Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2024

XXXXXVô gia đình 5

Vô gia đình 5

Chương XXXIV

Gia đình điệp công

Viên thư ký Phòng Cố vấn Pháp luật đưa chúng tôi về nhà cha mẹ tôi là một ông già da mặt nhăn nheo, mặc áo đen bạc màu, đeo cà vạt trắng. Khi chúng tôi ra đường, ông ta xoa hai bàn tay vào nhau, bẻ những đốt ngón tay và cổ tay kêu lắc cắc và vung chân cho rãn gân, mạnh quá như người muốn quẳng đôi giầy vẹt gót đi. Ông ta nghếch mũi lên trời hít mạnh hơi sương nhiều lần, lấy làm khoan khoái như người mới ở trong nhà giam ra.

Mã-Tư nói với tôi bằng tiếng Ý:

- Ông này hít hơi sương thấy thơm chăng?

Ông ta nhìn chúng tôi, không nói gì. Ông ta kêu “sùy! Sùy!” như giục những con chó săn phải đi liền chủ, kẻo lạc.

Không mấy lúc chúng tôi đã đến một phố lớn đầy xe cộ. Ông ta gọi một cái xe ngựa. Chiếc xe này hơi lạ, là người đánh xe không ngồi ở trước xe mà ngồi ngất ngưỡng ở ngoài trời trên chiếc ghế cao sau mui xe. Mãi về sau này, tôi mới biết thứ xe ngựa đó gọi là xe “cáp”

Ông ta bảo chúng tôi lên xe, phía trước không có cửa. Qua cái lỗ sổ ở sau mui, ông ta nói chuyện với người đánh xe. Tôi nghe ông ta nói nhiều lần tên “Bethnal Green” (Thanh-Lâm), tôi đoán là tên phố cha mẹ tôi ở. Tôi biết tiếng Anh “Green” nghĩa màu xanh lá cây, tôi tưởng tượng phố đó chắc có nhiều cây cao bóng cả, râm mát và xinh đẹp lắm.

Phố đó có lẽ không giống như những phố khổ ở Luân-Đôn vừa tối vừa buồn mà chúng tôi đã đi qua khi mới đến. Nhà cha mẹ tôi có lẽ là một tòa lâu đài tráng lệ trong một thành phố lớn, chung quanh có cây to.

Cuộc cãi cọ của viên thư ký đưa chúng tôi đi với người đánh xe diễn ra khá lâu. Khi người này so vai ghé ra cửa sổ để cắt nghĩa, khi người kia muốn nhảy xuống ghế chui vào cửa sổ con để trả lời là mình không hiểu gì về điều người nọ hỏi.

Mã-Tư và tôi chụm vào một góc, con Lãnh-Nhi ngồi rúc dưới chân chúng tôi. Nghe hai người cãi nhau, tôi rất lấy làm lạ: một người đánh xe ở Luân-Đôn lại không biết đến một nơi danh tiếng như Bethnal Green: có lẽ ở Luân-Đôn có nhiều “khu phố xanh”? Cũng là một sự lạ vì cái Thanh-Viên chúng tôi vừa đi qua lúc đầu chẳng khác chi đám mồ hóng.

Chúng tôi đi qua các phố lớn rồi đến các phố hẹp rồi lại ra các phố lớn, nhưng chẳng thấy gì ở hai bên vì sương xuống dầy quá. Khí trời bắt đầu lạnh. Chúng tôi thấy khó thở. Nói “chúng tôi” là trỏ Mã-Tư và tôi, chứ còn ông thư ký hướng đạo chúng tôi trái lại nghe chừng khoái lắm, vì ông ta ngửa mũi, há mồm hít vào từng hít dài cái không khí đầy hơi nước đó như muốn trữ rất nhiều trong buồng phổi lâu nay khô khát. Rồi thỉnh thoảng ông lại bẻ ngón tay răng rắc và vươn dài đôi chân mỏi. Phải chăng đã nhiều năm ông bị câu thúc không được cử động và hô hấp.

Chỉ trong lát nữa hay vài giây nữa, tôi sẽ được gặp cha mẹ và các em tôi. Lòng tôi hồi hộp vô cùng, nhưng tôi cũng cố nhìn thành phố mà tôi đang đi qua vì đó chính là thành phố của tôi, quê hương của tôi.

Nhưng ngoài những ngọn đèn gaz bên đường phố le lói trong sương mù hay những đèn xe chập chờn trước mặt, chúng tôi không trông thấy hay chẳng nhìn thấy gì. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng phắt lại để tránh những người qua đường không nhìn thấy xe chúng tôi.

Chúng tôi đi mãi, từ Phòng Cố vấn Pháp luật đến đây nghe chừng đã lâu rồi mà chưa tới nơi. Tôi đoán có lẽ gia đình tôi ở ngoại thành hoặc ở nhà quê và có lẽ chúng tôi sắp rời thành phố để ra miền thôn dã.

Mã-Tư và tôi cầm tay nhau; nghĩ đến lúc sắp về đến nhà tôi, tôi tự nhiên siết chặt tay Mã-Tư, như truyền cái tình thân ái sang anh, một mối tình không những nồng nàn trong lúc này mà cái thắm thiết mãi mãi. Nhưng đáng lẽ ra cánh đồng, thì lại rẽ vào một ngõ hẻm và chúng tôi nghe thấy tiếng còi xe lửa.

Tôi nhờ Mã-Tư hỏi ông dẫn đạo sắp đến nơi chưa thì câu trả lời đã làm cho tôi thất vọng: Ông thư ký bảo ông không rõ lắm vì ông chưa từng bước tới khu “ăn cắp” này. Chắc là Mã-Tư nhầm vì không hiểu câu ông thư ký trả lời. Nhưng Mã-Tư quả quyết rằng “thieves” ông thư ký nói có nghĩa là “ăn cắp, ăn trộm”, đúng thế không sai. Tôi buồn quá. Nhưng tôi tự nghĩ ông thư ký vào hẻm này sợ trộm cướp cũng phải, chứ tiếng “Green” (là xanh) ở sau tiếng “Bethnal” phải là phố có cây cối hoặc là nơi có đồng cỏ. Tôi liền đem ý đó nói cho Mã-Tư nghe. Hai anh em cười rũ cho là ông thư ký nhát quá. Những người không bước chân ra ngoài thành phố thường ngốc!

Nhưng không có dấu hiệu gì báo là sắp ra cánh đồng. Vậy Anh-quốc chỉ là một thành phố lắm đá và lắm bùn mà người ta gọi là Luân-Đôn à? Lớp bùn đó ngập bánh xe chúng tôi, bắn cả vào người ngồi trong xe từng mảng lớn, đen sì. Từ nãy đến giờ một mùi ngai ngái bao bọc chúng tôi. Đúng là một hẻm bẩn thỉu nhất, tồi tàn nhất mà chúng tôi phải đi qua để ra cánh đồng Bethnal Green. Bỗng nhiên thấy xe như quay tròn rồi thỉnh thoảng người đánh xe đi chậm lại và ngần ngại hình như không biết đấy là chỗ nào. Tự nhiên xe dừng lại, lỗ sổ sau xe vạch ra.

Một cuộc nói chuyện hay đúng hơn, một cuộc đấu khẩu bắt đầu. Mã-Tư thông ngôn cho tôi biết rằng người đánh xe không muốn đi xa hơn nữa vì hắn không biết lối. Hắn hỏi viên thư ký là phải đi lối nào, viên thư ký cứ một mực nói là mình không hề đặt chân đến “ngõ ăn cắp” này. Tôi lại nghe thấy tiếng “thieves”. Chắc không phải là Bethnal Green. Hai người cứ cãi nhau qua lỗ sổ.

Cuối cùng, viên thư ký trả tiền rồi xuống xe mặc người đánh xe lẩm bẩm. Một lần nữa, viên thư ký lại “sùy! Sùy!”. Hiểu ý, chúng tôi nhẩy cả xuống.

Chúng tôi ở giữa một ngõ lội lặm đầy sương mù. Gần đó có một cửa hàng sáng choang. Ngọn đèn gaz do những gương, những đồ sơn kim nhũ, những chai thủy tinh phản chiếu ánh sáng ra đến ngoài đường tới rãnh nước. Đó là một tiệm giải khát, ở đấy người ta bán đủ thứ rượu nhất là rượu mạnh.

Viên thư ký “sùy! Sùy!”, chúng tôi theo ông ta vào tiệm. Trước chúng tôi tưởng ngõ này là một ngõ khốn nạn. Chúng tôi đã nhầm. Chưa bao giờ, tôi thấy một hiệu lộng lẫy như thế. Chỗ nào cũng gương lóng lánh, có kim nhũ vàng ối, bàn bán hàng mạ bạc bóng loáng. Tuy nhiên những khách đứng ở trước bàn, người thì dựa vào tường, người thì tỳ vào thùng rượu, đều ăn mặc rách rưới. Một vài người không đi giầy, bàn chân họ đã lội bùn trông đen bóng như những đôi giầy mới quét xi chưa khô. Viên thư ký của chúng tôi đến cạnh bàn mạ bạc hỏi mua một cốc rượu thơm. Ông ta hớp một hơi dài như kiểu ông ta vừa hít khí trời ban nãy. Ông ta nói chuyện với người đàn ông bán hàng mặc sơ-mi cụt tay. Tôi không cần hỏi Mã-Tư, cũng biết ngay là ông ta hỏi đường đi.

Ông ta trở ra. Chúng tôi lại theo chân ông ta. Ngõ ngày càng hẹp dần. Vì thế mặc dầu sương xanh như khói, chúng tôi nhìn rõ những nhà cửa ở hai bên lối đi. Trên đầu chúng tôi, có những sợi dây mắc ngang từ nhà nọ sang nhà kia, thỉnh thoảng lại trông thấy những quần áo cũ rách vắt trên các dây đó.

Chúng tôi đi đâu bây giờ? Tôi bắt đầu buồn… chốc chốc Mã-Tư lại nhìn tôi. Nhưng anh không hỏi gì.

Từ ngõ này, chúng tôi lại rẽ sang một ngõ khác, đi qua một cái sân rồi lại vào một ngõ nữa. Nhà cửa trông tồi tàn hơn là những nhà cửa ở những làng tồi tàn nhất nước Pháp. Nhiều nhà lụp xụp, đóng bằng ván gỗ trông như cái lều chứa xe hay cái chuồng ngựa. Nhưng chính là những nhà để ở, đàn bà và trẻ con lúc nhúc trên ngưỡng cửa.

Một vài nhà thắp đèn. Tôi nhìn thấy những đàn bà người nào cũng xanh xao, tóc rối xõa xuống vai, trẻ con đứa thì cởi trần, đứa thì đeo những đồ rách. Thỉnh thoảng lại trông thấy những con lợn thả rông đang chúi mõm trong rãnh nước tù, mùi xông lên rất khó chịu.

Ông dẫn đạo tự nhiên đứng dừng lại. Đích là ông lạc lối. May sao lúc đó có một người vận áo dạ xanh, đội mũ dạ, trên cổ tay áo đính lon đen và trắng, ngang lưng đeo bao da, đi đến phía chúng tôi: đó là Cảnh-sát.

Hai người nói chuyện, xong người Cảnh-sát đi trước, chúng tôi theo sau. Chúng tôi qua những ngõ, những sân, những hẻm quanh co như rắn lượn và nhìn đây đó có những nhà xiêu nát như sắp đổ.

Sau cùng, chúng tôi đến một bãi đất, giữa có cái ao con.

Người Cảnh-sát nói:

- “Red lion court”.

Tiếng này tôi đã nghe nói đến nhiều lần. Mã-Tư bảo tôi:

- Bãi Hồng-Sư (sư tử đỏ).

Sao lại dừng lại ở đây? Lẽ nào đã đến Bethnal Green? Lẽ nào cha mẹ tôi ở đây? Thế thì…

Tôi đang mãi nghĩ, thấy người Cảnh-sát đến gõ cửa một căn nhà nhỏ vách gỗ giống như những nhà để chứa đồ. Xong ông ta quay ra, nhận lời cảm ơn của ông dẫn đạo chúng tôi rồi đi. Phải chăng chúng tôi đã tới nơi?

Mã-Tư vẫn cầm tay tôi. Anh liền nắm chặt bàn tay tôi, có cũng nắm chặt lại tay anh. Chúng tôi đã hiểu nhau. Cái buồn của tôi là cái buồn của anh.

Tôi bối rối không biết cánh cửa nhà đó đã mở ra lúc nào – khi tôi vào căn phòng đó có đèn sáng và than cháy trong lò, tôi mới định thần lại. Trong chiếc ghế bành bằng mây kê ở cạnh lò sưởi, có một cụ già râu bạc, đầu đội mũ len che cả tai. Ở hai bên cạnh bàn, một người đàn ông và một người đàn bà ngồi đối diện nhau. Người đàn ông độ bốn mươi tuổi, mặc áo nhung xám nét mặt thông minh nhưng hơi dữ; người đàn bà trẻ hơn độ năm sáu tuổi, tóc buông xuống chiếc khăn san kẻ ô đen và trắng buộc chung quanh vai. Gương mặt bà còn in lại những nét đẹp đã tàn. Vẻ lãnh đạm hiện ra trên đôi mắt lờ đờ và trong cử chỉ ơ hờ ẻo lả. Trong phòng, bốn đứa trẻ hai trai và hai gái, tóc đều đỏ như màu tóc của mẹ, người con trai lớn nhất trạc mười một, mười hai tuổi, người con gái út độ lên ba đang chập chững đi.

Vừa bước chân vào, hình ảnh trên đã thoáng in vào mắt tôi. Khi đó ông thư ký xì xồ bảo tôi.

Ông ta nói gì? Tôi không nghe rõ mà cũng không hiểu gì. Chỉ có tiếng “Điệp-Công” đập vào tai tôi thôi.

Mọi con mắt đều chĩa về phía Mã-Tư và tôi, cả con mắt ông già ngồi không cử động ở ghế. Duy có đứa con gái út chú ý nhìn Lãnh-Nhi.

Người đàn ông mặc áo nhung xám hỏi bằng tiếng Pháp:

- Trong hai người, ai là Lê-Minh?

Tôi chạy lên và thưa:

- Con.

- Thế thì con lại hôn cha đi.

Trước kia, tôi nghĩ lúc gặp gia đình tôi, có lẽ tôi mừng nhẩy vào cánh tay cha mẹ tôi. Nhưng lúc này, tôi không thấy cái mừng đó. Tuy nhiên tôi vẫn tiến lại hôn cha tôi.

Xong cha tôi giới thiệu:

- Đây ông con, mẹ con, và các em con.

- Bắt tay ông con đi, bắt nhẹ chứ, ông con bị bệnh tê liệt đấy.

Bắt tay ông tôi xong, tôi lại bắt tay các em tôi. Tôi muốn bế em bé nhưng em mãi chơi với Lãnh-Nhi, đẩy tôi ra.

Trong khi tôi đi trình diện từ người này đến người khác, tôi cảm thấy bực mình. Thế ra tôi không cảm thấy cái vui sum họp hay sao? Tôi có cha có mẹ, có em trai, có em gái, có ông, tôi được đoàn viên mà lòng tôi thấy nhạt nhẽo. Tôi đã âm ỉ chờ đợi giờ phút này, tôi đã sung sướng điên người khi nghĩ đến lúc gặp gia đình yêu dấu, thế mà bây giờ tôi thẫn thờ, nhìn hết người nọ đến người kia, lòng tôi trống rỗng, không có một câu thương yêu gì để thổ lộ. Tôi là một con quái vật hay sao? Tôi không xứng đáng có một gia đình hay sao?

Nếu tôi tìm thấy cha mẹ tôi ở một tòa lâu đài tráng lệ, tôi có tỏ hết tình yêu thương nung nấu trong lòng tôi bấy lâu không? Mà bây giờ gặp gia đình ở dưới mái tranh nghèo nàn này, sao tôi lại không đem lòng yêu thương đó đối với cha mẹ tôi?

Ý nghĩ đó làm tôi xấu hổ. Tôi liền lại trước mẹ tôi, tôi quấn quít và hôn mẹ tôi để tỏ lòng hiếu nghĩa của đứa con rơi. Nhưng có lẽ mẹ tôi không nghĩ đến nỗi lòng của tôi, nên đáng lẽ hôn trả tôi, mẹ tôi lạnh lùng nhìn tôi rồi hơi nhún vai quay về phía cha tôi nói những tiếng gì tôi không hiểu, nhưng cha tôi phì cười lên. Vẻ lãnh đạm kia và cái cười nọ làm tôi tan nát tim gan.

Tôi đang buồn bã, chợt cha tôi chỉ vào Mã-Tư và hỏi:

- Em này là thế nào?

Tôi cắt nghĩa cho cha tôi hay. Mã-Tư không những là người bạn đối với tôi không khác chi tình ruột thịt mà tôi còn chịu ơn anh rất nhiều.

Cha tôi bảo:

- Tốt lắm. Em muốn về chơi với con?

Tôi chưa kịp trả lời thì Mã-Tư đã đáp:

- Thưa ông, đúng thế.

Cha tôi hỏi:

- Thế còn Bảo-Liên? Sao ông ta không đến?

- Ông ấy chết rồi.

Tôi liền kể lại khi chúng tôi về Văn-Ông thăm bà Bảo-Liên, bà có cho biết là cha mẹ đang tìm tôi. Chúng tôi vội trở về Ba-Lê để gặp ông Bảo-Liên thì không may ông vừa mới mất.

Cha tôi liền dịch ra tiếng Anh cho mẹ tôi nghe. Mẹ tôi trả lời là “tốt”, “hay lắm” vì tôi nghe nhiều lần có tiếng well và tiếng good mà tôi hiểu. Tại sao cái chết của Bảo-Liên lại tốt và hay lắm: Tôi nghĩ mãi không tìm ra lý do.

Cha tôi hỏi tôi:

- Con không biết tiếng Anh à?

- Không. Con chỉ nói tiếng Pháp và biết tiếng Ý do một ông thầy diễn trò dạy con.

- Tên ông ta là Vỹ-Tiên?

- Cha có biết…

- Bảo-Liên có nhắc đến tên ông ấy khi ta sang Pháp tìm con. Chắc con lấy làm lạ sao trong 13 năm trời cha không tìm con, bỗng tự nhiên cha lại đi kiếm Bảo-Liên?

- Thưa cha, vâng, con thực lấy làm lạ.

- Con hãy lại ngồi gần lò sưởi, ta sẽ kể cho con nghe.

Cái đàn của tôi lúc mới vào tôi dựa ở chân vách. Bây giờ tôi tháo cái túi đeo ở vai tôi ra và đến ngồi chỗ cha tôi vừa chỉ.

Nhưng khi tôi vừa duỗi chân tôi ra gần lửa, ông tôi liền nhổ bọt về phía tôi và không nói gì, coi bộ như con mèo đang nổi giận. Tôi hiểu ngay là tôi đã chắn chỗ ông tôi, nên tôi rụt chân lại.

Cha tôi nói:

- Kệ ông già, ông ấy không thích người ta ngồi ở cạnh lò sưởi của ông ấy. Nhưng nếu con có rét, cứ việc sưởi. Không cần chú trọng đến ông ấy.

Tôi ngạc nhiên khi nghe cách đối xử với một ông già đầu bạc như thế. Tôi nghĩ trong nhà này, nếu có người được chú trọng thì chính là ông già ấy, người ta phải chú trọng trước nhất. Tôi liền co chân tôi vào dưới ghế tựa.

Cha tôi kể tiếp:

- Con là đứa con đầu lòng của ta. Ta kết duyên với mẹ con được một năm thì con ra đời. Khi cha cưới mẹ con, có một người thiếu nữ vẫn muốn lấy ta liền đem lòng thù oán và coi mẹ con là một tình địch không đội trời chung. Khi con được sáu tháng, thiếu nữ độc ác đó liền bắt trộm con đem sang Pháp và bỏ con ở phố thành Ba-Lê. Cha sai người tìm kiếm con khắp nơi nhưng không thấy gì. Ta không sang đến Pháp vì đâu biết họ lại đem con đi xa thế. Cha đinh ninh rằng thế là con biệt tích hay là con đã chết rồi. Bỗng cách đây ba tháng, người đàn bà nói trên bị bệnh trầm trọng, lúc hấp hối mới thú sự thực. Cha sang ngay Pháp, tìm đến sở cảnh-sát khu phố con bị bỏ rơi. Ở đó người ta cho biết một người thợ nề đã rước con về nuôi. Cha đi luôn Văn-Ông. Bảo-Liên nói rằng đã cho con đi ở với ông Vỹ-Tiên, một nghệ sĩ hát rong. Vì cha không thể ở lâu bên Pháp được nên đã đưa tiền và nhờ Bảo-Liên đi tìm con. Khi nào thấy thì cứ giao dịch với Phòng Cố vấn Pháp luật Greth and Galley cho tiện. Cha không để địa chỉ ở đây vì ta chỉ có mặt ở Luân-Đôn trong mùa đông thôi. Các mùa khác cha đi buôn hàng rong ở các nơi trong nước Anh và ở xứ Tô-Cách-Lan nữa. Khi đó cả gia đình đều cùng đi với xe hàng. Con ơi! Thế là cha đã tìm thấy con và sau 13 năm lưu lạc, con đã được trở về với gia đình. Cha biết rằng con hãy còn bỡ ngỡ, e sợ vì con lạ cả mọi người, con lại không nghe được tiếng cha mẹ nói và con cũng không nói cho cha mẹ hiểu được. Nhưng rồi cũng quen đi. Ta rất mong cho con chóng quen đi.

Phải lắm. Tôi sẽ quen đi. Cố nhiên tôi phải quen vì tôi ở trong gia đình tôi, những người tôi chung sống là cha mẹ, là các em tôi.

Những cái tã đẹp đã không nói thực. Đó là tai hại cho bà Bảo-Liên, cho Lệ-Hoa, cho ông An-Thanh, cho tất cả những người đã cưu mang tôi. Tôi không thể thực hiện được những điều tôi mơ tưởng, vì những người lái buôn rong, nhất là những người ấy ở trong một căn nhà lụp xụp, thì làm gì có nhiều tiền. Nhưng về phần tôi, cái đó có hề gì. Miễn là tôi có một gia đình và theo cái sở ước ngây thơ của tôi thì tiền cũng không bằng người mẹ. Tình thương hơn là châu báu. Tôi không thiết tiền, tôi khao khát một tình mẫu tử.

Trong khi tôi chăm chú nghe cha tôi kể chuyện, người ta đã đặt bát đĩa lên bàn, giữa bày một miếng thịt bò bỏ lò to với những khoanh khoai tây đặt chung quanh.

 Cha tôi hỏi Mã-Tư và tôi:

- Các con có đói không?

Mã-Tư nhe răng để trả lời.

Cha tôi bảo:

- Ta vào bàn ăn đi!

Trước khi ăn, cha tôi đẩy ghế ông già lại sát cạnh bàn. Rồi cha tôi ngồi quay lưng vào lò sưởi, cầm dao thái thịt bò và tiếp chúng tôi mỗi người một khoanh thịt lớn với khoai tây nữa. Mặc dầu tôi không được nuôi nấng trong khuôn phép, hay nói cho đúng là không được giáo dục bao giờ, tôi cũng nhận thấy lạ khi các em tôi đều ăn bốc hoặc chấm ngón tay vào nước mắm rồi mút mà cha mẹ tôi có lẽ coi là thường nên không nói gì. Còn ông tôi, hai mắt chỉ để vào đĩa ăn, và một tay cứ luôn luôn đi lại từ đĩa đến mồm. Tay ông tôi run run, lỡ khi đánh rơi miếng gì thì các em tôi lại cười khúc khích. Ăn xong, tôi tưởng còn được ngồi chơi chung quanh lò sưởi. Nhưng cha tôi bảo chúng tôi đi ngủ vì cha tôi còn bận đợi mấy người bạn. Rồi cha tôi xách một cái đèn đưa chúng tôi sang một căn nhà khác cạnh gian chúng tôi vừa ngồi ăn. Ở đó có hai cái xe ngựa lớn vẫn dùng để chở hàng. Cha tôi mở cửa xe, chúng tôi nhìn thấy cái giường hai tầng. Cha tôi nói:

- Giường các con đấy. Ngủ cho ngon giấc!

Đó là tất cả cuộc đón tiếp tôi về với gia đình, gia đình Điệp-Công.

Chương XXXV

cha mẹ phải tôn thờ

Cha tôi đóng cửa xe lại, treo đèn ngoài hiên rồi ra. Chúng tôi chỉ còn có việc ngủ. Chúng tôi sửa soạn để ngủ ngay, không nói chuyện với nhau như mọi tối và cũng không phô bày cảm tưởng về cái ngày đáng ghi nhớ đó.

Mã-Tư chúc tôi:

- Anh Minh, ngủ cho khỏe!

Tôi chúc anh:

- Anh Mã-Tư, ngủ ngon!

Mã-Tư không buồn nói. Tôi cũng chẳng nói và rất thích anh im lặng.

Nhưng không nói chuyện không phải là buồn ngủ. Đèn ngoài hiên đã tắt, tôi không sao nhắm mắt được. Tôi trằn trọc, trong cái giường hẹp, óc cứ nghĩ đến những chuyện vừa diễn ra. Trong lúc đó, Mã-Tư nằm ở giường trên, cũng thấy trở mình luôn, anh cũng không ngủ được như tôi.

Tôi hỏi sẽ:

- Anh chưa ngủ à?

- Chưa.

- Anh mệt lắm không?

- Không. Cảm ơn anh. Tôi vẫn khỏe. Nhưng không hiểu sao mọi vật cứ quay trước mặt tôi như là tôi đi trên biển và cái xe cứ như lên xuống, gập ghềnh.

Có phải vì anh chóng mặt mà không ngủ được hay vì óc anh cũng nghĩ cùng một điều như tôi mà không chợp mắt được? Anh yêu tôi cũng như tôi yêu anh, hai người đồng thanh đồng khí, cho nên anh đã cảm thấy những điều đang xúc động trong trái tim tôi.

Cái ngủ không đến. Thời khắc cứ trôi. Một mối lo sợ cứ bâng khuâng tràn ngập trong tâm hồn tôi. Lo sợ gì? Tôi không biết, nhưng tôi vẫn thấy lo sợ. Không phải vì nằm ngủ trong cái xe này giữa một xóm tồi tàn mà tôi sợ. Trong đời du mục của tôi, đã bao lần tôi phải ngả lưng ở đầu đường xó chợ, có được cái giường, cái mái như lúc này đâu? Tôi được trú ở một nơi kín đáo tránh được mọi nguy hiểm, thế mà lòng tôi vẫn không yên. Tôi cố trấn tĩnh bao nhiêu thì lòng tôi lại càng bứt rứt bấy nhiêu!

Trầm lặng, đêm cứ đi. Tôi không biết là mấy giờ rồi vì chung quanh nghe không thấy một tiếng chuông đồng hồ.

Chợt tôi nghe có tiếng “lịch bịch” ở cửa sau nhà xe. Cửa này thông ra một hẻm khác, rồi có mấy tiếng gõ đều đều, sau cùng một ánh sáng lọt vào trong xe chúng tôi nằm.

Tôi kinh ngạc, nhìn xung quanh. Con Lãnh-Nhi nằm ở chân giường tôi chợt thức sủa lên mới tiếng. Tôi nhìn kỹ thì cạnh giường chúng tôi có một cái cửa sổ ở thành xe, lúc vào không nhìn thấy vì có bức màn che đi. Sợ Lãnh-Nhi đánh thức cả nhà dậy, tôi liền lấy tay bưng miệng nó lại. Xong tôi nhìn ra ngoài.

Cha tôi đã vào nhà xe, nhẹ nhàng mở cửa sau cho hai người đàn ông, rồi đóng cửa lại rất êm. Hai người đó, người nào cũng vác trên vai một bao hàng to tướng.

Lúc đó, cha tôi giơ một ngón tay lên môi, tay kia cầm chiếc đèn ló chỉ vào xe chúng tôi nằm, ngụ ý bảo hai người kia đừng làm rầm, để yên cho chúng tôi ngủ.

Sự giữ gìn đó làm tôi cảm động. Tôi định bảo cha tôi cứ việc làm không cần bận tâm đến tôi vì tôi vẫn thức. Nhưng sợ nói to làm anh Mã-Tư dậy, và có lẽ anh đang ngủ say, nên tôi lại thôi. Cha tôi đỡ bao hàng cho hai người kia bỏ xuống đất. Rồi cha tôi đi ra. Lúc trở lại, có mẹ tôi theo sau. Khi cha tôi ra ngoài, hai người kia mở gói hàng ra, một gói đầy vải tấm, một gói chứa toàn mũ len, áo len, quần đùi, bí-tất, găng tay.

Tôi đoán là người lái này đem bán cho cha mẹ tôi.

Cha tôi cầm từng tấm vải, từng chiếc đồ, đưa ra gần đèn nhìn một lượt rồi trao cho mẹ tôi. Mẹ tôi cầm cái kéo con cắt những hiệu đi và bỏ vào túi. Việc cắt nhãn hiệu và việc bán hàng trong giờ khuya khoắt này làm cho tôi suy nghĩ.

Cha tôi vừa nhận hàng vừa nói chuyện với hai người lái. Nếu tôi biết tiếng Anh, tôi đã được rõ chuyện. Khi người ta không hiểu thì người ta hay sai. Tuy vậy những tiếng “bốp” và “cảnh-binh” nói đi nói lại nhiều lần, đã đập vào tai tôi.

Khi hàng hóa đã kiểm hết, cha mẹ tôi và hai người khách đều sang bên nhà. Căn phòng chúng tôi lại tối mò. Chắc chắn là mọi người sang đó để thanh toán tiền hàng.

Việc tôi vừa được coi là một việc rất thường. Tôi không muốn nghĩ. Tại sao những người lái đó không đi lối sân Hồng-Sư mà lại vào bằng cửa sau? Tại sao người ta lại nói nhỏ và nhắc đến “cảnh-binh” như là sợ người ngoài trông thấy. Tại sao mẹ tôi cắt hết những nhãn đính ở món hàng.

Tôi nghĩ mãi không tìm được câu trả lời. Tôi đành xếp chuyện đó lại để ngủ, nhưng tôi không sao nhắm mắt được. Một lúc lâu, tôi lại thấy ánh sáng lọt vào xe chúng tôi. Tôi lại ngồi dậy nhìn ra qua khe màn cửa sổ. Lần trước tôi nhìn ra là xuất ư tự nhiên. Lần này không hiểu sao tôi cố nhìn. Tôi đã định tâm không nhìn rồi tôi lại nhìn; tôi đã nghĩ không nên biết thì hơn, thế mà tôi cứ muốn biết.

Lần này chỉ có cha mẹ tôi thôi. Trong khi mẹ tôi gói các đồ thành hai bọc, thì cha tôi quét sạch một góc trong nhà xe. Khi rơm và cát đã dọn hết rồi, lộ ra một cái nắp hầm. Cha tôi mở ra, mẹ tôi soi đèn cho cha tôi đem hai bọc hàng xuống hầm, không rõ nông sâu thế nào. Xong cha tôi trèo lên, đậy nắp lại và lấy chổi vun cát lại như cũ. Hai người lấy rơm rắc lên trên như chỗ rơm khác trong nhà, người ngoài khó biết đâu là nắp hầm. Rồi cha mẹ tôi yên lặng đi ra.

