không phải chứng kiến thêm nữa. Cửa cầu thang mở ra, ông Vỹ-Tiên bước vào. Đưa mắt một cái, ông hiểu ngay nguyên do những tiếng kêu khóc mà ông vừa nghe thấy khi lên thang. Ông chạy lại chỗ Cát-Độ giật lấy roi vứt đi. Rồi tiến lại đứng trước mặt Phú-Lợi, khoanh hai tay lại, nhìn thẳng vào mặt Phú-Lợi.

Bị bắt chợt, Phú-Lợi hơi luống cuống, nhưng trấn tĩnh ngay và tươi cười nói:

- Đấy ông xem! Có phải thằng bé ác quá không?

- Một điều đáng xấu hổ!

- Ấy chính tôi cũng nói thế.

Thầy tôi gắt:

- Ông đừng đóng kịch nữa. Ông nên hiểu rằng tôi nói ông chứ không phải nói thằng bé kia. Phải đó, chính là một điều đáng xấu hổ, một sự hèn hạ là đánh đập những đứa trẻ con, chúng nó không thể tự vệ được.

Phú-Lợi đổi giọng nói luôn:

- Việc gì đến ông mà ông dính vào! Rõ điên chửa!

- Việc gì à? Việc trình Cảnh sát, ông có biết không?

Phú-Lợi đứng dậy nói to:

- Cảnh sát à? Ông đem Cảnh sát ra dọa tôi có phải không?

Thầy tôi không sợ vẻ sừng sộ của Phú-Lợi, đáp:

- Phải đó.

Phú-Lợi lại bình tĩnh ngay và nói giọng chế nhạo:

- Ông Vỹ-Tiên ơi! Xin ông, ông đừng làm dữ mà tố cáo tôi vì tôi, tôi cũng có thể tố cáo ông được. Như vậy chẳng có lợi gì cho ai cả. Riêng tôi, tôi không nói gì với Cảnh sát đâu, vì việc của ông tôi không cần biết và nếu tôi kể lại những điều tôi biết hay chỉ nói ra một tên, một tên thôi, lúc đó hỏi ai phải dấu mặt vì xấu hổ?

Thầy tôi đứng một lúc không nói gì. Sự xấu hổ? Tôi sững người ra. Chợt ông cầm tay tôi dắt ra và nói:

- Con theo ta.

Rồi thầy tôi đưa tôi ra cửa.

Phú-Lợi cười sằng sặc và nói theo:

- Thôi nhá! Ông bạn già ơi! Hết giận chứ? Ông có việc gì, ở lại nói chuyện.

- Tôi không có việc gì cả.

Và không nói thêm một câu nào, không quay đầu lại, thầy tôi lẳng lặng dắt tay tôi xuống thang. Tôi khoan khoái quá. Tôi đã thoát khỏi hang hùm. Nếu tôi dám, tôi đã nhảy lên hôn thầy tôi.

Chương XVIII

lò đá

Lần đầu chúng tôi đi qua những phố đông người, thầy tôi không nói gì cả. Nhưng không bao lâu, chúng tôi vào một đường hẹp và vắng, thầy tôi ngồi trên một cái mốc đá và nhiều lần lấy tay bóp trán, đó là cái dấu hiệu thầy tôi có điều lo nghĩ.

Thầy tôi nói một mình:

- Nghe cái thiện tâm của mình có lẽ cũng cao đẹp đấy, nhưng vì thế thành bơ vơ trên vỉa hè Ba-Lê, không một đồng dính túi, không một mẩu bánh ở dạ dày. Con có đói không?

- Con không được ăn gì sau miếng bánh mà thầy đã cho con sáng nay.

- Con ơi! Khổ cho con! Con còn phải chịu bữa chiều nữa con ạ. Mà cũng chưa biết tối nay ngủ ở đâu đây.

- Ta định gửi con ở đấy đến hết mùa đông và vay 20 phật-lăng để trang trải các việc. Nhưng thấy hắn đánh đập trẻ con, nên thầy không giữ được bình tĩnh. Con không thích ở đó, phải không?

- Thầy thật có lòng nhân từ!

- Trái tim chưa khô héo hẳn trong cái thân tuổi tác giang hồ này. Ta đã tính toán đâu đấy cả, nhưng không may, trái tim công phẫn đã làm đảo lộn cả. Bây giờ biết đi đâu?

Đêm xuống đã lâu, trời lạnh dần. Gió bấc lại nổi lên, rét không chịu được.

Thầy tôi ngồi dai trên mốc đá. Còn tôi và Lãnh-Nhi thì đứng trước mặt đợi thầy tôi quyết định. Chợt thầy tôi đứng dậy.

Tôi hỏi:

- Thưa thầy, đi đâu bây giờ?

- Đến Gentilly, tìm chỗ trú mà trước kia đã ngủ nhờ một lần. Con có mệt lắm không?

- Con đã được nghỉ ở nhà Phú-Lợi rồi.

- Khổ quá! Ta chưa được nghỉ lúc nào, bây giờ thấy mệt quá. Nhưng thôi, phải đi. Tiến lên! Các con!

Tiến lên! Thầy tôi thường giục chúng tôi đi với bộ hăng hái vui vẻ, nhưng tối nay thầy tôi nói câu đó một cách buồn rầu.

Chúng tôi bắt đầu rời các phố Ba-Lê. Tối đen như mực. Những ngọn đèn “gaz” hai bên đường bị gió bạt đi chiếu xuống những tia sáng chập chờn. Chúng tôi thường bước nhầm vào những rãnh bùn hay những váng nước trên hè. Thầy tôi dắt tay tôi, con Lãnh-Nhi theo sau. Thỉnh thoảng nó lại dừng lại ngửi trong đống rác xem có cái xương hay mẩu bánh thừa nào không vì nó cũng đói như chúng tôi, nhưng những rác đó bị vùi trong khối băng nên vô ích, nó lại cúi đầu lủi thủi theo chúng tôi.

Chúng tôi qua phố lớn vào ngõ hẹp, rồi lại qua ngõ hẹp ra phố lớn. Chúng tôi đi thất thểu trên đường. Ai thấy chúng tôi cũng phải nhìn. Vì cách ăn mặc của chúng tôi hay vì bộ mệt nhọc của chúng tôi mà họ chú ý? Những Cảnh binh cũng theo dõi xem chúng tôi làm gì và đi đâu. Thầy tôi bước lom khom, không nói năng gì. Trời rét thế mà tay nóng như lửa truyền sang tay tôi và hơi run. Thỉnh thoảng ông lại dừng lại một vài phút gục vào vai tôi, tôi thấy cả người thầy tôi bị co giật.

Mọi ngày tôi không dám hỏi thầy tôi, nhưng bây giờ tôi phá lệ đó, vì tôi thấy tôi cần phải nói lên rằng tôi yêu thầy tôi hay ít ra cũng phải làm cái gì cho thầy tôi.

Đến chỗ nghỉ, tôi hỏi thầy tôi:

- Thầy ơi! Thầy ốm rồi!

- Ta cũng sợ thế, vì mệt lắm. Mấy hôm nay đi nhiều quá. Đêm nay lại rét buốt. Giá được cái giường êm, bữa súp nóng và một cái buồng có lửa thì dễ chịu biết bao! Nhưng đó là một giấc mộng. Thôi cứ tiến lên! Các con!

Tiến lên! Chúng tôi ra khỏi thành phố, lúc đi qua những dãy tường cao, lúc đi trong đồng ruộng, chúng tôi cứ đi. Không có người qua lại, không có cảnh binh, không có đèn “gaz” nữa. Tuy nhiên đó đây có một vài cái cửa sổ khép để lọt ánh sáng đèn ra và trên đầu chúng tôi, bầu trời mờ tối lác đác mấy ngôi sao. Gió lạnh thổi vù vù, làm cho quần áo dính đét vào người. May sao gió thổi phía sau lưng nhưng áo tôi rách; gió cứ nhè các khe luồn vào khắp thân thể tôi, lạnh thấu đến xương.

Trời tối mò, đường có nhiều chỗ rẽ, thầy tôi đi tự nhiên như người quen lối; vì thế tôi không thấy sợ lạc, chỉ mong sao cho chóng đến lò đá để nghỉ ngơi.

Thình lình thầy tôi đứng dừng lại hỏi tôi:

- Con có nhìn thấy lùm cây cao không?