Khi cha mẹ tôi khép cửa lại, tôi nghe có tiếng động ở giường trên, hình như anh Mã-Tư vừa đặt đầu xuống gối. Anh đã trông thấy việc vừa diễn ra? Tôi không dám hỏi anh. Tôi không mơ hồ nữa, bây giờ tôi đã rõ vì đâu tôi sợ hãi: từ chân lên đến đầu tôi toát ra một lớp mồ hôi lạnh ướt đầm.

Tôi cứ nằm thế mãi. Tiếng gà gáy trong xóm báo cho tôi biết trời gần sáng. Lúc đó tôi chợp mắt, dần dần chìm đắm trong giấc ngủ nặng nề, lộn xộn, đầy ác mộng.

Tiếng khóa động làm tôi thức dậy. Cửa xe mở ra. Tôi ngờ là cha tôi đến đánh thức chúng tôi nên tôi nhắm mắt lại không muốn nhìn.

Mã-Tư nói:

- Em anh vừa đến giải tỏa cho chúng ta. Nó ra rồi.

Chúng tôi đều trở dậy. Mã-Tư không hỏi tôi đêm có ngủ được không. Mà tôi cũng chẳng hỏi gì anh, thỉnh thoảng anh nhìn tôi, tôi lại nhìn đi chỗ khác. Tôi sang nhà, không thấy cha mẹ tôi đâu cả. Chỉ thấy ông tôi ngồi trên chiếc ghế bành mây, tôi tưởng tượng như ông tôi vẫn ngồi yên đó từ tối qua đến nay. Em gái tôi là Á-Ninh đang lau bàn, em trai tôi là Á-Lang đang quét nhà.

Tôi lại bắt tay các em tôi, nhưng hai người cứ tiếp tục làm không trả lời tôi.

Tôi tiến đến chỗ ông tôi, nhưng ông tôi không để cho tôi lại gần, cũng như chiều hôm qua, ông tôi nhổ về phía tôi làm cho tôi tưng hửng.

Tôi bảo Mã-Tư:

- Anh hỏi giúp tôi xem sáng nay khoảng mấy giờ thì tôi được gặp cha mẹ tôi?

Mã-Tư làm theo lời tôi. Ông tôi nghe thấy nói được tiếng Anh, liền dìu dịu. Mặt ông bớt hầm hầm và muốn trả lời.

Tôi hỏi:

- Ông tôi nói gì thế?

- Rằng cha anh đi đến tối mới về, mẹ anh còn ngủ và chúng ta có thể đi chơi được.

Thấy ông tôi nói nhiều mà anh thông ngôn ngắn quá, tôi hỏi:

- Ông tôi chỉ nói có thế thôi à?

Anh có vẻ bối rối và nói:

- Đoạn dưới không biết tôi hiểu có đúng không.

- Anh nhắc lại những câu anh hiểu.

- Hình như ông bảo nếu chúng mày ra phố gặp dịp “bở” thì đừng bỏ qua và ông nói thêm câu này tôi nghe rõ ràng:

- Nhớ lấy bài học của ta: “cần phải ăn bám vào những kẻ khờ dại”.

Có lẽ ông già đã đoán được những lời Mã-Tư thuật lại cho tôi vì đến câu cuối cùng, ông dùng cái tay không bị tê liệt làm hiệu như “nhặt vật gì bỏ vào túi” và nháy nháy chúng tôi.

Tôi bảo Mã-Tư:

- Chúng ta ra phố đi.

Chúng tôi ra bãi Hồng-Sư chơi, trong hai, ba tiếng đồng hồ, không dám đi xa sợ lạc. Ban ngày nhìn rõ mới biết Thanh-Lâm là một nơi rất ghê tởm. Chỗ nào cũng thấy nhà cửa tồi tàn, dân cư đói rách, Mã-Tư và tôi đều nhận thấy nhưng chẳng ai nói câu gì.

Chúng tôi đi loanh quanh mãi, sau nhìn thấy góc sân nhà tôi, chúng tôi liền lộn về.

Mẹ tôi đã dậy. Từ cửa ngoài tôi nhìn thấy mẹ tôi đang gục đầu xuống bàn. Tôi tưởng mẹ tôi ốm nên vội chạy lại hôn mẹ để thay câu hỏi, vì tôi không nói được với mẹ tôi.

Tôi ôm lấy mẹ tôi. Mẹ tôi ngửng lên, lung lay cái đầu, nhìn tôi nhưng mắt không trông thấy gì. Lúc đó ngửi thấy mùi rượu sặc sụa. Tôi lùi lại. Mẹ tôi lại gục đầu xuống hai cánh tay duỗi ở trên bàn.

Ông tôi nói:

- Say rượu đó.

Xong ông tôi nhìn tôi, cười ngạo và nói những tiếng gì nữa tôi không hiểu. Thoạt tiên tôi đứng trơ như người mất hồn, song tôi định thần lại ngay và nhìn Mã-Tư, thấy nước mắt anh chẩy quanh. Tôi liền ra hiệu cho anh. Chúng tôi cùng nhau lại ra ngoài.

Chúng tôi đi sát vai nhau, tay cầm tay, không nói gì, cứ tiến bước mà không biết đi đâu.

Thấy tôi đi mãi, Mã-Tư hỏi tôi, giọng buồn rầu:

- Anh định đi đâu thế?

- Tôi không biết, đến chỗ nào đó để chúng ta nói chuyện. Tôi có câu chuyện muốn ngỏ cùng anh, nhưng ở đây đông người quá không tiện.

Thực vậy, trong đời sống nay đây mai đó, khi ở sơn lâm, khi qua đồng ruộng, được đào luyện trong trường học của ông Vỹ-Tiên, tôi đã thành thói quen không bao giờ nói những việc riêng của mình, nhất là những việc quan trọng, giữa làng hay giữa phố đông người vì có ai đến gần là tôi mất hết ý tưởng. Nay tôi có câu chuyện rất quan trọng nên phải tìm chỗ vắng.

Lúc đó chúng tôi đang đi trong một phố rộng hơn hẻm nhà tôi. Đầu phố đó, tôi nhìn thấy bóng cây cao. Có lẽ là vùng quê. Chúng tôi rảo bước về phía đó. Đến nơi, không phải là miền quê, mà là một khu vườn rộng mênh mông có những bồn cỏ xanh tươi và những chòm cây non, cành lá rườm rà. Được chỗ tha hồ nói chuyện.

Nói những gì, tôi đã định trước. Khi chúng tôi ngồi dưới khóm cây, xa hẳn mọi người, tôi liền nói:

- Anh Mã-Tư ơi! Anh vẫn biết là tôi yêu anh, phải không anh? Chắc anh cũng hiểu là vì tình bạn tôi rủ anh về nhà cha mẹ tôi. Hẳn anh không nỡ ngờ vực lòng tôi nếu tôi yêu cầu gì anh?

Anh gượng cười và bảo tôi:

- Sao anh nói dở thế?

- Anh cười cho tôi khỏi buồn. Nhưng tôi có buồn cũng nguôi được vì không khóc với anh thì còn khóc với ai được?

Rồi tôi gục vào lòng anh nức nở khóc. Tôi cảm thấy tôi trơ trọi giữa xã hội bao la này. Sau cơn xúc động đó, tôi cố bình tĩnh lại: rủ anh Mã-Tư đến vườn này không phải là cho anh thương tôi, mà chính là vì tôi thương anh.

Tôi bảo anh:

- Anh Mã-Tư ơi! Anh phải đi đi. Anh nên trở về Pháp.

- Bỏ anh? Không bao giờ tôi bỏ anh!

- Tôi biết trước là anh không chịu. Anh quyết không bao giờ bỏ tôi. Tôi rất sung sướng, sung sướng lắm, xin anh chắc như thế, nhưng bây giờ tôi khuyên anh nên bỏ tôi, trở ngay về Pháp, về Ý hay bất cứ nơi nào miễn là đừng ở nước Anh này nữa.

- Thế anh, anh định đi đâu? Anh định chúng ta cùng đi nơi nào?

- Tôi á? Tôi phải ở lại đây, ở Luân-Đôn này với gia đình tôi. Đó là bổn phận của tôi, phải không anh? Còn bao nhiêu tiền anh cầm lấy cả mà đi.

- Anh Minh ơi, anh đừng nói thế. Nếu có một người cần phải đi thì người ấy chính là anh, chứ không phải tôi.

- Tại sao?

- Vì rằng…

Anh không nói hết, tránh mắt tôi mà nhìn ra chỗ khác.

- Anh Mã-Tư ơi! Cứ nói thực, đừng giữ ý, đừng sợ. Đêm qua, anh không ngủ và anh đã trông thấy cả, phải không?

Anh nhìn xuống, nói giọng nghẹn ngào:

- Tôi không ngủ.

- Anh đã trông thấy gì?

- Tất cả.

- Và anh đã hiểu…

- Rằng những người lái đó đã bán những hàng mà họ không phải mua. Cha anh đã mắng họ sao không gọi cửa đằng trước mà lại gọi cửa đằng sau. Họ nói họ bị lũ “bốp” rình, “bốp” nghĩa là cảnh-binh.

Tôi bảo anh:

- Vậy anh đã thấy rõ rằng anh phải đi.

- Nếu tôi phải đi thì anh cũng phải đi. Vì có ích cả cho anh cũng như cho tôi.

- Khi tôi rủ anh về đây, theo lời bà Bảo-Liên và theo mộng tưởng của tôi, tôi chắc gia đình tôi sẽ có thể cho hai chúng ta đi học được, nhưng việc đời lại không như thế, giấc mộng chỉ là… giấc mộng, vì thế chúng ta phải chia tay nhau.

- Không bao giờ!

- Anh hãy nghe tôi và hiểu lòng tôi. Anh đừng làm cho tôi khổ thêm. Thí dụ: khi qua Ba-Lê, chúng ta gặp Phú-Lợi, Phú-Lợi bắt anh, tất anh cũng không muốn tôi ở với anh và tất anh cũng nói với tôi những lời như tôi vừa nói với anh, có phải thế không?

Anh không trả lời.

- Có phải thế không? Nói đi, cho tôi biết có phải thế không?

Nghĩ một lúc rồi anh nói:

- Bây giờ đến lượt anh nghe tôi nói. Khi ở Văn-Ông, anh bảo tôi gia đình anh đang tìm anh, tin đó làm tôi buồn lắm. Đáng lẽ tôi phải sung sướng thấy anh sắp gặp cha gặp mẹ, trái lại tôi bực tức. Đáng lẽ tôi phải nghĩ đến cái vui, cái hạnh phúc của anh, trái lại tôi chỉ nghĩ đến tôi. Tôi tự bảo tôi rằng rồi đây anh sẽ có anh em, chị em; những anh em mà anh yêu cũng như yêu tôi, hơn tôi; những anh chị em sang trọng, có học thức, có giáo dục; những cậu, những cô bảnh bao cả; và tôi ghen. Đó là điều anh cần biết, đó là sự thật mà tôi cần thú ra để anh tha thứ cho tôi về những ý nghĩ đốn hèn đó.

- Ô! Anh Mã-Tư!

- Anh hãy nói lên, nói lên rằng anh bỏ lỗi đó cho tôi.

- Xin hết lòng. Tôi thấy anh buồn quá, tôi không nghĩ đến điều đó nữa.

- Thế là anh xuẩn, mà tôi thì độc ác. Nhưng nếu anh hết lòng tha thứ cho tôi vì anh tốt, còn tôi, tôi không tha thứ cho tôi vì tôi không tốt bằng anh. Câu chuyện cũng chưa hết. Tôi còn nghĩ rằng: ta theo Lê-Minh về Anh-quốc để chơi. Bao giờ hắn sung sướng, sung sướng quá không có thì giờ nghĩ đến ta nữa, ta sẽ rút lui, rút lui rất nhanh về làng Lục-Ca để hôn em Tuyết-Nga của ta. Nhưng đáng lẽ được giầu có, sung sướng như lòng chúng ta mơ ước cho anh, bây giờ anh không giầu và anh chỉ là… nghĩa là không được như điều chúng ta đã mong tưởng. Thế thì tôi không thể đi được. Và không phải là Tuyết-Nga, không phải là em gái tôi mà tôi phải hôn, chính là bạn tôi, bạn thân tôi, chính là anh ruột tôi, chính là Lê-Minh mà tôi phải yêu dấu vậy.

Nói xong, anh kéo tay tôi và đem hết cả tình hữu ái trong lòng hôn tôi. Nước mắt tôi ràn rụa ra, không phải là thứ nước mắt nóng rát và cay đắng như những giọt lệ tuôn rơi ban nãy.

Nỗi cảm xúc của tôi lớn lao thực, nhưng tôi không bỏ ý kiến cũ của tôi, tôi nói:

- Anh phải đi. Anh phải về Pháp thăm Lệ-Hoa, thăm ông An-Thanh, thăm bà Bảo-Liên và tất cả bạn bè tôi, nói cho những người đó biết tại sao tôi không thể thực hiện được ý muốn và lời hứa của tôi. Anh cắt nghĩa giúp cho rằng cha mẹ tôi không giầu như tôi đã quá tưởng tượng, tất nhiên các ân nhân của tôi cũng sẽ sẵn lòng lượng thứ cho tôi. Anh hiểu ý tôi đấy chứ? Cha mẹ tôi không giầu, nói thế là đủ. Không giầu, cái đó cũng không phải là một điều đáng hổ thẹn.

- Không phải vì cha mẹ anh không giầu mà anh muốn tôi trở về Pháp: nếu chỉ có thế thì tôi không đi đâu cả.

- Anh Mã-Tư ơi! Tôi xin anh, anh đừng làm tăng mối sầu của tôi vì nó đã quá lớn lao rồi.

- Ô! Không phải tôi muốn ép anh kể ra những điều mà anh cho là đáng xấu hổ. Tôi không tinh quái, không ranh mãnh. Nhưng, nếu tôi không hiểu những cái nó lọt vào đây – anh đập tay vào trán – thì ít ra tôi cũng cảm thấy những cái nó đập vào đây – anh để bàn tay vào trái tim – không phải vì cha mẹ anh nghèo mà anh giục tôi đi, không phải vì cha mẹ anh không nuôi nổi tôi mà anh muốn tôi đừng ở nữa, vì tôi không để phải ăn hại, tôi sẽ làm việc cho cha mẹ anh, chính vì… những cảnh mắt thấy đêm qua mà anh sợ cho tôi.

- Anh Mã-Tư ơi! Xin anh đừng nói nữa.

- Anh sợ rồi đến phải làm việc cắt nhãn những hàng không phải mất tiền mua, phải không?

- Ô! Im đi! Mã-Tư! Người bạn nhỏ của tôi ơi! Im đi!

Rồi tôi lấy hai bàn tay che mặt, lúc đó thẹn đỏ lên.

Mã-Tư nói tiếp:

- Nếu anh sợ cho tôi, tôi, tôi cũng sợ cho anh. Chính vì lẽ đó mà tôi đã bảo anh: chúng ta đi cả thôi, chúng ta trở về Pháp tìm bà Bảo-Liên, Lệ-Hoa và các bạn của anh.

- Không được, anh ạ. Cha mẹ tôi đối với anh không là gì vì không có liên hệ với nhau. Nhưng cha mẹ tôi là những người đã đã đẻ tôi ra, tôi phải ở với gia đình tôi.

- Gia đình anh! Ông già tê liệt kia: ông anh! Người đàn bà phục xuống bàn: mẹ anh!

Tôi đứng phắt dậy. Bằng giọng sai khiến chứ không phải giọng nài xin, tôi thét:

- Mã-Tư! Im mồm! Tôi cấm anh không được nói thế! Những người đó là ông tôi, là mẹ tôi, là những người tôi phải tôn thờ, phải yêu thương.

- Phải lắm, nếu thực là người của gia đình anh. Nhưng nếu các người đó không phải là ông anh, không phải là cha anh, không phải là mẹ anh thì anh cũng cứ tôn thờ, cũng cứ yêu thương à?

- Anh không nghe rõ chuyện cha tôi kể lại à?

- Chuyện đó có gì chứng minh là xác thực? Họ lạc một đứa con bằng tuổi anh. Họ đi tìm kiếm và họ thấy một đứa trẻ cùng tuổi với đứa con của họ. Có thế thôi.

- Anh phải biết đứa trẻ mà người ta bắt cóc đã bỏ ở phố Bảo-Tương và chính phố Bảo-Tương mà tôi đã được người ta tìm thấy ngay sau khi cha mẹ tôi thấy mất con.

- Tại sao hai đứa trẻ lại không có thể bị bỏ ở phố đó cùng một ngày được? Tại sao ông Cảnh-sát Trưởng khu phố Bảo-Tương lại không trỏ nhầm cho Điệp-Công về Văn-Ông được? Những điều đó rất có thể xảy ra được.

- Vô lý.

- Phải, những câu tôi nói, những lời tôi cắt nghĩa có thể là vô lý, chính vì tôi nói và giải nghĩa vụng về, vì đầu óc tôi kém, giá một người khác trình bầy khéo léo và rõ rệt hơn tôi, thì những việc trên lại thành hữu lý. Chính tôi vô lý. Có thế thôi.

- Không, còn nữa. Anh cứ nói đi!

- Lại còn điều này. Anh có nhận ra rằng anh không giống cha hay mẹ anh tí nào không? Anh có thấy tóc anh không đỏ như tóc của “tất cả” – anh nghe rõ – “tất cả” các em trai, em gái anh không? Tại sao tóc anh lại không giống các trẻ đó? Lạ hơn nữa là: một gia đình nghèo túng như thế này lại dám bỏ ra bao nhiêu tiền để tìm ra một đứa con? Vì những lý do trên, theo ý tôi, anh không phải là con họ Điệp-Công. Tôi biết tôi là một thằng xuẩn như người ta vẫn gọi tôi, đó là lỗi tại cái đầu tôi. Nhưng nhất định anh không phải là con họ Điệp-Công và anh không nên ở với gia đình ấy. Vạn nhất nếu anh cố tình ở lại thì tôi cùng ở lại với anh. Nhưng anh nên viết thư hỏi bà Bảo-Liên cho chúng ta biết rõ những tấm tã của anh hồi đó thế nào. Khi chúng ta nhận được thư trong tay rồi, anh thử dò hỏi người mà anh gọi bằng cha bây giờ xem sao. Lúc đó ta sẽ nhìn được rõ hơn. Cho tới ngày đó, ta không nên tiết lộ gì. Dù sao tôi cũng ở luôn bên cạnh anh. Nếu phải làm việc, chúng ta cùng làm với nhau.

- Nhưng có ngày người ta đánh vào đầu Mã-Tư thì sao?

- Cái đó không quan trọng! Những đòn người ta nhận thay bạn, vì bạn có đau bao giờ?

Chương XXXVI

con lãnh nhi mất nết

Đến chập tối chúng tôi mới trở về bãi Hồng-Sư. Suốt ngày chúng tôi quanh quẩn ở công viên nói chuyện với nhau. Chúng tôi đã dùng một tấm bánh mì để thay bữa ăn trưa. Lúc đó, cha tôi đã về rồi và mẹ tôi cũng đã khỏi mệt. Cha và mẹ tôi chẳng ai kêu chúng tôi bỏ nhà đi chơi cả ngày. Mãi sau bữa chiều, cha tôi mới ngỏ ý, muốn nói chuyện với hai chúng tôi. Cha tôi đưa chúng tôi đến chỗ lò sưởi. Ông tôi lại càu nhàu, quá bảo thủ phần lửa của mình thành ra dã man.

Cha tôi hỏi:

- Các con ở Pháp làm gì để kiếm ăn?

Tôi kể lại cách mưu sinh của tôi ở Pháp.

- Như vậy các con có bao giờ lo chết đói không?

Mã-Tư quả quyết đáp:

- Không bao giờ, không những chúng tôi đủ ăn mà còn có tiền mua được một con bò nữa.

Rồi đến lượt anh Mã-Tư, anh kể chuyện mua bò.

Cha tôi bảo:

- A! Thế các con là tài tử cả. Thử diễn qua tài nghệ ta xem.

Tôi lấy thụ-cầm ra gẩy một bài, bài đó không phải là bài Tình ca Ý.

Cha tôi nói:

- Tốt. Tốt lắm, còn Mã-Tư biết nghề gì?

Mã-Tư liền kéo một bài vĩ-cầm và thổi một bài kèn. Các em trai, em gái tôi đứng vây lấy chúng tôi trố mắt nhìn, nghe bài kèn lấy làm thú vị, vỗ tay khen.

- Còn Lãnh-Nhi làm được trò gì? Chắc không phải là các con nuôi để chơi. Tất nó cũng có ít nhiều tài để sinh sống được?

Tôi hết sức khoe khoang tài nghệ của nó để đề cao giá trị của nó và cũng để làm vẻ vang cho thầy tôi, ông Vỹ-Tiên. Tôi bảo nó diễn một trò vui. Các em trai, em gái tôi lại được dịp reo cười vui thích.

Cha tôi nói:

- Con chó này, thực là một kho tiền!

Đáp lời khen đó, tôi khoe thêm rằng con Lãnh-Nhi này rất thông minh dạy gì nó làm được ngay, cả đến những điều con chó khác chịu không sao học được mà nó vẫn làm được một cách dễ dàng.

Cha tôi dịch câu nói đó ra tiếng Anh. Và hình như nói thêm gì nữa, tôi không hiểu, những câu đó làm cho mọi người cười ồ lên: mẹ tôi, các em trai, em gái tôi và cả ông nội. Ông tôi cứ nháy nháy mắt và nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Fine dog”, nghĩa là con chó đẹp. Nhưng con Lãnh-Nhi không thấy đắc chí hơn.

Cha tôi nói tiếp:

- Nếu vậy thì ta định thế này. Nhưng trước hết Mã-Tư cần phải cho biết có muốn ở lại nước Anh và bằng lòng ở đây với chúng ta không?

Mã-Tư có tính giảo hoạt mà anh vẫn không tưởng đến. Anh đáp:

- Tôi muốn ở với anh Minh và anh Minh đi đâu tôi cũng xin đi.

Cha tôi hiểu sao được hàm súc trong câu nói của Mã-Tư, nên tỏ ra rất mãn ý.

Cha tôi nói:

- Nếu như vậy, ta trở lại ý định của ta. Nhà ta không giầu, chúng ta phải lại việc để kiếm ăn. Về mùa hè, chúng ta phải đi khắp nước Anh để đem hàng đến tận nơi cho những khách không có thì giờ đi mua. Nhưng về mùa đông, chúng ta không có mấy việc để làm. Vậy trong thời gian ta còn ở Luân-Đôn, Lê-Minh và Mã-Tư có thể đi đánh đàn trong các phố. Ta chắc kiếm ăn khá được vì gần đến ngày lễ Giáng-Sinh rồi. Nhưng ở đời này, không nên lãng phí, Lãnh-Nhi sẽ đi với Á-Lang và Á-Niên để diễn trò.

Tôi vội kêu:

- Lãnh-Nhi cần phải đi với con mới làm được việc. Con phải rời nó thì không tiện.

- Con cứ yên tâm. Nó sẽ học làm việc với Á-Lang và Á-Niên. Chia ra như thế, các con sẽ kiếm được nhiều tiền hơn.

- Nhưng con chắc chắn là nó không thể thành công được, mà rồi Mã-Tư và con cũng kiếm sút đi. Đi với Lãnh-Nhi, chúng con có thể thu được nhiều tiền hơn.

Cha tôi bảo:

- Nói thế là đủ. Khi ta bảo điều gì, điều đó phải được thi hành và ngay tức khắc. Đó là luật lệ của nhà này. Ta muốn rằng con phải tuân lời như các người khác.

Cãi sao được nữa. Tôi đành im lặng. Cái mộng sung sướng, tôi từng mơ tưởng cho tôi và cho Lãnh-Nhi nay đành tiêu tan cả. Chúng tôi sắp phải chia rẽ nhau. Buồn cho Lãnh-Nhi và buồn cho tôi biết bao!

Chúng tôi về xe để ngủ. Đêm đó cửa xe không bị khóa nữa.

Tôi vừa nằm xuống giường, Mã-Tư ghé vào tai tôi nói nhỏ:

- Anh đã thấy chưa? Cái người mà anh gọi là cha, không những cần có “nhiều trẻ con” để làm việc, lại cần cả những con chó nữa. Bây giờ anh đã mở mắt ra rồi đấy chứ? Sáng mai, chúng ta phải viết thư cho bà Bảo-Liên ngay đi.

Nhưng sáng hôm sau, tôi phải cắt nghĩa cho Lãnh-Nhi. Tôi ôm nó vào lòng, áp má vào đầu nó, bảo cho nó biết công việc bây giờ phải như thế và tôi mong nó chịu khó. Con chó đáng thương kia, nó nhìn tôi, nghe tôi rất chăm chú! Khi tôi trao dây cho Á-Lang, tôi lại dặn dò một lần nữa, nó thông minh và dễ bảo quá, nó buồn rầu lẳng lặng theo hai anh em Á-Lang không kháng cự gì.

Còn Mã-Tư và tôi, cha tôi muốn đích thân đưa chúng tôi đi đến những phố có thể kiếm được nhiều tiền, chúng tôi đi qua khắp thành phố Luân-Đôn để đến một khu phố phong phú nhất, có những dinh thự tráng lệ, những lâu đài nguy nga, những hoa viên thanh thú. Trong những phố đẹp, hè rộng đó, không có những người rách rưới xanh xao, toàn những thiếu phụ xinh tươi, áo quần rực rỡ, những xe ngựa sơn bóng như gương, những con ngựa đẹp và những người đánh xe to béo. Mãi đến tối mịt, chúng tôi mới về đến nhà, vì từ phố Went-End đến xóm Hồng-Sư xa quá, tôi mừng rỡ trông thấy Lãnh-Nhi, lấm láp nhưng vui vẻ.

Tôi lấy rơm lau chùi cho chó, lấy chiếc áo da cừu quấn cho nó rồi đặt nó vào giường tôi. Trong hai kẻ, nó và tôi, ai sung sướng hơn cả? Điều đó khó trả lời được.

Hơn hai tuần, chúng tôi cứ làm việc như thế. Sáng, Mã-Tư và tôi, chúng tôi đi đánh đàn rong hết phố này đến phố khác, đến chiều lại về. Còn Lãnh-Nhi thì theo Á-Lang và Á-Niên diễn trò. Nhưng một buổi tối kia, cha tôi bảo anh em Á-Lang phải ở nhà có việc, chúng tôi có thể đem Lãnh-Nhi cùng đi được. Chúng tôi sung sướng quá. Mã-Tư và tôi bảo nhau phải cố kiếm nhiều tiền hơn mọi ngày để từ sau được đưa Lãnh-Nhi đi mãi. Là việc tranh thủ lại con Lãnh-Nhi, chúng tôi không hề tiếc công tiếc sức.

Sáng hôm sau, chúng tôi chải chuốt sạch sẽ cho Lãnh-Nhi. ăn sáng xong, chúng tôi lên đường tìm đến những phố có nhiều quý khán quan ăn tiêu rộng mà chúng tôi đã biết. Muốn thế, chúng tôi phải đi khắp thành phố Luân-Đôn từ đông sang tây và qua những phố Old; phố Holborn và phố Oxford.

Không may cho dự định của chúng tôi, đã hai hôm nay sương mù không ngớt, bầu trời Luân-Đôn bao phủ một lớp hơi nước nhuộm mầu da cam. Trên các đường phố lửng lơ những đám khói xám làm cho khách đi đường dù chỉ cách nhau mấy bước cũng không nhìn rõ được. Người ta ít ra ngoài. Đứng sau cửa sổ, người ta nghe được tiếng đàn, tiếng hát nhưng người ta không nhìn thấy Lãnh-Nhi. Người ta không nhìn thấy Lãnh-Nhi làm sao mà ra tiền được? Bực quá, Mã-Tư chưởi cả sương, thứ sa mù khốn nạn đã ngăn trở mình, không ngờ trong lát nữa chính tấm màn sương khó chịu đó rất có ích cho cả ba chúng tôi.

Chúng tôi đi nhanh, Lãnh-Nhi theo sau. Thỉnh thoảng tôi gọi một tiếng để nó khỏi lạc, cho nó đi tự do như thế còn chắc chắn hơn là cầm dây.

Chúng tôi tới phố Holborn, ai cũng biết là một phố buôn bán sầm uất nhất Luân-Đôn. Chợt tôi không thấy Lãnh-Nhi theo chân tôi nữa. Nó đi đâu rồi? Thực là một sự hãn hữu.

Tôi liền đứng ở đầu một ngõ con để đợi. Tôi huýt sáo để gọi nó vì sương dầy quá không trông xa được. Đợi mãi, tôi đã sinh buồn, sợ ai trộm bắt nó rồi, chợt Lãnh-Nhi ở đâu sầm sầm chạy lại, miệng ngậm một đôi bít-tất len và ve vẩy đuôi. Nó chồm lại, hai chân trước bá lấy tôi giơ đôi bít-tất cho tôi và đợi được khen thưởng. Nó có vẻ đắc chí như người vừa làm được công chuyện gì rất khó khăn. Tôi đứng trơ ra không hiểu gì, thình lình Mã-Tư giật phắt lấy đôi bít-tất và cầm tay tôi kéo vào trong ngõ.

Anh bảo tôi:

- Chúng ta đi nhanh lên nhưng đừng chạy.

Một lúc lâu, anh mới bảo tôi tại sao chúng tôi phải tiến vào lối ấy.

Anh nói:

- Lúc nãy tôi cũng kinh ngạc như anh, đang nghĩ đôi bít-tất đó ở đâu ra, chợt có tiếng người đàn ông kêu: “có kẻ cắp, nó đâu rồi?” Kẻ cắp chính là Lãnh-Nhi, anh có hiểu không? Nếu không có sương mù thì chúng ta đã bị bắt giam như những kẻ cắp rồi còn gì!

Tôi hiểu lắm. Tôi tức nghẹn lại, không nói lên được. Người ta đã luyện con Lãnh-Nhi, con Lãnh-Nhi ngay thẳng thành một con chó đi ăn cắp.

Tôi bảo anh Mã-Tư:

- Chúng ta trở về đi. Buộc dây vào cổ nó mà dắt.

Mã-Tư không nói câu gì hơn nữa. Chúng tôi bước nhanh về xóm Hồng-Sư. Đến nhà, cha mẹ và con cái đang mải gấp vải quanh bàn. Tôi ném đôi bít-tất mới vào bàn. Á-Lang và Á-Niên cười ầm lên.

Tôi nói:

- Đây là đôi bít-tất mà con Lãnh-Nhi vừa ăn cắp được, vì người ta đã dạy nó ăn cắp. Con tưởng dạy thế để chơi thôi.

Tôi nói giọng run run nhưng không kém phần cương quyết.

Cha tôi hỏi:

- Nếu dạy thế không phải để chơi thì mày làm gì? Nói cho ta nghe.

- Con sẽ lấy dây buộc cổ nó. Mặc dầu con thương nó, con quyết dìm nó xuống sông Ta-Mi nếu nó còn làm thế. Con không muốn con Lãnh-Nhi thành kẻ cắp và con cũng không muốn cả con là đứa ăn cắp. Nếu mai mốt việc đó xẩy đến cho con, con quyết sẽ gieo mình xuống sông theo Lãnh-Nhi ngay lập tức.

Cha tôi trông thẳng mặt tôi, giận dữ, trợn mắt nhìn để áp bức tôi. Tôi cũng giương mắt nhìn lại. Nét mặt cha tôi bỗng dịu dần. Cha tôi bảo:

- Con nói phải đấy, dạy thế để chơi thôi. Muốn cho việc đó không xẩy ra nữa, từ nay cho Lãnh-Nhi đi kèm với con.