- Con không trông thấy gì.

- Con có nhìn thấy một đám đen đen ở phía trước mặt không?

Trước khi trả lời, tôi nhìn khắp bốn phía. Có lẽ chúng tôi đang ở giữa cánh đồng vì mắt tôi nhìn thấu bóng đen sâu thẳm mà không thấy cây cối, nhà cửa gì; chung quanh chúng tôi là khoảng không, chỉ nghe thấy tiếng gió xào xạc thổi qua những bụi cây mà chúng tôi không trông rõ.

Thầy tôi trỏ phía trước mặt bảo tôi:

- Mắt ta tự nhiên lóa đi. Con thử nhìn đằng kia xem.

Tôi lặng yên không dám nói là không nhìn thấy gì. Thầy tôi lại đi.

Đi được vài phút thầy tôi lại đứng lại hỏi:

- Con có nhìn thấy lùm cây không?

Tôi không vững dạ như trước, tự nhiên thấy lo sợ nên trả lời giọng run run:

- Con chả nhìn thấy gì cả.

Thầy tôi bảo:

- Vì con sợ nên hoa mắt đấy!

- Con nói chắc rằng con không nhìn thấy cây.

- Không có vết tích bánh xe nữa à?

- Không.

- Chúng ta lạc lối chăng?

Tôi không trả lời được vì tôi chẳng biết chúng tôi đang ở chỗ nào và chúng tôi đi đâu nữa.

- Chúng ta đi 5 phút nữa, nếu không nhìn thấy cây thì lộn lại, vì có thể ta lầm đường.

Bây giờ tôi sợ lầm đường nên tôi rủn cả người, không bước được, thầy tôi phải kéo tôi đi:

- Sao thế?

- Con không đi được nữa.

- Con tưởng ta còn sức chăng? Nay ta cố đứng vững là sợ rằng nếu chúng ta ngồi xuống thì không bao giờ chúng ta đứng dậy được và chúng ta sẽ chết rét ở đây mất. Vậy cứ đi, con!

Tôi theo thầy tôi.

- Đường này có vết bánh xe sâu xuống không?

- Chẳng có gì cả!

- Vậy thì chúng ta đi lộn lại.

Ngọn gió trước thổi sau lưng, bây giờ quấn vào mặt chúng tôi dữ quá khiến chúng tôi nghẹt thở. Tôi có cảm giác như là bị rát bỏng khắp người.

Lúc đi, chúng tôi bước đã không nhanh, lúc trở lại bước càng chậm chạp.

Thầy tôi bảo:

- Khi nào con nhìn thấy bánh xe thì bảo ta. Đường vào ở bên tay trái, có bụi cây ở ngã tư.

Lại 15 phút nữa, chúng tôi phấn đấu với gió. Chúng tôi cố bước. Những tiếng giầy của chúng tôi đi trên đất rắn, lộp cộp trong đêm vắng lặng như tờ. Chân tôi đã không bước được nữa mà bây giờ đến lượt tôi phải dắt thầy tôi. Tôi vừa đi vừa nhìn phía bên trái.

Chợt một ngôi sao đỏ lấp lánh trong đêm tối.

Tôi chỉ tay bảo thầy tôi:

- Có ánh sáng!

- Ở đâu?

Thầy tôi nhìn. Tuy ánh sáng đó cách không xa lắm, nhưng thầy tôi không nom thấy gì. Do đó, tôi nhận thấy mắt thầy tôi kém rồi, mọi khi tỉnh lắm và ban đêm nhìn được rất xa.

Thầy tôi nói:

- Ánh sáng đó chẳng ích gì cho ta. Đó là ngọn đèn để trên bàn của một nhà thờ hay bên giường người hấp hối. Ta không thể đến gõ cửa nhà đó được. Ở nhà quê khi lỡ ngại ban đêm, ta có thể xin ngủ nhờ được chứ ở chung quanh Ba-Lê, người ta không cho ngủ nhờ đâu. Ta cứ đi thôi.

Đi độ vài phút, tôi nhìn hình như có con đường cắt ngang lối chúng tôi đi. Ở một góc có đám đen lù lù, đích thị là bụi cây. Tôi buông tay thầy tôi chạy tới chỗ đó. Con đường ngang này có nhiều vết bánh xe rất sâu.

- Bụi gai đây rồi! Có cả vết xe nữa.

- Đưa tay cho ta. Chúng ta thoát nạn rồi. Lò đá cách đây 5 phút thôi. Con nhìn kỹ có lùm cây đấy.

Tôi nhìn hình như có đám đen đen, tôi đáp:

- Vâng, có cây.

Hy vọng làm chúng tôi phấn khởi. Chân tôi thấy nhẹ đi. Đất không thấy rắn chói nữa. Nhưng 5 phút của thầy tôi sao mà dài thế!

Thầy tôi đứng lại, hỏi:

- Ta vào đường này quá 5 phút rồi thì phải?

- Hình như thế.

- Vết xe đi đâu?

- Vết xe đi thẳng.

- Lối vào lò tất ở bên trái. Chúng ta đi qua mà không nhìn thấy. Đêm tối mù khó nhìn thật. Tuy vậy, cứ vết bánh xe, có thể ta đã đi quá xa.

- Con tin chắc rằng chưa có chỗ nào vết xe quay sang bên trái.

- Ta cứ trở lại xem.

Lại lần nữa, chúng tôi đi lộn lại.

- Con có nhìn thấy lùm cây không?

- Có kia kìa, ở bên trái.

- Còn vết xe ở phía ấy?

- Tuyệt nhiên không.

Thầy tôi lấy tay dụi mắt và nói:

- Ta lòa rồi sao? Con đưa tay đây, dẫn ta đi thẳng vào đám cây.

- Có bức tường.

- Đó là đống đá.

- Thưa thầy, không, chính là bức tường.

Lời tôi nói đó dễ chứng minh vì chúng tôi chỉ cách tường có vài bước. Thầy tôi bước lại gần và không tin ở mắt mình, lấy tay sờ vào vật chướng ngại đó, tôi gọi là bức tường mà thầy tôi bảo là đống đá.

- Chính là bức tường xây bằng đá, ta sờ thấy nữa. Vậy thì lối vào đâu? Con tìm vết xe đi!

Tôi cúi xuống đất theo bức tường đi cho đến hết, không nhìn thấy vết xe nào rẽ vào đấy cả. Tôi trở lại cho đến đầu kia, cũng không tìm thấy vết xe hay cửa vào.

- Con chỉ nhìn thấy tuyết.

Tình trạng rất bối rối. Có lẽ thầy tôi lầm đường. Không phải lò đá ở chỗ này.

Khi tôi bảo không tìm thấy vết xe chỉ có tuyết, thầy tôi đứng một lúc không nói gì, rồi áp tay vào lượt nữa, lần từ đầu này đến đầu kia. Con Lãnh-Nhi nóng ruột kêu ỏm tỏi.

Tôi theo thầy tôi.

- Có nên tìm xa tí nữa không?

- Thôi! Cửa vào xây bịt rồi!

- Bịt rồi!

- Họ đã xây kín. Không vào được nữa.

- Bây giờ làm thế nào?

- Làm thế nào? Phải không? Ta cũng không biết nữa. Chết ở đây!

- Thầy ơi!

- Phải, con không muốn chết, con còn trẻ, con chưa chết được. Thế thì cứ đi. Con còn đi được không?

- Không, thầy!

- Khi nào ta không đi được nữa, ta lăn ra như con ngựa già.

- Đi đâu bây giờ?

- Trở về Ba-Lê. Khi ta gặp cảnh binh, ta sẽ nhờ đưa về bót. Ta muốn tránh cảnh binh, nhưng không muốn con phải chết rét, Lê-Minh, con ơi! Can đảm lên! Con ạ.

Thế rồi chúng tôi lại đi ngược lại con đường đã đi. Mấy giờ rồi? Tôi cũng không biết nữa. Chúng tôi đi chậm lắm và lâu lắm. Có lẽ là nửa đêm hay một giờ sáng rồi! Trời vẫn xám xanh, không trăng, chỉ lác đác có vài ngôi sao nhỏ hơn ngày thường. Gió thổi mạnh hơn, cuốn những bụi tuyết ở hai bên đường ném vào mặt chúng tôi. Những nhà đi qua đều đóng cửa kín mít. Không một ánh đèn. Những người đang ngủ êm ấm trong giường kia nếu họ biết chúng tôi đang lang thang trong gió rét, có lẽ họ không nỡ không mở cửa.

Nếu chúng tôi đi nhanh thì cũng bớt lạnh, nhưng thầy tôi vừa đi vừa thở hổn hển như người mới chạy. Tôi hỏi thì thầy tôi không nói gì và sẽ giơ tay ra hiệu là thầy tôi không nói được.

Từ cánh đồng chúng tôi lần về thành phố, nghĩa là chúng tôi lại phải đi qua những bức tường cao, bên trên có những ngọn đèn dầu đưa đi đưa lại, kẽo kẹt.

Bỗng thầy tôi đứng lại, tôi biết thầy tôi đã kiệt sức rồi.

Tôi nói:

- Hay là con gọi cửa một nhà gần đây?

- Thôi. Người ta không mở cửa đâu. Đó là nhà những người làm vườn. Họ không dậy đêm đâu. Cứ đi đi!

Nhưng thầy tôi ý chí tuy vẫn vững mà hơi sức thì không còn, đi được vài bước lại đứng. Thầy tôi nói:

- Cho ta nghỉ một chút. Không sao đi được nữa.

Chỗ đó là một hàng rào, bên trong có một đống rơm cao. Gió thổi tung ngọn đống rơm ra đường và giắt cả vào chân giậu.

Thầy tôi bảo:

- Chúng ta vào kia ngồi!

- Ban nãy thầy bảo nếu ngồi xuống thì bị lạnh rồi không đứng lên được.

Thầy tôi không trả lời; ra hiệu cho tôi nhặt rơm bỏ vào cửa giậu. Rồi thầy tôi ngồi phịch lên cái ổ đó, răng nghiến lại, thân thể run cầm cập.

Thầy tôi nói không ra tiếng:

- Lấy thêm rơm vào đây xếp cao lên để che cho khỏi gió.

Cho khỏi gió thì đúng chứ che cho khỏi rét thì sao được?

Tôi vội nhặt hết rơm lại, chất cao lên, xong tôi lại ngồi cạnh thầy tôi.

- Con ôm Lãnh-Nhi vào người để lấy chút hơi nóng sang con.

Ông Vỹ-Tiên là một người từng trải biết rằng cái rét như cái rét chúng tôi đang chịu, có thể chết người được. Vì đường cùng bắt phải giấu mình trong cơn nguy hiểm ấy, nên ông phải suy mòn.

Ông đã suy mòn thực. Nửa tháng nay ông đã lo nghĩ nhiều, tuổi già sức yếu lại thêm đói rét, khổ cực vô cùng nên ông đã héo hắt dần đi.

Thầy tôi có biết mình đã đuối sức rồi không? Tôi cũng không hiểu. Nhưng khi tôi vơ rơm và ngồi sát vào thầy tôi thì tôi thấy thầy tôi cúi mặt xuống tôi và hôn tôi. Đó là cái hôn thứ hai mà cũng là cái hôn cuối cùng.

Tôi nép đầu vào thầy tôi, lả đi và tự nhiên nhắm mắt lại. Tôi cố mở mắt ra nhưng không sao mở được. Tôi cấu mạnh vào cánh tay tôi, da vô tri giác, không biết đau, nhưng sự lay động đó cũng làm cho tôi tỉnh phần nào.

Thầy tôi ngồi tựa lưng vào cửa hàng rào thở khò khè từng cơn ngắn và nhanh. Con Lãnh-Nhi tựa đầu vào ngực tôi đã ngủ rồi. Trên trời, gió thổi vẫn to, ném những ngọn rơm xuống đầu chúng tôi khác nào như những chiếc lá khô trên cây rụng xuống. Trên đường, không một bóng người. Bốn bề buồn lặng như đượm màu tang.

Sự im lặng đó làm tôi kinh hãi. Tại sao kinh hãi? Tôi cũng không biết. Chỉ thấy một mối kinh hãi mơ hồ làm cho tôi buồn rầu, đau đớn, nước mắt tự nhiên ràn rụa ra. Có lẽ tôi chết ở đây thôi.

Nghĩ đến cái chết, tôi lại nhớ đến làng Văn-Ông, nhớ đến bà Bảo-Liên, mẹ tôi. Ôi! Nhắm mắt không được nhìn thấy mẹ tôi, nhà tôi, vườn tôi! Nhưng không, tôi đang đứng ở trong vườn nhà tôi. Mặt trời rọi những tia nắng ấm và vui. Những cây trường thọ đã nở hoa vàng. Mấy con sáo đang líu lo trong bụi. Mẹ tôi đang lúi húi phơi màn trên giậu. Mẹ tôi vừa đi giặt ở bờ suối về. Tiếng suối chảy nghe róc rách.

Kia là thuyền Thiên-Nga. Cậu An-Tuyên đang ngủ trên giường. Bà Mỹ-Lưu còn thức, nghe tiếng gió thổi ào ào, bà nghĩ trời rét thế này không biết tôi ở đâu?

Rồi óc tôi lộn xộn dần, tim tôi tê dại. Tôi lịm đi lúc nào không biết.

Chương XIX

lệ-hoa

Khi tôi tỉnh dậy thấy mình nằm trong một cái giường con, ngọn lửa trong lò bốc cao soi sáng khắp phòng.

Tôi đưa mắt nhìn chung quanh.

Tôi không quen cái buồng này.

Tôi cũng không quen những người ở chung quanh tôi: một người đàn ông mặc áo xám, đi guốc vàng, ba hay bốn đứa trẻ, trong số đó có một đứa con gái độ 5 hay 6 tuổi cứ nhìn tôi và đứng ngây ra.

Tôi chống tay ngồi dậy.

Mọi người chạy vội đến.

Tôi lẩm bẩm:

- … Vỹ-Tiên?

Người con gái lớn đoán:

- Nó gọi cha nó.

- Không phải cha tôi, đó là thầy tôi. Thầy tôi đâu? Lãnh-Nhi đâu?

Giá ông Vỹ-Tiên là cha tôi, có lẽ người ta cũng dè dặt chưa kể rõ cho tôi nghe. Nhưng ông già là thầy tôi nên người ta cần nói thực việc đã xảy ra cho tôi biết.

Cái cửa mà chúng tôi nép ở đó đêm qua là cửa nhà một người làm vườn. Khoảng 2 giờ sáng, người ta mở cửa đó để đi chợ thì thấy chúng tôi nằm phủ rơm, người ta liền gọi chúng tôi dậy để lấy lối xe đi. Nhưng chẳng thấy ai động đậy, chỉ có con chó sủa lên để bảo vệ chúng tôi. Người ta lắc cánh tay chúng tôi. Chúng tôi cứng đờ. Biết là có chuyện chẳng lành, người ta đem đèn ra. Xem xét xong, người ta biết ông già đã chết, chết rét, còn tôi thì cũng gần như ông già. Nhờ có con Lãnh-Nhi ôm lấy ngực tôi, tim tôi còn giữ được chút nóng, nên tôi còn thoi thóp thở. Người ta liền ẳm tôi vào nhà, đánh thức một đứa con dậy để lấy giường cho tôi. Tôi nằm như chết. Rồi máu dần dần chạy điều hòa, tôi thở được dễ dàng. Sau sáu giờ tĩnh dưỡng tôi mới tỉnh.

Thể xác và tinh thần tôi tuy còn tê dại nhưng tôi cũng đủ tỉnh táo để hiểu những lời tôi vừa nghe thấy: thầy tôi đã chết!

Đó là người mặc áo xám, ông làm vườn, đã kể lại cho tôi nghe. Trong khi ông nói, cô con gái nhỏ cứ nhìn tôi không chớp mắt. Khi ông bảo thầy tôi đã chết rồi, tôi nức nở khóc thì cô bé chạy lại, víu tay cha u-ú không ra tiếng người và trỏ tôi có vẻ buồn rầu thương hại. Tôi cảm thấy tôi không bơ vơ và hình như thầy tôi còn ở đâu bên mình.

Người cha cúi xuống bảo con:

- Lệ-Hoa ơi! Tin đó buồn thực. Cha không nỡ giấu. Bây giờ nếu cha không nói thì Cảnh binh cũng sẽ nói.

Rồi ông kể nốt cho tôi nghe. Người ta báo Cảnh binh đưa người đến cáng ông già đi. Còn tôi thì được ẵm vào giường cậu An-Sinh, con trai lớn ông.