Chương XXXVII

những cái tã đẹp nói sai

Trước sự niềm nở làm thân của tôi, các em tôi Á-Lang cũng như Á-Niên đều ghét bỏ hằn thù. Tất cả những gì tôi làm cho chúng, chúng đều hắt hủi, coi tôi không phải là anh em với chúng.

Sau việc Lãnh-Nhi xẩy ra, tình thế lại càng gay go giữa tôi và các em tôi. Tôi phải ra hiệu bằng hai nắm tay cho chúng biết – vì tôi không diễn đạt được ý của tôi bằng tiếng Anh – rằng nếu chúng động vào con Lãnh-Nhi, tôi quyết chống lại để trả thù.

Em trai bỏ tôi, tôi đành thân với các em gái vậy. Nhưng thái độ của Á-Ninh em gái lớn của tôi, cũng chẳng khác gì thái độ của hai em trai tôi. Ngày nào Á-Ninh cũng kiếm chuyện với tôi và khoa kiếm chuyện đó rất tài.

Các em trai ghét, em gái lại hắt hủi, tôi chỉ còn em gái út tôi, em Cát, mới lên ba, nhỏ quá không biết về bè với các anh chị. Em Cát để tôi vuốt ve em. Trước hết vì tôi bảo Lãnh-Nhi làm trò cho em xem, sau vì tôi thường đem kẹo và cam về cho em ăn. Những quà này, tôi không phải mua. Trong những buổi diễn trò của chúng tôi, nhiều em bé thích Lãnh-Nhi mà trao cho. Buồn cười, khi các em đưa cam và bảo để “cho con chó” thực là vô nghĩa, nhưng tôi rất vui lòng và cảm ơn vì nhờ những thứ đó mà tôi được lòng em Cát.

Xem thế, nội gia đình tôi, cái gia đình mà tôi đã đặt bao nhiêu tình thương vào đó khi bước chân xuống tầu sang Anh-quốc, chỉ có em bé tôi là cho tôi yêu mà thôi. Ông tôi không thôi hằm hằm và nhổ bọt về phía tôi mỗi khi tôi lại gần. Cha tôi chỉ săn sóc đến tôi vào những buổi chiều để thu số tiền mà chúng tôi kiếm được. Mẹ tôi đi vắng luôn. Á-Lang, Á-Niên và Á-Ninh ghét tôi. Chỉ có em Cát là ưa tôi, nói cho đúng là ưa cái túi kẹo của tôi. Thực là chán ngán.

Mặc dầu trước kia, tôi gác bỏ những nghi vấn của Mã-Tư, nhưng trong những lúc buồn, tôi lại tự nghĩ nếu tôi thật là con của gia đình này, người ta đã đối đãi với tôi một cách khác có đâu lại lãnh đạm như thế! Nào tôi đã làm gì để đến nỗi phải ghét bỏ, phải bạc đãi?

Mã-Tư thấy tôi có bộ âu sầu, anh cũng thừa rõ nguyên nhân, liền vừa nói một mình vừa để bảo tôi:

- Nóng ruột quá, mãi không thấy bà Bảo-Liên trả lời.

Muốn kiếm thư đó, chúng tôi phải đến hỏi sở Bưu Điện vì thư gửi lối “lưu trí”, chúng tôi phải đến mà nhận. Vì thế, ngày nào chúng tôi cũng phải về qua sở Bưu Điện hỏi tin, chúng tôi đi lại mất bao nhiêu ngày vô ích. Sau cùng, bức thư mong đợi đó đã đến tay. Sở Bưu Điện không phải là chỗ đọc thư, chúng tôi tìm đến một ngõ vắng, thời giờ đó làm nguôi bớt xúc động của tôi. Đến nơi, tôi mở thư của bà Bảo-Liên, nghĩa là bức thư mà bà đã nhờ Linh-Mục Văn-Ông viết giúp:

Lê-Minh yêu quý của ta ơi!

Tiếp được thư con, ta rất lấy làm kinh ngạc và bực tức. Theo lời ông Bảo-Liên ngày trước nói chuyện với ta sau khi thấy con ở phố Bảo-Tương, cũng như sau khi tiếp chuyện ông khách đến tìm con, thì ta tin rằng cha mẹ con phải là một gia đình khá giả, một gia đình phú quý.

Điều đó rất có thể tin được, căn cứ vào cách ăn mặc của con khi ông Bảo-Liên ẵm con về làng Văn-Ông. Những đồ mặc của con tỏ ra là những đồ mặc của một đứa con nhà giầu. Con có hỏi ta những đồ mặc và những tã bọc đó thế nào. Việc này rất dễ, vì ta còn giữ những vật đó hòng làm chứng khi nào cần đến, mà theo ý ta, chắc cũng có ngày người ta đòi hỏi.

Nhưng trước hết, ta nói cho con biết ngay rằng con không có tã. Đôi khi ta có nói đến tã là do thói quen vì những trẻ sơ sinh vùng này đều quấn vải cả. Còn con, con không quấn bằng vải tã. Trái lại, con có quần áo tử tế. Đây là những thứ đã tìm thấy trên mình con ngày đó: một cái mũ bằng đăng-ten rất đẹp ít khi ta được trông thấy, một cái áo cụt tay bằng vải phim có đính ten ở cổ và ở hai tay, một cái áo lót bằng nỉ mỏng, một đôi bít-tất dài bằng len trắng, một đôi giầy trắng bằng sợi đan có những bông kết bằng lụa, một cái áo dài bằng nỉ mỏng và sau hết một cái áo khoác rộng có mũ trùm đầu, bằng cát-sơ-mia trắng, trong lót lụa, gấu có những đường thêu đẹp. Con không có khăn bọc thuộc bộ đồ đó vì khi ở sở Cảnh-sát người ta đã thay khăn bọc đó bằng một cái khăn vải thường.

Sau cùng, ta nói thêm rằng tất cả những vật đó không có dấu hiệu, những áo lót bằng nỉ và cái áo cụt tay của con chắc có dấu hiệu vì những chỗ vẫn thường để ghi dấu hiệu đều bị cắt đi. Như thế chứng tỏ rằng người ta đã chủ tâm làm mất di tích cho hết tìm tòi.

Lê-Minh, con yêu quý của ta ơi! Đó là tất cả những điều mà ta biết. Khi nào con cần đến, cứ viết thư cho ta, ta sẽ gửi tất cả cho con.

Con ơi! Con đừng buồn vì không thể cho ta những tặng phẩm mà con đã hứa! Con bò của con đã mua bằng tiền là mồ hôi nước mắt của con, quý giá hơn tất cả các thứ quà khác trên đời này.

Ta rất hoan hỷ báo tin con biết con bò quý đó vẫn khỏe mạnh, sữa vẫn nhiều, nhờ nó bây giờ ta dễ chịu. Mỗi khi nhìn đến nó, ta không khỏi nghĩ đến con, đến Mã-Tư người bạn tốt của con.

Khi nào có dịp, con viết thư về cho ta, ta rất sung sướng nhận được tin tức con. Ta mong rằng những tin tức đó sẽ tốt lành. Một đứa trẻ thành thực, trung hậu đáng yêu như con lẽ nào lại không được sung sướng trong gia đình với cha, với mẹ, với các anh chị em; gia đình con lẽ nào lại không yêu thương con vì con đáng được thương yêu.

Thôi! Chào con, ta yêu dấu hôn con.

Người mẹ nuôi của con

Sương phụ Bảo-Liên

Đoạn cuối thư làm cho tôi đau lòng. Bà Bảo-Liên khốn nạn, bà đã thương tôi biết nhường nào! Vì bà yêu tôi nên bà tưởng tượng rằng tất cả mọi người ai cũng phải yêu tôi như bà.

Mã-Tư nói:

- Bà Bảo-Liên đáng kính, bà đã nhớ đến tôi. Nhưng rồi đây bà có quên tôi, tôi cũng không thể không cảm ơn bà vì lá thư kia. Với sự mô tả đầy đủ đó, ông Điệp-Công không thể mơ hồ về số quần áo ở mình anh khi người ta bắt trộm anh được nữa nhá!

- Cha tôi có khi quên chăng?

- Anh đừng nói thế. Quên làm sao được những quần áo người ta đã mặc cho con hôm nó mất tích, vì phải nhớ cách ăn mặc thế nào thì mới hòng tìm được chứ!

- Hãy đợi từ nay đến hôm cha tôi trả lời. Anh đừng đặt những giả thuyết nữa. Tôi van anh.

- Không phải tôi đặt giả thuyết. Đó là ý kiến của anh vì anh bảo cha anh có khi quên chăng.

- Thôi, chúng ta đợi xem.

Hỏi lại cha tôi cách ăn mặc của tôi thế nào khi tôi bị bắt trộm thực là một việc khó khăn. Nếu tự nhiên, không có ẩn ý gì mà tôi hỏi một cách ngây thơ thế thì dễ lắm. Nhưng đằng này, tôi định tâm dò hỏi thì lại thấy chút chát và ngài ngại. May sao, một hôm trời mưa lạnh, chúng tôi về nhà sớm hơn ngày thường. Tôi hết sức lấy can đảm đưa câu chuyện về vấn đề thắc mắc trên đã từng làm cho tôi đau đớn.

Tôi mới thò ra mấy tiếng đầu, cha tôi đã nhìn mặt tôi, soi mói ở mắt tôi như những lần tôi nói câu gì phật ý cha tôi. Tôi cứ bình tĩnh nhìn cha tôi, tự nhiên như thường.

Tôi tưởng cha tôi sắp cáu tiết, tôi liếc mắt nhìn Mã-Tư – lúc đó anh ngồi giả vờ như không để ý gì cả – có ý bảo cho anh biết là anh đã xúi dại tôi. Nhưng cha tôi không làm gì cả. Khí tức đã bốc hết rồi, cha tôi mỉm cười có vẻ thâm độc nhưng cũng là một nụ cười.

Cha tôi nói:

- Cái đã làm cho ta dễ tìm thấy con chính là cách ăn mặc của con trong ngày con bị bắt trộm, một cái mũ vải viền đăng-ten, một cái áo cụt tay cũng có đăng-ten, một tấm lót và một cái áo dài bằng nỉ mỏng, một đôi bít-tất len, một đôi giầy đan, một cái áo choàng có mũ chùm đầu bằng cát-sơ-mia trắng gấu thêu. Ta hy vọng nhiều nhất vào những dấu hiệu Đ.P., nghĩa là Điệp-Công-Phan, tên của con. Nhưng thiếu nữ bắt trộm con đã khôn khéo cắt mất hai chữ đó để mất lối tìm kiếm. Ta đã phải xuất trình giấy chứng thư “rửa tội” xin ở nhà thờ, người ta đã trả lại và hiện giờ ta vẫn còn giữ đây.

Nói xong, cha tôi vui vẻ – cái vui vẻ bất thường – lục ở ngăn kéo và lấy một tờ giấy lớn có nhiều dấu đưa cho tôi xem.

Tôi cố can đảm nói:

- Nếu cha vui lòng, cha cho Mã-Tư xem.

- Tốt lắm.

Mã-Tư dịch tàm tạm đôi câu cho tôi nghe: tôi sinh ngày thứ Năm mồng 2 tháng Tám, là con trai ông Điệp-Công-Tích và bà Mạc-Gia-Lan, vợ ông.

Còn hỏi thêm gì nữa? Tuy nhiên, Mã-Tư vẫn không chịu. Tối đến, khi chúng tôi vào xe ngủ, anh lại ghé vào tai tôi nói nhỏ như còn có điều gì bí mật nữa.

Anh nói:

- Tất cả những điều ta đã nghe đó, hay thực, nhưng chưa đủ giải thích cho ta tin rằng ông Điệp-Công-Tích và bà Mạc-Gia-Lan, vợ ông, giầu có thế nào mà may mặc cho con nào mũ đăng-ten, nào áo cánh đăng-ten, áo dài thêu gấu; những người lái buôn rong không phú quý như thế được!

- Chính vì cha mẹ tôi là lái buôn rong nên những quần áo đó mới dễ kiếm và rẻ tiền.

Mã-Tư lại thở dài và lắc đầu. Xong anh lại nói nhỏ vào tai tôi:

- Tôi còn một ý tưởng nữa nó cứ ám ảnh trong đầu tôi: anh không phải là con của quý ông Điệp-Công, mà chính là đứa con quý ông Điệp-Công đã bắt trộm.

Tôi định cãi lại thì Mã-Tư đã leo lên giường mất rồi. Nếu ở địa vị Mã-Tư, có lẽ tôi cũng có nhiều tưởng tượng như anh, nhưng ở địa vị tôi, tôi không được phép tưởng tượng bừa bãi thế. Người đó là cha tôi. Còn đối với Mã-Tư thì người đó là “quý ông Điệp-Công” như anh vẫn thường nói. Mỗi khi ý tưởng tôi nghiêng về Mã-Tư thì tôi lại cố nắm lại, nắm lại bằng một bàn tay cứng rắn.

Về quý ông Điệp-Công, Mã-Tư có thể tha hồ xét nghĩ.

Đối với Mã-Tư, quý ông Điệp-Công chỉ là một người, anh không bắt buộc có bổn phận gì. Trái lại, tôi, đối với cha tôi, tôi phải kính trọng.

Trong trường hợp hiện thời của tôi, chắc hẳn cũng có sự gì uẩn khúc, nhưng tôi không được phép tự do nhận xét theo quan điểm của Mã-Tư, Mã-Tư có thể được hoài nghi. Còn tôi, cấm chỉ mới phải. Vì thế mỗi khi Mã-Tư ngỏ ý nghi ngờ cùng tôi, tôi có bổn phận bắt anh phải im.

Đó là việc tôi cố gắng. Nhưng Mã-Tư có đầu óc của Mã-Tư. Tôi không tài nào khuất phục nổi anh được.

Anh tức giận bảo tôi:

- Nếu không bằng lòng, anh cứ việc cộp vào đầu tôi đi. Nhưng anh hãy nghe tôi.

Vì thế tôi bắt buộc phải nghe những câu hỏi của anh.

“Tại sao Á-Lang, Á-Niên, Á-Ninh và bé Cát, tóc đỏ cả mà tóc tôi lại không đỏ?”

“Tại sao mọi người trong gia đình, trừ em Cát thơ dại ra, lại bạc đãi tôi như một con chó ghẻ?”

“Những người không giầu có gì lại may mặc cho con những quần áo có đăng-ten, thế là thế nào?”

Để trả lời những “tại sao” và “thế nào” của anh, tôi có những câu đáp rất hay, đồng thời cũng là những câu hỏi:

“Tại sao gia đình Điệp-Công lại tìm tôi nếu tôi không phải là con họ?”

“Tại sao vô cớ gia đình đó lại bỏ tiền ra cho Bảo-Liên và Phòng Cố vấn Pháp luật Greth and Galley?”

Về hai điểm này, Mã-Tư “trả lời” rằng anh chịu không “trả lời” được. Tuy nhiên anh vẫn không chịu thua, anh nói:

- Tôi không trả lời được những câu hỏi của anh, không phải là tôi nhầm trong những câu tôi hỏi mà chính anh cũng không trả lời được. Một người khác vào chỗ tôi, người đó có thể biết rõ tại sao quý ông Điệp-Công cần tìm anh và bỏ tiền ra với mục đích gì. Còn tôi, tôi không tìm ra được vì tôi không tinh khôn và vì tôi không biết gì là gì.

- Anh đừng nói thế. Trái lại, anh là một người rất tinh khôn.

- Nếu tôi tinh khôn, tôi đã cắt nghĩa ngay được những điều tôi cảm thấy mà không cắt nghĩa được: không, anh không phải là con gia đình đó. Một ngày kia, thế nào chuyện đó cũng vỡ tung ra. Tôi tin chắc thế. Có điều bây giờ anh cứ khăng khăng không chịu mở mắt, thành ra anh làm chậm cái ngày giải thoát đó thôi. Tôi biết cái anh gọi là tinh thần gia tộc nó ràng buộc anh, nhưng anh đừng để nó làm mê muội anh.

- Nhưng anh bảo tôi làm gì bây giờ?

- Tôi bảo chúng ta trở về Pháp.

- Không được.

- Không được vì bổn phận bắt anh phải ở với gia đình. Nhưng nếu gia đình đó không phải là gia đình anh thì nó cũng cứ giữ được anh à?

Những câu bàn cãi về loại này không đi đến đâu cả, mà còn làm tăng mối buồn của tôi. Còn có cái gì ghê gớm hơn là cái ngờ, vì tôi đã sinh ngờ.

Người cha đó phải chăng là cha tôi? Người mẹ đó phải chăng là mẹ tôi? Gia đình đó phải chăng là gia đình tôi?

Nỗi lòng nói ra càng đau. Tôi muốn ngồi yên một xó cho đỡ khổ não.

Khi tôi không có gia đình, tôi buồn tôi khóc. Khi tôi đã có gia đình rồi, ai biết rằng tôi buồn, tôi khóc hơn? Tìm đâu thấy tia sáng? Ai đem ánh sáng đến cho tôi? Bao giờ tôi mới biết sự thật?

Trước những câu hỏi đó, tôi vô cùng thất vọng. Tôi tự nghĩ giá trong lúc đêm tối này, tôi có đập đầu vào tường chăng nữa cũng không sao mở được lối ra. Thế mà ngày nào tôi cũng phải nén lòng sầu thảm để đàn, để hát, để nhăn mặt làm trò cười cho thiên hạ xem.

Những ngày chủ nhật là những ngày tốt cho tôi vì người ta không hát rong ở Luân-Đôn trong những ngày nghỉ. Những hôm đó, tôi được tự do trầm lự, tự do đi chơi với Mã-Tư và Lãnh-Nhi. Thân hình tôi thiều tụy trông không giống tôi về mấy tháng trước.

Một chủ nhật kia, khi tôi đang sửa soạn đi chơi với Mã-Tư, cha tôi bảo có việc cần đến tôi, giữ tôi ở nhà và cho Mã-Tư đi chơi một mình. Ông tôi ở nhà trên. Mẹ tôi đưa hai con gái đi chơi. Các em trai tôi cũng ra phố cả. Ở nhà chỉ còn cha tôi và tôi.

Một giờ sau, có tiếng gõ cửa. Cha tôi chạy ra mở. Lúc trở vào, có một người đàn ông theo sau. Ông khách này không giống những bạn hàng ngày của cha tôi.

Ông ta vào hạng người mà ở nước Anh thường gọi là thân sĩ, nghĩa là một nhân vật ăn mặc sang trọng, và dáng điệu cao quý. Ông khách độ năm mươi tuổi, nét mặt hơi mệt nhọc. Cái mà tôi nhận thấy trước nhất ở ông ta là cái cười nhếch đôi môi để lộ hai hàm răng trắng nhọn như gấu con. Cái đặc điểm đó làm cho người ta khi trông thấy phải tự hỏi: không biết có phải ông ta nhếch mép để cười không, hay là chực cắn?

Trong khi nói chuyện với cha tôi, thỉnh thoảng ông lại quay nhìn vào tôi. Nhưng khi gặp mặt tôi thì ông lại trông ra chỗ khác.

Nói chuyện bằng tiếng Anh một lúc, ông quay ra nói tiếng Pháp.

Ông nói rất thạo và nhanh.

Ông trỏ vào tôi và hỏi cha tôi:

- Đây là đứa trẻ mà ông đã nói chuyện với tôi? Nó coi bộ khỏe mạnh đấy.

Cha tôi bảo tôi:

- Con trả lời đi.

Ông khách lại hỏi tôi:

- Em khỏe mạnh chứ?

- Thưa ông, vâng.

- Em không bao giờ ốm chứ?

- Một lần con bị phế viêm.

- A! A! Tại sao thế?

- Vì ngủ đêm trong mưa tuyết và gió lạnh. Thầy con chết rét, còn con bị sưng phổi.

- Đã lâu chưa?

- Ba năm nay.

- Từ đó em có mắc lại chứng đó không?

- Không.

- Không mệt, không lử, không có mồ hôi đêm chứ?

- Không bao giờ có, con chỉ mệt khi nào đi nhiều, nhưng không vì thế mà ốm.

- Em chịu được mệt nhọc?

- Phải chịu.

Ông liền đứng dậy lại chỗ tôi, ông nắn cánh tay tôi, đặt tay trên tim tôi, rồi áp đầu vào lưng, vào ngực tôi, bảo tôi thở mạnh như người chạy nhiều. Ông cũng bảo tôi ho cho ông xem nữa.

Khám xong, ông nhìn thẳng vào mặt tôi hồi lâu, ông mỉm cười, cái cười ghê sợ, tôi tưởng ông sắp cắn tôi.

Không hỏi tôi nữa, ông về chỗ, tiếp tục nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh. Vài phút sau, hai người đưa nhau ra, không đi cửa trước mà bằng lối cửa sau nhà để xe.

Ngồi một mình, tôi nghĩ mãi không hiểu ông khách hỏi tôi thế để làm gì. Ông muốn dùng tôi làm người hầu chăng? Như vậy tôi phải xa Mã-Tư và Lãnh-Nhi. Không đời nào tôi chịu đi làm đầy tớ ai, không phải tôi sợ ông thân sĩ có vẻ độc ác kia, nhưng nếu có người tử tế khác cần đến, tôi cũng không làm.

Một lúc sau, cha tôi trở về, bảo có việc bận phải đi và tôi có thích thì cứ đi chơi. Tôi không thích, nhưng ở nhà làm gì bây giờ. Đi chơi còn hơn là ở nhà ngồi buồn.

Nhân trời mưa, tôi vào xe tìm chiếc áo da cừu. Tôi giật mình thấy Mã-Tư nằm trong xe! Tôi định hỏi, anh lấy tay bịt mồm tôi lại và nói sẽ:

- Anh mở cửa sau, đi trước đi. Tôi sẽ yên lặng theo sau. Đừng để người ta biết tôi vẫn nằm trong xe.

Chúng tôi ra phố, đi một quãng xa rồi Mã-Tư mới dám nói chuyện.

Anh nói:

- Anh có biết ban nãy ai đến nói chuyện với cha anh không? Ông Mỹ-Giang, chú của An-Tuyên bạn anh đấy.

Tôi sững người ra giữa phố. Anh cầm tay tôi dắt đi và nói tiếp:

- Vì tôi đi chơi một mình thấy phố buồn và ngày chủ nhật buồn quá. Tôi lộn về và lên giường ngủ. Nhưng tôi không ngủ được. Chợt thấy cha anh và ông khách tự nhiên vào nhà để xe. Tôi không chú ý và nghe thoáng thấy ông thân sĩ nói rằng:

“Nó rắn chắc như đá. Sưng phổi, mười đứa khác phải chết, thế mà nó sống”.

Biết là nói chuyện anh, tôi liền chú ý, nhưng câu chuyện lại sang vấn đề khác. Cha anh bảo ông khách:

“Bệnh tình cháu ông thế nào? – Khá, lần này có cơ thoát. Đã ba tháng nay, thầy thuốc đều chê cả. Mẹ nó đã hết lòng săn sóc và cứu được nó. Bà Mỹ-Lưu thực là một người mẹ hy sinh vì con”.

Anh coi: Nghe đến tên bà Mỹ-Lưu, tôi giật mình và cố lắng tai.

Cha anh hỏi tiếp:

“Nếu cháu ông không việc gì thì mọi đề phòng của ông thành ra vô ích cả à? – Ông khách đáp: trong lúc này thì thế, nhưng tôi không tin rằng An-Tuyên sống. Nếu nó sống thì chẳng là một ‘phép mầu’ đó sao! Trong đời này không còn ‘phép mầu’ nữa. Sau này nó chết, phải tránh mọi trở ngại để người độc nhất thừa kế phải là Mỹ-Giang mới được”.

Cha anh nói:

“Xin ông yên tâm. Việc đó tôi xin cam đoan giúp đỡ ông”.

Thân sĩ nói:

“Tôi rất trông cậy vào ông”.

Rồi ông ta nói thêm nhiều tiếng mà tôi không hiểu rõ, đại khái là:

“Hiện thời, ta phải xử trí khoản đó”.

Thế rồi ông ta ra về.

Nghe xong câu chuyện, tôi chực chạy luôn về hỏi cha tôi cái địa chỉ của ông Mỹ-Giang để viết thư hỏi thăm bà Mỹ-Lưu và cậu An-Tuyên. Nhưng tôi nghĩ ngay ra đó là một việc làm rất khờ dại. Tìm đến người đang mong cho cháu mình chết mà hỏi tin tức đứa cháu đó, có phải ngu không? Vả lại làm thế có phải là tự tố giác mình là người đã đi nghe trộm không!

An-Tuyên còn sống và đã bình phục! Hiện thời chỉ một tin đó cũng đủ làm cho tôi mừng lắm rồi.

Chương XXXVIII

đêm giáng sinh

Ngày nào chúng tôi cũng chỉ nói đến chuyện cậu An-Tuyên và bà Mỹ-Lưu, đến chuyện ông Mỹ-Giang. Cậu An-Tuyên và bà mẹ cậu bây giờ ở đâu? Chúng tôi làm thế nào mà tìm thấy bà?

Cuộc đến thăm của ông Mỹ-Giang đã gợi ra cho chúng tôi một ý nghĩ và gây thành một chương trình hành động mà kết quả có thể tin được là mỹ mãn: ông Mỹ-Giang một lần đã để chân đến xóm Hồng-Sư, rất có thể ông lại đến lần thứ hai, thứ ba nữa: ông chả có việc phải giao dịch với cha tôi là gì? Thế rồi, khi ông trở ra, Mã-Tư – ông không biết mặt – sẽ theo hút ông và biết được địa chỉ. Rồi chúng tôi dò hỏi người nhà và đầy tớ tất nhiên sẽ biết được chỗ ở cậu An-Tuyên.

Sao lại không biết được? Tôi tin chắc là phải thành công.

Cái chương trình tốt đẹp đó không những có lợi cho tôi là sẽ được gặp cậu An-Tuyên, lại còn cái lợi hiện thời là làm cho tôi bớt phiền muộn.

Sau việc Lãnh-Nhi xẩy ra, sau ngày bà Bảo-Liên trả lời, Mã-Tư không thôi nhắc tôi: “Chúng ta phải trở về Pháp”. Đó là một điệp khúc mà tôi phải nghe luôn. Tôi cũng trả lại anh bằng một điệp khúc khác: “Tôi không thể bỏ gia đình tôi”, chúng tôi không sao đồng ý nhau được, vì ai cũng cố giữ vững lập trường của mình:

- Anh phải đi!

- Tôi phải ở!

Nhưng từ khi câu đáp “tôi phải ở” có thêm túc từ “để tìm An-Tuyên” thì Mã-Tư không còn lý gì để cãi lại nữa. Anh không chống lại An-Tuyên, vì nên hay đừng cho bà Mỹ-Lưu biết âm mưu của em chồng bà?

Muốn đợi Mỹ-Giang mà chúng tôi cứ phải sáng đi tối về như lệ thường từ ngày đến Luân-Đôn tới nay, thì bao giờ gặp được. May sao đã gần đến vụ nghỉ đàn hát ban ngày để đi trình diễn về đêm, nghĩa là đến vụ hòa nhạc về dịp lễ Giáng-Sinh. Lúc đó, được ở nhà suốt ngày, chúng tôi sẽ thay phiên nhau tuần phòng thì thế nào cũng bắt gặp được chú cậu An-Tuyên.

Một hôm Mã-Tư bảo tôi:

- Anh có biết tôi mong mỏi được gặp bà Mỹ-Lưu không?

- Tại sao?

Anh ngập ngừng hồi lâu rồi nói:

- Vì bà đã thương yêu anh lắm.

Rồi anh nói thêm:

- Vì may ra bà có thể “làm cho anh tìm thấy cha mẹ thật” của anh.

- Mã-Tư!

- Tôi không muốn nói ra, nhưng không phải lỗi tại tôi vì không một giây phút nào mà tôi không nghĩ rằng anh không phải là con gia đình Điệp-Công. Anh hãy nhìn tất cả những người trong nhà đó rồi anh nhìn lại anh xem. Tôi không muốn nói đến màu tóc nữa. Anh có cái “cử động của bàn tay” và “cái cười giả tạo” của ông anh không? Nếu tôi không phải là con cha tôi thì sao tôi lại không học mà biết thổi kèn, đánh vĩ-cầm và biết dùng các thứ nhạc khí khác? Cha tôi là Nhạc công; tôi cũng thành Nhạc công. Đó là lẽ tất nhiên. Còn anh, tôi trông anh có dáng điệu thiên nhiên của một trang thân sĩ, anh tất “thành một thân sĩ khi anh được gặp bà Mỹ-Lưu”.

- Tại sao thế?

- Tôi nghĩ thế.

- Anh cho tôi biết ý nghĩ của anh.

- Ô! Không thể được.

- Bởi vì?...

- Bởi vì ý nghĩ của tôi xuẩn quá.

- Thì sao?

- Nếu ý nghĩ đó không đúng, nó lại thành ra ngu. Không nên tạo những cái vui để mừng hụt. Cái kinh nghiệm về màu xanh của tên phố Bethnal (Thanh-Viên) đã cho ta một bài học. Chúng ta có tìm thấy những cánh đồng cỏ ở đấy không hay chỉ là những ao bùn?

Tôi không ép anh nói, vì tôi, tôi cũng có một ý kiến.

Ý kiến của tôi nghĩ ra cũng mơ hồ lộn xộn, rụt rè và có lẽ xuẩn hơn ý kiến của Mã-Tư, nên vì thế mà tôi không dám nài anh ngỏ ý kiến của anh cho tôi nghe. Tôi sẽ trả lời anh sau, nếu ý kiến của anh cũng giống cái ý kiến đang bồng bềnh vô định trong đầu tôi như ở một giấc mơ? Tôi không dám phát biểu ra vì tôi không có can đảm bàn cãi với anh về điều đó.

Chỉ còn có cách đợi. Chúng tôi đợi.

Trong khi chờ đợi, chúng tôi tiếp tục hát rong trong thành phố Luân-Đôn. Chúng tôi không phải là những nhạc sĩ anh chị có hẳn một khu phố riêng để ngự trị. Chúng tôi là những trẻ con và mới đến, không nắm được một phố nào, phải nhường chỗ cho các bậc đàn anh đòi quyền sở hữu của mình bằng những luận điệu mà chúng tôi không sao đấu được.

Đã bao nhiêu lần, chúng tôi vừa hát xong đang lãnh tiền thì phải bỏ chạy cho nhanh vì gặp bọn hát Tô-Cách-Lan. Đàn ông thì để đùi trần, đàn bà thì vận váy xếp nếp. Họ mặc áo tơi vải, đội mũ vải cắm những chiếc lông chim dài. Chỉ nghe thấy tiếng kèn của họ là chúng tôi phải chạy rồi.

Lại còn những bọn nhạc công da đen đi xông xáo khắp các phố mà chúng tôi rất sợ. Những tên Mọi giả này ăn mặc thô lỗ bằng những chiếc áo đuôi cá thu, rộng cổ, trông hình thù họ chẳng khác chi một bó hoa quấn trong tờ giấy. Họ ghê gớm hơn là bọn Tô-Cách-Lan. Hơi trông thấy bóng họ hay nghe thấy tiếng đàn banjo của họ là chúng tôi phải kính trọng im ngay và lảng đến một phố xa, không có bọn nào của họ nữa, hoặc có thì chúng tôi chỉ đứng nhìn chờ cho họ trổ tài xong mới dám hành nghề.