Khi ông nói xong, tôi hỏi:

- Còn Lãnh-Nhi?

- Lãnh-Nhi?

- Ta không biết. Nó đi mất.

Một người con trai ông nói:

- Nó chạy theo cáng ông già.

- Bằng-Mai! Con trông thấy à?

- Vâng. Nó theo sau những người khiêng cáng, cúi đầu ủ rũ, thỉnh thoảng lại nhảy lên đòn cáng. Người ta đuổi xuống thì nó kêu lên những tiếng thảm thiết, nghẹn ngào.

Con Lãnh-Nhi đáng thương! Đã bao lần nó đóng vai người đưa đám, theo sau xe tang con Hiệp-Nhi, giả bộ khóc sụt sịt, khiến cho khán giả phải ôm bụng cười!

Xong, ông làm vườn và các con ra ngoài để tôi nghỉ. Nằm mãi không biết làm gì, tôi trở dậy.

Cây đàn của tôi để ở chân giường. Tôi cầm lên khoác dây vào vai sang phòng chủ nhân. Tôi phải đi và đi đâu? Tôi cũng chưa biết, nhưng tôi thấy tôi cần phải đi… vả lại ông Vỹ-Tiên dù sống hay chết, tôi muốn nhìn mặt ông. Tôi phải đi.

Từ lúc tôi tỉnh đến giờ, tôi đã khá nhiều, chỉ còn đau mình mẩy và hơi nhức đầu. Khi tôi đứng lên thì tự nhiên thấy chóng mặt phải vịn vào lưng ghế. Nhưng tôi đứng nghỉ một lúc, rồi đẩy cửa vào phòng chủ nhân.

Ông cùng các con đang ngồi bàn ăn, cạnh lò sưởi, ngọn lửa đỏ hồng. Cả nhà đang ăn món súp cải bắp.

Mùi thơm của súp đưa lên làm tôi nhớ ra rằng từ sáng hôm qua đến nay tôi chưa có mẩu bánh nào vào bụng. Tôi xỉu người ra và bước không vững. Mặt tôi nhợt nhạt.

Ông làm vườn hỏi tôi, giọng ngọt ngào:

- Con ơi! Sao thế? Con đau phải không?

Tôi đáp:

- Thưa ông, vâng. Con thấy khó chịu. Ông cho con ngồi cạnh lò sưởi.

Thực ra tôi không cần sưởi mà cần ăn. Nhưng ông Vỹ-Tiên không dạy tôi ăn xin, vả tạo hóa cũng không sinh tôi ra là đứa ăn xin, nên tôi thà nhịn đói chứ không bao giờ kêu “tôi đói”. Tại sao thế? Tôi cũng không biết. Tôi chỉ biết xin cái gì mà tôi trả được.

Cô gái nhỏ không biết nói mà người cha gọi là Lệ-Hoa, ngồi trước mặt tôi. Đáng lẽ tiếp tục ăn, cô ngừng lại và nhìn tôi. Thình lình, cô đứng dậy bưng đĩa súp đầy lại và đặt lên đầu gối tôi.

Lạ quá, tôi không còn nói được ra tiếng, giơ tay làm dấu cảm ơn và chưa kịp cầm lấy đĩa thì cha cô bảo:

- Con ơi! Cầm lấy. Lệ-Hoa thành tâm đó. Nếu lòng con muốn, hết đĩa này, con ăn thêm đĩa nữa.

Nếu lòng tôi muốn! Chỉ trong vài giây đĩa súp đã nhẵn quẹn. Lệ-Hoa vẫn đứng trước mặt tôi. Khi tôi hạ thìa xuống, cô kêu lên một tiếng tỏ ý vui lòng. Rồi cô đỡ lấy đĩa trao cho cha múc thêm. Xong, cô bưng lại đưa cho tôi với một nụ cười dịu dàng làm tôi phấn khởi quên cả đói, ngồi im một lúc rồi mới nhớ ra, vội đỡ lấy đĩa.

Đĩa thứ hai ăn nhanh không kém đĩa trước. Lần này thấy thế, các con ông không mỉm cười nữa mà cười rộ lên.

Người cha bảo:

- Con ơi! Con ăn khá đấy!

Tôi đỏ mặt lên và nghĩ nên nói thật kẻo bị ngờ là đứa tham ăn. Tôi liền đáp:

- Chiều hôm qua, con không được ăn.

- Thế bữa sáng?

- Bữa sáng cũng không có.

- Thầy con thì sao?

- Thầy con cũng chẳng ăn gì hơn con.

- Thế ra ông già bị chết rét và chết đói. Tội nghiệp!

Hai đĩa súp đầy đã làm tôi lại sức. Tôi đứng dậy xin đi.

Người cha hỏi:

- Con đi đâu bây giờ?

- Con muốn nhìn thầy con lần cuối cùng.

- Con có biết người ta đưa ông đi đâu không?

- Con không biết.

- Con có bà con nào ở Ba-Lê không?

- Không.

- Người làng?

- Không có ai.

- Chỗ trọ con ở đâu?

- Thầy con không có chỗ trọ. Thầy con và con vừa tới Ba-Lê hôm qua.

- Con định làm nghề gì?

- Đánh đàn và hát để qua ngày.

- Ở đâu?

- Ba-Lê.

- Con nên trở về quê với cha mẹ con. Cha mẹ con ở đâu?

- Con không có cha mẹ.

- Con bảo ông già râu bạc không phải là cha con?

- Con không có cha, nhưng ông già Vỹ-Tiên cũng như cha con.

- Và cũng không có mẹ?

- Con cũng không có mẹ.

- Vậy con có chú, bác, cô, dì, anh chị em họ hay một người thân thích nào không?

- Không có ai cả.

- Thế con từ đâu đến?

- Chồng bà mẹ nuôi con bán con cho ông Vỹ-Tiên. Thầy con rất thương con, con ơn thầy con nhiều lắm. Đến chủ nhật, con sẽ trở lại đây đánh đàn và cho con Lãnh-Nhi biểu diễn để cảm ơn ông.

Tôi vừa nói vừa ra cửa. Tôi vừa bước được vài bước thì Lệ-Hoa theo tôi, cầm lấy tay tôi, chỉ vào cây đàn mà mỉm cười. Tôi hiểu ý cô và hỏi:

- Cô muốn tôi đánh đàn?

Cô gật đầu và vỗ tay vui vẻ.

Cha cô nói thêm:

- Phải đấy. Con đánh một bài cho vui.

Lúc đó tôi cũng không vui gì, nhưng tôi cũng hạ đàn xuống đánh một vũ khúc hay nhất để tặng cô Lệ-Hoa.

 Trước hết cô nhìn tay tôi, sau cô lấy chân đánh dịp rồi như bị tiếng đàn lôi cuốn, cô nhảy và quay nhẹ nhàng trong bếp, trong khi đó, hai anh và chị cô ngồi yên lặng nghe đàn, Lệ-Hoa không nhảy đúng bước nhưng cô quay lượn uyển chuyển với nét mặt tươi như hoa, trông rất đẹp.

Ngồi cạnh lò sưởi, cha cô nhìn cô nhảy, ông ra chiều cảm động và vỗ tay.

Khi tôi đánh hết bài, cô lại trước mặt tôi, cúi chào rất nhã. Xong cô lấy ngón tay gẩy vào dây đàn và nhìn tôi, có ý bảo tôi đánh bản nữa.

Tôi có thể đánh cả ngày cũng được. Nhưng cha cô bảo thôi vì sợ cô nhảy nhiều sinh mệt.

Lúc đó, tôi không đánh những bài khiêu vũ nữa, tôi hát một bài “Tình-ca” Ý mà thầy tôi đã dạy tôi.

Bài này điệu êm ái và âu sầu đã nhiều lần làm cho khán giả phải sa lệ.

Nghe mấy nhịp đầu, Lệ-Hoa tiến lại gần tôi, mắt nhìn vào mắt tôi, môi mấp máy như nhắc lại lời hát. Rồi giọng hát tôi mỗi lúc một buồn, cô lùi lại vài bước. Đến tiết cuối cùng, cô gieo mình vào lòng cha khóc nức nở.

Cha cô bảo:

- Thôi, con.

Người anh cô là Bằng-Mai nói:

- Nó điên hay sao? Vừa nhảy múa xong, lại khóc liền!

Chị cả bảo:

- Mày điên thì có! Lệ-Hoa nó hiểu âm nhạc.

Nói xong, người chị cúi xuống hôn Lệ-Hoa.

Trong khi Lệ-Hoa gục vào lòng cha, tôi vác đàn lên vai và ra cửa.

Người cha hỏi:

- Con đi đâu?

- Con đã thưa với ông là con cố tìm để trông mặt thầy con lần cuối. Xong con sẽ làm những điều thầy con đã dạy làm: đàn và hát.

- Con cố giữ nghề âm nhạc của con!

- Con không có nghề nào khác.

- Con không ngại đường xa à?

- Không. Tối đâu là nhà rồi.

- Dù sao, cái đêm con vừa qua đã đủ làm cho con phải suy nghĩ?

- Con cũng nghĩ lắm. Có một cái giường, có một góc lửa thì còn gì sung sướng cho bằng!

- Vậy con có muốn có một cái giường, một góc lửa với việc làm không? Nếu con muốn ở lại, con sẽ làm việc với ta, con sẽ chẳng sung sướng và nhàn hạ đâu! Nếu con nhận lời, con sẽ phải dậy sớm, làm vườn, cuốc đất, đổ mồ hôi lấy miếng bánh. Nhưng với miếng bánh cầm chắc đó, con không phải dầm sương dãi nắng, không phải ngủ ngoài trời như đêm trước, có thể chết rét bên gốc cây hay dưới hố không ai nhìn nhận. Tối đến con sẽ có giường đệm sẵn sàng và khi ngồi vào bàn, hơi súp đưa lên, con sẽ sung sướng rằng mình đã kiếm được và ăn thấy ngon hơn, con có thể tin như thế. Vả ta nhận thấy con là một đứa trẻ có nghĩa, con có thể sống ở đây như một gia đình.

Lệ-Hoa quay lại, và qua làn nước mắt cô nhìn tôi, miệng tươi cười.

Lời đề nghị đó đến bất thần khiến tôi ngây người, không tin cái tai tôi nghe có đúng không.

Lúc đó, Lệ-Hoa chạy lại dắt tay tôi đến một bức tranh tô màu treo ở tường, vẽ hình đức thánh Jean khoác một tấm da cừu. Xong, cô ra hiệu cho cha cô và các anh cô nhìn bức tranh đó. Xong, cô vuốt cái áo da cừu của tôi và trỏ lên mái đầu tôi, tóc rẽ giữa và tỏa xuống hai vai những cuộn loăn xoăn. Tôi hiểu ý cô muốn bảo rằng trông tôi giống như thánh Jean. Không hiểu sao lúc đó tôi thấy sung sướng và có một cảm giác nhẹ nhàng.

Người cha nói:

- Phải đấy, giống thánh Jean lắm?

Lệ-Hoa vỗ tay cười.

Người cha trở lại câu chuyện ban nãy.

- Con ơi! Con nghĩ thế nào?

Một gia đình!

Tôi sẽ có một gia đình thật ư? Đã bao lần cái mộng đó ấp ủ trong lòng tôi đều bị tan vỡ! Bà Bảo-Liên, bà Mỹ-Lưu, ông Vỹ-Tiên, mọi người lần lượt xa rời cả!

Tôi sẽ không phải bơ vơ nữa chăng?

Cái hoàn cảnh của tôi lúc đó rất buồn. Tôi vừa mới mất một người đã cùng sống với tôi trong nhiều năm, gọi là thầy nhưng chẳng khác gì cha và vừa mất một người bạn đường, một người anh em là Lãnh-Nhi yêu dấu, biết thương tôi và an ủi tôi. Vì thế khi ông làm vườn tỏ ý lưu tôi, thì có một mối tin tưởng làm cho tôi vững lòng.

Tôi chưa đến nỗi tuyệt vọng. Cuộc đời tan vỡ của tôi lại có thể bắt đầu nhóm lại. Cái điều làm cho tôi cảm động nhất không phải là miếng bánh cầm chắc như lời cha cô Lệ-Hoa đã nói, mà là cái không khí đầm ấm hòa vui, cái đời sống gia đình mà cha cô đã hứa hẹn.

Những cậu con trai kia sẽ là anh tôi ư?

Cô Lệ-Hoa tươi đẹp kia sẽ là em gái tôi ư?

Trong óc non dại của tôi, nhiều lần tôi tưởng tượng tôi sẽ tìm thấy cha tôi, mẹ tôi, nhưng không bao giờ tôi nghĩ đến sẽ có anh chị và có em. Mà bây giờ tất cả đều đến với tôi.

Đành rằng những người đó không liên hệ với tôi bằng máu mủ, nhưng rất có thể ràng buộc trong tình thương yêu. Muốn thế, tôi phải yêu họ – điều này tôi rất sẵn sàng – và phải làm sao cho họ thương tôi, việc này xem ra không khó lắm, vì mọi người trong nhà đều hiền hậu và nhiệt thành.

Tôi tháo mạnh cái quai đàn trên vai ra.

Người cha vừa cười vừa nói:

- Đó là một câu trả lời rất hay! Con ơi, con hãy treo đàn vào cái đanh kia rồi ngày nào con không thích ở đây nữa, con sẽ lấy xuống để bay nhảy tới một phương trời khác, có điều con phải cẩn thận như chim én, như họa mi, là phải biết tìm mùa để ra đi.

Tôi đáp:

- Con xin ra đi một lần thôi, ra đi để tìm thầy con.

Cha cô Lệ-Hoa nói:

- Con nói phải lắm.

Cái cửa vườn mà chúng tôi ngã gục đêm trước thuộc nhà một người làm vườn nói trên tên là An-Thanh. Gia đình này gồm có năm người: một người cha, hai con trai là An-Sinh và Bằng-Mai, hai người con gái là Yến-Chi, chị cả và Lệ-Hoa, em út.

Lệ-Hoa không phải câm từ thuở lọt lòng, nghĩa là nguyên do không phải vì tật điếc mà ra. Cô đã nói được hai năm. Không may đến năm lên bốn, cô mắc chứng bệnh co gân rồi bị rụt lưỡi không nói được. May mà óc cô còn toàn vẹn; không những thế, cô lại có phần sáng suốt thêm ra; cái gì cô cũng biết, cũng làm cho người ta hiểu mình như lời nói. Trong những gia đình nghèo và cả những gia đình khác, những đứa trẻ tàn tật thường bị hất hủi hay đầy đọa, nhưng trường hợp của Lệ-Hoa lại khác hẳn. Thông minh, lanh lợi, vui tươi, hiếu thuận, nên từ cha cô đến các anh chị cô đều yêu thương và quý cô nhất nhà.

Ngày xưa, quyền trưởng tử thật được trọng vọng trong những nhà quý tộc. Ngày nay, những con đầu lòng ở các gia đình thợ thuyền, chỉ hưởng thụ được những trách nhiệm nặng nề.

Bà An-Thanh mất khi Lệ-Hoa lên một. Từ ngày đó, Yến-Chi lớn hơn An-Sinh hai tuổi phải đảm đương việc nhà thay mẹ. Đáng lẽ đi học, Yến-Chi phải ở nhà làm cơm, khâu vá, dọn dẹp và trông nom Lệ-Hoa. Người ta quên hẳn cô là con gái, là chị cả và quen coi cô như một con sen. Đối với cô, người ta không câu nệ gì vì biết rằng cô chẳng trốn đi đâu được và cô không giận dỗi bao giờ.

Ẵm Lệ-Hoa, dắt Bằng-Mai, làm việc quần quật suốt ngày, cô dậy sớm để nấu súp cho cha ăn rồi đi chợ, thức khuya để rửa bát, giặt quần áo. Về mùa hè, lúc rảnh việc, cô tưới cây; về mùa đông, khi giá rét, cô phải rắc rạ che rau. Cô không có giờ nào được sống cái đời con trẻ để cười, để chơi. Mới 14 tuổi đầu, mặt cô đượm vẻ lam lũ như một cô gái già 35 tuổi, tuy nhiên lúc nào cô cũng tỏ ra nhẫn nại, dịu dàng đáng yêu.

Tôi treo đàn lên vách xong, kể lại chuyện tìm lò đá ở Chantilly cho mọi người nghe; chưa được 5 phút, chợt tôi nghe có tiếng cạy cửa vườn và tiếng sủa thảm thiết.