Một hôm, chúng tôi đang là khán giả của họ, tôi thấy trong bọn họ có một người ngộ nghĩnh nhất vẫy Mã-Tư. Tôi tưởng anh ta trêu ghẹo chúng tôi, dùng chúng tôi làm cái bung sung để diễn thêm một trò vui cho công chúng. Tôi ngạc nhiên thấy Mã-Tư giơ tay trả lời một cách thân mật.

Tôi hỏi anh:

- Anh quen hắn à?

- Bốp đấy.

- Bốp là ai?

- Bốp là bạn cũ của tôi ở gánh xiếc Gát-Sô. Anh là một trong hai vai hề khá nhất mà tôi thường nói với anh. Chính Bốp đã dạy tôi nói tiếng Anh.

- Sao anh không nhận hắn trước?

- Ngày xưa, mặt anh bôi phấn, bây giờ anh bôi đen đi, ai biết được.

Khi cuộc diễn của phường da den đã mãn. Bốp lại chỗ chúng tôi. Coi vẻ vồ vập cuống quít của Bốp trước Mã-Tư, tôi phục Mã-Tư là người có tài làm cho ai cũng thích, cũng yêu. Một người anh ruột tưởng cũng không nồng nàn trong khóe mắt và trong giọng nói bằng người bạn cũ này. Anh hề nói:

“Thời buổi khó khăn, anh bắt buộc phải làm Mọi da đen”.

Nhưng trò chuyện chẳng được lâu. Anh phải theo bọn của anh. Chúng tôi phải tìm lối mà anh không đi đến. Hai bạn hẹn gặp nhau đến chủ nhật tới sẽ gặp nhau để kể chuyện hàn ôn trong những ngày xa cách.

Vì yêu Mã-Tư nên anh rất có cảm tình với tôi. Thành ra chúng tôi có thêm một người bạn. Cái kinh nghiệm và lời khuyên của anh đã làm cho đời sống của chúng tôi ở Luân-Đôn dễ dàng và sáng sủa hơn từ trước đến giờ. Anh cũng thích Lãnh-Nhi. Anh thèm muốn và phân bì nếu anh có được một con chó như thế, anh sẽ làm giầu không mấy lúc. Nhiều lần anh đề nghị cả ba người – nghĩa là cả bốn vì có Lãnh-Nhi nữa – nên hợp tác với nhau. Nhưng, cũng như không muốn bỏ gia đình tôi để về Pháp thăm Lệ-Hoa và các bạn hữu tôi, tôi không đồng ý theo Bốp đi quanh Anh-quốc.

Theo nếp sống cũ, chúng tôi đã gần đến kỳ lễ Giáng-Sinh. Đáng lẽ, sáng phải rời bãi Hồng-Sư, bấy giờ đến tám, chín giờ tối chúng tôi mới phải ra đi và tìm đến các nơi mà chúng tôi đã lựa chọn.

Trước hết, chúng tôi đến các công viên và những phố ngớt xe cộ, vì cần phải tĩnh mịch thì tiếng nhạc của chúng tôi mới lọt được vào các cửa đã đóng để đánh thức những trẻ em đã nằm trên giường và báo cho chúng biết sắp đến ngày lễ Giáng-Sinh, một ngày lễ yêu dấu đã ăn sâu vào lòng của mọi người Anh. Rồi chúng tôi đến dần những phố lớn. Những chuyến xe cuối cùng đưa khách xem hát về nhà, những chuyến xe đó đi qua rồi, thì bầu không khí trở nên yên tĩnh.

Chúng tôi dạo những khúc êm ái, nhẹ nhàng, những khúc u sầu có tính chất tôn giáo. Vĩ-cầm của Mã-Tư khóc than, cây thụ-cầm của tôi rên rỉ. Những lúc chúng tôi nghỉ tay, ngọn gió lại đem đến bên tai chúng tôi những tiếng đàn văng vẳng của một bọn khác đang trình diễn đâu đây. Cuộc hòa nhạc kết thúc.

- Thưa quý ông quý bà, chúc quý vị một đêm Giáng-Sinh an lạc.

Chúng tôi lại sang phố khác tái diễn cuộc hợp tấu của chúng tôi.

Đêm khuya, nằm trong giường trên chăn, dưới đệm mà nghe đàn, nghe hát kể cũng thích thú. Người ta có biết đâu, chúng tôi những kẻ đàn hát đây, lang thang khắp nẻo, không nệm, không chăn, những ngón tay sưng và cóng vẫn phải vận động không ngừng.

Những đêm Giáng-Sinh này, thời tiết ác quá: Thế mà suốt trong ba tuần lễ, không đêm nào là chúng tôi không có mặt ở các phố cho mãi đến khuya.

Đã bao nhiêu lần khi những cửa hàng chưa đóng hẳn, chúng tôi đứng dừng trước hàng gà, hàng quả, hàng kẹo, hàng mứt. Chao ôi! Những con ngỗng béo đẹp! Những con gà tây to! Những con gà giò trắng mập! Lại còn những đống cam, lê, táo xếp cao như núi. Những quả thơm đó làm chúng tôi thèm!

Qua những hàng này, những đứa trẻ được nuông chiều, có lẽ đã ôm lấy cha mẹ đòi mua.

Qua các phố, nhà nghèo cũng như nhà giầu đều có một quang cảnh đầm ấm, tưng bừng, chúng tôi cảm thấy chúng tôi lẻ loi, cô quạnh.

Lễ Giáng-Sinh chỉ vui cho những ai được sống trong yêu thương!

Sau những ngày lễ Giáng-Sinh, chúng tôi phải đi làm ban ngày. Cơ hội để gặp ông Mỹ-Giang thành khó ra. Chúng tôi chỉ hy vọng vào ngày chủ nhật. Vì thế, ngày chủ nhật là ngày tự do. Ngày giải trí cho chúng tôi, chúng tôi phải hy sinh để ở nhà.

Chúng tôi đợi.

Một hôm gặp Bốp, Mã-Tư không nói nguyên do những điều chúng tôi đang bứt rứt, anh hỏi luôn Bốp: có cách gì để tìm địa chỉ một bà tên là Mỹ-Lưu có người con trai liệt chân và một ông tên Mỹ-Giang không. Bốp trả lời: bà Mỹ-Lưu là người thế nào và ông Mỹ-Giang làm nghề nghiệp gì, hoặc có rõ địa vị xã hội của ông thì may ra mới biết vì có nhiều người trùng tên, vả họ Mỹ ở Luân-Đôn cũng nhiều mà ở trong nước Anh lại càng lắm hơn nữa.

Chúng tôi không nghĩ đến đều đó. Đối với chúng tôi thì chỉ có một bà Mỹ-Lưu là mẹ cậu An-Tuyên và chỉ có một ông Mỹ-Giang là chú cậu thôi.

Lúc đó, Mã-Tư lại giục tôi trở về Pháp. Tôi bảo anh:

- Vậy thì anh không muốn tìm bà Mỹ-Lưu nữa hay sao?

- Không phải thế. Nhưng không có cái gì chứng minh là bà hiện ở nước Anh.

- Càng không có chứng cớ gì là bà ở Pháp.

- Điều này có lẽ đúng: vì An-Tuyên còn ốm. Tất bà phải đưa con đến một xứ có khí hậu thích hợp cho sức khỏe của con.

- Không phải chỉ có nước Pháp mới có khí hậu tốt.

- Lần trước, cậu sang Pháp mà khỏi bệnh, lần này tất bà lại đưa cậu sang đó. Vả lại tôi muốn anh rời khỏi nơi này.

Tôi không dám hỏi anh tại sao phải bỏ đi, tôi sợ anh trả lời đúng như điều mà tai tôi không muốn nghe.

Anh nói tiếp:

- Tôi sợ lắm. Chúng ta đi đi thôi! Ở đây rồi thế nào cũng xẩy ra tai họa cho chúng ta. Đi đi thôi!

Cách cư xử của gia đình tôi đối với tôi vẫn không thay đổi. Ông tôi vẫn giận dữ nhổ bọt về phía tôi. Cha tôi thỉnh thoảng chỉ có việc sai khiến tôi. Mẹ tôi không bao giờ nhìn đến tôi. Các em trai tôi lúc nào cũng tìm cách hại ngầm tôi. Em gái lớn tôi, hễ nhìn thấy mặt tôi là sinh sự. Còn em Cát chỉ yêu gói kẹo của tôi đem về thôi. Nhưng dù sao tôi cũng không thể theo lời khuyên của Mã-Tư, cũng như không thể tin anh bảo tôi không phải là con của quý ông Điệp-Công. “Ngờ” tôi có thể “ngờ” lắm, nhưng “tin chắc” là phải hay không là con ông Điệp-Công thì tôi “không tin” được.

Thì giờ đi thong thả, thong thả lắm nhưng cứ đi đều. Hết những ngày này lại đến những ngày khác. Hết những tuần lễ này lại đến những tuần lễ khác. Đã đến lúc gia đình tôi phải rời Luân-Đôn để đi các vùng quê trong nước.

Hai chiếc xe ngựa mới sơn lại. Người ta xếp chật ních hàng hóa để đem bán trong những mùa nắng ráo.

Biết bao nhiêu là thứ hàng và khéo xếp làm sao! Đủ thứ: vải, áo đan, mũ vải, khăn vuông, mùi soa, bít-tất, quần đùi, gi-lê, cúc, chỉ, bông, len, kim, kéo, dao cạo, hoa tai, nhẫn, xà phòng, sáp, xi đánh giầy, đá mài, thuốc trừ rận chấy, thuốc tẩy quần áo, thuốc mọc tóc, thuốc nhuộm tóc, vân vân…

Khi chúng tôi ở đó, chúng tôi trông thấy đem ở hầm lên những bao hàng lớn, những bao hàng này đã không được trực tiếp và đàng hoàng đem đến từ hiệu chính đến xóm Hồng-Sư.

Sau cùng, hai xe ngựa đầy hàng ăm ắp, những con ngựa không biết mua ở đâu và từ lúc nào cũng thấy dắt đến. Mọi việc đều chuẩn bị để lên đường.

Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ phải làm gì? Ở lại với ông tôi ở Luân-Đôn để giữ nhà hay sao? Đi bán hàng như Á-Lang, Á-Niên hay sao? Hay chúng tôi phải theo xe hàng để tiếp tục làm nghề diễn trò ở các làng, các tỉnh mà chúng tôi sẽ đi qua? Cha tôi nhận thấy chúng tôi kiếm ăn khá với những cây đàn, nên cho chúng tôi đi theo để diễn trò. Mãi trước hôm đi một ngày, cha tôi mới cho biết ý định đó.

Mã-Tư bảo tôi:

- Về Pháp đi. Đợi lúc nào có cơ hội là chúng ta đi liền.

- Sao lại không đi các miền nước Anh?

- Vì tôi đã bảo cho anh biết là chúng ta ở đây thì nguy hiểm đến nơi rồi.

- Nhưng ở đây may ra chúng ta tìm được bà Mỹ-Lưu.

- Tôi tưởng tìm bà ở Pháp có phần chắc hơn.

- Vậy ta cứ thử tìm ở Anh trước đã. Các việc khác sẽ tính sau.

- Anh có biết anh đáng gì không?

- Không.

- Đáng tôi bỏ anh để về Pháp một mình.

- Anh nói rất phải. Tôi muốn anh trở về Pháp. Tôi biết tôi không có quyền giữ anh. Tôi cũng biết anh rất tốt đã ở lại với tôi. Thôi, anh về đi. Anh sẽ thăm Lệ-Hoa, anh nói cho…

- Tôi sẽ nói cho Lệ-Hoa biết anh là một người ngu xuẩn và độc ác vì anh đã nghĩ rằng tôi sẽ lìa anh trong lúc anh đau khổ. Anh thực đáng thương! Tôi đã làm gì anh để đến nổi anh có ý kiến đó? Nói đi, cho tôi biết, tôi đã làm gì anh? Không. Phải thế không? Vậy thì cứ theo xe hàng.

Lại một lần nữa, chúng tôi lại phiêu lưu trên đường cái. Nhưng lần này, tôi không được tự do muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì mặc ý. Vì chúng tôi phải theo gia đình Điệp-Công. Tuy nhiên, ra khỏi Luân-Đôn, tôi cảm thấy như người được cởi mở: tôi không phải trông thấy bãi Hồng-Sư nữa, tôi cũng không phải nhìn thấy cái hầm bí mật lúc nào cũng hiện ra trước mặt mặc dầu tôi cố quên đi. Đã bao nhiêu lần, đang đêm tôi giật mình tỉnh dậy vì trong cơn ác mộng, một ánh sáng đỏ đã lọt vào cửa sổ làm tôi hãi hùng. Đó là một ảo tưởng. Cái ánh sáng đỏ kia, tôi đã trông thấy một lần cứ ám ảnh mắt tôi như một ngọn lửa cháy. Chúng tôi bước sau xe hàng. Thay vào những mùi hôi hám của Thanh-Lâm, chúng tôi được thở hít cái không khí trong lành của những miền quê ngoạn mục mà chúng tôi đi qua, những miền chắc chắn không có chữ “Thanh” trong tên gọi, nhưng đượm một màu “xanh” dưới mắt và ríu rít những tiếng chim kêu bên tai chúng tôi.

Ngay hôm đầu cuộc khởi hành, tôi đã được mục kích cha tôi bán hàng. Đi đến một làng đông vui kia, hai chiếc xe dừng lại xếp hàng ở bãi đất công, các cửa ở một bên thành xe hạ xuống, người ta trông thấy ở trên các ngăn có đủ các thứ hàng. Những khách mua và những người tò mò đông hơn, kéo nhau lại xem.

Cha tôi rao:

- Xin xem giá hàng! Xin các ngài xem giá hàng! Không có nơi nào bán rẻ hơn ở đây. Hàng tôi không phải mua nên tôi bán rất rẻ. Có thể nói là tôi không bán, tôi đem biếu các ngài đây. Mời các ngài đến xem giá!

Mấy người lại coi giá rồi lảng ra và nói nhỏ với nhau:

- Phải là hàng ăn cắp mới bán rẻ thế.

- Chính lão ta đã nói thế!

Nếu họ đưa mắt nhìn tôi lúc đó, họ sẽ thấy sắc đỏ của mặt tôi đã tiết lộ lời dự định của họ là đúng. Tuy họ không nhìn thấy sắc mặt tôi, nhưng Mã-Tư đã nhận thấy. Tối đến, anh mới ngỏ cùng tôi cái điều mà xưa nay anh dè dặt không dám đả động đến.

Anh bảo tôi:

- Anh có thể chịu mãi được cái nhục đó không?

- Nếu anh không muốn cái nhục đó tăng thêm thì anh đừng nhắc đến nó nữa.

- Không phải tôi muốn thế. Tôi muốn anh trở về Pháp. Tôi vẫn bảo ở đây chúng ta sẽ bị tai họa. Bây giờ tôi lại nói thế! Và tôi cảm thấy tai họa đó sắp đến nơi rồi. Anh phải biết chỉ trong mai mốt lính Cảnh-sát sẽ đến xem: sao quý ông Điệp-Công lại bán hàng hạ giá thế? Lúc đó sẽ xẩy ra sao?

- Anh Mã-Tư ơi! Tôi xin anh.

- Vì anh không muốn trông xa, tôi phải trông thay anh. Có ngày người ta giam cả lũ, cả anh, cả tôi nữa. Mà chúng ta có tội tình gì? Lúc đó, chúng ta làm thế nào mà tỏ được nỗi oan? Làm thế nào để bào chữa được? Chúng ta chả ăn phần bánh đã mua bằng tiền bán các hàng đó là gì?

Ý tưởng đó giáng mạnh xuống đầu tôi như một nhát búa, vì từ trước đến giờ tôi không nghĩ tới.

Tôi cố chống lại, không phải là chống với Mã-Tư mà chống với ý tưởng đó. Tôi nói:

- Phần bánh của chúng ta do tay chúng ta kiếm lấy.

Mã-Tư trả lời:

- Cái đó đúng lắm. Và cũng đúng lắm là chúng ta đã hợp tác với những người không làm để kiếm bánh mà ăn…

- Chính điều này mà người ta sẽ trông thấy và người ta chỉ trông thấy điều ấy thôi. Chúng ta sẽ bị giam như những kẻ đó. Nếu chúng ta bị giam về tội ăn trộm thì anh sẽ bị đau đớn hơn tôi. Vì tôi chỉ là một thằng khốn nạn, còn anh, khi anh tìm thấy gia đình anh, gia đình thực của anh thì buồn cho gia đình anh biết bao, nhục cho anh biết bao nếu anh bị tù tội! Vả lại, không phải chúng ta vào nhà lao mà chúng ta có thể tìm thấy gia đình anh. Không phải chúng ta có thể vào nhà lao mà chúng ta có thể báo cho bà Mỹ-Lưu biết Mỹ-Giang đang âm mưu hại cậu An-Tuyên. Bây giờ còn thì giờ, chúng ta nên xa lánh.

- Anh cứ việc đi!

- Sao anh lại xuẩn thế. Chúng ta cùng đi cả hoặc chúng ta cùng bị bắt cả. Khi chúng ta bị bắt, chỉ nay mai thôi, anh sẽ chịu trách nhiệm về việc rủ tôi đi với anh. Rồi anh sẽ xem trách nhiệm đó có nhẹ không? Nếu anh có ích cho những người mà anh không muốn bỏ, thì cái bướng của anh cũng đẹp đấy, nhưng đằng này anh không cần thiết cho người ta lắm. Không có anh người ta vẫn sống được kia mà! Anh nên nghĩ kỹ. Đi ngay thì hơn.

- Vậy, anh cho tôi nghĩ một ngày đã. Chúng ta sẽ định sau.

- Mau lên! Con quỷ đã ngửi thấy mùi thịt tươi rồi, nguy hiểm đã đến chân rồi.

Chưa bao giờ những câu nói, những lý luận, và những lời kêu nài của Mã-Tư làm cho lòng tôi nao núng như lần này. Nghĩ lại những câu anh nói, tôi lại cho sự bất quyết của tôi là hèn và tôi phải nghĩ bề nào cho dứt khoát. Nhưng tình trạng đã làm tôi không dám hành động.

Chúng tôi rời Luân-Đôn đã được gần hai tháng rồi. Chúng tôi đến một thành phố đang mở hội đua ngựa ở ngoại thành. Ở nước Anh, những cuộc đua ngựa không giống như ở Pháp, đua ngựa chỉ là một cuộc giải trí cho những người giầu đến để chưng diện, để xem một con ngựa chạy thi hoặc bỏ ra mấy đồng tiền vàng đánh cá để mua vui. Ở Anh, đua ngựa là một hội hè lớn cho cả một vùng. Không phải chỉ có những con ngựa dự vào cuộc vui. Trên những bãi hoang, trên những đụn cát dùng làm Trường Đua, nhiều đám diễn trò rong, những tài tử lưu đãng, những hàng quán đã đến hội tụ trước mấy ngày, ồn ào rộn rịp như một đám chợ phiên. Chúng tôi kíp đến để giữ chỗ: Mã-Tư và tôi là phường nhạc, gia đình Điệp-Công là hàng buôn.

Nhưng đáng lẽ đi ngay đến Trường Đua, cha tôi lại đỗ ở trong tỉnh, có lẽ đã nhìn thấy một cơ hội gì tốt chăng. Đến nơi còn sớm quá, chúng tôi chưa phải giúp việc bày hàng, nên Mã-Tư và tôi rủ nhau ra Trường Đua ở một bãi hoang gần đó. Những lều vải lô nhô như nấm mọc. Từ xa, chúng tôi thấy những đám khói bay lên như chỉ cho chúng tôi biết địa điểm và giới hạn của hý trường. Không mấy lúc chúng tôi đến một đường trũng trong bãi. Chúng tôi trông thấy nhan nhãn những tiệm ăn, quán trọ, những lều, những rạp bằng gỗ, những xe bày hàng hay những cái bàn lộ thiên chung quanh chen chúc những người áo quần rách rưới. Chúng tôi đi qua một bếp lửa, có nồi treo trên, thì nhìn thấy anh Bốp. Gặp chúng tôi, anh mừng quá. Anh và hai người bạn nữa đến đây để làm xiếc, nhưng mấy nhạc công hẹn mà không đến thành ra lỡ việc, vì ngày mai, phải có rồi. Nếu chúng tôi có thể vào thay các người đó, thực là giúp anh một việc rất lớn. Số tiền thu được sẽ chia làm năm phần. Và cũng dành một ít cho con Lãnh-Nhi.

Mã-Tư đưa mắt hỏi tôi. Muốn làm anh vui lòng, tôi nhận lời ngay, chúng tôi được tự do đi đánh đàn miễn là hết ngày có món tiền tốt đem về.

Chúng tôi thỏa thuận sáng hôm sau sẽ đến hợp tác với anh Bốp và các bạn anh.

Nhưng khi về đến xe hàng, một sự khó khăn hiện ra. Khi tôi báo tin đó cho cha tôi biết, cha tôi bảo rằng:

- Ngày mai ta cần đến Lãnh-Nhi, con không thể đem đi được.

Nghe câu đó, tôi hoảng hốt: người ta lại định dùng Lãnh-Nhi để làm việc bất lương chăng? Nhưng cha tôi đã phá tan mối nghi ngờ đó.

Cha tôi nói:

- Lãnh-Nhi thính tai lắm. Nó nghe được những tiếng động rất sẽ, giữ việc canh xe rất tốt. Ở chốn đông người và lộn xộn này, người ta dễ “ăn cắp” của ta. Vậy mai con cứ đi làm với Bốp, nếu đêm về muộn, điều này rất có thể xẩy ra, các con cứ việc đến tìm ta ở quán “Cây Sồi” vì ta sẽ trọ ở đó. Tối nay ta sẽ cho xe về đó.

Quán trọ “Cây Sồi” ở về vùng quê, cách đấy độ hai ba cây số, một nơi vắng vẻ và buồn. Hai vợ chồng chủ quán trông người rất giảo quyệt. Chúng tôi đã ngủ ở đây đêm trước. Đêm về nhà trọ đó cũng không khó, đường thẳng dễ đi, ngại cái là sau một ngày mệt nhọc phải đi bộ hơi xa thôi.

Sáng hôm sau, tôi dắt Lãnh-Nhi chơi loanh qoanh cho nó ăn uống tử tế: không sợ thiếu thốn gì nữa, tôi buộc nó vào bên xe để nó coi giữ. Rồi Mã-Tư, và tôi cùng nhau đến Trường Đua.

Đến nơi, chúng tôi phải cử nhạc ngay, và cứ như thế, không một phút nghỉ ngơi làm cho đến tối. Những đầu ngón tay tôi đau nhức như muôn nghìn cái kim châm. Mã-Tư thổi kèn nhiều quá, nhọc hết cả hơi. Tuy nhiên anh vẫn làm phải tiếp tục làm việc. Bốp và các bạn anh vẫn nhẩy lộn và làm trò, chúng tôi không thể im phắt âm nhạc. Tối đến, chúng tôi tưởng được nghỉ, nhưng anh em lại bỏ lều mình sang quán rượu bên cạnh diễn trò hăng hái hơn trước.

Tôi gẩy đàn như cái máy, được chăng hay chớ, chẳng biết mình gẩy cái gì nữa. Mã-Tư miệng thổi kèn, mắt đờ ra, cũng chẳng biết mình phải làm gì hơn tôi. Đã hai mươi lần Bốp tuyên bố xuất này là xuất chót, đã hai mươi lần chúng tôi lại phải bắt đầu một xuất mới. Rồi cứ thế, kéo mãi cho đến nửa đêm.

Chúng tôi mệt lử. Các bạn chúng tôi dùng sức nhiều hơn chúng tôi cũng kiệt lực: vì thế trong một trò họ đỡ hụt, cái gậy lớn rơi ngay vào đầu bàn chân Mã-Tư. Đau quá, Mã-Tư rú lên. Bốp và tôi vội vàng lại săn sóc anh. Tôi tưởng anh đến nát bàn chân, nhưng may sao vết thương chỉ rách thịt chảy máu và sưng lên, chứ xương chân không việc gì. Tuy nhiên, Mã-Tư không đi được nữa. Làm thế nào bây giờ?

Đành phải để anh ngủ lại xe anh Bốp, còn tôi, một mình, trở về quán trọ Cây Sồi. Tôi cũng cần phải về để biết xem gia đình Điệp-Công định đi đâu?

Mã-Tư giữ tôi hai ba lần, anh bảo tôi:

- Anh đừng về nữa. Sáng mai chúng ta cùng về với nhau.

- Ngộ mai, không tìm thấy ai ở đấy thì sao?

- Như thế càng hay. Chúng ta sẽ được tự do.

- Nếu tôi muốn bỏ gia đình Điệp-Công, thì tôi không làm lối ấy! Vả anh tưởng họ không đuổi kịp ta chăng! Anh thoát đâu được với bàn chân đau ấy?

- Vậy mai chúng ta cùng về cả. Anh đừng đi đêm nay, tôi sợ lắm.

- Sợ gì?

- Tôi không biết, tôi sợ cho anh.

- Anh để tôi đi. Tôi hứa ngày mai sẽ trở lại.

- Nếu người ta giữ anh thì sao?

- Sợ họ giữ thì tôi để cây đàn ở đây. Mai tôi phải lộn đến lấy.

Thế rồi mặc dầu anh Mã-Tư sợ lo cho tôi, tôi cứ ra về, trong lòng không thấy sợ hãi gì.

Sợ ai? Sợ cái gì? Ai làm gì một đứa bé khốn nạn như tôi?

Tôi không sợ sệt chút gì, nhưng lòng tôi thấy cảm động. Từ ngày tới Luân-Đôn đây là lần thứ nhất mà tôi đi một mình không Mã-Tư, không Lãnh-Nhi bên cạnh. Nỗi lẻ loi đó cùng với những tiếng huyền bí của đêm khuya làm tôi nao lòng. Vầng trăng trên đầu tôi tỏa một ánh sáng nhợt nhạt, làm tôi buồn thêm.

Tuy nhọc thực, nhưng tôi bước nhanh và không mấy lúc đã đến nhà trọ Cây Sồi. Tôi nhìn mãi không thấy hai chiếc xe nhà tôi đâu. Chỉ có hai ba chiếc xe bò mui vải, một cái quán lớn bằng gỗ ván và hai chiếc xe chở đồ bưng bít, khi tôi lại gần có tiếng hươu nai ở trong đưa ra. Nhưng chiếc xe ngựa sơn màu rực rỡ của gia đình Điệp-Công ở đâu không thấy.

Đi đi lại lại trước quán Cây Sồi, nhìn qua cửa sổ con, thấy bên trong có ánh đèn, tôi đoán trong nhà còn thức, liền chạy đến gõ cửa. Người chủ quán mặt giảo quyệt, mà tôi đã trông thấy hôm qua, ra mở cửa và giơ đèn soi vào mặt tôi. Ông ta nhận ra tôi nhưng đáng lẽ tránh cho tôi vào, ông ta đặt cái đèn ở phía sau lưng, bước ra nhìn chung quanh và nghe ngóng độ vài giây rồi lên tiếng bảo tôi:

- Xe nhà anh đi rồi, cha anh dặn tôi bảo anh, đêm nay phải đến Lewes ngay không được chậm trễ. Chúc anh lên đường may mắn!

Rồi ông ta đóng sập cửa lại, không nói hơn gì nữa.

Từ ngày tôi sang nước Anh, tôi đã tập nói tiếng Anh và hiểu rõ câu chủ quán vừa bảo. Nhưng có một tiếng, tiếng quan hệ nhất, tôi không hiểu là gì? “Louisse” ông ta nói thế, là nơi nào? Xứ nào? Tôi không đoán được, vì tôi không biết tiếng “Louisse”, người Anh đọc, là chữ Lewes, tên một thành phố mà tôi vẫn nhìn thấy ở trên bản đồ.

Vả lại, nếu tôi có biết thành phố đó ở đâu, tôi cũng không thể bỏ Mã-Tư đi ngay lập tức được. Dù kiệt sức rồi, tôi cũng phải trở lại Trường Đua. Tôi trở ra. Một giờ rưỡi sau, tôi đã nằm khoan khoái trên chiếc ổ rơm bên cạnh Mã-Tư trong xe của Bốp. Bằng mấy câu vắn tắt, tôi kể lại chuyện cho Mã-Tư rồi lăn ra ngủ như chết.

Được ngủ vài giờ, tôi đã lại sức. Sáng dậy, tôi muốn đi ngay tỉnh Lewes nhưng lúc đó Mã-Tư còn ngủ. Tôi liền ra xe, chạy lại chỗ anh Bốp. Anh đã dậy trước tôi và đang nhóm lửa. Anh nằm bò ra và hết sức thổi ở dưới đáy nồi. Chợt trông ra ngoài, tôi thấy hình như có người Cảnh-binh đang dắt con Lãnh-Nhi tới chỗ chúng tôi.

Sợ quá, tôi đứng im. Không hiểu sao lại như thế. Con Lãnh-Nhi thấy tôi, giật tuột dây trong tay người Cảnh-binh ra, nhẩy vài cái đến chỗ tôi và chồm lên cánh tay tôi. Người Cảnh-binh đến gần, hỏi tôi:

- Con chó này của anh phải không?

- Vâng.

- Thế thì tôi bắt anh.

Nói xong, người Cảnh-binh nắm chặt tay tôi lôi đi.

Thấy vậy Bốp liền chạy lại hỏi:

- Sao ông lại bắt đứa trẻ này?

- Nó là em anh?

- Không, là bạn tôi.

- Đêm qua, một người đàn ông và một đứa bé dùng thang trèo qua cửa sổ vào Nhà Thờ Thánh Gioóc để ăn trộm. Chúng đem con chó này vào để báo động khi có người biết. Nó báo động thật, kẻ trộm hốt hoảng leo ra trốn mất, không kịp mang chó đi. Bắt được con chó này tất nhiên tìm ra thủ phạm. Quả nhiên tóm được một tên. Thế bây giờ người cha ở đâu?

Tôi không biết người Cảnh-binh hỏi Bốp hay hỏi tôi. Tôi không trả lời. Tôi đứng trơ ra.

Tôi hiểu cả những việc đã xẩy ra. Con Lãnh-Nhi có tai thính không phải dùng để coi xe mà để canh cho người ta vào Nhà Thờ ăn trộm. Xe hàng rút lui vào chập tối không phải có việc về ngủ ở quán trọ Cây Sồi. Xe đó không tới quán trọ được cũng là vì vụ gian bại lộ phải trốn cho nhanh.

Tôi không cần nghĩ đến những kẻ đã chạy thoát rồi. Tôi nghĩ đến tôi. Dù sao, tôi cũng phải chống cãi. Tôi không tố giác ai cả nhưng tôi minh oan: tôi sẽ khai đúng cái thời giờ của tôi đã dùng trong đêm qua.

Khi tôi đang lý luận trong óc như vậy, Mã-Tư thấy tiếng lao xao liền bước ra xe, bước khập khiễng lại cạnh tôi.

Tôi nhờ Bốp nói hộ:

- Anh làm ở cắt nghĩa cho ông ta biết rằng tôi vô tội vì tôi ở đây với anh cho tới một giờ sáng. Rồi tôi đến quán trọ Cây Sồi nói chuyện xong lại trở về đây ngay.

Bốp thông ngôn cho người Cảnh-binh nghe. Nhưng ông ta có vẻ không tin. Trái lại, có ý ngờ tôi.

Ông ta nói:

- Đúng lúc một giờ 15 phút, kẻ trộm vào nhà thờ. Anh bé này ở đây ra đi khoảng một giờ hay trước đó một giờ, rất có thể anh ta cùng một đồng đảng đã trèo vào Nhà Thờ lúc một giờ mười lăm.

Bốp nói:

- Từ đây vào thành phố phải hơn mười lăm phút đồng hồ.

Người Cảnh-binh nói:

- Nếu chạy thì làm gì đến 15 phút, vả có cái gì chứng tỏ lúc đi là một giờ.

Bốp kêu lên:

- Tôi xin thề! Đúng là như thế.

Người Cảnh-binh nói:

- Anh nhận làm chứng à? Cái đó còn phải xét xem lời chứng của anh có giá trị không.

Bốp nóng mặt, nói nghiêm trang:

- Ông phải biết tôi là công dân nước Anh.

Người Cảnh-binh nhún vai không nói gì.

Bốp nói:

- Ông lăng mạ tôi phải không? Tôi sẽ viết cho báo “Thời sự”.

- Trong khi chờ đợi, tôi hãy đưa anh bé này về. Anh ấy sẽ giải thích trước mặt quan Tòa.

Mã-Tư chạy lại ôm lấy tôi. Tôi tưởng anh hôn tôi, nhưng thấy anh trao cho tôi cái thực tế trước rồi đến cảm tình sau.

Anh ghé vào tai tôi, nói:

- Can đảm lên, anh ạ! Chúng tôi không bỏ anh đâu!

Rồi anh mới hôn tôi.

Tôi nói với Mã-Tư bằng tiếng Pháp:

- Anh giữ Lãnh-Nhi lại.

Nhưng người Cảnh-binh hiểu tôi nói gì và bảo:

- Không, không được. Nhờ nó tôi bắt được tên này. Nhờ nó tôi sẽ tóm được những tên khác nữa.

Là lần thứ hai trong đời, người ta bắt tôi. Tôi thấy nhục nhã hơn.

Không phải là việc bắt nhầm như vụ đuổi bò ngày nọ. Lần này nếu tôi có được tha chăng nữa, tôi thoát sao không khỏi đau đớn trông thấy những người mà người ta cho tôi là đồng đảng, bị trừng phạt đích đáng?

Bị Cảnh-binh áp giải, tôi phải qua một hàng rào gồm những kẻ tò mò chạy đến đón lối tôi đi. Nhưng họ không la ó, không dọa nạt như bên Pháp, vì những người đến xem ở đây không phải là dân quê, họ toàn là những người, phần đông bất mãn với Cảnh-binh, như chủ quán rượu, chủ hàng rong, tài tử diễn trò, võ sĩ xiếc, nghệ sĩ giang hồ, mà người Anh gọi chung là bọn Tramps, nghĩa là bọn “ma cà-bông”.

Cái nhà mà người ta giam tôi không phải là cái nhà giam trò chơi dùng để phơi hành như lần trước tôi bị nhốt ở đấy. Nhà giam này là một nhà giam thực sự, có cửa sổ chắc, bằng những chấn song sắt to tướng, chỉ thoáng nhìn là tiêu tan ngay mọi mầm vượt ngục. Tất cả đồ đạc gồm có cái ghế dài để ngồi và cái võng để nằm.

Tôi ngồi phịch trên cái ghế đó, rầu rĩ âm thầm, nghĩ đến cảnh huống của tôi. Những ý tưởng cứ lộn xộn, rời rạc trong óc tôi. Cái hiện tại đáng hãi hùng biết bao! Cái tương lai lại càng đáng ghê sợ biết bao!

Mã-Tư đã khuyên tôi:

“Can đảm lên! Chúng tôi không bỏ anh”.

Nhưng một đứa trẻ như Mã-Tư thì làm gì được? Cả đến một người lớn như Bốp hồ dễ làm gì được để giúp Mã-Tư? Khi người ta bị giam cầm, người ta chỉ có một ý nghĩ là muốn ra thôi.

Không muốn bỏ tôi, hy sinh giúp tôi thì Mã-Tư và Bốp làm thế nào cứu tôi thoát khỏi chốn ngục tù này?

Tôi đến cửa sổ mở ra, lấy tay sờ vào những chấn song, cái nọ bắt tréo cái kia như mắt cáo, vít ở phía ngoài và gắn chặt vào đá. Tôi nhìn bốn bức tường, bức nào cũng dầy gần một mét. Nền thì lát bằng những tấm đá rộng, cánh cửa thì bằng sắt và bọc tôn.

Tôi lại trở ra chỗ cửa sổ. Cửa sổ này trông ra một cái sân dài và hẹp. Ba mặt tường cao đến bốn mét. Cho dù có bạn bè dốc lòng giúp đỡ mấy đi nữa, nhất định người ta không ra thoát cái nhà lao này. Đối với sức mạnh của sự vật, cái tận tâm của bè bạn làm gì nổi? Cái tận tâm không chọc thủng được tường!

Từ nay đến hôm được gọi ra trước mặt quan Tòa, là ngày người ta sẽ định đoạt số phận của tôi, tôi nghĩ không biết còn phải ngồi ở đây đợi bao nhiêu ngày nữa? Mặc dầu con Lãnh-Nhi có mặt ở Nhà Thờ, liệu tôi có thể bày tỏ nỗi oan của tôi không? Không đổ tội cho những người mà tôi không muốn tố cáo, không thể tố cáo, liệu tôi có thể biện giải cho tôi được không?

Tôi chỉ nghĩ đến chỗ này. Mà chính ở chỗ này, Mã-Tư và Bốp có thể giúp đỡ tôi được. Các bạn tôi sẽ cung khai sự thực để chứng minh rằng hồi một giờ rưỡi tôi không thể nào ở trong Nhà Thờ Thánh Gioóc được. Nếu họ khai đúng thế, tôi sẽ thoát nạn mặc dầu cái bằng chứng câm của Lãnh-Nhi của buộc tội tôi.

A! Nếu Mã-Tư không đau chân. Anh đã xoay sở lo liệu cho tôi. Những bây giờ bệnh hoạn thế không biết anh có ra được khỏi xe không? Nếu anh không đi được, Bốp có muốn thay thế anh không?

Tôi lo phiền quá, không sao ngủ được mặc dầu thân thể đau như giần. Tôi cũng chẳng buồn động đến đồ ăn người ta mang đến cho tôi. Chán thức ăn nhưng tôi thèm nước. Chốc chốc tôi lại chạy đến vò nước uống một hơi dài, mà vẫn cứ thấy đắng miệng và khát. Khi trông thấy người cai ngục vào phòng giam của tôi, tôi lại mừng rỡ và hy vọng, vì từ khi bị nhốt, tôi cứ rối ruột về một câu hỏi mà tôi không tìm được câu trả lời: “Bao giờ quan Tòa mới hỏi? Bao giờ tôi được cung khai để bào chữa?”

Tôi thường nghe người ta kể chuyện có người tù bị giam hàng tháng không được hỏi đến, có lẽ tôi cũng sẽ cùng số phận đó chăng? Tôi không biết ở nước Anh, cuộc thẩm vấn tội nhân không được để quá hai ngày từ lúc bị bắt đến lúc lấy cung.

Cái vấn đề không giải quyết được đó, tôi liền đem hỏi người cai ngục. Ông ta trông có vẻ không dữ tợn và sẵn lòng cho tôi biết là chắc chắn ngày mai tôi sẽ được ra hầu Tòa.

Vì tôi hỏi ông ta, nên ông ta hỏi lại tôi:

- Vậy anh đã vào Nhà Thờ như thế nào?

Đáp lại câu hỏi đó. Tôi hết sức trình bày những lý do, những bằng cứ tỏ ra tôi bị bắt oan. Nhưng nghe tôi nói, ông ta cứ so vai lên. Tôi nhắc đi, nhắc lại mãi rằng tôi không hề vào Nhà Thờ, ông ta bước ra còn quay lại nhìn tôi và lẩm bẩm:

- Những trẻ ranh ở Luân-Đôn hỏng cả!

Ông ta ra rồi, tôi buồn nản quá. Mặc dầu ông ta không phải là quan Tòa, tôi muốn ông ta thấu nỗi oan cho tôi. Nghe giọng nói, trông nét mặt của tôi, đáng lẽ là ông ta phải nhận là tôi vô tội mới phải.

Tôi đã không làm cho người cai ngục tin tôi thì tôi làm cho quan Tòa tin tôi như thế nào được? Nhưng không sợ, tôi đã có chứng tá nói thay tôi. Nếu quan Tòa không nghe tôi, tất quan Tòa phải tin những bằng chứng vạch rõ cái oan cho tôi.

Nhưng các nhân chứng của tôi sẽ khai thế nào? Tôi đã biết chưa?

Trong những chuyện nhà tù mà tôi được biết, có một chuyện nói về cách thông tin cho tội nhân: người ta dấu thư vào trong những thức ăn đem đến cho thân nhân.

Có lẽ Mã-Tư và Bốp đã dùng đến mưu này. Nghĩ thế, tôi bẻ nát miếng bánh người ta đã đưa vào cho tôi, nhưng chẳng thấy gì. Những miếng khoai kèm bánh cũng được nghiền ra như cám mà cũng chẳng thấy có mẩu giấy nào.

Chắc Mã-Tư và Bốp không có tin gì để báo hay đúng hơn, họ không thể báo tin được.

Tôi đành đợi đến hôm sau, không cần nghĩ nữa. Nhưng tôi cứ nghĩ. Tôi nghĩ đến cái đêm ghê gớm vừa qua, sao tôi ngu dại đến thế? Ngu dại không tin cái tâm linh báo nguy của Mã-Tư và không nghe lời anh!

Sáng sớm hôm sau, người cai ngục đem vào cho tôi một vò nước và một cái chậu, bảo tôi rửa mặt để sắp ra trình Tòa. Ông lại nói thêm rằng:

- Thái độ đoan trang, đứng đắn đôi khi cũng là những lời biện giải hùng hồn cho người bị cáo.

Rửa mặt và sửa sang quần áo xong, tôi ngồi xuống ghế. Nhưng không sao ngồi yên được, tôi đứng lên đi đi lại lại trong buồng giam như con chim quay lộn trong lồng.

Tôi muốn dự bị cách bào chữa và những câu trả lời, nhưng lòng tôi sôi lên như người phát điên. Đáng lẽ nghĩ đến những việc bây giờ, tôi lại nghĩ đến những việc đâu đâu, lờ mờ qua trong óc tôi như một bóng đèn ma.

Người cai ngục trở lại và bảo tôi theo ra. Tôi đi bên cạnh ông ta. Sau khi qua nhiều hành lang hẹp và tối, chúng tôi đến trước một cái cửa nhỏ. Cánh cửa mở ra, người cai ngục bảo tôi:

- Vào đi!

Một hơi nóng đưa vào mặt tôi. Tôi nghe thấy những tiếng rì rầm bên trong. Tôi bước vào và tôi thấy tôi đứng ở trong một cái ngăn bằng gỗ. Tôi đã ra công đường.

Mặc dầu lúc đó tôi ngây ngất như mê và những mạch máu dồn dập ở trên đầu tôi như muốn đứt ra, tôi đưa mắt nhìn chung quanh và nhận rõ phòng hội đồng và đám công chúng ngồi chật ở bên dưới.

Phòng đó cao rộng, có những cửa sổ lớn; chia làm hai phần, một phần dành cho Tòa, một phần để cho công chúng.

Ông Chánh Án ngồi trên một cái bục cao nhất. Phía trước mặt ông Chánh Án và ở một cái bục thấp hơn, có ba ông nữa ngồi. Mãi sau này tôi mới biết đó là: ông Lục Sự, ông Thủ-Quỹ thu các khoản tiền phạt và một ông quan Tòa mà người Pháp thường gọi là Biện lý. Trước mặt tôi, có một ông mặc áo chùng đen, đội tóc giả ngồi ở bàn, đó là Luật Sư của tôi. Sao tự nhiên tôi có một Luật Sư? Ông ta ở đâu đến? Ai đã mời đến cho tôi? Mã-Tư hay Bốp? Không phải là lúc tìm tòi để biết điều đó. Tôi có Luật Sư bênh vực. Thế là đủ.

Trong một khu ghế, tôi nhìn thấy Bốp và hai bạn anh, người chủ quán Cây Sồi và nhiều người khác tôi không quen. Ở một khu khác, tôi trông thấy người Cảnh-binh đã bắt tôi và mấy người nữa đi với người Cảnh-binh ấy.

Đó là những chỗ riêng cho các nhân chứng.

Những hàng ghế dành cho công chúng đều chật ních. Đứng ở bao lơn, tôi nhìn thấy Mã-Tư, mắt chúng tôi giao nhau, hôn nhau. Lập tức tôi thấy phấn khởi hẳn lên. Tôi sẽ được bênh vực. Tôi cảm thấy không bị nặng nề, bị đè ép nữa, bởi những con mắt tò mò chĩa cả vào tôi.

Ông biện lên tiếng đầu tiên. Ông có vẻ vội vàng, trình bày tóm tắt như sau:

- Một vụ trộm đã xẩy ra tại Nhà Thờ Thánh Gioóc. Quân gian là một người đàn ông và một đứa trẻ đã dùng thang, bẻ cửa sổ leo vào. Chúng mang cả một con chó vào để canh cho chúng vơ vét. Hồi một giờ sáng, một người trong phố về khuya thấy trong Nhà Thờ có ánh sáng, đứng lại lắng tai, nghe tiếng lách cách bên trong. Người đó liền chạy đánh thức Cha Sứ. Người ta kéo lên Nhà Thờ rất đông. Con chó sủa mấy tiếng. Khi người ta mở cửa vào thì những kẻ trộm sợ hãi đã tẩu thoát bằng lối cửa sổ bỏ lại con chó, nó không leo thang được. Con chó liền được viên Cảnh-binh Gia-Ry – một nhân viên thông minh và mẫn cán đáng khen – đưa ra ngay Trường Đua và tìm thấy chủ nó, chính là bị cáo đang đứng trước Tòa kia. Còn tên trộm thứ hai, hiện thời đang bị truy nã.

Sau khi nói thêm một vài nhận xét nữa để buộc tội tôi, ông biện lý ngồi xuống.

Một tiếng quát lớn:

- Im!

Lúc đó, ông Chánh Án, không quay về phía tôi. Trông thẳng và như nói cho mình nghe, hỏi tên tôi, tuổi tôi và nghề nghiệp của tôi.

Tôi trả lời bằng tiếng Anh: Tên tôi là Điệp-Công-Phan, 13 tuổi ở với cha mẹ tôi ở xóm Hồng-Sư khu Thanh-Lâm Luân-Đôn. Xong tôi xin phép tòa nói bằng tiếng Pháp, vì tôi ở Pháp từ thuở lên một và mới về Anh được mấy tháng nay.

Ông Chánh Án nghiêm nghị bảo tôi:

- Anh đừng tưởng lừa tôi được. Tôi biết tiếng Pháp.

Tôi kể lại chuyện tôi bằng tiếng Pháp. Tôi hết sức biện bạch rằng không thể nào tôi lại ở Nhà Thờ vào lúc một giờ được, vì trong giờ đó tôi ở Trường Đua và hồi hai giờ thì tôi ở quán trọ Cây Sồi.

Ông Chánh Án hỏi tôi:

- Anh ở đâu hồi một giờ 15 phút?

- Lúc đó tôi đang đi ở đường.

- Có gì làm bằng chứng không? Anh bảo anh ở trên đường đi quán trọ Cây Sồi mà cáo trạng cho rằng lúc đó anh ở Nhà Thờ. Đi từ Trường Đua hồi một giờ kém vài phút, anh có thể gặp đồng đảng đã đem thang đợi sẵn anh ở chân tường Nhà Thờ. Sau khi ăn trộm hụt, anh mới chạy đến quán trọ Cây Sồi.

Tôi cố sức cãi nhưng ông Chánh Án không chịu. Ông hỏi tôi:

- Thế anh cắt nghĩa cho Tòa biết tại sao con chó của anh lại ở trong Nhà Thờ?

- Tôi không cắt nghĩa được vì chính tôi không hiểu gì cả. Con chó đó không đi với tôi. Tôi buộc nó vào cái xe ở nhà từ buổi sáng.

Tôi không nói gì thêm nữa vì tôi không muốn đưa gậy cho người ta đập cha tôi. Tôi nhìn Mã-Tư, anh ta ra hiệu cho tôi nói nữa đi, nhưng tôi không nói nữa.

Tòa gọi một nhân chứng. Tòa bắt người đó phải lấy Phúc âm thề rằng nói thực, không hận thù mà cũng không tình cảm.

Đó là một ông người to mà lùn, trông bệ vệ oai nghiêm mặc dầu mặt đỏ và mũi xanh. Trước khi giơ tay thề, ông ta quỵ chân xuống trước Tòa rồi đứng lên, ưỡn ngực ra: đó là Cha Sứ Nhà Thờ Thánh Gioóc.

Ông kể lể dài giòng. Ông nói:

- Tôi rất bực mình, đang ngủ có người đánh thức dậy báo tin có trộm vào Nhà Thờ. Tôi tưởng có kẻ định giễu cợt tôi. Nhưng chả có lẽ người ta lại giễu cợt một người tư cách như tôi. Tôi biết là có việc quan trọng. Tôi liền mặc áo, vì tôi vội vàng quá đánh bắn mất hai chiếc cúc áo gi-lê. Rồi tôi chạy lên Nhà Thờ. Tôi vừa mở cửa ra thì trông thấy… ai? Cái gì?... Một con chó.

Về điểm này tôi không trả lời được, nhưng Luật Sư của tôi, từ nãy đến giờ ngồi im. Bây giờ nắn lại vòng tóc giả, sửa lại hai vai áo, xong đứng dậy lên tiếng:

- Ai đóng cửa Nhà Thờ chiều hôm qua?

Cha Sứ trả lời:

- Tôi đóng, vì là bổn phận của tôi.

- Có chắc thế không?

- Khi tôi làm một việc gì, tôi biết chắc là tôi đã làm việc đó.

- Còn những khi ông không làm?

- Khi không làm thì tôi biết chắc là tôi không làm.

- Tốt lắm. Thế ông có thể thề rằng ông đã không vít con chó đó trong Nhà Thờ không?

- Nếu con chó đó ở trong Nhà Thờ thì tôi đã trông thấy.

- Mắt ông có tinh không?

- Như mắt mọi người.

- Cách đây sáu tháng, ông có đưa đầu vào bụng con bê đã mổ treo ở cửa một cửa hàng thịt không?

Cha Sứ tím mặt lại kêu lên:

- Quan trọng gì việc đó mà phải hỏi đến một người tư cách như tôi?

- Quan trọng lắm, xin ông làm ơn trả lời cho.

- Có, tôi có đụng đầu vào một con vật treo vô ý ở cửa một hàng thịt.

- Ông đã không trông thấy con vật đó chứ?

- Lúc đó tôi mải nghĩ.

- Ông vừa ăn xong thì ông đóng cửa Nhà Thờ, phải không?

- Đúng thế.

- Thế khi ông đụng đầu vào con bê, lúc đó có phải ông vừa ăn xong không?

- Nhưng…

- Ông bảo ông không ăn?

- Có ăn.

- Thế ông dùng thứ rượu bia hay nặng?

- Không dùng thứ nhẹ.

- Mấy ly?

- Hai.

- Không bao giờ uống hơn?

- Đôi khi ba.

- Không bao giờ bốn? Không bao giờ sáu?

- Cái đó ít khi.

- Ăn xong, ông hay uống “Grog” (nước pha rượu và chanh) không?

- Một đôi khi có.

- Ông thích uống “Grog” nhiều hay ít?

- Không ít quá.

- Độ bao nhiêu ly?

- Cái đó tùy lúc.

- Ông có sẵn lòng thề rằng ông không bao giờ dùng đến ba hay bốn ly không?

Cha Sứ đỏ mặt tía tai không trả lời nữa.

Trước khi ngồi xuống, Luật Sư kết luận rằng:

- Cuộc đối thoại này có thể chứng minh rằng con chó vít trong giáo đường bởi một nhân chứng, nhân chứng đó sau bữa ăn đã không nhìn thấy những con bê vì y mãi nghĩ. Đó là tất cả những thắc mắc mà tôi muốn nêu ra và muốn biết rõ.

Nếu tôi dám, tôi đã nhẩy đến ôm lấy Luật Sư hôn. Tại sao con Lãnh-Nhi không có thể bị vít trước ở trong Nhà Thờ được? Có lý lắm chứ? Nếu nó bị nhốt đúng như lời Luật sư thì không phải là tôi đã đưa nó vào. Tôi sẽ vô tội. Vì chỉ có con chó là tang vật buộc tội tôi thôi.

Sau Cha Sứ, đến lượt các người đã theo Cha lên Nhà Thờ đêm đó. Họ đều khai không thấy ai cả, chỉ thấy cửa sổ mà kẻ trộm đã mở toang để tháo thân.

Rồi Tòa nghe nhân chứng của tôi: Bốp và các của anh cũng như người chủ quán Cây Sồi đều khai những thì giờ hiện diện của tôi. Tuy nhiên có một điểm không được rõ rệt. Đó là giờ tôi bắt đầu từ Trường Đua đi. Điểm quan trọng nầy không được chứng minh đích xác.

Cuộc thẩm vấn xong, ông Chánh Án hỏi tôi:

- Có muốn nói thêm gì nữa không?

Tôi đáp:

- Tôi vô tội và xin Tòa minh xét cho.

Ông Chánh Án đọc lại biên bản đã ghi tất cả những lời cung khai mà tôi vừa nghe. Xong ông tuyên bố: “bị cáo sẽ phải gửi sang nhà lao Khu, đợi Hội đồng Hội thẩm xét xem có phải đưa vụ này lên tòa Đại hình không”.

Lên tòa Đại hình! Tôi ngã gục xuống ghế. Than ôi! Sao tôi chẳng nghe lời Mã-Tư!

Chương XXXIX

bốp

Tôi lại được đưa về nhà giam cũ. Tôi nghĩ mãi và cho rằng sở dĩ tôi chưa được tha là vì người ta còn đợi bắt được những người đã vào Nhà Thờ xem có phải tôi là đồng đảng không. Người ta đang lùng bắt phạm nhân, ông biện lý đã bảo thế. Mai đây tôi sẽ đau đớn và nhục nhã phải ngồi trên ghế tòa đại hình với những phạm nhân đó. Bao giờ đến ngày đó? Bao giờ tôi sẽ bị chuyển đi nhà lao Khu? Nhà lao ấy là nhà lao gì? Ở đâu? Có khổ hơn ở đây không?

Những chuyện đó cứ lẩn quẩn trong đầu tôi khiến thời giờ đi nhanh chóng hơn hôm trước. Tôi không nóng ruột nữa. Tôi biết rằng phải đợi. Tôi đứng lên, ngồi xuống, tôi đi đi lại lại. Tôi cố đợi.

Tối hôm ấy, khoảng 10 giờ, tôi nghe thấy tiếng kèn, giọng thổi đó là của Mã-Tư, người bạn tốt đó muốn tỏ cho tôi biết là anh nhớ tôi và săn sóc đến tôi. Tiếng kèn đó ở ngoài đường trước cửa sổ tôi. Mã-Tư đang ở ngoài tường, trên hè phố cách phòng giam của tôi độ vài mét. Hại thay! Mắt tôi không nhìn được thấu qua tường, nhưng nếu mắt không xuyên qua được đá thì âm thanh đã qua được tường. Ngoài tiếng kèn ra, tôi còn nghe thấy tiếng người đi lại và tiếng cười nói lao xao, biết rằng Mã-Tư và Bốp có lẽ đang diễn trò ở đó – tại sao họ lại chọn chỗ này để diễn. Có phải chỗ này tốt và dễ thu tiền không? Hay là họ định dùng chỗ này để báo tin tức gì cho tôi? Tôi chợt nghe thấy tiếng nói rõ ràng, tiếng anh Mã-Tư kêu to lên bằng tiếng Pháp “Sáng sớm mai nhé!” Rồi tiếp luôn tiếng kèn inh ỏi hơn trước.

Không cần phải suy nghĩ, tôi cũng hiểu ngay câu tiếng Pháp đó không phải là Mã-Tư nói với những khán giả người Anh mà để nói cho tôi nghe. Nhưng tôi không hiểu câu đó có ý gì? Tôi tự đặt hàng chục câu hỏi mà không sao tìm được câu trả lời đích đáng.

Duy có một điều rất rõ rệt là sáng mai tôi phải dậy thật sớm và chú ý. Từ bây giờ cho đến lúc đó tôi phải kiên tâm đợi.

Tôi nằm võng cố ngủ. Tôi nghe tiếng chuông đồng hồ đánh hết giờ ấy đến giờ khác, rồi bất giác đôi cánh của giấc ngủ nhẹ nhàng đưa bổng tôi đi. Khi tôi chợt tỉnh, đêm vẫn dài, những ngôi sao lấp lánh trên nền trời đen. Không một tiếng động. Có lẽ còn lâu mới sáng. Tôi sẽ ngồi xuống ghế, không dám đi lại sợ động, lính đi tuần sẽ chú ý. Tôi ngồi đợi. Chợt đồng hồ đánh bốn giờ. Còn sớm quá. Tuy nhiên tôi không dám ngủ lại. Giá tôi có muốn ngủ lại cũng không sao chợp mắt được vì lúc đó lòng tôi thấy lo lắng nôn nao.

Công việc duy nhất của tôi lúc đó là nằm đếm tiếng chuông đồng hồ. Nhưng lâu làm sao cái khoảng thời gian 15 phút đi từ giờ đến khắc, từ khắc đến nửa giờ, lắm khi lâu quá tưởng chừng như tôi lãng quên không đếm hay máy đồng hồ bị sai.

Tựa vào thành tôi nhìn qua cửa sổ: sao đã mờ, trời hơi trắng ra.

Bình minh sắp tới. Tiếng gà gáy xa xa. Tôi đứng dậy, đi bằng đầu ngón chân ra mở cửa sổ. Đó là một công việc thận trọng, tôi làm rất thong thả và nhẹ nhàng. Không để kêu cọt-kẹt. Mở được cửa sổ nhưng tôi nghĩ cũng chẳng ích gì vì những chấn song vẫn xít, những bức tường vẫn dầy. Có điên mới nghĩ việc thoát thân. Thế mà tôi vẫn hy vọng.

Trên trời sao nhạt dần. Khí lạnh ban mai làm tôi sởn người. Tuy nhiên tôi vẫn không rời cửa sổ. Tôi cứ đứng đó nghe, nhìn và không biết mình định nghe, nhìn cái gì. Một bức màn trắng đã tỏa trên trời và ở dưới đất mọi vật bắt đầu nổi rõ ảnh hình. Đó là buổi sớm mai mà Mã-Tư đã hẹn. Tôi nín hơi nghe ngóng, tôi chỉ nghe thấy những tiếng đập của trái tim tôi thôi.

Sau cùng tôi nghe hình như có tiếng cạo cạo vào tường, nhưng tôi không thấy tiếng chân bước, tôi nghe nhầm chăng. Nhưng tôi vẫn lắng tai, tiếng cạo vẫn tiếp tục, rồi thình lình tôi trông thấy một cái đầu đen đen nhô lên trên nóc tường. Mặc dầu lúc đó trời hãy còn tối, tôi biết ngay không phải là Mã-Tư, đó là đầu anh Bốp. Trông thấy tôi đứng sát vào chấn song, anh kêu rất sẽ:

- Suỵt!

Đồng thời, anh lấy tay vẫy tôi đứng xa cửa sổ ra. Tôi không hiểu gì, và nghe anh tôi đứng dịch ra. Lúc đó, tay kia anh cầm vật gì lóng lánh và dài trông như cái ống thủy tinh. Anh ngậm ống đó vào mồm. Tôi biết ngay đó là cái ống xì. Tôi nghe “phụt” một cái, đồng thời có một viên đạn trắng xuyên qua không khí và rơi vào chỗ chân tôi. Thoáng một cái, đầu anh Bốp biến mất sau bức tường và tôi không nghe thấy gì nữa.

Tôi vội nhặt viên đạn. Nó bằng giấy bao chung quanh một hòn chì. Hình như có những hàng chữ nhỏ vạch trên mảnh giấy đó. Nhưng lúc đó trời chưa rạng để đọc. Tôi đành đợi đến sáng rõ. Tôi cần thận đóng cửa sổ lại đến võng nằm và giữ chặt viên đạn giấy trong tay.

Đợi mãi, vừng đông từ từ rạng và rọi ánh hồng trên tường. Tôi giở giấy ra đọc:

Chiều mai, người ta sẽ chuyển anh đến nhà lao Khu. Anh sẽ đi xe hỏa hạng nhì với một Cảnh-binh. Anh ngồi gần cửa anh lên. Sau khi chạy được 45 phút (phải đếm kỹ) đến chỗ ráp mối của hai đường sắt, xe đi từ từ, anh ra cửa và nhẩy phắt xuống: duỗi thẳng hai tay, lao mình ra và có ý cho chân xuống trước. Tới đất rồi, leo qua bờ bên trái, xe chúng tôi đợi ở đó. Đừng sợ gì cả. Hai hôm sau chúng ta sẽ ở Pháp rồi. Can đảm và hy vọng đi! Nhớ nhẩy lao mình và xuống bằng chân”.

Trốn thoát! Tôi không phải ra tòa Đại Hình, tôi không phải nhìn cái cảnh đau lòng đã diễn ra. A! Anh Mã-Tư can đảm! Anh Bốp tử tế! Anh Bốp đã giúp Mã-Tư cứu tôi: “xe chúng tôi đợi ở đó”, một mình Mã-Tư không sao bày được mưu này. Tôi đọc lại giấy: “sau khi chạy được 45 phút, bờ bên trái, chân xuống trước”. Nhất định thế, tôi quyết nhảy ra, dù phải tự tử. Chết còn hơn bị coi là kẻ trộm. A! Tất cả những việc đó xếp đặt thật hay quá! “Hai hôm sau, chúng ta ở Pháp!”

Tuy nhiên trong cái mừng của tôi vẫn có một ý tưởng buồn rầu: còn Lãnh-Nhi? Nhưng ý tưởng đó bị đánh tan ngay. Mã-Tư không thể bỏ Lãnh-Nhi được. Anh đã tìm cách cho tôi vượt ngục, tất nhiên anh cũng có kế cứu Lãnh-Nhi. Tôi đọc đi đọc lại mẩu giấy hai ba lần nữa rồi tôi cho vào miệng nhai nát và nuốt đi. Bây giờ tôi chỉ còn việc ngủ cho yên. Tôi thực hành khéo quá, đến nỗi người cai ngục phải đánh thức tôi dậy để ăn bữa sáng.

Thời giờ đi quá nhanh. Vào khoảng quá trưa hôm sau, một người Cảnh-binh tôi không quen mặt vào phòng giam và bảo tôi đi. Tôi vững dạ thấy người Cảnh-binh này trạc năm mươi tuổi và trông không khe khắt lắm.

Mọi việc tôi đều theo lời Mã-Tư cả. Khi xe bắt đầu chạy, tôi ngồi lùi dần về cạnh cửa tôi vừa lên. Người Cảnh-binh ngồi trước mặt tôi. Trong toa này chỉ có hai chúng tôi thôi.

Người Cảnh-binh hỏi tôi:

- Em nói tiếng Anh được chứ?