Tôi đứng dậy và nói:

- Lãnh-Nhi!

Lệ-Hoa vội chạy trước ra mở cửa. Con Lãnh-Nhi đáng thương nhảy vọt vào lòng tôi. Tôi ôm lấy nó, nó liếm vào mặt tôi và kêu những tiếng kít kít mừng rỡ, thân thể nó run lên.

Tôi nhìn ông An-Thanh và nói:

- Còn Lãnh-Nhi?

Ông hiểu ý tôi hỏi đáp ngay:

- Nó cũng ở đây với ta.

Lãnh-Nhi hình như cũng hiểu, đang ở trong cánh tay tôi nhảy xuống đất, đặt tay phải vào ngực và cúi chào. Các con ông, nhất là Lệ-Hoa, thấy thế đều cười ầm lên. Muốn cho vui nhà, tôi bảo Lãnh-Nhi diễn cho vài trò, nhưng nó không chịu, nhảy lên đầu gối tôi, cọ đầu vào má tôi rồi nhảy xuống, lấy răng cắn tay áo tôi lôi đi.

Tôi nói:

- Nó bảo tôi đi!

Ông An-Thanh nói theo:

- Để thăm thầy con.

Nhân viên Cảnh sát sau khi đã đưa thi hài ông Vỹ-Tiên đi rồi, cần gặp tôi để thẩm vấn. Họ đợi cho tôi tỉnh hẳn rồi sẽ đến. Trong khi chờ đợi, tôi buồn quá. Không biết thầy tôi có chết không hay lại sống lại như tôi.

Thấy tôi bồi hồi lo lắng, ông An-Thanh liền đưa tôi đến sở Cảnh sát. Chúng tôi đến nơi, người ta hỏi tôi chưa hết câu nọ đã đến câu kia. Khi người ta cho biết thầy tôi đã mất thực, tôi mới chịu trả lời. Những điều tôi biết và khai ra rất đơn sơ, sở Cảnh sát muốn biết kỹ hơn nên hỏi tôi rất lâu về thân thế ông Vỹ-Tiên và gốc tích của tôi. Về lai lịch của tôi, tôi chỉ biết khai rằng tôi không có cha mẹ, chồng bà mẹ nuôi tôi nhận một món tiền và cho tôi đi ở với ông Vỹ-Tiên.

Ông Cảnh sát trưởng hỏi tôi:

- Thế bây giờ?

Ông An-Thanh trả lời thay tôi:

- Chúng tôi xin nuôi em này, nếu ông Cảnh sát trưởng đồng ý giao em cho tôi.

Ông Cảnh sát trưởng đáp:

- Thế thì còn gì hay hơn nữa. Ông đã làm một việc thiện.

Bây giờ tôi phải khai về thân thế ông Vỹ-Tiên. Việc này khó quá vì tôi không biết và chẳng biết gì.

Có một điều bí ẩn tôi biết nhưng không dám nói là việc hôm mới rồi một người đàn bà nghe thầy tôi hát rồi hỏi dò la và việc Phú-Lợi dọa tố cáo thầy tôi. Có lẽ những điều thầy tôi giữ kín lúc sinh thời, bây giờ sẽ tiết lộ hết?

Thực vậy, đứng trước một viên Cảnh sát trưởng lành nghề, một đứa trẻ thơ dại như tôi khó lòng nói quanh. Vì thế chỉ trong 5 phút, tôi cứ tuồn tuột nói ra tất cả những điều tôi muốn dấu, cũng là tất cả những điều mà ông cảnh sát trưởng cần biết.

Ông liền gọi một người Cảnh binh và bảo:

- Thầy dẫn em này tới phố Lục-Sinh, em sẽ nhận lối và tìm đến nhà Phú-Lợi. Thầy sẽ hỏi Phú-Lợi về việc ông già cho tôi.

Ba người chúng tôi cùng đi: người Cảnh binh, ông An-Thanh và tôi.

Đúng như lời ông Cảnh sát trưởng, đến đó tôi nhận được lối và tìm được nhà Phú-Lợi ở tầng gác thứ tư ngay. Tôi không gặp Mã-Tư, có lẽ anh ta ốm nặng phải đưa vào nhà thương rồi. Thấy Cảnh sát đến và nhận ra tôi, Phú-Lợi tái mặt sợ hãi. Nhưng khi người Cảnh binh nói lý do mình được phái đến, Phú-Lợi trấn tĩnh ngay và than:

- Tội nghiệp! Ông già chết rồi ư?

- Ông có quen ông ta không?

- Quen lắm.

- Vậy ông hãy cho tôi biết về lai lịch của ông ta.

- Dễ lắm. Ông ta vốn không phải tên là Vỹ-Tiên, chính tên là Cát-Băng-Giang. Ba bốn mươi năm về trước, Băng-Giang lừng danh là ca sĩ đại tài ở Ý-đại-lợi. Trên sân khấu các Đại hí viện, ông đã được hoan nghênh phi thường. Ông đã từng đi trình diễn ở Náp, ở La-Mã, Mi-Lăng, Vơ-ni, Phật-Lan, Luân-Đôn, Ba-Lê. Nhưng rủi thay một ngày kia ông bị bệnh và khản tiếng. Thế là hết thời oanh liệt, hết thời làm chúa các nghệ sĩ. Ông không muốn đi hát ở các rạp nhép để giảm cái phương danh của mình. Ông liền bỏ tên Cát-Băng-Giang, lấy tên mới là Vỹ-Tiên và xa lánh những người đã quen biết ông. Dù sao cũng phải sinh sống, ông ta xoay nhiều nghề nhưng đều thất bại cả. Rút cục thành ông lão diễn trò rong. Nhưng trong cái đói khó, lòng tự hào của ông vẫn còn. Ông có thể xấu hổ chết được nếu có người biết được rằng Băng-Giang lừng lẫy ngày xưa, nay chính là Vỹ-Tiên đói rách lang thang. Một sự tình cờ đã cho tôi biết điều bí ẩn đó.

Lời khai của Phú-Lợi đã giải thích rõ ràng những điều nghi hoặc của tôi.

Ông Băng-Giang đáng thương, ông Vỹ-Tiên đáng kính của tôi ơi! Thầy tôi ơi! Người ta bảo rằng thầy đã từng làm vua, thực không quá đáng!

Chương XX

thợ trồng hoa

Hôm sau, người ta mai táng thầy tôi, ông An-Thanh hứa sẽ cùng tôi đưa thầy tôi đến nơi ở cuối cùng.

Nhưng sáng hôm sau, tôi không dậy được vì tự nhiên tôi thấy rùng mình rồi phát sốt, ngực nóng như lửa, giống như bệnh của con Hảo-Tâm ẩn trên cây sau một đêm tuyết giá.

Thực vậy, tôi bị chứng phế viêm vì tôi bị nhiễm lạnh đêm tôi ngã gục ở cửa vườn.

Cũng nhờ dịp này mà tôi nhận thấy lòng tốt của gia đình chủ nhân và đức tính hy sinh của cô Yến-Chi.

Những nhà nghèo mấy khi dám mời đến thầy thuốc, thế mà vì bệnh tôi trầm trọng nên người ta đã phải đi ra ngoài cái lệ đó. Thầy thuốc mời đến không cần phải xem lâu hoặc hỏi lâu mới biết căn bệnh của tôi. Lập tức ông ta bảo phải đem tôi vào Nhà Thương làm phúc.

Đó là một việc rất dễ. Tuy nhiên ý kiến này không được chủ nhân chấp thuận. Ông nói:

- Nó sa vào cửa nhà tôi, chứ không sa vào cửa Nhà Thương. Tôi phải giữ nó và chữa cho nó.

Ông thầy thuốc cố sức phân trần những cái nguy về bệnh của tôi bằng những lý lẽ rất tai hại cho tôi, nhưng không lay chuyển được lòng chủ nhân. Người ta nghĩ nên giữ tôi và đã giữ tôi.

Thế rồi cô Yến-Chi ngoài công việc nhà bận rộn, còn làm khán hộ cho tôi. Cô săn sóc tôi chẳng khác chi một bà Phước, rất kiên nhẫn và không quên điều gì. Khi cô bận việc khác thì Lệ-Hoa lại vào thay.