- Ít thôi.

- Em hiểu khi người ta nói chứ?

- Hơi hiểu, khi người ta nói chậm.

- Em ơi! Ta muốn cho em một lời khuyên: Đừng quỷ quyệt với Tòa án! Cứ nói thực đi. Có thành thực thì mới thu phục được lòng yêu của mọi người. Không có gì khó chịu bằng có việc với những kẻ có lỗi hiển nhiên mà còn cãi. Còn những kẻ thú lỗi bao giờ cũng được người ta thương mến mà khoan dung cho, vì thế em nói thực cho ta biết vụ đó xẩy ra như thế nào, ta sẽ thưởng cho em mấy đồng. Em phải biết tiền bạc làm êm dịu phần nào cảnh khổ ở nhà lao.

Tôi định trả lời phắt rằng tôi không có tội gì phải thú cả. Nhưng muốn “thu phục lòng yêu” của người Cảnh-binh – theo từ ngữ của ông ta – tôi nín lặng, không nói gì.

Ông ta cứ tiếp:

- Em cứ nghĩ kỹ đi. Khi nào ở nhà lao, em nhận thấy lời khuyên của ta tốt, em sẽ nhờ người gọi ta, vì không nên thú tội với bất cứ ai, phải chọn mặt người nào thương mình, như ta chẳng hạn, em đã rõ ta sẵn lòng giúp đỡ em.

Tôi sẽ gật đầu.

- Cứ hỏi ông Đô-Phiên là tên tôi. Em nhớ lấy.

- Thưa ông, vâng.

Tôi đứng ở cạnh cửa lên xuống. Tôi xin phép ông ta nhìn qua cửa kính ra ngoài để xem phong cảnh những làng mạc xe đi qua. Vì ông muốn “thu phục lòng yêu của tôi”, ông trả lời cho tôi tha hồ xem. Ông chả sợ gì. Con tầu đang chạy hết tốc độ.

Một lúc lâu, gió đánh vào mặt lạnh quá, ông bỏ chỗ cửa vào ngồi ghế giữa trong toa. Còn tôi, không biết lạnh là gì. Tôi sẽ đưa tay trái vặn sẵn quả nắm ra, tay phải giữ thành cửa.

Lát sau, xe hỏa kéo còi và đi chậm lại. Đã đến lúc: tôi tung cửa, nhẩy mạnh xuống hết sức xa. Tôi lăn xuống hố. May hai tay tôi đã được vào bờ cỏ, nhưng vì rơi xuống mạnh quá, tôi nằm ngất đi.

Khi tôi hồi tỉnh, tôi tưởng tôi vẫn còn ở trên xe hỏa vì tôi thấy chỗ tôi nằm đang bị kéo nhanh và có tiếng bánh xe lăn. Lạ quá, tôi nằm trên một cái ổ cỏ, mặt tôi bị ướt và có vật gì âm ấm vuốt ve trên má, trên trán tôi.

Tôi mở bừng mắt ra. Một con chó, con chó vàng đang cúi xuống liếm vào tôi. Mắt tôi gặp mắt anh Mã-Tư đang quỳ bên cạnh tôi.

Anh rẽ con chó ra, vừa hôn tôi vừa nói:

- Anh thoát nạn rồi!

- Ta ở đâu thế này?

- Trong xe ngựa. Anh Bốp đang đánh xe.

Bốp quay lại hỏi:

- Thế nào, đã khá chưa?

- Tôi không biết, có lẽ khá.

Bốp kêu:

- Cử động tay, cử động chân xem.

Theo lời anh Bốp, tôi duỗi chân duỗi tay trên ổ cỏ. Mã-Tư xem xong, nói:

- Tốt lắm. Không bị gẫy gì cả.

- Việc xẩy ra thế nào?

- Anh nhẩy ở xe ra đúng như lời tôi dặn. Anh lăn vào cái hố. Vì ngã mạnh quá nên anh ngất đi. Đợi mãi không thấy anh bò lên. Tôi liền giữ ngựa cho anh Bốp trèo qua bờ cỏ sang ẳm anh về xe. Chúng tôi đã buồn và lo, tưởng anh chết, may sao anh hồi lại. Thực là sung sướng!

- Còn người Cảnh-binh.

- Ông ta cứ đi vì xe hỏa không dừng.

Đã biết qua những điều cốt yếu rồi; tôi nhìn chung quanh và thấy con chó vàng cứ nhìn tôi bằng đôi mắt hiền dịu như mắt Lãnh-Nhi. Nhưng không phải Lãnh-Nhi, vì Lãnh-Nhi lông trắng.

- Còn Lãnh-Nhi đâu?

Mã-Tư chưa kịp trả lời thì con chó vàng nhẩy vào liếm tay tôi và khóc.

Mã-Tư nói:

- Lãnh-Nhi đấy! Chúng tôi phải nhộm lông nó đi.

Tôi vuốt ve con chó và hôn vào đầu nó.

Tôi hỏi:

- Tại sao anh lại nhuộm đi thế?

- Đó là cả một câu chuyện. Tôi kể cho anh nghe…

Nhưng Bốp không để cho Mã-Tư kể. Bốp bảo Mã-Tư:

- Anh ra cầm cương ngựa cho tôi. Cầm cho chắc để tôi xếp đặt lại cho người ta khỏi nhận rõ xe ta khi qua các trạm gác.

Chiếc xe này có những cái gọng uốn cong để đỡ mui vải. Anh tháo những gọng đó xếp trong xe, gấp tư mui vải đắp cho tôi. Rồi anh bảo Mã-Tư cùng chui xuống mảnh vải đó. Chiếc xe có mui chở người bây giờ hóa thành chiếc xe không mui và chỉ có một người đánh xe. Nếu người ta có đuổi theo chúng tôi, trông thấy xe đó cũng không ngờ vực gì.

Tôi hỏi Mã-Tư nằm dài bên cạnh tôi:

- Chúng ta đi đâu bây giờ?

- Đi Lít-Hăm-Tông, là một cái bến nhỏ ở bờ biển. Ở đó Bốp có người anh là chủ một chiếc thuyền buồm vẫn chạy sang Pháp mua trứng và bơ ở tỉnh Ích- Nhi miền Noóc-Măng-Đi về bán. Nếu chúng ta trốn thoát, sẽ trốn thoát được, là ở anh Bốp cả. Anh ấy làm hết. Chứ tôi một đứa trẻ khốn nạn, thì làm gì được cho anh. Chính Bốp đã bầy mưu nhẩy xe hỏa, bắn thư cho anh. Chính Bốp đã mượn bạn anh xe ngựa tốt cho ta. Và chính Bốp sẽ kiếm tầu đưa chúng ta về Pháp, vì anh phải biết rằng nếu anh bước xuống một chiếc tàu biển là bị bắt ngay. Anh coi, có bạn thì sung sướng biết bao.

- Còn Lãnh-Nhi, ai có ý kiến đem đi?

- Tôi, nhưng chính anh Bốp có ý kiến nhuộm vàng lông nó đi để người ta khỏi nhận ra. Chúng tôi bắt nó ở trong tay viên Cảnh-binh Gia-Ry. Viên Cảnh-binh thông minh mà quan Tòa đã khen – lần này hết thông minh vì đã để người ta lấy mất Lãnh-Nhi mà không biết. Con Lãnh-Nhi đã nhận thấy tôi nên tôi đã sai khiến nó một cách dễ dàng. Vả lại Bốp biết mọi mánh khóe của những tên ăn trộm chó.

- Thế còn chân anh thế nào?

- Khỏi hay gần khỏi, tôi không có thì giờ nghĩ đến.

Những đường giao thông ở Anh không giống ở Pháp. Từ chỗ nọ đến chỗ kia lại có những trạm gác mà người ta phải trả tiền mới đi qua được. Khi chúng tôi tới gần một trạm đó, Bốp bảo chúng tôi im tiếng và không được cựa cạy. Những người đứng canh chỉ trông thấy xe ngựa do một người đánh đi, Bốp bông lơn với họ vài câu rồi cứ thẳng tiến.

Anh có tài làm trò hề nên hóa trang rất khéo. Anh đang đóng vai chủ trại. Giá có người rõ quen anh đứng nói chuyện với anh bây giờ cũng không nhận ra anh.

Xe chúng tôi đi rất nhanh, vì ngựa tốt mà Bốp lại là một tay đánh xe tuyệt giỏi. Tuy nhiên, chúng tôi phải dừng lại một lúc để cho ngựa thở và ăn. Chúng tôi không vào hàng quán nào. Chúng tôi nghỉ ở giữa rừng, tháo cương ra và đeo vào cổ nó một giỏ đầy thóc lấy ở trong xe.

Đêm xuống tối đen. Chúng tôi không sợ bị bắt nữa. Lúc đó tôi liền ngỏ cùng anh Bốp những lời cảm ơn chân thành của tôi, nhưng anh không để tôi nói hết những điều cảm xúc trong lòng tôi.

Anh bắt tay tôi và đáp:

- Anh đã giúp tôi. Hôm nay tôi giúp lại anh. Mỗi người một lần chứ. Vả lại anh là anh của Mã-Tư, đối với một người bạn tốt như Mã-Tư, không ai là người tiếc công cả.

Tôi hỏi anh sắp đến Lít-Hăm-Tông chưa, anh trả lời còn hơn hai dặm nữa mà phải đi nhanh mới được, bởi vì thuyền của người anh anh thứ bảy nào cũng đi Ích-Nhi. Mà nước triều kỳ này có lẽ lên sớm. Hôm nay là thứ sáu rồi. Chúng tôi lại lên xe, Mã-Tư và tôi lại nằm chỗ cũ dưới tấm vải dầy. Con ngựa được ăn và nghỉ ngơi, chạy như bay.

Mã-Tư hỏi tôi:

- Anh có sợ không?

- Có và không. Tôi rất lo bị bắt lại. Nhưng chắc chắn người ta không bắt được tôi. Trốn đi, có phải là nhận mình có lỗi không? Đó là điều mà tôi bứt rứt nhất. Biện bạch chỗ đó làm sao được?

- Chúng tôi đã nghĩ đến điều đó, nhưng Bốp bảo không nên để anh bị giải ra tòa Đại Hình. Đến chỗ đó thì buồn lắm mặc dầu người ta được tha bổng. Tôi không dám nói gì, vì ý tôi chỉ muốn đưa anh về Pháp, tôi sợ nói làm ngãng việc ra.

- Anh đã làm một việc hay. Dù xẩy ra đến thế nào, tôi cũng nhớ ơn hai anh.

- Không xẩy ra gì cả. Anh đừng sợ. Khi xe hỏa tới nơi, người Cảnh-binh kia sẽ làm tờ trình. Lúc đó người ta mới mở cuộc truy nã. Trong khoảng đó, ta có bao nhiêu là thì giờ để đi xa mà chúng ta lại chạy như phi. Hơn nữa họ biết đâu là ta đi Lít-Hăm-Tông để xuống thuyền.

Có thể tin được rằng người ta không biết hành tung của tôi, may ra tôi có thể xuống thuyền đi thoát được. Nhưng tôi không đồng ý với Mã-Tư là người Cảnh-binh phải mất nhiều thì giờ để theo tôi. Đó là một mối lo, là một điều chí nguy. Tuy nhiên, Bốp khéo điều khiển con ngựa hay nên chiếc xe cứ vùn vụt như bay trên con đường quang vắng. Thỉnh thoảng chúng tôi có gặp chiếc xe nào thì gặp, chứ không một xe nào vượt xe chúng tôi.

Những làng mạc chúng tôi đi qua đều yên lặng, thỉnh thoảng mới nhìn thấy một cái cửa sổ có ánh đèn khuya. Một vài con chó để ý đến “cuốc” xe nhanh của chúng tôi, nghếch mõm sủa theo. Chỗ nào phải leo qua dốc, khi vượt xong, Bốp lại cho ngựa nghỉ, chúng tôi xuống xe và áp tai xuống mặt đường để nghe. Nhưng Mã-Tư là người thính tai nhất cũng không nghe thấy tiếng động gì khả nghi. Chúng tôi lữ hành trong bóng tối và trong khoảng im lặng của ban đêm.

Bây giờ không phải là để nấp mà chúng tôi phải nằm trong mui vải, chính là để cho khỏi rét, vì đã lâu gió bắc thổi vào giá lạnh. Chúng tôi liếm môi thấy mặn. Chúng tôi gần đến biển rồi.

Không bao lâu, chúng tôi nhìn thấy một ánh sáng lúc lòe, lúc tắt cách khoảng rất đều: đó là hải đăng.

Chúng tôi đến nơi. Bốp cho xe đi chậm lại, rẽ vào một con đường tắt. Xong anh dừng lại, xuống xe, bảo chúng tôi ở lại giữ ngựa. Anh chạy xem thuyền đã rời bến chưa và chúng tôi đi nhờ thuyền này có trở ngại hoặc nguy hiểm gì không.

Tôi xin thú thực rằng thời gian anh Bốp đi, tôi thấy lâu, lâu quá. Chúng tôi không nói chuyện. Tiếng sóng vỗ vào đá rào rạt đều đều bên tai làm tăng nỗi buồn của chúng tôi. Mã-Tư run người, tôi cũng run run như anh.

Anh bảo tôi:

- Lạnh quá!

Có đúng thế không? Sự thực là mỗi khi một con bò hay một con cừu trong bãi đi ra, nghe tiếng sột soạt là chúng tôi lại run lên không rõ vì rét hay vì sợ.

Sau cùng, chúng tôi nghe thấy tiếng chân người bước trên lối anh Bốp vừa đi. Có lẽ anh đã trở ra. Số phận tôi sắp được định đoạt.

Bốp không ra một mình. Khi anh lại gần, chúng tôi thấy có người theo sau. Người đó to lớn, vận một cái va-rơ bằng vải sơn và đội một cái mũ len.

Bốp nói:

- Đây là anh tôi. Anh tôi bằng lòng nhận các anh xuống thuyền và đưa các anh đi. Bây giờ tôi từ biệt các anh. Để cho người ta biết tôi có mặt ở đây, không có lợi gì.

Tôi cảm ơn anh nhưng anh gạt đi, bắt tay tôi và nói:

- Anh đừng nói thế. Phải giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi người một lần chứ! Một ngày kia ta sẽ gặp nhau. Tôi rất sung sướng đã giúp Mã-Tư, bạn tôi.

Chúng tôi liền theo anh Bốp, đi qua mấy phố yên lặng trong tỉnh. Sau hai ba chỗ ngoẹo, chúng tôi đến bến. Gió biển thổi như hắt vào mặt chúng tôi.

Không nói gì, anh Bốp lấy tay trỏ cho chúng tôi một chiếc thuyền. Chúng tôi hiểu là thuyền của ông. Vài phút sau, chúng tôi đã xuống thuyền. Người ta cho chúng tôi vào một cái buồng con.

 Ông nói:

- Hai giờ nữa thì nhổ neo. Các anh ở yên đây, đừng làm huyên náo.

Nói xong, ông khóa cửa buồng lại. Yên lặng Mã-Tư nhẩy vào trong cánh tay tôi và hôn tôi. Anh không run nữa.

Chương XL

thuyền thiên nga

Sau khi ông anh Bốp lên bờ, dưới thuyền rất im lặng. Chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng gió thổi qua những cột thuyền và tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền mỗi lúc một tăng thêm.

Hồi lâu, có tiếng chân người đi trên boong, tiếng dây ném xuống thuyền, tiếng máy thả dây cuộn dây, tiếng buồm kéo lên, tiếng bánh lái kèn kẹt. Tự nhiên con thuyền nghiêng hẳn về phía bên trái và tròng trành. Người ta khởi hành. Tôi thoát nạn.

Thoạt tiên, thuyền hơi lắc lư, nhưng rồi mỗi lúc một mạnh hơn. Con thuyền nhào xuống rồi lại nhô lên, sóng đập vào mũi thuyền, vào mạn thuyền bên phải dữ dội.

Tôi cầm tay Mã-Tư nói:

- Thương hại anh quá!

Anh nói:

- Không sao, anh ạ! Tôi đã biết trước. Lúc ngồi trên xe thấy gió thổi rạp những ngọn cây, tôi biết là sóng to và chúng ta sẽ được khiêu vũ. Bây giờ, quả thực.

Lúc đó, cửa buồng mở ra. Ông anh Bốp quay vào bảo chúng tôi:

- Các anh có lên boong thì lên. Bây giờ không sợ nguy hiểm nữa.

Mã-Tư hỏi:

- Ở chỗ nào khỏi mệt?

- Nằm xuống thì khỏi.

- Cảm ơn ông, tôi nằm vậy.

Mã-Tư liền nằm dài ra sàn.

Thuyền Trưởng nói tiếp:

- Thủy thủ sẽ đem đến các thứ cần dùng cho anh.

Mã-Tư nói:

- Nếu được ngay thì tốt lắm.

- Anh đã mệt lắm à?

- Tôi thấy khó chịu đã lâu…

Tôi lại ngồi cạnh anh, nhưng anh giục tôi lên boong.

- Tôi không việc gì anh ạ. Bây giờ anh thoát nạn rồi, tôi không cần gì cả. Tôi rất sung sướng được say sóng!

Ở trên boong, tôi phải nắm chặt vào dây mới đứng vững được. Tôi nhìn ra biển, trong bóng đêm sâu thẳm, tôi chỉ thấy một lớp bọt trắng gợn lên. Con thuyền nghiêng hẳn về một bên như sắp đổ, nhưng nó không đổ, nhờ sức gió tây, nó vùn vụt rẽ sóng tiến lên.

Tôi quay lại nhìn vào bến. Những ánh đèn chỉ còn là những điểm li ti lấp lánh sau màn sương tối, yếu dần đi rồi lần lượt biến mất hết. Lòng tôi cởi mở, tôi để lời vĩnh biệt nước Anh.

Thuyền Trưởng bảo tôi:

- Nếu gió thổi đều, chiều nay ta có thể đến Ích-Nhi sớm được. Chiếc thuyền “Nguyệt-Thực” này chạy khá lắm.

Phải mất một ngày, hơn một ngày đi trên biển, khổ thay cho Mã-Tư! Nhưng những lớp sóng đã làm anh “say” thì cũng làm cho anh sung sướng! Suốt ngày hôm đó, tôi hết lên boong lại xuống buồng, hết xuống buồng lại lên boong. Buổi chiều, gặp tôi trên boong, Thuyền Trưởng trỏ tay về phía tây-nam, chỗ có một cột khói trắng nổi cao trên nền trời xanh. Ông bảo:

- Đó là tỉnh Bạc-Lơ (Barfleur).

Tôi vội trèo xuống báo tin mừng cho Mã-Tư hay: Chúng tôi đã trông thấy đất Pháp. Nhưng khoảng từ Bạc-Lơ đến Ích-Nhi còn xa, vì phải lượn quanh bán đảo Cốt-Tăng-Tanh (Cotentin) mới đến Ích-Nhi.

Khi thuyền Nguyệt-Thực cập bến, thì tối đã lâu. Thuyền trưởng vui lòng cho chúng tôi ngủ lại ở đấy. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi ân cần cảm ơn Thuyền Trưởng và từ biệt ông.

Ông bắt mạnh tay chúng tôi và dặn:

- Khi nào các anh muốn trở lại nước Anh thì cứ trở lại đây. Thuyền Nguyệt-Thực rời bến Ích-Nhi vào những ngày thứ ba.

Chúng tôi cảm ơn lòng quý hóa của ông một lần nữa rồi đi vì tôi cũng như Mã-Tư không ai muốn trở lại một nơi mà mình đã sợ và lánh cho nhanh.

Bước chân lên đất Pháp, chúng tôi chỉ còn những quần áo đang mặc trong người và những nhạc khí của chúng tôi thôi. Mã-Tư đã cẩn thận giữ cho tôi cây thụ-cầm mà tôi đã gửi lại ở lều anh Bốp để đi quán trọ Cây Sồi. Còn hai túi đồ đạc của chúng tôi thì vẫn còn để ở trong xe của gia đình Điệp-Công. Chúng tôi rất băn khoăn về việc này, chúng tôi không thể tiếp tục nghề cũ vì không có sơ-mi, không có bít-tất dài và nhất là không có giấy căn cước.

May sao, Mã-Tư còn để dành được 12 phật-lăng, thêm vào đó phần tiền mà anh Bốp đã chia cho chúng tôi sau buổi diễn ở Trường Đua 22 đồng Shillings hay 27 phật-lăng rưỡi, thành ra chúng tôi có gần 40 phật-lăng, một món tiền khá lớn cho chúng tôi.

Mã-Tư đã đem số tiền này biếu cho anh Bốp để đỡ anh những khoản chi tiêu về việc vượt ngục của tôi, nhưng Bốp không nhận, anh nói:

- Ai lại lấy tiền công khi giúp bạn.

Ở thuyền Nguyệt-Thực lên, công việc thứ nhất của chúng tôi là phải tìm mua một cái túi cũ của nhà binh, hai áo sơ-mi, hai đôi bít-tất dài, một miếng xà-phòng, một cái lược, kim, chỉ, cúc và một thứ nữa rất cần thiết là bản đồ nước Pháp.

Thực vậy, bây giờ ở đất Pháp rồi. Chúng tôi biết đi đâu? Đi đường nào? Đi thế nào?

Đó là một vấn đề làm rối óc chúng tôi từ khi ở Ích-Nhi ra đường Bay-ơ (Bayeux).

Mã-Tư nói:

- Theo ý tôi, không có đường nào hơn kém cả, đi sang bên phải hay rẽ sang bên trái cũng được. Tôi chỉ cần có một điều.

- Điều gì?

- Là theo dòng sông lớn, sông con hay sông đào, vì tôi có một ý định.

Tôi chưa kịp hỏi đến ý định của anh, anh nói tiếp:

- Tôi nghĩ cần phải cắt nghĩa ý định của tôi cho anh nghe. Khi mà An-Tuyên còn ốm, mẹ cậu còn phải đưa cậu đi chơi như ngày nào anh đã gặp trên thuyền “Thiên-Nga”.

- An-Tuyên không ốm nữa.

- Nghĩa là bệnh tình cậu ấy đã khá, cậu ấy không ốm nặng nữa. Nhưng cần phải nhờ vào sự săn sóc tận tâm của mẹ cậu thì cậu mới khỏi hẳn được. Vì thế tôi nghĩ, muốn cho bệnh khỏi hẳn, tất mẹ cậu phải đưa cậu đi chơi bằng thuyền trên sông lớn, sông con, các sông đào nào mà Thiên-Nga có thể đi qua được. Nay cứ theo các dòng sông đó, may ta có thể tìm được bà Mỹ-Lưu.

- Ai bảo anh biết thuyền Thiên-Nga còn ở Pháp?

- Không anh bảo cả. Nhưng thuyền Thiên-Nga không thể đi biển được, tất nhiên còn ở Pháp. Chúng ta có nhiều cái may tìm thấy. Giá chúng ta chỉ có một cái may, thì anh có đồng ý với tôi đành liều cái may ấy không? Ý kiến của tôi là nên tìm bà Mỹ-Lưu và không nên quản ngại gì cả.

- Thế còn Lệ-Hoa, An-Sinh, Bằng-Mai, Yến-Chi?

- Trong khi tìm bà Mỹ-Lưu, ta sẽ ghé thăm các bạn đó. Vậy thì phải theo một con sông. Anh xem bản đồ xem con sông nào gần chỗ chúng ta nhất.

Bản đồ được giở ra trên đường cái. Chúng tôi tìm một con sông gần nhất, thì thấy là sông Xen.

Mã-Tư nói:

- Vậy chúng ta theo sông Xen.

- Sông Xen qua Ba-Lê.

- Thì “làm sao”?

- “Làm sao” lắm chứ! Ngày xưa ông Vỹ-Tiên thường bảo tôi muốn tìm ai thì cứ về Ba-Lê mà tìm thì thấy. Nếu Cảnh-binh nước Anh truy nã tôi, đang đợi ở đó nay tôi lại đâm đầu vào, thế chẳng hóa cuộc chạy trốn của ta vô ích lắm sao?

- Thế ra Cảnh-sát cuộc nước Anh có thể cho người sang Pháp để đuổi theo anh?

- Tôi không biết, nhưng việc đó có thể xảy ra được thì không nên về Ba-Lê.

- Sao ta lại không có thể theo sông Xen đến gần Ba-Lê, vòng lối khác để rồi lại theo sông Xen được? Tôi cũng sợ gặp Phú-Lợi.

- Tất nhiên.

- Cứ đi như thế, ta hỏi thăm những chủ thuyền, những người kéo ghe vì thuyền Thiên-Nga có cái hiên lạ kiểu, ai cũng phải nhìn nếu nó đi qua. Nếu không tìm thấy Thiên-Nga ở sông Xen, ta tìm nó ở sông Loa, sông Ga-Ron và tất cả các sông khác ở Pháp, thì thế nào cũng phải thấy!

Tôi không còn lý gì nữa để cãi lại Mã-Tư. Chúng tôi nhất định ngược theo bờ sông Xen.

Nghĩ cho chúng tôi xong rồi, bây giờ chúng tôi phải nghĩ đến Lãnh-Nhi. Lãnh-Nhi lông vàng thì không phải là Lãnh-Nhi của tôi. Chúng tôi mua xà-phòng đen, gặp chỗ có nước đầu tiên, chúng tôi liền tắm và chải cho nó đến mỏi tay thì thôi.

Thuốc nhộm của Bốp tốt quá, thành ra tốn bao nhiêu xà-phòng, bao nhiêu công chải xát và mất bao nhiêu tuần lễ, bao nhiêu tháng trời, con Lãnh-Nhi mới lấy lại được bộ lông trắng đẹp như xưa.

May sao xứ Noóc-Măng-Đi là miền lắm nước, ngày nào chúng tôi cũng tắm cho Lãnh-Nhi được.

Từ Bay-ơ chúng tôi phải đi qua mấy tỉnh nhỏ mới tới tỉnh Bùi (Bouille) ở trên sông Xen.

Một buổi chiều, đi hết con đường cây cối rậm rạp, chúng tôi đến chỗ ngoẹo. Leo lên đỉnh đồi, Mã-Tư chợt nhìn thấy sông Xen ở trước mặt và reo lên.

Chúng tôi nhìn ra: con sông vòng qua chỗ chúng tôi đứng, nước to nhưng sóng lặng, nước xuôi những con thuyền buồm trắng và những chiếc tàu lớn nhả từng cuộn khói xanh. Hai bên bờ nào là đồng cỏ, nào ruộng mầu, nào rừng cây làm cho phong cảnh thêm mát mẻ, xinh tươi.

Mã-Tư nói:

- Chắc chắn bà Mỹ-Lưu đưa con dạo chơi trên sông này.

- Chúng ta dò hỏi những người ở làng ven sông sẽ rõ.

Tôi không biết việc hỏi thăm người dân xứ Noóc-Măng-Đi rất khó. Họ trả lời vớ vẩn và hỏi lại mình nữa:

“Anh hỏi tàu ở Havre hay tàu ở Rouen?”

“Nó là cái tàu, phải không?”

“Nó là cái thuyền nan? Cái ca-nô? Cái sà-lan?”

Sau khi trả lời tất cả câu hỏi của họ, chúng tôi biết rằng thuyền Thiên-Nga không qua tỉnh Bùi hoặc có qua nhưng về ban đêm chăng, nên không ai nhìn thấy.

Từ tỉnh Bùi đến tỉnh Ru-Ăng (Ruoen), chúng tôi thăm tìm nhưng vô ích. Đến tỉnh En-Bớp (Elbeuf), chúng tôi hỏi, chả ai trông thấy Thiên-Nga. Đến Pô-Dơ (Poses), nơi này ngang sông có đập, thuyền bè xuôi ngược đều phải đi qua. Chúng tôi hỏi, người coi đập trả lời không hề gặp con thuyền lạ đó bao giờ.

Chúng tôi không nản chí, cứ ngược theo bờ sông đi, tới Ba-Lê và quá Ba-Lê.

Chúng tôi đi không những để mỗi ngày tiến thêm một quãng đường mà còn phải dừng lại đây đó để đàn hát, diễn trò để mưu sinh. Sau năm tuần lễ, chúng tôi đi tới Sa-Tăng-Tanh (Charentin).

Đến đây một câu hỏi được nêu ra: chúng tôi phải theo sông Xen hay theo sông Mạc (Marne) – là sông nhánh đổ vào sông Xen. Ngồi trước tấm bản đồ, tôi do dự không biết chọn đường nào.

May sao, trong khi chúng tôi đang bối rối và ra bến dò hỏi, một người chủ thuyền cho chúng tôi biết là lần thứ nhất, ông ta được trông thấy một con thuyền du lịch có hiên, giống như Thiên-Nga. Mã-Tư vui sướng quá nhẩy nhót trên bến. Anh lấy vĩ-cầm đánh một khúc khải hoàn hùng tráng.

Trong khi đó, tôi tiếp tục hỏi, người chủ thuyền vui lòng trả lời cặn kẽ những câu hỏi của tôi. Tôi không còn ngờ gì nữa. Con thuyền lạ người ta đã gặp chính là Thiên-Nga. Thuyền đó qua bến này cách đây hai tháng và ngược dòng sông Xen.

Hai tháng! Một thời gian quá xa rồi! Nhưng có hề chi. Chúng tôi cứ việc đi rồi chúng tôi phải đuổi kịp, mặc dầu chúng tôi đi bằng chân mà con thuyền thì do ngựa kéo.

Vấn đề thời gian không quan hệ, quan hệ nhất là hiện diện của thuyền Thiên-Nga. Nay Thiên-Nga vẫn còn ở Pháp, thế là chúng tôi vững lòng.

Mã-Tư kêu lên:

- Ai có lý, hở anh?

Tôi chỉ cười và không đáp.

Thiên-Nga ở trước mặt, chúng tôi chỉ có việc theo dọc bờ sông Xen thôi, không cần dừng lại để hỏi ai nữa.

Nhưng đến tỉnh Mô-Rê (Moret), có một sông nhánh chẩy vào sông Xen, chúng tôi lại phải hỏi xem Thiên-Nga theo ngả sông nào. Rồi đến Mông-Rô (Montereau), chúng tôi lại phải hỏi lần nữa.

Lần này, Thiên-Nga đã bỏ sông Xen để sang sông Ôn (Yonne). Người ta bảo thuyền đó đã rời Mông-Rô cách đây hơn hai tháng, trên thuyền có một bà người Anh và một đứa con trai nằm dài trên giường.

Theo sông Ôn, chúng tôi càng đi càng gần nơi Lệ-Hoa ở. Lòng tôi hồi hộp. Tôi mở bản đồ ra xem: đến Goa-Nhi (Joigny), không biết bà Mỹ-Lưu chọn sông đào Buốc-Gô (Bourgogne) hay kênh Niên (Nivenais).

Chúng tôi đi tới ngã ba sông Ôn và sông Ác-Măng (Armençon), biết Thiên-Nga vẫn ở sông Ôn: chúng tôi sẽ được qua Đơ-Di và thăm Lệ-Hoa. May ra cô đã thấy bà Mỹ-Lưu và An-Tuyên, cô sẽ kể cho chúng tôi biết.

Từ khi chúng tôi chạy theo Thiên-Nga, đến đâu chúng tôi cũng chỉ diễn cho mau cho chóng để đi. Lãnh-Nhi, một kịch sĩ kiên nhẫn, không hiểu sao chúng tôi lại vội vã thế, không để cho Lãnh-Nhi có thì giờ ngậm bát gỗ ngồi lỳ trước quý khán giả cố tình không mở túi? Phải biết đợi chứ!

Nhưng chúng tôi không đợi, vì thế số thu nhập càng ngày càng kém. Gia dĩ, số 40 phật-lăng của chúng tôi còn lại cũng mòn dần. Không những không kiếm thêm ra, chúng tôi còn ăn vào vốn. Nhưng Mã-Tư cứ giục.

- Chúng ta đi mau lên để đuổi kịp Thiên-Nga.

Tôi cũng họa theo:

- Chúng ta đi mau lên!

Tối đến, không bao giờ chúng tôi kêu mệt, mặc dầu đã đi những độ quá dài. Không những thế, chúng tôi còn bảo nhau sáng hôm sau đi thật sớm.

Mã-Tư là người thích ngủ, nên vẫn nhắc tôi:

- Sáng mai gọi tôi nhé!

Mỗi khi tôi gọi, không bao giờ anh dậy chậm, sốt sắng sửa soạn đi luôn.

Muốn để dành tiền, chúng tôi hạn chế các khoản chi tiêu. Trời nắng, Mã-Tư tuyên bố không muốn ăn thịt vì “mùa hè ăn thịt thì độc”. Chúng tôi chỉ dùng bánh mì và trứng mặn hay chút bơ thôi. Chúng tôi đi qua miền sản xuất rượu vang, mà chúng tôi chỉ uống nước lạnh.

Chúng tôi không hề phàn nàn. Tuy vậy Mã-Tư thỉnh thoảng cũng có ý thèm thuồng. Anh nói:

- Tôi mong bà Mỹ-Lưu vẫn còn người đầu bếp cũ, khéo làm những bánh mứt, bánh nhân hạt mơ.

- Chưa bao giờ anh ăn các thứ đó à?

- Tôi đã ăn những bánh khoai. Tôi chưa từng ăn các bánh mứt. Nhưng tôi đã trông thấy. Có phải những thứ bánh vàng vàng có điểm những hạt trăng trắng?

- Hạt hạnh nhân.

- Ô!

Và Mã-Tư há hốc mồm như muốn nuốt cả tấm bánh vào miệng.

Từ Gioa-Nhi đến Ôt-Xe (Auxerre); sông Ôn lượn quanh co. Chúng tôi đi đường tắt nên lợi thì giờ. Nhưng đến Ôt-Xe thì Thiên-Nga đã sang sông Niên và đi nhanh hơn vì nước sông yên lặng. Trên sông này thuyền bè ít đi lại, đến mỗi cửa “đập”, chúng tôi lại hỏi, ai ai cũng nhìn thấy chiếc thuyền lạ kiểu ấy.

Không những người ta tả rõ thuyền Thiên-Nga, người ta còn kể trong thuyền có một bà người Anh và một cậu con trai nằm ở cái giường trên boong, dưới cái hiên có hoa có lá và thỉnh thoảng cậu ta ngồi dậy trông ra ngoài. Chúng tôi biết cậu An-Tuyên đã đỡ rồi.

Chúng tôi tới gần Mộc-Văn (Đơ-Di). Còn hai ngày nữa. Còn một ngày. Còn vài giờ nữa thôi. Sau cùng, chúng tôi nhìn thấy cánh rừng mà chúng tôi đã dạo vào mùa thu trước. Rồi chúng tôi nhìn thấy bờ đập cùng nhà bà Cát-Tường.

Không ai bảo ai, Mã-Tư và tôi cùng rảo bước: chúng tôi không đi nữa mà chúng tôi chạy. Lãnh-Nhi chạy trước chúng tôi. Nó báo tin cho Lệ-Hoa biết để ra đón chúng tôi. Nhưng không có Lệ-Hoa nào ra đón và Lãnh-Nhi thì cúp đuôi chạy trở lại như người bị đuổi đánh.

Chúng tôi liền đứng lại và tự hỏi thế là nghĩa lý gì? Có việc gì xảy ra? Nhưng chẳng ai nói ra và lại tiến bước.

Lãnh-Nhi tiu nghỉu đã về tới chân chúng tôi. Một người đàn ông đang kéo cánh cửa “đập”, chúng tôi nhìn kỹ, không phải là ông chú của Lệ-Hoa.

Chúng tôi vào tận nhà. Một người đàn bà mà chúng tôi không quen, đang đi lại trong bếp.

Chúng tôi vào hỏi:

- Bà Suy-Ô (tức Cát-Tường) có nhà không?

Bà ta quay ra nhìn chúng tôi một lúc, hình như chưa hiểu chúng tôi hỏi gì. Sau cùng bà đáp:

- Bà ấy không ở đây nữa.

- Thế bây giờ ở đâu?

- Ở Ai-Cập.

Mã-Tư và tôi ngẩn người, nhìn nhau. Ở Ai-Cập! Chúng tôi không hiểu Ai-Cập là nước nào và ở đâu? Nhưng chúng tôi đoán là xa, xa lắm, ở góc biển bên trời.

- Còn cô Lệ-Hoa? Bà có biết Lệ-Hoa không?

- Lệ-Hoa à? Cô ta đi thuyền với một bà người Anh.

Lệ-Hoa hiện ở thuyền Thiên-Nga! Chúng tôi đã lạc trong giấc mơ chăng?

Nhưng bà ta đã trả lời là chúng tôi đang ở trong cảnh thực bằng câu:

- Anh là Lê-Minh à?

- Phải.

- Vậy thì, khi ông Suy-Ô chết đuối…

- Chết đuối?

- Chết đuối trong “đập”. Ông ta trượt chân ngã xuống đập, bị nước cuốn và móc vào một cái đinh ở gầm sà-lan. Đó là cái tai nạn về nghề nghiệp thường xảy ra. Vì thế ông ta chết đuối. Sau đó chồng tôi đến thay. Bà Cát-Tường đảm đang thực nhưng không tránh nổi cảnh khốn quẫn. Khi tiền hết, người ta không thể “đúc” ngay ra được. Có người chủ cũ định thuê bà sang Ai-Cập để trông nom mấy đứa trẻ. Nhưng bà lúng túng không quyết vì còn đứa cháu gái, Lệ-Hoa. May sao, một chiều kia, có một bà người Anh giong thuyền cho đứa con trai ốm đi chơi, dừng lại ở cửa đập. Người ta nói chuyện. Bà khách kia đang cần một đứa trẻ để làm bạn với con mình cho vui, liền xin Lệ-Hoa để nuôi nấng, dậy dỗ và chữa bệnh cho. Thấy bà khách kia hiền hậu, quá tốt, dịu dàng với kẻ nghèo khó, bà Cát-Tường chấp thuận. Trong lúc Lệ-Hoa lên thuyền theo bà người Anh, bà Cát-Tường sang Ai-Cập. Trước khi từ biệt, Lệ-Hoa không biết nói, ra hiệu cho cô là bà Cát-Tường nhờ tôi một việc: khi nào anh đến thăm cô thì kể lại sự tình cho anh nghe. Vì thế tôi mới biết tên anh là Lê-Minh.

Tôi cảm động quá không biết nói câu gì. Mã-Tư sáng suốt hơn tôi, hỏi luôn bà đó:

- Thế bà người Anh ấy đi đâu?

- Đi miền nam nước Pháp hay sang Thụy sĩ. Đáng lẽ Lệ-Hoa phải nhờ người viết thư gởi về đây cho anh biết địa chỉ. Nhưng từ đó tôi không nhận được tin tức gì.

Chương XLI

những cái tã đẹp nói thực

Tôi đang sững sờ, không biết tính thế nào, thì Mã-Tư nhanh nhẩu nói:

- Thưa bà, chúng tôi cảm ơn bà.

Rồi anh sẽ cầm tay tôi đưa ra khỏi bếp. Anh nói:

- Chúng ta lên đường đi! Lần này không phải chỉ tìm bà Mỹ-Lưu và cậu An-Tuyên, chúng ta còn tìm Lệ-Hoa nữa. Có phải hay không? Đáng lẽ chúng ta phải dừng lại ở đây, bây giờ ta được đi ngay. Thế gọi là cái may đây, anh ạ! Chúng ta đã chịu nhiều cái rủi rồi, bây giờ đến lượt hưởng những cái may. Ngọn gió đã đổi chiều! Biết đâu hạnh phúc đang chờ ta! Tiến lên!

Chúng tôi tiếp tục rượt theo Thiên-Nga. Không để mất thì giờ, chúng tôi chỉ dừng lại để ngủ và để kiếm tiền. Ở Đơ-Di là chỗ sông Niên chảy vào sông Loa, chúng tôi phải hỏi thăm, biết Thiên-Nga đã theo sông đào đi Đi-Goăng (Digoin), rồi lại từ Đi-Goăng sang sông Trung để tới Sa-Lông (Chalon).

Xem bản đồ, nếu chúng tôi đi thẳng từ Sa-Ron (Charolles) đến Ma-Công (Mâcon), không theo dòng sông, thì đỡ được mấy ngày đường, nhưng chúng tôi không dám đi lối ấy sợ Thiên-Nga dừng lại ở quãng nào thì chúng tôi phải lộn lại, có phải nhanh nhẩu đoảng không?

Vì thế chúng tôi quyết theo sông Sa-Ôn (Saône), từ Sa-Lông cho tới Ly-Ông.

Đến Ly-Ông chúng tôi lại khó nghĩ, Thiên-Nga đã đi ngược hay xuôi dòng sông Rôn?

Nói cách khác là bà Mỹ-Lưu đã sang Thụy-sĩ hay xuống miền nam nước Pháp?

Lẫn trong đám tầu chạy như mắc cửi trên ngã ba sông Rôn và Sa-Ôn này, thuyền Thiên-Nga có thể bị lu mờ, không ai chú ý. Chúng tôi dò hỏi những người lái thuyền, những người chận sào, những người ở bến, biết chắc chắn thuyền Thiên-Nga đã sang Thụy-sĩ: chúng tôi lại ngược theo sông Rôn.

Mã-Tư hỏi:

- Ở Thụy-sĩ sang Ý được, đó lại là cái may nữa. Cứ theo mãi bà Mỹ-Lưu, cái ngày chúng ta về đến Lục-Ca. Em Tuyết-Nga sẽ sung sướng biết nhường nào!

Thương cho anh Mã-Tư thân mến và khốn nạn của tôi! Anh đã giúp tôi đi tìm những người thân yêu của tôi, tôi chưa làm gì để anh được gần em gái anh!

Đến Ly-Ông, chúng tôi đi nhanh hơn thuyền vì nước sông chảy xiết, thuyền bè khó ngược hơn là ở sông Xen. Tới Quy-Lô (Culoz), tính ra thời gian Thiên-Nga đi trước chúng tôi chỉ còn có sáu tuần lễ.

Giở bản đồ ra xem. Chúng tôi tin rằng có thể đuổi kịp Thiên-Nga trước khi tới hồ Giơ-Neo (Genève), Thiên-Nga phải đưa bà Mỹ-Lưu đến tận Thụy-sĩ. Yên trí thế, vì chúng tôi không có bản đồ nước này.

Chúng tôi đến tỉnh Sét-Sen, một thành phố ở hai bên bờ sông và nối liền bằng một cầu treo. Chúng tôi ra bến xem thì ủa! Lạ quá! Có phải kia là thuyền Thiên-Nga không? Chúng tôi chạy đến gần. Chính hình dáng nó, chính nó. Nhưng có vẻ là một chiếc thuyền bỏ không, buộc vào cạnh một cái sàn có mái che. Cửa phòng khóa kín, hiên thuyền không có hoa leo nữa.

- Sao lại thế? Có việc gì xẩy ra cho An-Tuyên chăng?

Chúng tôi đứng lại, trái tim dồn dập đến nghẹn thở.

Nhưng đứng lại thì hèn quá. Phải tiến lên. Phải hỏi han xem sao? Gặp một người đàn ông, chúng tôi hỏi tin. Người đó, chính là người giữ việc coi thuyền, cho chúng tôi biết:

“Bà khách người Anh đi thuyền với hai con, một cậu con trai liệt và một cô gái câm, hiện đang ở Thụy-sĩ. Bà ta phải để thuyền lại đây vì không thể ngược sông Rôn được nữa. Bà ta cùng hai con phải đi xe ngựa trước với một người đàn bà giúp việc. Còn các đầy tớ chở đồ đạc theo sau. Đến mùa thu, bà ta mới về đây lấy thuyền rồi theo sông Rôn xuống miền nam nước Pháp và ở đó cho hết mùa đông.”

Bây giờ, chúng tôi mới thở được.

Mã-Tư hỏi:

- Bây giờ bà khách ấy ở đâu?

- Bà ta hiện thuê một cái nhà miền quê gần bờ hồ Giơ-Neo, ở đầu Vơ-Vay (Vevey) thì phải, tôi không biết đúng chỗ ở, nhưng bà ta nghỉ hè ở đó.

Lên đường đi Vơ-Vay! Đến Giơ-Neo, chúng tôi sẽ mua một bản đồ nước Thụy-sĩ. Chúng tôi sẽ tìm thấy tỉnh ấy hay làng ấy, không khó. Bây giờ Thiên-Nga không chạy trước mặt chúng tôi nữa, bà Mỹ-Lưu đã ở một chỗ nhất định, chúng tôi chỉ có việc tìm, chúng tôi sẽ thấy.

Đi rõng rã bốn ngày, chúng tôi mới đến địa phận Vơ-Vay. Những sườn núi xanh um thoai thoải xuống bên hồ nước biếc. Những biệt thự, những hoa trang lẩn trong đám cây như những tổ chim rải rác trên sườn non. Trong đám trang thự đó hẳn có nhà bà Mỹ-Lưu ở cùng An-Tuyên và Lệ-Hoa.

Đến Vơ-Vay, chúng tôi chỉ còn ba xu trong túi. Giầy người nào cũng mất cả đế.

Vơ-Vay không phải là một làng nhỏ như chúng tôi tưởng. Đó là một thành phố, to hơn một thành phố, vì thị trấn này nối liền với thành phố Vin-Nơ (Villeneuve) làm một, qua một giải bảy làng trù phú liên tiếp. Trong chỗ đô hội này, nếu chúng tôi chỉ hỏi tin một bà người Anh có một trai ốm và một gái câm thì hỏi đến hàng năm cũng không ai biết. Ở Vơ-Vay và chung quanh hồ đều có người Anh, nhất là đàn bà Anh đến nghỉ mát đông đúc chẳng khác chi một nơi giải trí phong lưu ở chung quanh thành Luân-Đôn vậy.

Tốt hơn hết là chúng tôi tự đi tìm lấy bằng cách đến tất cả mọi nhà người ngoại quốc có mặt ở đây. Đối với chúng tôi, vấn đề này không khó lắm vì chúng tôi chỉ có việc đi diễn trò trong tất cả các phố.

Trong có một ngày, chúng tôi đi hết thành phố Vơ-Vay và thu được một số tiền lớn. Ngày trước, khi chúng tôi định mua bò, mua búp-bê, kiếm được như thế đã lấy làm sung sướng. Nhưng bây giờ mục đích không phải là tìm tiền nên chúng tôi cũng không lấy gì làm thích. Đi khắp mọi phố, chúng tôi không tìm thấy dấu hiệu gì tỏ ra là bà Mỹ-Lưu ở đây.

Hôm sau, chúng tôi kiếm tìm ở miền phụ cận thành phố. Chúng tôi đi thẳng trước mặt chúng tôi và đi cầu may. Qua những ngôi nhà bóng dáng xinh xinh, dù cửa sổ mở hay đóng, chúng tôi cũng hạ đàn xuống trình diễn chơi. Cứ như thế, chúng tôi đi từ hồ lên núi, lại từ núi xuống hồ, nhìn xét chung quanh, hỏi thăm những người thật tử tế. Nhưng chiều đến chúng tôi trở về thất vọng cũng như hôm trước.

Ngày hôm đó, chúng tôi bị hai cái mừng hụt. Có một người không biết tên bà Mỹ-Lưu nhưng chắc là bà, trỏ cho chúng tôi lên đỉnh núi tìm ngôi nhà sơn xanh. Người thứ hai quả quyết rằng người đàn bà Anh có hai đứa con ở ngay bờ hồ, có tìm thấy những “ba người Anh” thực, nhưng không phải bà Mỹ-Lưu!

Sau khi tìm kiếm rất kỹ càng ở miền phụ cận tỉnh Vơ-Vay, chúng tôi bảo nhau đi rộng ra chút nữa về phía Ca-Rang (Clarens) và Mông-Tơ (Montreux), trong lòng hậm hực nhưng không chán nản vì ở đời cái gì không thành công hôm nay thì ngày mai phải thắng lợi, miễn là ta không thoái chí.

Khi chúng tôi đi trên những con đường rộng, hai bên có tường cao. Khi chúng tôi vào những con đường mòn quanh co trong những vườn nho hay nương trái. Khi chúng tôi ra những con đường râm mát, hai bên có những cây dẻ rườm rà, chận hết ánh sáng để cho những đám rêu mọc mơn mởn như nhung.

Trên những đường lớn, đường nhỏ đó, mỗi bước đi, chúng tôi lại nhìn thấy hai bên có những hàng giậu sắt hoặc gỗ rất hoa mỹ. Bên trong là những lối đi rải cát. Những luống hoa và những bồn cỏ. Những tòa nhà xinh xắn ẩn hiện sau đám lá xanh.

Những thửa vườn đó thực là những chướng ngại vật lớn cho chúng tôi. Nó ngăn trở không cho những người trong nhà nghe rõ tiếng nhạc của chúng tôi.

Vì thế, chúng tôi phải gân cổ, gân tay ra đàn, hát, hoạt động mãi như thế thì còn gì là hơi sức.

Một buổi chiều, khi chúng tôi mở một cuộc hợp tấu ở giữa nơi đường vắng; chúng tôi quay vào hàng giậu sắt, không để ý đến bức tường đằng sau. Tôi hát bài “Tình ca”, hát to như gào lên. Hát xong đoạn thứ nhất, tôi toan ca đoạn thứ hai, bỗng nghe ở phía sau tôi có một tiếng kêu rồi có người hát tiếp theo đoạn thứ hai bài hát của tôi, tiếng nhỏ và lạ tai.

Quái! Tiếng ai thế nhỉ?

Mã-Tư hỏi tôi:

- Cậu An-Tuyên hát chăng?

Nhưng không phải cậu An-Tuyên, tiếng cậu tôi đã quen. Đây là tiếng người nào ấy. Đồng thời, con Lãnh-Nhi kêu kít kít mừng rỡ chạy ra, nhẩy chồm vào bờ tường.

Tôi liền hỏi to:

- Ai hát đấy?

Có tiếng trả lời đưa ra:

- Lê-Minh!

“Tên tôi” để “trả lời” tôi! Mã-Tư và tôi ngây người, nhìn nhau.

Chúng tôi đang ngơ ngác chợt tôi nhìn phía sau Mã-Tư. Qua bức giậu thấp trên ngọn tường có chiếc mùi xoa trắng đưa đi đưa lại phất phơ trước gió. Chúng tôi chạy về phía đó.

Đến chân giậu, chúng tôi mới rõ người có cái cánh tay phất mùi xoa ấy chính là… Lệ-Hoa.

Trời ơi! Chúng tôi đã tìm thấy cô, thấy bà Mỹ-Lưu và cậu An-Tuyên rồi!

Nhưng ai đã hát? Ngay lúc đó Mã-Tư và tôi hỏi cô thì được nghe tiếng: “Tôi” do cô nói ra.

A! Lệ-Hoa đã hát được, đã nói được!

Nhiều lần tôi đã được nghe nói, hễ bao giờ Lệ-Hoa cảm xúc mạnh là nói lên được, nhưng tôi không tin.

Bây giờ mới biết người ta nói đúng, Lệ-Hoa đã nói được. Phép mầu đã hiển hiện!

Chợt nghe tiếng và trông thấy tôi, người mà cô tưởng không bao giờ gặp nữa, cô đã cảm xúc đến cực độ! Nghĩ thế, lòng tôi rung động, đứng không vững, tôi phải níu chặt lấy cành rào. Nhưng tôi vẫn nhớ ra, tôi hỏi:

- Bà Mỹ-Lưu đâu? Cậu An-Tuyên đâu?

Lệ-Hoa mấp môi để trả lời, nhưng miệng cô chỉ phát ra những tiếng ngọng nghịu. Nóng ruột, cô lại dùng tay để nói chuyện cho nhanh chóng hơn. Óc cô và lưỡi cô còn vụng chưa khiến được tiếng nói cho rõ ràng.

Tôi nghe lời nói bằng tay của cô – Mà Mã-Tư chẳng hiểu gì – Tôi nhìn xa xa trong vườn thấy ở đầu một lối đi rậm rạp có chiếc xe dài do một người đầy tớ đang đẩy đi. An-Tuyên đang nằm duỗi trong xe, đi sau là mẹ cậu và… tôi cúi mình về đằng trước để nhìn cho rõ… và ông Mỹ-Giang. Tự nhiên tôi thụt đầu xuống và bảo Mã-Tư nấp nhanh đi, không nhớ rằng ông Mỹ-Giang không hề biết mặt Mã-Tư.

Sợ Lệ-Hoa sẽ ngạc nhiên, thấy đùng một lúc mất dạng chúng tôi, tôi sẽ nhô đầu lên và nói nhỏ:

- Đừng cho ông Mỹ-Giang biết tôi ở đây, nếu không ông ta sẽ đuổi tôi về nước Anh.

Cô giơ hai cánh tay lên, kinh sợ.

Tôi nói tiếp:

- Đừng hành động gì. Đừng nói chúng tôi ở đây. Ngày mai, chín giờ, chúng tôi sẽ đến đúng chỗ này. Nhớ ra đây một mình. Bây giờ cô về đi.

Cô ngần ngại.

- Về đi, tôi xin cô, nếu không, cô mất tôi!

Nói xong, nhờ bức tường che khuất, chúng tôi chạy vào nấp trong vườn nho gần đấy, chúng tôi khoan khoái chuyện trò.

Mã-Tư bảo tôi:

- Tôi không đồng ý đợi đến sáng mai mới gặp bà Mỹ-Lưu. Trong thời gian đó, Mỹ-Giang có thể làm hại tính mệnh An-Tuyên được. Tôi muốn gặp bà Mỹ-Lưu ngay bây giờ để báo cho bà… tất cả những điều chúng ta biết. Vì Mỹ-Giang không quen mặt tôi, hắn sẽ không nghĩ đến anh và gia đình Điệp-Công. Sau đó, bà Mỹ-Lưu sẽ định đoạt các việc cho chúng ta.

Anh nói rất phải, tôi để anh đi và dặn anh khi trở lại sẽ tìm tôi ở dưới khóm cây dẻ gần đấy vì chỗ này kín đáo hơn.

Nằm trên đám rêu biếc, tôi đợi mãi không thấy Mã-Tư về. Lòng tôi bâng khuâng nghĩ ngợi, không biết chúng tôi có khỏi nhầm không. Chợt thấy Mã-Tư về, lại có cả bà Mỹ-Lưu đi sau. Tôi chạy ra đón bà, bà giơ tay, tôi cầm lấy tay bà hôn. Nhưng bà ôm tôi vào lòng, cúi xuống âu yếm hôn vào trán tôi.

Là lần thứ hai được bà hôn tôi, nhưng tôi cảm thấy là lần thứ nhất mà bà hôn tôi một cách nồng nàn tha thiết trong cánh tay bà.

Bà nói:

- Khốn nạn cho con!

Rồi những ngón tay trắng trẻo, mềm mại của bà vén mớ tóc ở trán tôi lên, bà chăm chăm nhìn vào mặt tôi và lẩm bẩm:

- Phải… phải…

Tiếng đó biểu lộ tâm tư của bà trong lúc đó. Tôi cảm động quá không sao hiểu ý bà. Tôi chỉ thấy một nguồn yêu thương trong mắt bà tỏa ra bao trùm lấy tôi. Tôi ngây ngất vì sung sướng.

Không rời mắt nhìn tôi, bà nói:

- Con ơi! Bạn con đã cho ta biết những điều rất quan trọng. Về phần con, con hãy kể lại chuyện con tới nhà Điệp-Công và chuyện ông Mỹ-Giang đến thăm thế nào cho ta nghe.

Tôi đem hết sự thực kể lại. Thỉnh thoảng, bà bảo tôi ngừng lại để hỏi một vài điểm quan trọng. Chưa từng có người nào lại hết sức chăm chú nghe tôi nói đến thế bao giờ. Hai mắt bà cứ đăm đăm nhìn vào mắt tôi.

Khi tôi nói hết, bà nghĩ một lúc rồi bảo tôi:

- Tất cả những việc đó rất nghiêm trọng cho con, cho tất cả mọi người chúng ta. Chúng ta phải thận trọng cho đến khi nào ta hỏi những người khả dĩ chỉ dẫn cho ta. Nhưng ngay từ bây giờ, con coi con cũng như một người quen biết, một người bạn thân – bà lưỡng lự một chút – một người anh em của An-Tuyên, và cũng ngay bây giờ con và bạn con, các con phải từ bỏ cái đời sống khốn nạn của các con đi. Trong hai giờ nữa, các con sẽ lại khách sạn An-Sơn, ta sẽ cho một người thân tín đến lấy buồng trước cho các con. Ta sẽ lại thăm các con ở đó. Bây giờ ta phải từ biệt các con.

Nói xong, bà hôn tôi một lần nữa, bắt tay Mã-Tư và vội vàng trở về.

Tôi hỏi Mã-Tư:

- Anh đã kể những gì cho bà Mỹ-Lưu nghe?

- Tất cả những điều mà bà vừa nói với anh và nhiều điều khác nữa. Bà thực là một người đàn bà kiều diễm, đoan trang.

- Còn An-Tuyên, anh có trông thấy không?

- Có được trông xa, nhưng cũng biết cậu là một người con trai tử tế.

Tôi lại hỏi Mã-Tư về bà Mỹ-Lưu, nhưng anh không muốn trả lời hoặc anh nói lảng ra chuyện khác.

Theo lời bà Mỹ-Lưu dặn, chúng tôi tìm đến khách sạn An-Sơn. Mặc dầu chúng tôi đeo bộ quần áo của phường hát rong đến nơi, chúng tôi rất được trịnh trọng đón tiếp, một người đầy tớ mặc bộ đồ đen, cà vạt trắng đưa chúng tôi nhận buồng. Phòng chúng tôi lịch sự quá! Có hai cái giường trắng. Cửa sổ trông ra hồ. Chúng tôi nhìn xuống một phong cảnh tuyệt đẹp. Khi chúng tôi nhận phòng rồi, người đầy tớ cứ đứng im, lễ phép đợi lệnh chúng tôi. Thấy chúng tôi không bảo gì, người đầy tớ hỏi:

- Các cậu muốn ăn gì để chúng tôi dọn ra hiên ngồi cho mát.

Mã-Tư hỏi:

- Ở đây có bánh nhân mứt không?

- Có nhiều thứ: bánh nhân đậu, bánh hạt sen, bánh hạnh nhân.

- Thế anh cho các thứ ấy.

- Cả ba thứ?

- Hẳn thế.

- Món ăn đầu, các cậu dùng thịt quay hay dùng rau?

Mỗi câu người đầy tớ hỏi, Mã-Tư lại mở to mắt ra, nhưng không tỏ vẻ bối rối.

Anh đáp:

- Tùy anh, thứ gì cũng được.

Người đầy tớ đi ra.

Mã-Tư bảo tôi:

- Ăn ở đây có lẽ thú hơn ở nhà Điệp-Công nhỉ?

Sáng hôm sau, bà Mỹ-Lưu đến thăm chúng tôi, đưa thợ may đến đo người chúng tôi để may quần áo và sơ-mi. Bà cho chúng tôi biết Lệ-Hoa đang tập nói và thầy thuốc bảo cô đã khỏi bệnh rồi. Bà ở lại chơi với chúng tôi một giờ. Bà đứng dậy về. Bà âu yếm hôn tôi và bắt tay anh Mã-Tư.

Bà đến thăm chúng tôi như thế liên tiếp bốn ngày, mỗi ngày lòng âu yếm của bà càng thấy nồng nàn hơn, tuy nhiên bà vẫn có ý giữ gìn. Ngày thứ năm, người thị nữ mà tôi đã trông thấy trong thuyền Thiên-Nga ngày xưa đến thay bà. Chị ta bảo rằng bà Mỹ-Lưu ở nhà đợi chúng tôi và có xe đến đón chúng tôi ở cửa khách sạn. Đó là một chiếc xe ngựa không mui. Mã-Tư không lạ lùng lên xe ngồi đàng hoàng như từ thuở bé đã quen đi những thứ xe này. Lãnh-Nhi cũng leo lên đệm ngồi chễm chệ.

Quãng đường không xa lắm. Nhưng tôi cho là ngắn quá vì tôi đi trong giấc mơ. Đầu óc tôi lúc đó đầy những ý tưởng rối lộn, có thể gọi là mê cuồng được.

Người ta đưa chúng tôi vào phòng khách. Bà Mỹ-Lưu, cậu An-Tuyên và Lệ-Hoa đều ở đó. An-Tuyên nằm trên chiếc di-văng. Cậu giơ tay, tôi chạy lại hôn cậu và cô Lệ-Hoa nữa. Tôi lại chỗ bà Mỹ-Lưu, bà hôn tôi và nói:

- Bây giờ là lúc mà con có thể nhận chỗ ở trong gia đình này.

Tôi ngơ ngác nhìn bà, không hiểu sao thì một cánh cửa mở ra, bà Bảo-Liên ở đâu ôm một mớ quần áo trẻ sơ sinh: áo cát-sơ-mia trắng, mũ đăng-ten, giày đan bước ra.

Bà vừa kịp đặt các vật đó xuống bàn thì tôi ôm lấy bà hôn. Trong khi ấy bà Mỹ-Lưu ra lệnh cho một người đầy tớ và tôi nghe thấy tiếng “Mỹ-Giang”. Tôi giật mình, xám mặt lại.

Bà Mỹ-Lưu bảo tôi:

- Con không việc gì phải sợ cả. Con lại gần đây để bàn tay con vào tay ta.

Lúc đó, cửa phòng khách mở ra, ông Mỹ-Giang bước vào tươi cười, chìa hàm răng trắng nhọn. Ông chợt thấy tôi, lập tức nụ cười đó biến thành nhăn nhó ghê sợ.

Bà Mỹ-Lưu không để ông ta hỏi, bà chậm rãi nói, giọng run run:

- Tôi mời ông đến đây giới thiệu con trai lớn của tôi mà tôi mới có cái hạnh phúc tìm được – bà bắt tay tôi – thưa ông, đứa con trai ấy đây. Nhưng ông đã biết rõ nó rồi, vì ông đã đến thăm sức khỏe của nó tại nhà người đã bắt trộm nó.

Ông Mỹ-Giang mặt nhợt nhạt, hỏi:

- Thế là nghĩa lý gì?

- Nghĩa là kẻ bắt cóc con tôi đó hiện đang ngồi tù về tội ăn trộm. Nó đã thú nhận tất cả. – Đây là một lá thư chứng minh việc đó – Nó khai đã bắt đứa bé như thế nào, nó đã bỏ đứa bé ở phố Bảo-Tương Ba-Lê và vì sao nó đã cắt hết những dấu hiệu đi. Đây là những quần áo và tã lót con tôi mà người đàn bà quý hóa này nuôi con tôi còn giữ được. Ông có muốn xem lá thư này không? Ông có muốn nhìn lại mớ tã lót này không?

Ông Mỹ-Giang tái mét đứng im, có lẽ lòng ông ta đang nghĩ muốn bóp chết cả chúng tôi. Bỗng ông ta quay ra cửa, nhưng còn nghoảnh lại nói:

- Đợi xem Tòa án xét vụ “nhận vơ” con này!

Rất bình tĩnh, bà Mỹ-Lưu – bây giờ tôi có thể gọi là mẹ tôi – trả lời:

- Ông muốn đưa chúng tôi ra Tòa án thì đưa. Chứ tôi, không bao giờ đưa ra Tòa án người em trai của chồng tôi.

Khi chúng tôi đã nguôi cảm xúc, Mã-Tư lại gần tôi, nói:

- Anh hỏi lại mẹ xem có phải tôi đã giữ kín những lời bà dặn không?

Tôi chưa kịp hỏi, mẹ tôi đã trả lời ngay.

- Khi Mã-Tư kể cho mẹ nghe hết chuyện, mẹ bảo Mã-Tư phải giữ kín, vì tuy mẹ tin Lê-Minh là con mẹ rồi nhưng cũng phải có gì làm bằng chứng tỏ ra là không nhầm. Con ơi! Đau đớn cho con biết bao, nếu sau khi đã công nhận con là con đẻ, rồi lại gọi con bảo rằng ta nhầm! Những bằng chứng ấy, nay đã có rồi, con ta từ nay sum họp suốt đời. Và suốt đời con sống bên mẹ con, em con – mẹ tôi trỏ Lệ-Hoa và Mã-Tư – và những người đã yêu thương con trong những ngày gian khổ.

Chương XLII

trong gia đình

Mười năm qua, đã nhiều nhưng hình như vẫn ngắn vì trong những năm đó toàn là những ngày đẹp và vui.

Hiện giờ tôi ở nước Anh, tại Mỹ-Phủ, là đệ trạch của ông cha tôi.

Đứa trẻ vô gia đình không nơi nương tựa, bỏ rơi, trơ vơ trên cõi đời. Nổi chìm theo vận may rủi, lênh đênh giẫy dụa trong biển khơi, không một ngọn hải đăng chỉ lối, không một bến để ghé chân, bây giờ không những có mẹ, có em, để yêu dấu và được thương yêu, lại còn có danh vọng vẻ vang và sản nghiệp lớn lao do tiền nhân để lại.

Đứa trẻ khốn nạn đã ngủ đêm trong những vựa cỏ, chuồng bò hay ở góc rừng chân núi, nằm dưới ánh sao, bây giờ nghiễm nhiên là chủ một tòa lâu đài lịch sử mà những khách hiếu cổ thường lui tới viếng thăm.

Tòa lâu đài cổ kính đó cách chừng 20 dặm và về phía tây bến Lít-Hăm-Tông – nơi mà chúng tôi vượt sang Pháp tránh nạn ngày nào – ở lưng chừng đồi trong một thung lũng cây cối xanh tốt như rừng mặc dầu ở ngay bờ biển.

Dựng ở trên một nền đất thiên nhiên, tòa nhà hình vuông đứng, bốn góc đâm lên bốn cái tháp tròn cao nhọn. Mặt trước về phía tây và phía nam có những dây đằng hoa và tường vi leo kín. Mặt sau về phía đông, những cây trường xuân cành lá chằng chịt bao quanh, gốc to bằng thân người lớn, tỏ ra trồng đã lâu đời. Những người làm vườn phải luôn xén cắt cho cái màu xanh ấy khỏi lan tràn che kín cả những nét chạm trổ trên khung cửa sổ bằng đá trắng và những bức chấn song hoa mỹ. Một thửa vườn rộng bao quanh, có những cây cổ thụ mà những lưỡi dao, lưỡi búa chưa từng đụng chạm đến và những bồn cỏ tươi tốt như những tấm thảm xanh. Trong lùm cây dẻ gai rậm rạp, những con quạ khoang chiều chiều về đậu, tiếng kêu báo hiệu khi hoàng hôn xuống cũng như lúc triêu dương lên.

Chính ở Mỹ-Phủ ấy, tôi sống trong gia đình với mẹ tôi, em tôi và vợ tôi.

Sáu tháng sau khi về ở đó, nhiều ngày tôi ngồi hàng giờ trong thư viện lưu trữ các gia phả, chứng thư kỷ lục, văn khế và thư từ cũ của ông cha tôi. Tôi cúi mình trên chiếc bàn gỗ đã đen vì năm tháng để đọc, để viết. Không phải tôi ở đó xem kỹ các văn thư, kỷ lục nói trên mà để tìm và soạn lại những tập ký sự về đời phiêu lưu của tôi.

Chúng tôi sắp làm lễ “rửa tội” cho đứa con đầu lòng, con trai chúng tôi, đặt tên là Tiểu-Mã-Tư. Về dịp “Tẩy Lễ” này tôi định hội họp tất cả những thân bằng cố hữu của tôi trong những ngày gian khổ và thân tặng mỗi người một cuốn ghi chép đời lưu lạc của tôi mà những người đó đã xen vào để tỏ lòng biết ơn về sự cứu giúp cũng như tình thương yêu các vị đó đối với đứa trẻ vô gia đình.

Cuộc đoàn viên lớn đó tôi giữ kín, trừ mẹ và em tôi, để làm ngạc nhiên cho khách mời cũng như cho vợ tôi, nàng sẽ không ngờ được gặp cha, các anh chị và bà cô.

Việc trù hoạch của tôi không có điều gì ngăn trở. Chỉ chiều hôm nay là mọi tân khách đều tề tựu dưới mái nhà tôi và tôi rất sung sướng được trông thấy những người thân yêu hội họp chung quanh bàn tiệc.

Trong dịp vui này, thiếu một người! Dù có đem tất cả châu báu trên đời này, người ta cũng không sao chuộc được những người đã mất. Hỡi thầy kính mến của con ơi! Nếu thầy còn đến bây giờ, con xiết bao sung sướng được phụng dưỡng thầy. Thầy sẽ vứt bỏ được mảnh da cừu và chiếc áo nhung, thầy không phải gào thét “Tiến lên! Các con ơi!” nữa. Trong lúc tuổi già nhàn nhã, thầy có thể ngẩng cao cái đầu bạc phơ và phục hồi tên tuổi. Ông già diễn trò rong Vỹ-Tiên kia sẽ trở lại thành Ca-sĩ đại tài Cát-Băng-Giang như trước. Nhưng cái chết vô tình và tàn nhẫn không cho con được đền ơn thầy bằng cách ấy, thì con tìm cách khác để truy niệm thầy. Ở Ba-Lê, trong nghĩa trang Mông-Pác-Nát (Montparnasse), cái tên chói lọi Cát-Băng-Giang của thầy đã được ghi khắc trên tấm bia mộ của thầy – mẹ con rất tán thành – và bức tượng đồng bán thân của thầy tạc theo chân dung của thầy thời danh tiếng cũng đã dựng ở đó để nhắc lại cái vinh quang của thầy cho những khách đã trọng tài thầy tưởng niệm.

Còn bức tượng bán thân thứ hai của thầy nữa vẫn đặt ở kia, trước mặt con. Khi con viết chuyện này, những bước gian nan buổi đầu lần lượt diễn ra trước mắt con, con lại trông vào mắt thầy, tưởng tượng như thầy vẫn ở bên con. Con không quên thầy, không bao giờ con quên thầy được. Xin thầy tin cho như thế. Trong cuộc sống gian nan của đứa con bỏ rơi, nếu con không sẩy chân, con không vấp ngã, cũng là nhờ thầy, nhờ những bài học của thầy, những tấm gương sáng của thầy. Hỡi thầy tôn kính của con! Trong tất cả các ngày kỷ niệm của gia đình con, bao giờ cũng có một chỗ dành sẵn, chỗ ấy là chỗ của thầy!

Nhưng kìa mẹ tôi đang vào hành lang. Tuổi cao không làm tàn nhan sắc của mẹ tôi. Tôi trông mẹ tôi vẫn như ngày tôi gặp lần thứ nhất trên thuyền Thiên-Nga, cũng phong độ cao quý ấy, cũng gương mặt nhân từ dịu hiền ấy, khác chăng là cái nét buồn âm thầm ngày xưa đã biến mất.

Mẹ tôi tỳ trên cánh tay An-Tuyên, vì bây giờ mẹ không phải đỡ đứa con yếu đuối, ẻo lả như trước. Đứa con ấy bây giờ thành một trang thanh niên khỏe đẹp, ham chuộng thể thao, cưỡi ngựa, bơi thuyền và đi săn rất giỏi. An-Tuyên cẩn trọng khoác tay đưa mẹ tôi vào: coi đó, trái hẳn với lời dự đoán của ông Mỹ-Giang, phép mầu đã hiển hiện: An-Tuyên thoát chết, An-Tuyên đã sống và sống mãi.

Phía sau mẹ tôi, tôi trông thấy một bà già ăn mặc như một người đàn bà quê ở Pháp, hai tay ẵm một đứa con thơ bọc trong tã trắng, người đàn bà đó là bà Bảo-Liên, đứa con thơ đó là con tôi, con trai tôi, Tiểu-Mã-Tư.

Ngay sau khi tôi tìm thấy mẹ tôi, tôi giữ bà Bảo-Liên lại, nhưng bà từ chối và nói: “Không, Lê-Minh ạ! Lúc này không phải là chỗ ta ở đây. Bây giờ con còn phải học để trở nên người có học vấn và có giáo dục để nối dõi ông cha. Ở bên cạnh con, bây giờ ta giúp việc gì được? Con để cho ta về Văn-Ông. Cuộc tạm biệt đó cũng không lâu đâu. Con sẽ lớn lên. Con lấy vợ, rồi con có con. Lúc đó, nếu con muốn và nếu ta còn sống, ta sẽ trở lại gần con để trông nom các cháu cho con. Ta không thể làm vú nuôi cho chúng như ta đã nuôi con ngày xưa, vì ta sẽ già lắm. Nhưng người già vẫn có thể săn sóc các trẻ em được. Người ta có kinh nghiệm. Người ta không ngủ nhiều. Rồi ta sẽ yêu đứa con của con và con hãy tin rằng ta không phải là người để cho họ bắt trộm con con, cũng như họ đã bắt trộm con”. Vì ý bà muốn thế, chúng tôi cũng để bà về. Khi con trai tôi ra đời được ít lâu, chúng tôi cho người đi mời bà, bà bỏ cả quê hương, bỏ cả nhà cửa, bỏ cả bạn bè, bỏ cả con bò mà chúng tôi đã mua cho bà, để sang Anh-quốc ở với chúng tôi. Vợ tôi nuôi con lấy, còn bà giữ việc trông nom, chăn dắt và chơi với Tiểu-Mã-Tư thôi. Bà khen đó là một đứa bé đẹp nhất mà bà chưa từng trông thấy bao giờ.

An-Tuyên tay cầm tờ báo Thời sự, để xuống bàn viết của tôi và hỏi tôi đã đọc chưa. Tôi nói chưa đọc. An-Tuyên liền lấy ngón tay chỉ vào một tin ở thành Vienne mà tôi dịch như sau:

“Thành phố Luân-Đôn sắp được hân hạnh đón tiếp Ca-nhạc-sĩ kỳ tài Mã-Tư. Mặc dầu những kết quả rất mỹ mãn đã đạt được ở đây. Nhạc sĩ phải tạm biệt chúng ta để sang Anh-quốc do những hợp đồng mà Nhạc sĩ không thể sai hẹn được. Bản báo đã nói nhiều về những cuộc trình diễn ở đây của Mã-Tư. Những cuộc hòa nhạc đó, với tính chất độc sáng và tài năng xuất chúng của một diệu thủ âm nhạc, đã gây một mối khích động lớn trong công chúng. Tóm lại, Mã-Tư là vua vĩ-cầm”.

Không cần đọc bài báo đó, tôi cũng biết đứa trẻ hát rong các phố, bạn tôi và học trò tôi, đã thành một tài tử trứ danh. Tôi cùng sống với anh, đã trông thấy anh lớn lên và thiên tài anh nẩy nở. Khi ba chúng tôi, Mã-Tư, An-Tuyên và tôi học tập do một vị giáo sư riêng đào luyện, Mã-Tư chậm tiến về tiếng La-Tinh và Hy-Lạp, nhưng anh rất giỏi về nhạc. Nhạc sư do mẹ tôi thuê dạy anh, phải kinh ngạc về năng khiếu lỗi lạc của anh. Lời tiên tri của ông nhạc sĩ thợ cạo Phi-Nam ở thành Măng-Đê thực ứng nghiệm vậy.

Tuy nhiên, tin tức ở thành Vienne vừa rồi đã làm tôi sung sướng và tự hào hình như chính tôi đã được hoan nghênh và được vỗ tay tán thưởng mà tờ báo đó đã mang dư âm đi khắp mọi nơi. Sao tôi lại không được dự phần? Mã-Tư không phải là bạn tôi, em tôi, là chính mình tôi hay sao? Cho nên cái vinh quang của anh là vinh quang của tôi, mà cái hạnh phúc của tôi là hạnh phúc của anh vậy.

Lúc đó, một người đầy tớ vào đưa cho tôi một bức điện văn mà sở bưu chính vừa cho mang đến.

“Cuộc hải trình ngắn nhất, nhưng mệt nhất. Tôi khó ở quá nên mãi đến Red-Hill mới có sức báo tin cho anh. Khi qua Ba-Lê, tôi rủ cả Tuyết-Nga đi. Chúng tôi sẽ đến Chegford hồi 4 giờ 10 phút. Anh cho xe ra đón”.

Mã-Tư

Khi tôi đọc đến đoạn cuối bức điện văn, An-Tuyên tỏ vẻ mừng rỡ bảo tôi:

- Em muốn thân ra đón ở ga Chegford. Em cho lấy xe ngựa lớn nhá?

- Em có ý kiến hay đấy. Em sẽ cùng về với Tuyết-Nga.

Không trả lời, An-Tuyên vội vàng bước ra – tôi liền quay lại bảo mẹ tôi:

- Đấy mẹ xem, em Tuyên không giấu lòng sốt sắng của em. Cử chỉ đó rất có nghĩa.

- Phải, có nghĩa.

Mẹ tôi nói ba tiếng đó với giọng không bằng lòng. Tôi liền lại bên mẹ tôi, cầm hai tay mẹ hôn và nói bằng tiếng Pháp, thứ tiếng mà tôi vẫn làm mẹ tôi nao lòng. Tôi nói như là ngày còn bé:

- Mẹ quý của con! Mẹ đừng buồn vì An-Tuyên yêu Tuyết-Nga, xin mẹ đừng cho thế là một cuộc hôn nhân không tương đối, một cuộc hôn nhân đẹp thì dòng dõi phải kèm theo với bạc tiền. Nhưng cái gương của con đã chẳng chứng minh rằng người ta có thể sung sướng, sung sướng lắm, sung sướng tuyệt vời với người vợ không dòng sang và không có của mà người ta yêu? Mẹ lẽ nào lại không muốn em con được sung sướng như con hay sao? Mẹ đã xiêu lòng vì con, không nỡ từ chối nguyện vọng của một đứa con đã phải khóc trong 13 năm trời, sao mẹ lại không xiêu lòng vì một đứa con khác. Chẳng lẽ mẹ thương con nọ ghét con kia hay sao?

Mẹ tôi vuốt tóc tôi, hôn tôi và nói:

- Ô! Một đứa con quý! Một người anh tốt! Lòng con chan chứa bao tình thương!

- Con để dành chỗ đó đã lâu, không phải để cho con mà chính là để cho em Tuyên. Mẹ ơi! Em con tìm đâu được một người vợ kiều diễm hơn Tuyết-Nga? Tuyết-Nga há chẳng phải là một hoa khôi nước Ý hay sao? Cái giáo dục mà Tuyết-Nga đã hấp thụ được từ ngày mẹ con ta sang Lục-Ca đưa nàng về Ba-Lê, há chẳng xứng đáng giữ một chỗ ngồi, một chỗ ngồi trong cái xã hội khuôn phép nhất hay sao?

- Con quý Tuyết-Nga vì Tuyết-Nga là em Mã-Tư.

- Chính thế. Không dám nói quanh, con xin thú thực với mẹ rằng con hết sức cầu mong vì mối lương duyên đó sẽ đưa Mã-Tư vào trong gia đình ta.

- An-Tuyên có ngỏ ý ấy cùng con không?

Tôi mỉm cười và đáp:

- Mẹ ơi! Có. Vì nghĩ đến gia trưởng, em con có hỏi ý kiến con.

- Thế gia trưởng?

- Hứa sẽ nói với mẹ giúp cho và…

Nhưng mẹ tôi ngắt lời tôi:

- Kìa vợ con đã đến. Việc An-Tuyên sẽ định sau.

Vợ tôi, chắc quý độc giả đã đoán ra rồi, tôi không cần phải nói nữa, phải không? Vợ tôi là một thiếu nữ có đôi mắt dịu dàng, nét mặt tươi cười và mau mắn mà quý độc giả đã biết. Đó là Lệ-Hoa. Nàng không câm nữa. Nàng vẫn giữ được những nét tế nhị và nhẹ nhàng khiến cho sắc đẹp của nàng thêm phần duyên dáng. Lệ-Hoa không rời mẹ tôi. Mẹ tôi đã nuôi nấng và chăm nom sự học của nàng. Nàng thành một thiếu nữ xinh đẹp nhất trong các cô gái xinh đẹp. Dưới mắt tôi, nàng có tất cả những nết hay, tất cả tính tốt và tất cả những tài năng vì tôi yêu nàng. Tôi ngỏ ý với mẹ tôi xin nàng làm vợ. Thoạt tiên mẹ tôi ngần ngại, không ưng thuận, căn cứ vào địa vị của hai bên trái nhau. Cuối cùng, mẹ không nỡ từ chối. Điều này làm cho vài người trong gia tộc tôi rất công phẫn.

Trong bốn người bất bình, đường ăn nết ở của Lệ-Hoa đã được lòng ba người. Còn người thứ tư nữa, chỉ đợi chúng tôi đến thăm là vui vẻ cả. Cuộc đi thăm đó đã định vào ngày mai.

Lệ-Hoa vừa vào vừa nói:

- Có việc gì thế? Anh dấu em và chỉ trình với mẹ? Em thấy An-Tuyên vội vã ra ga Chegford. Rồi lại thấy đánh xe ra ga Phe-Ry (Ferry) nữa. Việc gì thế? Bí mật phải không?

Tôi và mẹ tôi chỉ cười và không trả lời. Lệ-Hoa liền ôm cổ mẹ tôi âu yếm hôn và nói:

- Mẹ yêu quý của con, vì mẹ cũng ở trong việc này nên con không e ngại gì. Con biết trước rằng việc gì mẹ làm cũng là để xây đắp thêm cho hạnh phúc của chúng con. Nhưng con xấu quá, hay có tính tò mò!

Thì giờ ra đi. Chiếc xe ngựa tôi cho ra ga Phe-Ry đón gia đình của Lệ-Hoa chỉ về chốc lát.

Muốn trêu tính tò mò của vợ tôi, tôi liền lấy ống viễn kính vẫn dùng để ngắm các tàu biển qua lại, nhưng đáng lẽ tôi giơ ra ngoài biển, tôi lại quay ống kính về phía đường cái mà xe ngựa đón gia đình Lệ-Hoa sắp về.

Tôi bảo Lệ-Hoa:

- Em nhìn vào kính này, tính tò mò của em sẽ được thỏa mãn.

Lệ-Hoa cầm lấy ống kính nhìn, chỉ thấy một dải đường trắng, không thấy một chiếc xe nào.

Đến lượt tôi nhìn, theo giọng phỉnh khách của ông Vỹ-Tiên ngày xưa, tôi nói:

- Sao? Em không nhìn thấy gì trong kính à? Cái kính này rất thần diệu. Anh nhìn qua biển sang đến Pháp. Kìa, trong một ngôi nhà ở kế cận thành Sô (Sceaux), anh trông thấy một người tóc bạc đang giục hai người đàn bà đứng bên cạnh:

“Nhanh lên chứ kẻo lỡ xe hỏa thì tôi không đến được nước Anh dự lễ Rửa tội cho cháu ngoại tôi. Bà Cát-Tường xin bà mau lên, đã 10 năm nay bà về ở với tôi, bao giờ cũng thấy bà chậm. Sao nữa? Cô Yến-Chi. Muốn nói cái gì? Cô vẫn cứ làm cảnh-sát mãi! Ta trách đùa bà Cát-Tường đấy thôi. Ta biết bà là một người em gái giỏi nhất, cũng như con, Yến-Chi, con là một người con gái giỏi nhất. Tìm đâu cho được một người con gái tốt như con, không chịu lấy chồng để ở nhà phụng dưỡng cha già và cứ đóng mãi vai thần hộ mệnh từ tấm bé, hết lòng săn sóc cho các em trai và em gái? – Rồi trước khi lên đường ông còn dặn những đầy tớ phải trông nom vườn hoa trong khi ông đi vắng – ông nói: Các anh nên nhớ rằng chính ta là một thợ trồng hoa, ta hiểu nghề lắm. Các anh đừng có dối ta!”

Tôi lại quay kính ra chỗ khác như muốn đổi hướng. Tôi nói:

“Bây giờ anh lại trông thấy chiếc tàu biển, một chiếc tàu lớn ở An-Ti (Antille) về và cập bến Hao-Cảng (Havre). Trên tầu có một chàng thanh niên vừa đi du lịch và khảo cứu các giống thực vật ở miền A-Ma-Dôn (Amazone) về: chàng có đem về một lô hoa thảo kỳ dị mà người Âu-châu chưa từng trông thấy bao giờ. Các báo đều đăng tin đó, chàng tên là Bằng-Mai, nổi tiếng là một nhà vạn vật học. Không biết chàng có kịp sang tàu đi Lít-Hăm-Tông để gặp gia đình chàng ở Mỹ-Phủ không? Cái kính thần diệu này đã theo dõi và biết được chàng đã kịp xuống tàu đi Lít-Hăm-Tông và sắp đến nơi.”

Tôi lại chĩa kính về một hướng khác và nói:

“Không những tôi trông thấy mà còn nghe thấy hai người khách đang ngồi trong toa: một chàng thanh niên và một cụ già. Cụ già nói: Cuộc đi chơi này rất bổ ích. Chàng thanh niên đáp: Thưa Giáo sư bổ ích lắm – An-Sinh ơi, chuyến này không những anh được hôn mọi người trong gia đình anh, không những chúng ta được bắt tay Lê-Minh, một người bạn nhỏ không quên chúng ta, chúng ta còn được dịp thăm các mỏ ở nước Anh. Anh sẽ quan sát được nhiều và khi trở về có thể cải thiện cho Mỏ Thụy-Khê. Tài năng của anh tôi xem có thể đem lại cho anh một địa vị xứng đáng ở Sở Mỏ. Còn tôi, tôi sẽ tìm tòi các vật hóa thạch đem về làm giầu cho kho tài liệu của tôi, tức kho bảo tàng của tỉnh Văn-Xá. Tiếc rằng ông An-Thiện nhà ta mắc bận không tới được”.

Tôi định nói nữa, thì Lệ-Hoa lấy hai cánh tay ôm lấy đầu tôi, che mắt tôi và không cho tôi nói nữa.

Bằng một giọng run run và cảm động, nàng kêu lên:

- Ô! Một cuộc ngạc nhiên êm ái làm sao! Em sung sướng quá!

- Không phải anh mà em phải cám ơn. Chính là mẹ, mẹ đã muốn hội tụ tất cả những người xưa kia đã tử tế với đứa con bỏ rơi của bà để tỏ lòng nhớ ơn. Nếu em không bịt miệng anh, thì em sẽ biết thêm rằng chúng ta còn đợi anh Bốp, bây giờ thành một kịch sĩ tiếng tăm ở Anh và anh ruột anh nữa, vẫn chỉ huy chiếc thuyền Nguyệt Thực.

Lúc đó, có tiếng một chiếc xe ngựa đỗ, rồi đến cái thứ hai. Chúng tôi chạy ra cửa sổ nhìn: trong xe thứ nhất, Lệ-Hoa nhìn thấy cha, thấy bà Cát-Tường, thấy chị Yến-Chi, anh An-Sinh và anh Bằng-Mai, đủ mặt nhà nàng. Cạnh An-Sinh lại có một ông già, lưng còng, tóc bạc, đó là Giáo-sư. Trong xe thứ hai không mui, Mã-Tư và Tuyết-Nga giơ tay ra hiệu cho chúng tôi. Sau cùng là một cái xe ngựa nhỏ chính tay Bốp cầm cương. Trông anh trang trọng như một thân sĩ. Anh anh ngồi sau, trông vẫn như xưa, một người thủy thủ can đảm và sốt sắng ở bến Ích-Nhi.

Vợ chồng tôi vội vàng xuống thềm đón khách. Một bữa tiệc linh đình hội họp chúng tôi chung quanh bàn. Tất nhiên ai cũng nhắc đến chuyện cũ.

Mã-Tư nói:

- Mới rồi tôi có gặp ở tỉnh Ba-Đê, trong một phòng giải trí, một thân sĩ răng trắng và nhọn: miệng cười luôn mặc dầu vận rủi. Ông ta không biết tôi, có hạ cố xin tôi một đồng bạc để đánh một tiếng bạc ăn chắc – vì họ thông lưng với nhau – nhưng đã rủi lại rủi thêm, ông Mỹ-Giang bị thua nhẵn.

Mẹ tôi nói:

- Anh Mã-Tư ơi! Sao anh lại nói thế? Thằng Lê-Minh nó dám gửi tiền chu cấp chú nó đấy.

- Đúng thế, mẹ ạ.

- Thế ra không có sự ứng báo à?

- Có, ứng báo chứ! Vì ông chú nham hiểm kia sẽ phải chịu ơn những người mà ông ấy theo lòng tham đã làm cho điêu đứng và muốn cho chết đi.

Anh Bốp nói:

- Tôi có tin tức về bọn đồng đảng của ông ta.

Mã-Tư kêu:

- Về tên Điệp-Công độc ác, phải không?

- Không phải Điệp-Công, vì hắn vẫn bị đầy biệt xứ. Tôi muốn nói đến gia đình hắn. Bà vợ say rượu không gục vào bàn, lại nằm lăn vào đống lửa bị chết cháy. Á-Lang và Á-Niên vừa bị tội đồ, sẽ đi theo cha.

- Thế còn bé Cát?

- Con bé được việc săn sóc ông nó hãy còn sống và vẫn ở bãi Hồng-Sư. Ông già có tiền, không sợ chết đói.

Mã-Tư cười to và nói:

- Thương hại con bé, có lẽ nó bị rét lắm. “Ông già không muốn cho ai đến gần lò sưởi của ông ta”.

Ăn cơm mới nói chuyện cũ. Mỗi người nhắc một chuyện. Chúng tôi ai nấy đều có những kỷ niệm chung và ai nấy đều thích thú gợi ra. Đó là những cái dây vô hình khắng khít ràng buộc chúng tôi.

Tiệc mãn, Mã-Tư lại cạnh tôi, bấm tôi ra cửa sổ nói:

- Tôi có một ý kiến. Từ lâu đến giờ chúng ta hòa nhạc mãi cho người ngoài nghe, bây giờ có nên trình diễn cho những người thân yêu của chúng ta xem không?

- Với anh, thì muốn vui phải có âm nhạc? Bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, phải âm nhạc, phải âm nhạc! Anh còn nhớ cuộc chạy thi của chúng ta với con bò sữa không?

- Bây giờ anh đàn hát bài “Tình ca Ý” đi.

- Vui lòng! Chính bài đó làm cho Lệ-Hoa khỏi câm.

Chúng tôi liền đem nhạc khí ra. Mã-Tư với trên tường một cây vĩ-cầm đựng trong cái hộp bóng loáng, trong lót nhung xanh. Cây vĩ-cầm đó đem bán hai phật-lăng không đắt. Tôi kéo ở trong cái túi vải ra một cây thụ-cầm bằng gỗ mà mưa nắng đã làm bạc mầu.

Mọi người hoan hỉ vây quanh chúng tôi. Lúc đó, một con chó chạy vào: Lãnh-Nhi.

Con chó có nghĩa đó đã già lắm, tai đã điếc rồi nhưng mắt còn trông rõ. Nằm trên cái đệm, chỗ nó ở, trông thấy cây đàn quen thuộc, nó chạy đến để “diễn trò”. Nó ngậm một cái bát trong miệng. Nó muốn đứng bằng hai chân sau để đi trình diện các “quý khán giả”, nhưng sức đã suy yếu, nó ngồi bệt xuống lấy một chân để vào ngực trịnh trọng chào các vị “khán quan”.

Khi chúng tôi hát xong, Lãnh-Nhi đứng dậy bập bễnh đi vòng quanh để lĩnh tiền. Mọi người đều bỏ tặng phẩm vào cái bát. Lãnh-Nhi sung sướng được một bát đầy đem đến cho tôi. Đó là một kết quả rất rực rỡ chưa từng thấy bao giờ. Những đồng tiền vàng, tiền bạc lộn xộn như vẩy hến trong bát: 170 phật-lăng!

Tôi cúi xuống hôn Lãnh-Nhi như ngày nó đến cạnh an ủi tôi. Cảnh đó làm tôi nhớ lại thời thơ ấu gian nan của tôi, một ý nghĩ vụt nẩy ra trong óc. Tôi liền phát biểu: “Món tiền này sẽ là viên gạch thứ nhất để lập một viện Cứu Tế cho những trẻ đánh đàn rong trong các phố có chỗ nương náu. Còn bao nhiêu, mẹ con tôi xin đảm nhận”.

Mã-Tư tiến lại, hôn tay mẹ tôi và nói:

- Thưa bà, tôi xin bà cho phép tôi góp một phần nhỏ mọn vào công cuộc từ thiện mà bà sắp làm. Số tiền sẽ thu được trong buổi tấu nhạc đầu tiên của tôi tại thành Luân-Đôn bao nhiêu, tôi sẽ xin cúng thêm vào số bạc Lãnh-Nhi vừa quyên được.

Bản thảo của tôi đưa in thiếu mất một trang. Đó là trang chép lại bài hát “Tình ca” mà tôi vẫn hát. Tiện đây, có anh Mã-Tư, một nhạc sĩ khác hơn tôi, tôi đã nhờ anh chép lại bài đó, như sau:

TÌNH CA°

Quyết khép cửa sao em độc ác

Khiến bao phen ta nát cõi lòng.

Lửa tâm càng dập càng nồng,

Nghe tên lại nhớ bóng hồng thướt tha

Ta muốn học như là áng tuyết,

Tuyết lạnh lùng mà nết kiên trinh.

Trách em sao khéo vô tình,

Thấy ta vất vưởng em đành làm thinh.

Ta những ước hóa thành trẻ nhỏ,

Xách ấm sành đây đó lang thang.

Giã từ chốn ấy lầu trang:

“Nước đây tôi bán, các nàng có mua?”

Trên gác nọ một cô trông thấy;

Hỏi: “Người nào ngoài ấy đang rao?”

Trông lên ta đáp nghẹn ngào:

“Lệ tình đây chứ, phải nào nước đâu!”

Hector Malot

Hà Mai Anh dịch

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXKhông gia đình 2

Không gia đình 2 Chương 9 Một thành phố đen Chúng tôi lại lên đường, không đói không mệt với hai mươi tám phrăng trong túi nhờ sự đón ti...