Đã bao nhiêu lần tôi trông thấy Lệ-Hoa ngồi cạnh chân giường tôi nhìn tôi bằng đôi mắt buồn rầu. Trong cơn mê sảng, tôi tưởng tượng cô là một vị thiên thần hộ mệnh, rồi tôi cầu nguyện như trông một nàng tiên, có vòng hào quang sáng rực chung quanh đầu, nhưng lạ quá nàng lại chung sống với chúng tôi và không thấy có đôi cánh trắng để bay.

Bệnh tôi rất đau đớn và kéo dài với những biến chứng nguy hiểm có thể làm thất vọng cho mọi người, nhưng không sao làm nản lòng săn sóc và tin tưởng của cô Yến-Chi. Đã mấy đêm rồi, người ta phải thay phiên nhau để trông tôi vì mỗi khi tôi lên cơn thì lại nghẹt thở, mệnh hệ của tôi như treo đầu sợi tóc. Hết An-Sinh lại đến Bằng-Mai lần lượt thức ngồi cạnh giường tôi.

Sau cùng, tôi thoát chết. Kỳ dưỡng bệnh bắt đầu. Nhưng tôi chỉ còn xương với da, bước đi không vững, phải nghỉ ngơi ít lâu mới ra ngoài được.

Mùa đông hết. Những cánh đồng cỏ bắt đầu xanh tươi. Lệ-Hoa không phải làm gì, thay Yến-Chi đưa tôi đi chơi trên bờ sông Bích. Đến trưa, trời đứng bóng, chúng tôi tay cầm tay, đi thong thả xem phong cảnh, con Lãnh-Nhi nhảy nhót theo sau. Mùa xuân năm đó thực đầm ấm và xinh tươi đã để lại cho tôi một kỷ niệm cũng đầm ấm và xinh tươi không bao giờ quên được.

Đây là một vùng mà thị dân Ba-Lê ít khi đặt chân đến, người ta chỉ biết lơ mơ rằng vùng này là một thung lũng, một nơi nhơm nhúa vì có dòng Bích chảy qua, người ta yên trí dòng sông này chỗ nào cũng như quãng ở ngoại ô chảy qua làng Mạc-Sơn, nơi có nhiều xưởng công nghệ làm vẩn đục nước sông. Có biết đâu rằng từ làng Viên, làng Dung trở đi, dòng nước trở nên trong vắt chảy êm đềm dưới những cây liễu rũ hay ngọn bạch dương cao. Hai bên bờ, những đồng cỏ xanh rờn rải tới chân đồi, san sát những nhà cửa và vườn tược. Những bông cúc điểm trắng trên nền cỏ màu bích ngọc. Trên cành liễu, trên cây dương, mầm, lá xanh non, nào chim sâu, chim sáo, nào chim chèo bẻo, chim mai hoa, nhảy nhót bay lượn và ca hót vang lừng như bảo cho ta biết đây còn là nơi thôn dã, chứ chưa phải là chốn thị thành.

Đó là phong cảnh thung lũng Bích-giang – từ ngày ấy đến giờ chắc có đổi thay – và những ấn tượng trong sáng hãy còn in sâu trong trí tôi như ngày tôi dạo chơi thuở ấy. Nếu tôi là họa sĩ, tôi đã vẽ ra cho quý độc giả nhìn thấy những rặng bạch dương không thiếu một cây nào, những cây liễu cổ thụ, những cây bồn tử um tùm rễ bò trên đất, và những sân băng trước những tòa nhà cổ, ở đó chúng tôi đã thi nhau nhảy cò cò và trượt trên tuyết rất vui. Lại còn những cối xay, cánh quay trước gió như những cái chong chóng lớn ở làng Bất, những dân thợ gặt ở làng Hiên, những xưởng thuộc da, những trang trại với những nông dân chất phác.

Trong những lúc dạo chơi, Lệ-Hoa không nói được, nhưng chúng tôi đã dùng mắt để trò chuyện với nhau, không cần đến lời nói.

Dần dần tôi lại sức và có thể giúp đỡ công việc làm vườn. Tôi rất mong chóng đến ngày đó để làm cho gia đình ông An-Thanh những gì mà gia đình ông đã làm cho tôi, nghĩa là hết sức làm việc để đền đáp lại cái ơn sâu mà gia đình ông đã dành cho tôi.

Từ thuở nhỏ đến giờ, tôi chưa hề làm việc gì nặng nhọc, những thôi đường dài mặc dầu vất vả cũng chưa phải làm một công việc liên tục cần đến ý chí và cần lao. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ làm được việc, nếu không cũng cố gắng theo gương cần mẫn của các người xung quanh tôi.

Bây giờ là mùa hoa tử-la, một thứ lan người ta bắt đầu chở vào bán ở Ba-Lê. Nhà ông An-Thanh năm nay trồng toàn thứ hoa đó. Thứ hoa này có giống trắng, giống đỏ và giống tím. Mỗi màu trồng riêng một luống, thành thử, xa trông thấy những dòng toàn đỏ, những dòng toàn trắng, và những dòng toàn tím rất đẹp.

Trên các luống đều có giàn lắp khung kính có thể đóng mở được. Chiều đến, khi các cửa đó chưa hạ xuống, trong vườn nức một mùi thơm ngát.

Tôi được cắt vào một việc vừa với sức mảnh dẻ của tôi. Mỗi buổi sáng, khi tan giá, tôi phải mở các cửa kính ra; chiều đến, lúc sương giá xuống, tôi lại đóng các cửa vào. Những buổi trưa, tôi còn lấy rèm che hoa hay nhấc ra tùy theo sức nóng của mặt trời.

Trong khi tôi làm những việc đó thì Lệ-Hoa giữ việc thúc đẩy con lừa kéo guồng nước, Bằng-Mai chuyển những nước ấy để tưới cây. An-Sinh giúp cha làm vườn. Mỗi người một việc, không ai ngồi không. Tôi đã từng được trông thấy những nỗi vất vả của nông dân làng tôi, nhưng chưa hề tưởng tượng đến những nỗi cần khổ và kiên nhẫn của những người trồng hoa ở ngoại thành Ba-Lê. Họ dậy từ lúc mặt trời chưa mọc và nghỉ sau khi mặt trời lặn. Suốt ngày làm quần quật không bỏ phí phút nào. Tôi đã từng trông thấy người ta cày đất trồng lúa, nhưng tôi chưa hề tưởng tượng rằng đất có thể nảy nở không ngừng nếu người ta luôn luôn đem sức cần lao khai thác như ở vùng này. Thật là một trường thực nghiệm rất bổ ích cho học vấn của tôi vậy.

Tôi không chuyên việc trông nom cửa kính mãi. Khi tôi khỏe hẳn, tôi rất lấy làm thích được gieo hạt, thích hơn nữa khi thấy nảy mầm và lên cây. Tôi coi đó là công trình của tôi, vật riêng của tôi, nên tôi có phần tự hào là đã được việc cho chủ nhân. Mỗi khi nghĩ đến điều đó thì tôi lại quên hết mọi khó nhọc.

Dần dần, tôi quen sống cái đời cần lao mặc dầu vất vả nhưng khác hẳn với đời sống lang thang của kẻ diễn trò. Trước kia sống tự do ngoài trời, chỉ có việc thẳng tiến trên các đường cái, bây giờ rút lại ở trong bốn bức giậu của khu vườn, từ sáng đến chiều làm việc khó nhọc, áo đẫm mồ hôi, tay xách nước, chân lội bùn. Nhưng chung quanh tôi, ai nấy đều vất vả như thế. Người cha xách những thùng nặng hơn, áo người cha ướt đầm hơn áo chúng tôi. Cái khó nhọc phân công đều, tôi thấy nhẹ nhàng đi. Hơn nữa, tôi tìm được ở đây một cái gì mà tôi coi như không bao giờ có nữa, đó là cái đời sống gia đình. Tôi không cô độc nữa. Tôi không là đứa trẻ bỏ rơi nữa. Tôi có giường riêng của tôi. Tôi có chỗ ngồi ở bàn ăn chững chạc. An-Sinh hay Bằng-Mai và tôi cũng có lúc đấm lẫn nhau, nhưng một khi tay bỏ xuống rồi thì ai nấy đều quên cả. Và chiều đến, hội họp chung quanh món súp nóng; chúng tôi lại là bạn, là anh em.

Nói cho đúng ra, không phải lúc nào cũng là làm việc cả đâu. Chúng tôi cũng có giờ nghỉ ngơi và giải trí tuy ngắn thật nhưng rất thú vị.

Những chiều chủ nhật, chúng tôi thường tụ hội ở dưới giàn nho đầu nhà. Cây đàn treo suốt tuần lễ được đem ra. Tôi gẩy cho các anh, chị, em khiêu vũ. Không ai biết khiêu vũ cả, nhưng An-Sinh và Bằng-Mai đã được đi dự một tiệc cưới nên còn nhớ một vài bước và tạm nhảy được điệu đối vũ. Khi mọi người nhảy mệt, tôi lại hát những bài tôi thuộc và bao giờ đến bài “Tình-ca” là Lệ-Hoa rơm rớm nước mắt.

Để làm cho Lệ-Hoa vui, tôi lại bảo Lãnh-Nhi diễn những trò khôi hài. Con Lãnh-Nhi cũng rất sung sướng, coi những ngày chủ nhật như những ngày hội và nó lại được sống lại những ngày vui đã qua.

Những ngày chủ nhật đối với tôi còn là “Ngày Vỹ-Tiên” nữa. Tôi đánh đàn, tôi hát như là khi thầy tôi còn ở bên cạnh tôi. Ông Vỹ-Tiên kính mến! Tôi càng lớn thì tôi lại càng nhớ đến ông và hiểu biết cái ơn giáo dục của ông đã dành cho tôi.

Tôi ở trại hoa thấm thoát đã được hai năm rồi. Ông An-Thanh thường đưa tôi đi chợ, ra bến Tàu, qua Tháp Nước, hay đến nhà những người bán hoa vẫn giao dịch với chúng tôi, vì thế dần dà tôi biết Ba-Lê và hiểu rằng Ba-Lê không phải là một thành phố lầu vàng, điện cẩm thạch như ngày còn bé tôi mơ tưởng, nhưng cũng không phải là một thành phố lội lặm như tôi đã yên trí khi mới vào những phố ngoại ô.

Tôi được nhìn thấy những lầu đài và được vào thăm một vài nơi. Tôi đi tản bộ trên bến tàu, trên những đại lộ, trong vườn Lục-Xâm-Bảo và các công viên khác. Tôi nhìn thấy những tượng đồng, những đài kỷ niệm. Tôi cảm thán trước những sự hoạt động của quần chúng và tôi đã nhận thức được thế nào là chốn phồn hoa đô hội.

Cái kiến thức của tôi không phải chỉ thâu thái được bằng mắt hay là do những cuộc đi chơi ngẫu nhiên qua các phố ở Ba-Lê. Trước khi làm nghề trồng hoa, ông An-Thanh đã từng làm việc cho sở Ương cây ở vườn Bách-Thảo. Ở đó, hàng ngày ông giao tiếp với các chuyên viên nên học hỏi được nhiều. Trong bao nhiêu năm, ông đã dành tiền mua sách, lúc rảnh việc đọc và học thêm. Đến khi ông lập gia đình rồi có con, thì giờ nhàn hạ cũng ít đi. Sinh kế cần hơn, nên sách vở phải xếp lại. Tuy nhiên ông không bán hoặc bỏ mất, ông giữ trong một góc tủ. Mùa đông, năm thứ nhất ở nhà ông, tôi thấy dài quá vì việc làm vườn không đình hẳn nhưng trì trệ vì thời tiết. Bấy giờ, để cho có việc trong những buổi chiều ngồi không bên lò sưởi, ông An-Thanh lấy sách ra và phân phát cho chúng tôi xem. Phần nhiều là sách Thực vật học, Vạn vật học và một vài quyển Lữ hành ký, An-Sinh và Bằng-Mai không được hiếu học như cha, tối nào cũng thế, khi cầm quyển sách chỉ đọc đến trang thứ ba hay thứ tư là mắt nhắm nghiền lại. Tôi ít ngủ và tò mò hơn, tôi chăm chú đọc rất khuya. Những bài học vỡ lòng của ông Vỹ-Tiên không đến nỗi uổng, nghĩ thế nên lúc đi ngủ tôi lại cảm nhớ đến thầy tôi.

Tôi ham đọc quá, chủ nhân cũng yêu và kể chuyện khi ông còn nhỏ thường bớt quà sáng mỗi ngày 2 xu để lấy tiền mua sách.

Ngoài những sách sẵn có trong tủ, thỉnh thoảng ông lại mua một hai quyển ở Ba-Lê đem về. Ông không chọn lọc. Gặp lúc nào thích hoặc xem nhan sách thấy hay thì mua. Nhưng dù sao cũng là những quyển sách. Thực tình đọc sách phức tạp, óc tôi thành ra lộn xộn nhưng dần dần những cái hay, cái đẹp trong sách vẫn còn ghi lại. Người ta nói rằng đọc sách nhiều cũng có ích, thực đúng vậy.

Lệ-Hoa không biết đọc. Những lúc rỗi thấy tôi miệt mài đọc sách, cô nghĩ không biết trong sách có cái gì làm cho tôi say mê đến thế. Lúc đầu, cô giấu những quyển sách đó đi vì chúng đã làm cho tôi không đi chơi được với cô. Nhưng rồi cô lại thấy tôi cứ tìm đến những quyển sách đó để xem. Cô bảo tôi đọc lên cho cô nghe. Rồi cô bảo tôi dạy cô đọc chữ in. Cô rất thông minh, mặc dầu không nói được, cô dùng mắt và tai thay cho lưỡi, không bao lâu cô biết đọc. Tuy nhiên cô vẫn thích nghe tôi đọc. Thành ra có một mối dây liên lạc giữa cô và tôi. Cô cúi mình xuống bàn, để hết tâm trí vào sách, cô đã tìm thấy trên trang giấy những điều mà cô muốn tìm: một sự giải trí và một món ăn tinh thần.

Chúng tôi đã qua bao nhiêu giờ êm đềm ấy: cô ngồi trước mặt, hai mắt nhìn tôi, tôi thì cầm sách đọc. Thỉnh thoảng gặp những tiếng khó hay những đoạn không hiểu, tôi ngừng lại và đưa mắt nhìn cô. Chúng tôi cố tìm để hiểu, lắm khi không ra. Cô liền ra hiệu cho tôi cứ tiếp tục đi, “mai ngày” sẽ hay. Tôi lại dạy cô vẽ nữa – vẽ theo danh từ của tôi – Môn học này rất lâu và khó, nhưng rồi cô cũng thành tựu được. Dĩ nhiên tôi là một ông thầy nghèo nàn, nhiều khi “bí” nhưng nhờ ở chỗ thầy trò hiểu nhau, nên sự đồng tâm đã thành công hơn là tài năng. Khi cô đã vẽ thành hình để người ta hiểu được là cô muốn vẽ gì, lúc đó cô rất vui sướng. Cha cô hôn tôi và nói:

- Con thực tận tâm. “Mai ngày” Lệ-Hoa sẽ cảm ơn con.

“Mai ngày” nghĩa là khi nào Lệ-Hoa nói được và người ta tin tưởng rằng thế nào lời nói cũng được trả lại cho Lệ-Hoa, nhưng theo lời thầy thuốc thì phải đợi bao giờ bệnh thế biến hóa thì mới nói như cũ được.

Cô thích nghe đàn và yêu cầu tôi dạy cô. Cô học rất chóng. Còn hát thì cố nhiên cô không học được vì thế lắm khi cô buồn và rơi lệ. Nhưng nét buồn chỉ thoảng qua thôi, vì tính nết của cô dịu dàng và hòa nhã, cô vội lau nước mắt và với nụ cười nhẫn nại cô ra hiệu cho tôi biết là đợi đến “mai ngày”.

Được ông An-Thanh nuôi nấng, được các con ông coi tôi như tình ruột thịt, tôi sẽ ở trại trồng hoa đó suốt đời tôi nếu không có cái tai họa bất kỳ xẩy đến làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Có lẽ số tôi không được sung sướng lâu dài, khi tôi tưởng được yên thân một chút lại chính là cái ngày mà tôi bị phải, một lần nữa, ném ra trên con đường luân lạc.

Hector Malot

Hà Mai Anh dịch

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ​ Trong Gia Đình Giới thiệu   Hector Malot (Hécto Malo) sinh năm 1830 ở miền Bắc nước Pháp. Ông là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết...