Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2024

XXXXVô gia đình 1

Vô gia đình 1

LỜI NÓI ĐẦU

Nguyên tác: Sans Famille

 

Truyện VÔ GIA ĐÌNH này dịch ở quyển SANS FAMILLE, một tiểu thuyết hay nhất trong các tác phẩm của Hector Malot, một danh văn nước Pháp.

Tiểu thuyết Sans Famille xuất bản lần đầu tiên về năm 1878, được công chúng rất hoan-nghênh và được Viện Hàn-Lâm Pháp khen-thưởng, cho vào hạng sách hữu ích. Vì có một giá trị về văn-chương cũng như về phương diện giáo-dục, nên sách đó đã được lưu hành trong các nam-nữ học-đường.

Không những thế, các nước Anh, Đức, Nhật, Trung-Hoa, vân vân, cũng nhận thấy ích lợi của cuốn sách đó nên đã phiên dịch ra trên mười thứ tiếng và phát hành khắp nơi.

Ở nước ta, năm 1931, ông Nguyễn đỗ Mục và ông Đào-Hùng đã theo bản văn của Tàu “Khổ nhi lưu lãng ký” dịch ra Việt văn nhan đề là “Vô gia đình” (Tiểu thuyết giáo dục Đứa trẻ khốn nạn), đăng báo “Trung Bắc Tân Văn” và in thành sách do nhà “Tân Việt Nam Thư Xã” xuất bản.

Nay, để cho truyện được sát với nguyên tác chữ Pháp, về tư tưởng cũng như về văn từ, theo ý muốn của một số bạn yêu văn, tôi không quản tài trí thiển sơ, cố gắng phiên dịch, may ra có ích phần nào trong học văn của các bạn thanh niên.

“Vô gia đình” là truyện một đứa bé bị bỏ đường, được một thôn phụ nuôi nấng như con. Không may, chồng thôn phụ đó làm thợ bị một tai nạn lao động thành tàn tật, buộc lòng phải bán em cho một ông lão diễn trò rong.

Cuộc phân ly đau đớn. Rồi đến cuộc đời lang thang, trôi dạt của em trên đất Pháp và đất Anh. Những biến cố liên tiếp xảy ra, nhưng nhờ trí thông minh, lòng quả cảm, em đã phấn đấu và đã vượt mọi gian nan.

Sau em tìm được mẹ cùng em trai và không quên trả ơn những người đã cứu giúp em trong những ngày gian khổ.

“Vô gia đình” nêu cho ta một tấm gương ưu cần, nhẫn nại, một tinh thần thanh cao và tự lập, một chí phấn đấu không sờn, nhất là lòng trung hậu tuyệt vời.

Ngoài giá trị về đạo đức, câu truyện lại ly-kỳ và vô cùng cảm động nên không những được giới học sinh ưa chuộng mà mọi người ai đã đọc một vài trang đầu không thể bỏ qua không xem hết.

Trong lúc phong trào “chấn hưng đạo đức” đang sôi nổi trên Thế giới Tự do, tôi mong rằng bản dịch “Vô gia đình” này sẽ giúp một phần mọn vào công cuộc “vãn hồi chính đạo” lớn lao đó.

Saigon, ngày 23-3-1958

DỊCH GIẢ

Chương II

người cha nuôi

Tôi lại gần để hôn ông, nhưng ông lấy đầu gậy ngăn tôi lại và hỏi:

- Đứa này là đứa nào?

- Cu Minh đấy.

- Bà có bảo tôi là…

- Có. Nhưng không phải, vì…

- A! Không phải, không phải.

Ông giơ cao gậy, tiến lại phía tôi, tự nhiên tôi lùi lại.

Tôi đã làm gì? Tôi có lỗi gì? Tại sao lại có sự nhạt nhẽo khi tôi đến hôn ông? Tôi không đủ thời giờ để suy nghĩ về việc đó, nó làm rối bời trong óc tôi.

Ông nói:

- Nhà này cũng ăn “Lễ Tuần Thánh”. Tốt lắm. Tôi đang đói bụng đây. Có gì ăn bữa tối không?

- Tôi đang làm bánh tráng.

- Bánh tráng, biết rồi. Nhưng không phải thứ đồ ăn dành cho một người đã đi bộ hơn mười dặm đường.

- Vì nhà chẳng có gì. Mà tôi không biết ông về.

- Thế nào? Không, không có gì mà ăn à?

Ông nhìn chung quanh rồi nói:

- Bơ kia thôi!

Rồi ông ngước mắt lên trần nhìn chỗ treo mỡ xưa nay, nhưng đã lâu, cái móc vẫn để trơ và dưới sà ngang có treo lơ thơ mấy nhánh tỏi và hành.

Ông lấy gậy chọc mấy nhánh hành xuống và nói:

- Hành đây thôi. Độ 4, 5 củ và một chút bơ là đủ làm súp rồi. Bà hãy bỏ bánh ra, cho hành vào.

Lấy bánh ở chảo ra! Mẹ tôi không cưỡng lại. Trái lại, mẹ tôi răm rắp làm theo ý ông. Còn ông ngồi tót trên ghế dài cạnh bếp. Tôi không dám ra khỏi chỗ mà cái đầu gậy của ông đã chỉ định tôi ở đó. Tựa vào cạnh bàn, tôi đứng nhìn ông.

Ông trạc 50 tuổi, mặt phũ, tướng nghiệt, đầu hơi vẹo do thương tích gây nên. Hình thù đó làm tôi khiếp sợ.

Mẹ tôi lại đặt chảo lên bếp.

Ông nói:

- Làm súp bằng tí bơ thế thôi à?

Nói xong, ông tự cầm đĩa đổ cả cục bơ vào chảo.

Thế là hết bơ và cũng hết theo cả bánh rán.

Vào lúc khác thì chắc chắn tôi rất buồn về tai họa đó, nhưng lúc ấy tôi không tưởng gì đến bánh rán, bánh sữa mà chỉ nghĩ một điều là người có vẻ phũ phàng kia lại là cha tôi.

Cha ta, cha ta! Tôi lẩm bẩm tiếng đó trong mồm.

Ngày thường tôi không bao giờ tự hỏi để định rõ thế nào là một người cha. Tôi chỉ mường tượng cha là một người mẹ có tiếng nói to. Đến bây giờ, nhìn người cha tự trên trời rơi xuống kia, tôi đâm ra đau đớn, sợ hãi.

Tôi muốn đến hôn ông, ông đã cầm gậy ngăn tôi lại. Tại sao thế? Mẹ tôi không bao giờ gạt tôi ra khi tôi đến hôn người, mà còn bế tôi lên và ôm chặt vào lòng nữa.

Chợt ông bảo tôi:

- Sao mày cứ đứng như tượng thế, rét lắm à? Ra dọn đĩa lên bàn đi.

Tôi vội vàng tuân lệnh. Đã nấu xong. Mẹ tôi múc ra cái đĩa.

Ông liền rời góc lò sưởi đến bàn, ngồi vào ăn, thỉnh thoảng dừng lại để nhìn tôi.

Tôi bối rối và lo quá đến nỗi không nuốt được. Tôi cũng nhìn ông, nhưng nhìn trộm thôi, mỗi lần gặp mắt ông thì tôi lại trông xuống.

Chợt ông giơ thìa về phía tôi và hỏi:

- Thằng này ngày thường vẫn ăn hơn hôm nay chứ?

- Nó vẫn ăn được.

- Mặc xác nó. Nếu nó nhịn hẳn càng tốt.

Tôi chẳng buồn nói gì. Mẹ tôi cũng chẳng hơn gì tôi. Bà lẳng lặng đi quanh bàn, chăm chú hầu chồng.

Ông lại hỏi tôi:

- Thế mày không đói à?

- Không.

- Vậy đi ngủ đi. Cố ngủ ngay đi, nếu không, tao cáu tiết.

Mẹ tôi đưa mắt cho tôi, ngụ ý bảo phải nghe lời không được phụng phịu. Nhưng sự dặn dò đó vô ích vì tôi không nghĩ đến việc làm reo.

Cũng như nhiều nhà khác của người dân quê, căn bếp nhà tôi vừa là chỗ đun nấu, vừa là chỗ để ngủ. Gần lò bếp để những thức dùng vào việc nấu ăn: bàn, chạn, thùng đựng bánh. Đầu kia là tấm ngựa. Một góc là chỗ mẹ tôi nằm. Góc đối diện là giường tôi ngủ có che tấm riềm đỏ.

Tôi vội cởi áo ngoài và đi nằm. Còn ngủ, lại là một chuyện khác.

Mệnh lệnh không thể bắt người ta ngủ được. Người ta chỉ có thể ngủ được khi nào buồn ngủ hay khi nào lòng yên.

Thế mà, tôi không buồn ngủ, lòng tôi không yên, thì bảo rằng chợp mắt làm sao được? Hơn thế nữa tôi còn bứt rứt, buồn khổ. Người ấy là cha tôi à? Tại sao lại hắt hủi tôi như thế?

Quay mặt vào tường tôi cố xua đuổi những ý nghĩ đó trong đầu để ngủ theo lệnh của ông ta. Nhưng vô hiệu. Không những không ngủ được mà tôi lại thấy càng tỉnh táo hơn.

Một lúc khá lâu tôi cũng không ước đoán được là bao nhiêu, tôi thấy có người đến gần giường tôi.

Chân bước kéo lê, bước chậm chạp và nặng nề. Tôi biết ngay không phải là mẹ tôi.

Một luồng hơi nóng thoảng qua tóc tôi. Rồi có tiếng hỏi:

- Mày ngủ chưa?

Tôi khôn không trả lời, vì những tiếng “tao cáu tiết” còn văng vẳng bên tai tôi.

Mẹ tôi nói:

- Nó ngủ rồi. Tính nó thế, hễ nằm xuống là ngủ ngay. Ông cứ nói đi không sợ nó nghe thấy đâu.

Đáng lẽ tôi phải nói là tôi còn thức nhưng tôi không dám vì người ta đã ra lệnh cho tôi ngủ mà tôi không ngủ là tôi có lỗi.

Mẹ tôi bắt đầu hỏi:

- Việc kiện của ông đã đi đến đâu rồi?

- Thua rồi! Các quan Tòa quả quyết rằng tôi có lỗi đứng dưới gióng xây và người chủ thầu không phải đền gì.

Nói xong, ông đấm mạnh xuống bàn và văng những lời thô tục.

Ông nói:

- Kiện thua, tiền mất, chân què, cùng khốn. Đã thế, về đây lại trông thấy thằng bé con, tại sao bà lại không làm theo lời tôi bảo?

- Vì tôi không thể làm được.

- Bà không thể đưa nó đến Nhà Phúc?

- Tôi không nở đem cho một đứa trẻ tôi đã nuôi bằng sửa của tôi và tôi yêu.

- Nhưng không phải con bà.

- Mải sau, tôi cũng định làm theo lời ông, nhưng lúc đó nó lại ốm.

- Ốm?

- Phải, nó ốm. Không phải là lúc đem nó đến Nhà Phúc để giết nó. Phải không?

- Thế khi nó đã khỏi?

- Nó không khỏi ngay. Hết bệnh ấy lại đến bệnh khác. Nó ho, ho như xé ruột gan! Ấy chính vì bệnh đó mà thằng Niết nhà ta mất đấy. Nếu tôi đem thằng Minh ra tỉnh, tất nó cũng sẽ chết nốt!

- Nhưng về sau?

- Năm tháng qua. Tôi đã có công đợi đến ngày đó thì tôi cũng còn đợi được.

- Hiện giờ nó lên mấy?

- Tám tuổi.

- Vậy thì đến năm lên tám, nó sẽ lại phải đi đến chỗ mà ngày trước người ta đã định cho nó.

- Ông ơi! Ông đừng làm thế!

- Đừng làm thế? Ai cấm ta được? Bà tưởng ta có thể giữ nó suốt đời?

Một lúc yên lặng. Tôi có thể thở được. Vì lúc nãy, nỗi cảm xúc đưa lên đến tận cổ, làm tôi nghẹn thở.

Mười phút sau, mẹ tôi lại cất tiếng:

- Ba-Lê đã thay đổi tính nết ông nhiều quá! Trước khi đi Ba-Lê ông có nói với tôi như thế đâu?

- Có lẽ. Nhưng điều đích xác nhất là nếu Ba-Lê đã cải hóa tôi thì nó cũng đã bẻ què chân tôi. Bây giờ kiếm ăn thế nào được để nuôi tôi và nuôi bà? Nhà ta hết cả tiền rồi. Bò cũng bán rồi. Khi ta không còn gì để ăn, ta có còn nên nuôi nữa một đứa trẻ không phải con ta?

- Nó là con tôi.

- Không phải con bà mà cũng không phải con tôi. Không phải con trẻ nhà quê. Tôi đã nhắm kỹ lúc nó ăn cơm: nó gầy gò, mảnh dẻ, không có cánh tay, không có bắp chân.

- Đó là đứa trẻ đẹp nhất vùng này.

- Đẹp. Tôi không cãi. Nhưng phải mạnh mẽ. Nó có thể mài cái đẹp ra ăn được không? Người ta có thể xốc vác với hai cái vai như nó không? Nó là đứa trẻ tỉnh thành. Những trẻ tỉnh thành ở đây ta không cần đến.

- Tôi nói rằng nó là một đứa trẻ ngoan. Nó thông minh và có nghĩa. Nó sẽ làm việc cho ta.

- Trong khi chờ đợi, ta phải làm việc cho nó. Bà trông thân hình tôi, tôi không thể làm gì được nữa.

- Nếu cha mẹ nó đến đòi, ông sẽ ăn nói làm sao?

- Cha mẹ nó à? Không biết nó có cha mẹ không? Nếu có, người ta đã đi tìm rồi, đi tìm từ tám năm nay rồi còn gì. A! Tôi đã dại dột tưởng rằng một ngày kia, cha mẹ nó sẽ tìm đến chuộc nó và trả công nuôi nó. Tôi chỉ là một thằng khờ, thằng xuẩn. Chỉ vì nó được bọc trong những cái tã viền ren, nhưng những cái tã đẹp đó không có nghĩa là cha mẹ nó sẽ đến tìm nó. Có lẽ họ đã chết rồi.

- Nếu họ còn sống, một ngày nào họ sẽ đến hỏi ta. Tôi yên trí rằng thế nào họ cũng đến.

- Ớ! Đàn bà hay nói bướng!

- Nếu họ đến thực?

- Tôi cho nó vào Nhà Phúc. Vắn tắt có thế thôi. Việc đó cũng làm cho tôi buồn, nhưng bắt buộc phải làm. Sáng mai tôi dẫn nó đến nhà Xã Trưởng. Bây giờ tôi đến thăm bác Phan. Tôi sẽ trở về trong một giờ.

Cánh cửa mở ra rồi đóng lại. Ông Liên đã đi chơi.

Bấy giờ, tôi ngồi nhổm dậy, gọi luôn:

- Mẹ ơi!

Bà chạy đến bên giường tôi.

- Mẹ có để con vào Nhà Phúc không?

- Không, con ạ, không.

Rồi bà hôn tôi và ôm chặt tôi trong cánh tay. Sự âu yếm đó làm cho tôi vững dạ thêm. Tôi không khóc nữa. Bà dịu dàng hỏi tôi:

- Thế con không ngủ à?

- Không phải lỗi tại con.

- Mẹ có mắng con đâu. Vậy con đã nghe được tất cả những lời của ông Liên?

- Vâng, mẹ không đẻ ra con “nhưng” ông Liên không phải là cha con.

Tôi nói những câu đó không cùng một giọng vì tôi thất vọng biết bà không phải là mẹ tôi, nhưng tôi rất sung sướng có phần hãnh diện, thấy ông Liên không phải là cha tôi, vì thế có sự tương phản trong tình cảm của tôi, nó lộ ra trong tiếng nói.

Nhưng mẹ tôi không tỏ vẻ gì là đã biết tâm trạng của tôi.

Mẹ tôi nói:

- Lắm lúc mẹ cũng muốn nói cho con biết sự thật, nhưng con chẳng khác gì con mẹ, nên bỗng dưng chẳng lẽ nói ra. Con ơi! Người mẹ sinh con ra, như con đã nghe thấy, không biết ở đâu. Hiện còn sống hay chết? Cũng chẳng ai biết. Một buổi sáng kia ở Ba-Lê khi ông Liên đi làm qua Đại lộ Bảo-Tương, một con đường rộng, hai bên trồng cây, bỗng ông nghe thấy tiếng con nít khóc. Những tiếng đó hình như từ một khuôn cửa vườn nọ đưa ra. Lúc đó là tháng Hai. Trời mờ mờ sáng, ông nhìn chung quanh xem có ai để hỏi thì ông trông thấy một người đàn ông ở sau một gốc cây to chạy vuột ra trốn mất. Chắc hẳn, người đó đợi xem có ai nhìn thấy đứa trẻ mà hắn đã bỏ ở cửa vườn là hắn trút được gánh nặng. Ông Liên cuống quít vì đứa trẻ càng khóc già, hình như nó thấy dịp may đã đến phải bám lấy, không để bỏ qua. Trong khi ông Liên đang suy nghĩ không biết làm thế nào thì đám thợ khác cũng đến nơi. Người ta bàn tán rồi đưa đứa trẻ về sở Cảnh binh. Đứa bé cứ khóc hoài. Nó rét chăng? Nhưng ở văn phòng Cảnh Sát Trưởng ấm lắm. Có lẽ nó đói thì đúng hơn. Người ta tìm một bà gần đây đến cho nó bú. Nó vồ lấy. Nó đói thật. Lúc bấy giờ người ta mới cởi áo nó ra bên lò sưởi. Thì ra là một đứa con trai xinh đẹp độ 5, 6 tháng, hồng hào, to, mập, trông rất hay. Những tã và khăn bọc đứa bé chứng minh rõ ràng đó là con nhà giàu. Đứa trẻ này có lẽ bị bắt cóc rồi đem bỏ đường. Đó là lời giải thích của ông Cảnh Sát Trưởng. Người ta làm gì bây giờ? Sau khi đã ghi tất cả những lời khai của ông Liên, tả hình dạng đứa bé cùng những khăn, tã không mang dấu hiệu, ông Cảnh Sát Trưởng bảo: trong những người hiện diện nếu không ai muốn rước nó về nuôi thì ông cho đưa nó vào Nhà Phúc. Còn nói thêm một đứa bé kháu khỉnh, khỏe mạnh thế này thật dễ nuôi. Cha mẹ nó tất nhiên sẽ phải tìm nó và sẽ trọng thưởng người đã có công nuôi nấng nó. Ông Cảnh Sát Trưởng nói xong, Bảo Liên tiến ra xin rước nó về nuôi. Người ta giao nó cho ông ẳm về. Ngày ấy, mẹ còn có một đứa con trai bằng tuổi con. Mẹ nuôi sữa hai đứa cùng lúc xem như chẳng có gì khó nhọc. Cứ như thế mà ta trở thành mẹ con.

- Ồ! Mẹ!

- Không may là con của mẹ nuôi được ba tháng thì mất, bấy giờ ta lại thương con nhiều hơn. Mẹ quên mất rằng con không phải là con ruột. Nhưng khốn nạn là ông Liên lại không quên việc này. Và ba năm sau không thấy cha mẹ con đến tìm con, ít nhất họ không tìm ra con, thì ông ấy muốn đưa con vào Nhà-Phúc. Con đã nghe vì sao mẹ không nghe lời ông ấy?

Tôi vừa khóc vừa ôm chặt lấy mẹ tôi vừa kêu lên:

- Ồ! Mẹ ơi! Đừng đưa con đi Nhà-Phúc. Mẹ Liên ơi! Xin mẹ, đừng đưa con đi Nhà-Phúc.

- Không. Con ơi! Con không phải đi đâu. Mẹ sẽ sắp xếp việc này. Ông Liên thật không phải là người ác. Coi đó! Ông ấy gặp nhiều trở ngại và lo lắng trong tương lai. Rồi chúng ta sẽ làm việc, cả con cũng phải làm việc nữa.

- Vâng, con sẽ làm bất cứ gì mẹ muốn. Nhưng đừng đưa con đến Nhà-Phúc.

- Con sẽ không phải đi, nhưng với một điều kiện là con phải đi ngủ ngay, đừng để ông ấy về trông thấy con còn thức.

Sau khi đó hôn tôi, mẹ bắt tôi phải quay mặt vào tường mà ngủ. Tôi muốn ngủ lắm, nhưng lòng tôi quá run sợ và kích động đến nỗi khó có sự bình an để rơi vào giấc ngủ.

Như vậy, người mẹ rất tốt, rất thương tôi lại không phải là mẹ tôi. Thế thì một người mẹ thật là thế nào? Tốt hơn bà mẹ tôi bây giờ và thương tôi hơn hay sao? Ồ! Không, không thể có được.

Nhưng cứ theo óc suy nghĩ của tôi lúc bấy giờ thì một người cha thế nào vẫn không tàn nhẫn như ông Liên và quyết không giơ gậy lên và nhìn tôi bằng con mắt lạnh lùng.

Ông muốn đem tôi cho Nhà-Phúc. Liệu mẹ tôi có thể giữ được không? Mà Nhà-Phúc là cái gì?

Trong làng có hai đứa trẻ mà người ta thường gọi là trẻ Nhà-Phúc. Mỗi đứa đeo một lắc chì có số ở cổ. Chúng ăn mặc rách rưới và bẩn thỉu. Trẻ con trong làng thường chế riễu, đánh đập chúng. Có đứa độc ác hơn, xua đuổi chúng như những con chó lạc để nô đùa, cũng bởi những con chó lạc không người che chở.

A! Tôi không muốn như những đứa trẻ đó. Tôi không muốn có số đeo ở cổ, tôi không muốn có những đứa trẻ chạy theo tôi và kêu: “Vào Nhà-Phúc đi! Vào Nhà-Phúc đi!”

Nghĩ tới đó, tôi phát rét lên, hai hàm răng run cầm cập. Tôi không ngủ được. Mà ông Liên cũng sắp về.

May sao, ông không về đúng giờ hẹn. Và cái ngủ đã đến với tôi trước khi ông về.

Chương II

người cha nuôi

Tôi lại gần để hôn ông, nhưng ông lấy đầu gậy ngăn tôi lại và hỏi:

- Đứa này là đứa nào?

- Cu Minh đấy.

- Bà có bảo tôi là…

- Có. Nhưng không phải, vì…

- A! Không phải, không phải.

Ông giơ cao gậy, tiến lại phía tôi, tự nhiên tôi lùi lại.

Tôi đã làm gì? Tôi có lỗi gì? Tại sao lại có sự nhạt nhẽo khi tôi đến hôn ông? Tôi không đủ thời giờ để suy nghĩ về việc đó, nó làm rối bời trong óc tôi.

Ông nói:

- Nhà này cũng ăn “Lễ Tuần Thánh”. Tốt lắm. Tôi đang đói bụng đây. Có gì ăn bữa tối không?

- Tôi đang làm bánh tráng.

- Bánh tráng, biết rồi. Nhưng không phải thứ đồ ăn dành cho một người đã đi bộ hơn mười dặm đường.

- Vì nhà chẳng có gì. Mà tôi không biết ông về.

- Thế nào? Không, không có gì mà ăn à?

Ông nhìn chung quanh rồi nói:

- Bơ kia thôi!

Rồi ông ngước mắt lên trần nhìn chỗ treo mỡ xưa nay, nhưng đã lâu, cái móc vẫn để trơ và dưới sà ngang có treo lơ thơ mấy nhánh tỏi và hành.

Ông lấy gậy chọc mấy nhánh hành xuống và nói:

- Hành đây thôi. Độ 4, 5 củ và một chút bơ là đủ làm súp rồi. Bà hãy bỏ bánh ra, cho hành vào.

Lấy bánh ở chảo ra! Mẹ tôi không cưỡng lại. Trái lại, mẹ tôi răm rắp làm theo ý ông. Còn ông ngồi tót trên ghế dài cạnh bếp. Tôi không dám ra khỏi chỗ mà cái đầu gậy của ông đã chỉ định tôi ở đó. Tựa vào cạnh bàn, tôi đứng nhìn ông.

Ông trạc 50 tuổi, mặt phũ, tướng nghiệt, đầu hơi vẹo do thương tích gây nên. Hình thù đó làm tôi khiếp sợ.

Mẹ tôi lại đặt chảo lên bếp.

Ông nói:

- Làm súp bằng tí bơ thế thôi à?

Nói xong, ông tự cầm đĩa đổ cả cục bơ vào chảo.

Thế là hết bơ và cũng hết theo cả bánh rán.

Vào lúc khác thì chắc chắn tôi rất buồn về tai họa đó, nhưng lúc ấy tôi không tưởng gì đến bánh rán, bánh sữa mà chỉ nghĩ một điều là người có vẻ phũ phàng kia lại là cha tôi.

Cha ta, cha ta! Tôi lẩm bẩm tiếng đó trong mồm.

Ngày thường tôi không bao giờ tự hỏi để định rõ thế nào là một người cha. Tôi chỉ mường tượng cha là một người mẹ có tiếng nói to. Đến bây giờ, nhìn người cha tự trên trời rơi xuống kia, tôi đâm ra đau đớn, sợ hãi.

Tôi muốn đến hôn ông, ông đã cầm gậy ngăn tôi lại. Tại sao thế? Mẹ tôi không bao giờ gạt tôi ra khi tôi đến hôn người, mà còn bế tôi lên và ôm chặt vào lòng nữa.

Chợt ông bảo tôi:

- Sao mày cứ đứng như tượng thế, rét lắm à? Ra dọn đĩa lên bàn đi.

Tôi vội vàng tuân lệnh. Đã nấu xong. Mẹ tôi múc ra cái đĩa.

Ông liền rời góc lò sưởi đến bàn, ngồi vào ăn, thỉnh thoảng dừng lại để nhìn tôi.

Tôi bối rối và lo quá đến nỗi không nuốt được. Tôi cũng nhìn ông, nhưng nhìn trộm thôi, mỗi lần gặp mắt ông thì tôi lại trông xuống.

Chợt ông giơ thìa về phía tôi và hỏi:

- Thằng này ngày thường vẫn ăn hơn hôm nay chứ?

- Nó vẫn ăn được.

- Mặc xác nó. Nếu nó nhịn hẳn càng tốt.

Tôi chẳng buồn nói gì. Mẹ tôi cũng chẳng hơn gì tôi. Bà lẳng lặng đi quanh bàn, chăm chú hầu chồng.

Ông lại hỏi tôi:

- Thế mày không đói à?

- Không.

- Vậy đi ngủ đi. Cố ngủ ngay đi, nếu không, tao cáu tiết.

Mẹ tôi đưa mắt cho tôi, ngụ ý bảo phải nghe lời không được phụng phịu. Nhưng sự dặn dò đó vô ích vì tôi không nghĩ đến việc làm reo.

Cũng như nhiều nhà khác của người dân quê, căn bếp nhà tôi vừa là chỗ đun nấu, vừa là chỗ để ngủ. Gần lò bếp để những thức dùng vào việc nấu ăn: bàn, chạn, thùng đựng bánh. Đầu kia là tấm ngựa. Một góc là chỗ mẹ tôi nằm. Góc đối diện là giường tôi ngủ có che tấm riềm đỏ.

Tôi vội cởi áo ngoài và đi nằm. Còn ngủ, lại là một chuyện khác.

Mệnh lệnh không thể bắt người ta ngủ được. Người ta chỉ có thể ngủ được khi nào buồn ngủ hay khi nào lòng yên.

Thế mà, tôi không buồn ngủ, lòng tôi không yên, thì bảo rằng chợp mắt làm sao được? Hơn thế nữa tôi còn bứt rứt, buồn khổ. Người ấy là cha tôi à? Tại sao lại hắt hủi tôi như thế?

Quay mặt vào tường tôi cố xua đuổi những ý nghĩ đó trong đầu để ngủ theo lệnh của ông ta. Nhưng vô hiệu. Không những không ngủ được mà tôi lại thấy càng tỉnh táo hơn.

Một lúc khá lâu tôi cũng không ước đoán được là bao nhiêu, tôi thấy có người đến gần giường tôi.

Chân bước kéo lê, bước chậm chạp và nặng nề. Tôi biết ngay không phải là mẹ tôi.

Một luồng hơi nóng thoảng qua tóc tôi. Rồi có tiếng hỏi:

- Mày ngủ chưa?

Tôi khôn không trả lời, vì những tiếng “tao cáu tiết” còn văng vẳng bên tai tôi.

Mẹ tôi nói:

- Nó ngủ rồi. Tính nó thế, hễ nằm xuống là ngủ ngay. Ông cứ nói đi không sợ nó nghe thấy đâu.

Đáng lẽ tôi phải nói là tôi còn thức nhưng tôi không dám vì người ta đã ra lệnh cho tôi ngủ mà tôi không ngủ là tôi có lỗi.

Mẹ tôi bắt đầu hỏi:

- Việc kiện của ông đã đi đến đâu rồi?

- Thua rồi! Các quan Tòa quả quyết rằng tôi có lỗi đứng dưới gióng xây và người chủ thầu không phải đền gì.

Nói xong, ông đấm mạnh xuống bàn và văng những lời thô tục.

Ông nói:

- Kiện thua, tiền mất, chân què, cùng khốn. Đã thế, về đây lại trông thấy thằng bé con, tại sao bà lại không làm theo lời tôi bảo?

- Vì tôi không thể làm được.

- Bà không thể đưa nó đến Nhà Phúc?

- Tôi không nở đem cho một đứa trẻ tôi đã nuôi bằng sửa của tôi và tôi yêu.

- Nhưng không phải con bà.

- Mải sau, tôi cũng định làm theo lời ông, nhưng lúc đó nó lại ốm.

- Ốm?

- Phải, nó ốm. Không phải là lúc đem nó đến Nhà Phúc để giết nó. Phải không?

- Thế khi nó đã khỏi?

- Nó không khỏi ngay. Hết bệnh ấy lại đến bệnh khác. Nó ho, ho như xé ruột gan! Ấy chính vì bệnh đó mà thằng Niết nhà ta mất đấy. Nếu tôi đem thằng Minh ra tỉnh, tất nó cũng sẽ chết nốt!

- Nhưng về sau?

- Năm tháng qua. Tôi đã có công đợi đến ngày đó thì tôi cũng còn đợi được.

- Hiện giờ nó lên mấy?

- Tám tuổi.

- Vậy thì đến năm lên tám, nó sẽ lại phải đi đến chỗ mà ngày trước người ta đã định cho nó.

- Ông ơi! Ông đừng làm thế!

- Đừng làm thế? Ai cấm ta được? Bà tưởng ta có thể giữ nó suốt đời?

Một lúc yên lặng. Tôi có thể thở được. Vì lúc nãy, nỗi cảm xúc đưa lên đến tận cổ, làm tôi nghẹn thở.

Mười phút sau, mẹ tôi lại cất tiếng:

- Ba-Lê đã thay đổi tính nết ông nhiều quá! Trước khi đi Ba-Lê ông có nói với tôi như thế đâu?

- Có lẽ. Nhưng điều đích xác nhất là nếu Ba-Lê đã cải hóa tôi thì nó cũng đã bẻ què chân tôi. Bây giờ kiếm ăn thế nào được để nuôi tôi và nuôi bà? Nhà ta hết cả tiền rồi. Bò cũng bán rồi. Khi ta không còn gì để ăn, ta có còn nên nuôi nữa một đứa trẻ không phải con ta?

- Nó là con tôi.

- Không phải con bà mà cũng không phải con tôi. Không phải con trẻ nhà quê. Tôi đã nhắm kỹ lúc nó ăn cơm: nó gầy gò, mảnh dẻ, không có cánh tay, không có bắp chân.

- Đó là đứa trẻ đẹp nhất vùng này.

- Đẹp. Tôi không cãi. Nhưng phải mạnh mẽ. Nó có thể mài cái đẹp ra ăn được không? Người ta có thể xốc vác với hai cái vai như nó không? Nó là đứa trẻ tỉnh thành. Những trẻ tỉnh thành ở đây ta không cần đến.

- Tôi nói rằng nó là một đứa trẻ ngoan. Nó thông minh và có nghĩa. Nó sẽ làm việc cho ta.

- Trong khi chờ đợi, ta phải làm việc cho nó. Bà trông thân hình tôi, tôi không thể làm gì được nữa.

- Nếu cha mẹ nó đến đòi, ông sẽ ăn nói làm sao?

- Cha mẹ nó à? Không biết nó có cha mẹ không? Nếu có, người ta đã đi tìm rồi, đi tìm từ tám năm nay rồi còn gì. A! Tôi đã dại dột tưởng rằng một ngày kia, cha mẹ nó sẽ tìm đến chuộc nó và trả công nuôi nó. Tôi chỉ là một thằng khờ, thằng xuẩn. Chỉ vì nó được bọc trong những cái tã viền ren, nhưng những cái tã đẹp đó không có nghĩa là cha mẹ nó sẽ đến tìm nó. Có lẽ họ đã chết rồi.

- Nếu họ còn sống, một ngày nào họ sẽ đến hỏi ta. Tôi yên trí rằng thế nào họ cũng đến.

- Ớ! Đàn bà hay nói bướng!

- Nếu họ đến thực?

- Tôi cho nó vào Nhà Phúc. Vắn tắt có thế thôi. Việc đó cũng làm cho tôi buồn, nhưng bắt buộc phải làm. Sáng mai tôi dẫn nó đến nhà Xã Trưởng. Bây giờ tôi đến thăm bác Phan. Tôi sẽ trở về trong một giờ.

Cánh cửa mở ra rồi đóng lại. Ông Liên đã đi chơi.

Bấy giờ, tôi ngồi nhổm dậy, gọi luôn:

- Mẹ ơi!

Bà chạy đến bên giường tôi.

- Mẹ có để con vào Nhà Phúc không?

- Không, con ạ, không.

Rồi bà hôn tôi và ôm chặt tôi trong cánh tay. Sự âu yếm đó làm cho tôi vững dạ thêm. Tôi không khóc nữa. Bà dịu dàng hỏi tôi:

- Thế con không ngủ à?

- Không phải lỗi tại con.

- Mẹ có mắng con đâu. Vậy con đã nghe được tất cả những lời của ông Liên?

- Vâng, mẹ không đẻ ra con “nhưng” ông Liên không phải là cha con.

Tôi nói những câu đó không cùng một giọng vì tôi thất vọng biết bà không phải là mẹ tôi, nhưng tôi rất sung sướng có phần hãnh diện, thấy ông Liên không phải là cha tôi, vì thế có sự tương phản trong tình cảm của tôi, nó lộ ra trong tiếng nói.

Nhưng mẹ tôi không tỏ vẻ gì là đã biết tâm trạng của tôi.

Mẹ tôi nói:

- Lắm lúc mẹ cũng muốn nói cho con biết sự thật, nhưng con chẳng khác gì con mẹ, nên bỗng dưng chẳng lẽ nói ra. Con ơi! Người mẹ sinh con ra, như con đã nghe thấy, không biết ở đâu. Hiện còn sống hay chết? Cũng chẳng ai biết. Một buổi sáng kia ở Ba-Lê khi ông Liên đi làm qua Đại lộ Bảo-Tương, một con đường rộng, hai bên trồng cây, bỗng ông nghe thấy tiếng con nít khóc. Những tiếng đó hình như từ một khuôn cửa vườn nọ đưa ra. Lúc đó là tháng Hai. Trời mờ mờ sáng, ông nhìn chung quanh xem có ai để hỏi thì ông trông thấy một người đàn ông ở sau một gốc cây to chạy vuột ra trốn mất. Chắc hẳn, người đó đợi xem có ai nhìn thấy đứa trẻ mà hắn đã bỏ ở cửa vườn là hắn trút được gánh nặng. Ông Liên cuống quít vì đứa trẻ càng khóc già, hình như nó thấy dịp may đã đến phải bám lấy, không để bỏ qua. Trong khi ông Liên đang suy nghĩ không biết làm thế nào thì đám thợ khác cũng đến nơi. Người ta bàn tán rồi đưa đứa trẻ về sở Cảnh binh. Đứa bé cứ khóc hoài. Nó rét chăng? Nhưng ở văn phòng Cảnh Sát Trưởng ấm lắm. Có lẽ nó đói thì đúng hơn. Người ta tìm một bà gần đây đến cho nó bú. Nó vồ lấy. Nó đói thật. Lúc bấy giờ người ta mới cởi áo nó ra bên lò sưởi. Thì ra là một đứa con trai xinh đẹp độ 5, 6 tháng, hồng hào, to, mập, trông rất hay. Những tã và khăn bọc đứa bé chứng minh rõ ràng đó là con nhà giàu. Đứa trẻ này có lẽ bị bắt cóc rồi đem bỏ đường. Đó là lời giải thích của ông Cảnh Sát Trưởng. Người ta làm gì bây giờ? Sau khi đã ghi tất cả những lời khai của ông Liên, tả hình dạng đứa bé cùng những khăn, tã không mang dấu hiệu, ông Cảnh Sát Trưởng bảo: trong những người hiện diện nếu không ai muốn rước nó về nuôi thì ông cho đưa nó vào Nhà Phúc. Còn nói thêm một đứa bé kháu khỉnh, khỏe mạnh thế này thật dễ nuôi. Cha mẹ nó tất nhiên sẽ phải tìm nó và sẽ trọng thưởng người đã có công nuôi nấng nó. Ông Cảnh Sát Trưởng nói xong, Bảo Liên tiến ra xin rước nó về nuôi. Người ta giao nó cho ông ẳm về. Ngày ấy, mẹ còn có một đứa con trai bằng tuổi con. Mẹ nuôi sữa hai đứa cùng lúc xem như chẳng có gì khó nhọc. Cứ như thế mà ta trở thành mẹ con.

- Ồ! Mẹ!

- Không may là con của mẹ nuôi được ba tháng thì mất, bấy giờ ta lại thương con nhiều hơn. Mẹ quên mất rằng con không phải là con ruột. Nhưng khốn nạn là ông Liên lại không quên việc này. Và ba năm sau không thấy cha mẹ con đến tìm con, ít nhất họ không tìm ra con, thì ông ấy muốn đưa con vào Nhà-Phúc. Con đã nghe vì sao mẹ không nghe lời ông ấy?

Tôi vừa khóc vừa ôm chặt lấy mẹ tôi vừa kêu lên:

- Ồ! Mẹ ơi! Đừng đưa con đi Nhà-Phúc. Mẹ Liên ơi! Xin mẹ, đừng đưa con đi Nhà-Phúc.

- Không. Con ơi! Con không phải đi đâu. Mẹ sẽ sắp xếp việc này. Ông Liên thật không phải là người ác. Coi đó! Ông ấy gặp nhiều trở ngại và lo lắng trong tương lai. Rồi chúng ta sẽ làm việc, cả con cũng phải làm việc nữa.

- Vâng, con sẽ làm bất cứ gì mẹ muốn. Nhưng đừng đưa con đến Nhà-Phúc.

- Con sẽ không phải đi, nhưng với một điều kiện là con phải đi ngủ ngay, đừng để ông ấy về trông thấy con còn thức.

Sau khi đó hôn tôi, mẹ bắt tôi phải quay mặt vào tường mà ngủ. Tôi muốn ngủ lắm, nhưng lòng tôi quá run sợ và kích động đến nỗi khó có sự bình an để rơi vào giấc ngủ.

Như vậy, người mẹ rất tốt, rất thương tôi lại không phải là mẹ tôi. Thế thì một người mẹ thật là thế nào? Tốt hơn bà mẹ tôi bây giờ và thương tôi hơn hay sao? Ồ! Không, không thể có được.

Nhưng cứ theo óc suy nghĩ của tôi lúc bấy giờ thì một người cha thế nào vẫn không tàn nhẫn như ông Liên và quyết không giơ gậy lên và nhìn tôi bằng con mắt lạnh lùng.

Ông muốn đem tôi cho Nhà-Phúc. Liệu mẹ tôi có thể giữ được không? Mà Nhà-Phúc là cái gì?

Trong làng có hai đứa trẻ mà người ta thường gọi là trẻ Nhà-Phúc. Mỗi đứa đeo một lắc chì có số ở cổ. Chúng ăn mặc rách rưới và bẩn thỉu. Trẻ con trong làng thường chế riễu, đánh đập chúng. Có đứa độc ác hơn, xua đuổi chúng như những con chó lạc để nô đùa, cũng bởi những con chó lạc không người che chở.

A! Tôi không muốn như những đứa trẻ đó. Tôi không muốn có số đeo ở cổ, tôi không muốn có những đứa trẻ chạy theo tôi và kêu: “Vào Nhà-Phúc đi! Vào Nhà-Phúc đi!”

Nghĩ tới đó, tôi phát rét lên, hai hàm răng run cầm cập. Tôi không ngủ được. Mà ông Liên cũng sắp về.

May sao, ông không về đúng giờ hẹn. Và cái ngủ đã đến với tôi trước khi ông về.

Chương III

đoàn hát rong

Đêm trước tôi đã mê man trong một cơn ác mộng đầy sợ hãi lo âu, nên sáng dậy, cử chỉ thứ nhất của tôi là sờ lại giường, nhìn những vật chung quanh nhà để yên trí là trong đêm, người ta đã không bế tôi đi nơi khác.

Suốt buổi sáng hôm đó, ông Liên không nói gì. Tôi tưởng rằng dự định đem tôi đi Nhà-Phúc đã bỏ rồi. Có lẽ, mẹ tôi đã nói được cho tôi ở lại.

Nhưng đến trưa, ông Liên bảo tôi đội mũ và theo ông.

Sợ quá, tôi đưa mắt nhìn mẹ để cầu cứu. Nhưng bà ra hiệu cho tôi phải tuân lời, đồng thời, bàn tay bà sẽ đưa đi đưa lại, ngụ ý bảo không việc gì mà sợ.

Không nói năng gì, tôi bước ra theo ông.

Con đường từ nhà tôi vào trong làng xa quá, phải đi đến một giờ. Trong thời gian đó, ông không hề nói với tôi một câu nào. Ông bước khập khiễng, cổ cứng đờ, thỉnh thoảng quay cả hai vai lại nhìn xem tôi có còn theo nữa không.

Ông định đưa tôi đi đâu?

Câu hỏi này làm tôi buồn, mặc dầu bàn tay của mẹ tôi đã ra hiệu cho tôi vững lòng, và muốn thoát cái nguy hiểm tuy không trông thấy nhưng tôi đã cảm thấy tôi định chạy trốn. Vì thế, tôi cố ý đi chùn lại đằng sau. Khi nào cách xa ông, tôi sẽ nhảy xuống hố rồi trốn đi, ông không thể nào đuổi kịp tôi được.

Đầu tiên, ông bảo tôi bước theo gót chân ông. Nhưng sau đó có lẽ đoán được ý định của tôi, ông liền cầm cánh tay dắt đi.

Tôi chỉ còn nước theo chân ông thôi, hết nhúc nhích.

Chúng tôi cứ như thế mà vào tới trong làng. Trên đường, mọi người đi ngang qua đều quay đầu lại nhìn chúng tôi, vì lúc đó, tôi lếch thếch lôi thôi như một con chó giận dỗi đang bị xích cổ lôi đi.

Khi chúng tôi đến trước cửa hàng cà phê, một người đàn ông đứng nơi cửa gọi ông Liên và mời ông vào.

Ông liền nắm tai tôi và đẩy tôi đi lên trước, ông vào sau rồi đóng cửa lại. Tôi cảm thấy dể thở. Hiệu cà phê có vẻ không phải là một nơi nguy hiểm. Vả lại đã từ lâu, khi bước ngang hiệu cà phê, tôi muốn vào xem lắm.

Quán cà phê Đức Bà này không biết ấy là gì?

Đã bao nhiêu lần tôi hỏi thế?

Tôi thường trông thấy những người ở quán ra, mặt đỏ gay, chân lại run lẩy bẩy khi ra cửa. Mỗi lần tôi đi ngang qua thường nghe thấy tiếng kêu, hát ca rung cả cửa kính.

Người ta làm gì trong đó? Sau bức màn đỏ có những trò gì? Bây giờ tôi sẽ được trông thấy.

Trong khi ông Liên ngồi vào một bàn để nói chuyện với chủ quán là người đã gọi ông, tôi tìm chỗ gần lò sưởi để ngồi và nhìn liếc quanh tôi.

Trong góc gần nơi chỗ tôi ngồi, có một ông già, cao lớn, râu bạc, mặc một bộ quần áo kỳ dị chưa từng trông thấy bao giờ. Trên đầu đội một cái mũ phớt cao màu xám có cắm những lông chim xanh đỏ; mấy chùm tóc trắng bạc dài thỏng xuống tận vai. Trên người mặc một chiếc áo bằng da cừu, lông quay vào phía trong ôm chặt lấy người. Chiếc áo đó không có tay, nhưng từ hai lỗ lớn trên vai thò ra hai cánh tay mặc nhung mà một thời đã có màu xanh. Hai cái ghệt lớn bằng len cao lên đến tận đầu gối, và chúng được giữ chặt bằng những vải đỏ quấn chéo nhiều lần quanh chân.

Ông ta ngồi dựa vào ghế, bàn tay phải đỡ lấy cằm và khuỷu tay chống lên đầu gối co lại. Không bao giờ tôi trông thấy một người sống mà lại có dáng vẻ bình an như thế, chẳng khác chi một pho tượng trong Nhà Thờ.

Ở gần chỗ ông ngồi, có ba con chó đang nằm ép vào nhau cho ấm, không động đậy; một con chó trắng, một con chó lông đen và một con chó cái nhỏ lông xám, có vẻ tinh khôn và dịu dàng. Con chó trắng đội một cái mũ cảnh binh cũ kỹ, có dây da buộc xuống cằm.

Khi tôi tò mò nhìn ông già thì ông Liên và chủ quán thầm thì bàn tán. Tôi nghe thấy họ đang nói về chuyện của tôi.

Ông Liên bảo rằng ông ấy đang định đưa tôi đến gặp Xã Trưởng, để nhờ người này nói với Nhà-Phúc trả thù lao cho việc nuôi dưỡng tôi.

Điều này chắc mẹ tôi đã được biết rồi, và tôi hiểu ngay rằng nếu ông Liên nuôi tôi có lợi, thì tôi không lo sợ gì nữa.

Ông già như không để ý chuyện của hai ông kia, nhưng đã nghe được tất cả. Chợt ông giơ tay phải về phía tôi và hỏi ông Liên:

- Có phải thằng bé này nó làm phiền ông?

- Chính nó!

- Ông nghĩ rằng ban quản trị Nhà-Phúc quận ông sẽ trả công nuôi dưỡng hằng tháng cho ông chăng?

- Đương nhiên rồi! Thằng bé không có cha và tôi nuôi nó, phải có người ứng phó chi phí thì mới công bình chứ?

- Tôi không nói là không. Nhưng ông cho rằng bất cứ điều gì là công bình đều được thực hiện cả, phải không?

- Điều đó, không.

- Đúng vậy, không đời nào ông lại xin được tiền trợ cấp.

- Thế thì tôi cho nó vào Nhà-Phúc. Nếu tôi không giữ nó nữa, có luật nào lại bắt tôi nuôi nó suốt đời?

- Ngày xưa, ông đã thuận rước nó về, thế là ông đã cam kết giữ nó.

- Tôi sẽ không giữ nó nữa. Khi nào tôi cần cho nó ra đường, tôi sẽ cho nó ra.

- Có lẽ có một cách cho nó ra ngay bây giờ – ông già ngừng và nghỉ một tí rồi nói tiếp – cho nó ra ngay bây giờ mà ông lại được ít tiền.

- Nếu ông mách tôi kế đó, tôi xin thết ông một chai rượu và vui lòng thết.

- Gọi rượu đi! Việc ông tất xong.

- Chắc chắn?

- Chắc chắn.

Ông già bỏ ghế dựa, lại ngồi đối diện với ông Liên. Lạ lùng quá, khi ông đứng dậy, có vật gì lùng bùng trong áo da cừu của ông: tôi đoán trong đó có con chó con.

Ông sắp nói gì? Có chuyện gì sắp diễn ra?

Tôi nhìn theo ông, lòng xúc động nặng nề.

- Ý ông muốn rằng thằng bé này không được ăn ở nhà ông lâu thêm nữa hoặc nếu nó cứ tiếp tục ăn thì người ta phải trả tiền ông, có phải thế không?

- Đúng thế, vì rằng…

- Khỏi “vì rằng”. Ông phải biết nguyên nhân đó vô ích cho tôi, tôi không cần biết nguyên nhân. Chỉ cần biết ông không muốn nuôi nó nữa là đủ rồi. Nếu vậy, ông cho tôi, tôi nuôi.

- Cho ông?

- Thì ông muốn trút gánh nặng mà!

- Cho ông một đứa trẻ như thế này, một đứa bé đẹp vì nó là một đứa bé đẹp, ông hãy coi xem.

- Tôi đã coi rồi.

- Minh, con lại đây.

Tôi bước run run đến cạnh bàn, ông già nói:

- Lại đây. Con đừng sợ.

Ông Liên nói tiếp:

- Ông nhìn lại xem.

- Tôi không bảo nó xấu, tôi không cần đến. Nuôi những quái thai không phải việc của tôi.

- Nhưng nếu là một quái thai hai đầu, hay là một thằng lùn.

- Thì ông đã không đuổi nó vào Nhà-Phúc. Ông phải biết một cái quái thai có thể có giá trị nếu người ta biết lợi dụng, hoặc cho gánh hát thuê, hoặc tự mình khai thác lấy. Nhưng mà thằng bé này không phải quái thai mà cũng không lùn, nó được cấu tạo như tất cả mọi người, thành ra nó không được việc gì.

- Được việc làm lụng chứ!

- Nó yếu quá.

- Nó yếu à? Coi lại xem. Nó khỏe như những đứa trẻ lành mạnh. Ông trông đôi chân nó kia, không có đôi chân nào thẳng thắn hơn.

Ông Liên vừa nói vừa vén quần tôi lên. Ông già chê:

- Mảnh dẻ quá!

Ông Liên nói:

- Còn hai cánh tay nữa.

- Tay cũng như chân, tạm được, nhưng không chịu đựng được nhọc nhằn lao khổ.

- Nó không chịu đựng được à? Ông nắn những bắp thịt nó xem.

Ông già đưa bàn tay xương xẩu ra sờ nắn bắp chân tôi, rồi lắc đầu bĩu môi.

Tôi đã từng chứng kiến một tấn kịch tương tự. Khi người lái đến mua bò nhà tôi. Người lái đó cũng sờ, cũng nắn. Người lái đó cũng lắc đầu, bĩu môi nói: Không phải giống bò tốt và không thể bán lại được. Rồi rốt cục lại cũng mua, cũng dắt đi. Ông già này biết đâu rồi sẽ mua tôi và dắt tôi đi không? Mẹ ơi! Mẹ Liên ơi!

Biết bao chuyện chẳng may, mà mẹ lại không ở đây, chẳng thể bênh vực tôi.

Nếu đủ can đảm thì tôi đã lên tiếng rằng chỉ đêm trước ông Liên bảo tôi mảnh dẻ, chân tay yếu đuối; nhưng tôi hiểu rằng dẫu nói lên cũng chẳng ích gì, chỉ rước thêm đòn gậy, nên tôi đành ngậm miệng nín thinh.

Ông già nói:

- Thằng bé như thế này, vơ tay là có cả lố. Nói thật với ông! Đây là đứa trẻ thành phố, thành ra không thích hợp làm việc ruộng đồng. Thử cho thằng bé dắt bò đi cày xem, ông coi nó chịu được bao lâu?

- Mười năm.

- Không đến một tháng.

- Nhưng ông hãy xem.

- Tự ông xem đi rồi biết.

Tôi đứng nơi cuối bàn giữa ông Liên và ông già, người đẩy qua, kẻ đẩy lại, nhiều lần. Sau cùng ông già lên tiếng:

- Thế này vậy, dẫu sao tôi cũng muốn có nó. Tuy nhiên, tôi chỉ thuê thằng bé chứ không mua nó. Mỗi năm, tôi trả ông 20 phật-lăng.

- 20 phật-lăng?

- Vậy là cao giá lắm rồi. Tôi trả tiền trước. Ông nhận lấy bốn đồng bạc đáng giá, đồng thời, ông cũng thoát được cái nợ.

- Nhưng nếu tôi giữ thằng bé, Nhà-Phúc sẽ trả cho tôi mỗi tháng hơn 10 phật-lăng.

- Chỉ 7, 8 phật-lăng thôi, tôi đã biết giá, mà ông còn phải nuôi nó nữa.

- Nó sẽ làm việc.

- Nếu ông cảm thấy nó có thể làm được việc, ông đã không nóng lòng xua đuổi nó đi. Người ta nhận nuôi trẻ trong Nhà-Phúc không phải vì chi phí nhận được, mà là công việc chúng làm cho họ. Chúng làm đầy tớ, những đầy tớ làm việc nhà thay vì có lương lại không được lĩnh công. Còn nếu ông nghĩ thằng bé này giúp ông được, ông phải nên nuôi nó.

- Dù sao tôi sẽ vẫn được 10 phật-lăng mỗi tháng.

- Nếu Nhà-Phúc thay vì giao cho ông, lại đưa về cho người khác, có phải ông chẳng được gì không? Có phải là ông vẫn bấp bênh chứ? Nếu ông làm giao dịch với tôi, ông không e ngại gì, ông không cần phải lo lắng, chỉ việc thò tay lấy tiền.

Nói xong, ông móc trong túi ra một chiếc ví da, đếm 4 đồng bạc trắng xóa, rồi ném lên mặt bàn, làm kêu những tiếng leng keng.

Ông Liên nói:

- Ông nên biết rằng, ngày nào đó thằng bé này sẽ có cha mẹ.

- Ích gì cho tôi?

- Có lợi cho người nuôi chứ! Nếu tôi không tính đến cái lợi đó thì không bao giờ tôi lại rước nó về.

Câu nói của ông Liên: “Nếu tôi không tính đến cái lợi đó thì không bao giờ tôi lại rước nó về” làm cho tôi khinh ghét ông ta vô cùng. Thực là con người tham ác.

Ông già nói:

- Chính ông đợi mãi, món lời ấy không đến nên ông mới định đuổi nó ra đường. Sau này nếu cha mẹ nó đến thật thì họ hỏi ai? Chắc là hỏi ông chứ hỏi gì tôi, người ngoại cuộc.

- Nếu chính ông gặp cha mẹ nó trước?

- Thế thì chúng ta giao ước rằng một ngày kia cha mẹ nó tìm đến thì món lợi phải chia đôi. Bây giờ tôi trả ông 30 phật-lăng.

- Đúng 40 phật-lăng.

- Không. Công việc của nó sẽ giúp tôi không đáng món tiền đó.

- Nào những việc gì nó sẽ phải giúp ông? Muốn chân tốt thì chân nó tốt, muốn tay tốt thì tay nó tốt. Tôi nhất định giữ giá đó. Thế ông bảo nó thích hợp việc gì cho ông?

Ông già tưng hửng nhìn ông Liên, nhắp nhắp cốc rượu rồi nói:

- Để cùng đi với tôi cho có bạn. Tôi có tuổi rồi, đôi khi sau một ngày đi rong mệt nhọc, chiều xuống, gió lạnh, mưa sa, tôi thường cảm thấy cô đơn, có nó tôi sẽ khuây lòng.

- Chắc hẳn vì thế mà chân phải cứng?

- Nó sẽ phải múa, phải nhảy, phải đi. Đi rồi lại nhảy, tóm lại là nó sẽ nhập vào đoàn ca vũ của ông Bầu Vỹ-Tiên.

- Thế đoàn ấy ở đâu?

- Ông Bầu Vỹ-Tiên là tôi. Còn đoàn của tôi, nếu ông nghi ngờ thì tôi xin giới thiệu ngay, chắc là ông cũng muốn biết.

Nói xong, ông mở cái áo da cừu ra, lấy ra một con vật lạ, ôm vào ngực. Chính con vật đó, nhiều lần tôi thấy nó lùng bùng trong áo ông mà tôi tưởng lầm là con chó con. Con vật đó là con vật gì? Có phải là con vật không? Tôi không tìm thấy tên để gọi con vật kỳ lạ đó mà tôi mới trông thấy lần thứ nhất. Hai tay và hai chân nó để trần, vì chính nó có hai tay và hai chân chứ không phải những cẳng như những con vật khác, nhưng da tay và da chân nó đều đen chứ không trắng hoặc có sắc thịt. Đâu nó cũng đen và to hơn nắm tay tôi. Mặt thì rộng và ngắn, mũi hếch có hai lỗ cách nhau, môi vàng. Nhưng điều làm tôi chú ý nhất là hai con mắt nó gần nhau, mở trừng trừng và sáng như gương.

Ông Liên kêu:

- A! Con khỉ!

Tiếng đó làm cho tôi bớt sợ vì nếu tôi chưa bao giờ trông thấy khỉ; nhưng tôi đã nghe nói đến nó một đôi lần. Vậy không phải là thằng bé tí hon đen sì đứng trước mặt tôi, là con khỉ.

Ông Vỹ-Tiên nói:

- Con này là đầu trò của đoàn tôi. Hảo-Tâm ơi! Con ra chào công chúng đi!

Hảo-Tâm đưa tay lên môi và gởi cho chúng tôi một cái hôn.

Vỹ-Tiên lại lấy tay vẫy con chó trắng, nói:

- Bây giờ, chú Lãnh-Nhi rất hân hạnh được giới thiệu các bạn trước quý khán giả có mặt tại đây.

Con chó trắng, từ nãy giờ vẫn nằm yên, vùng dậy, đứng bằng hai chân sau, hai chân trước khoanh vào ngực, cúi chào thấp quá đến nỗi cái mũ cảnh binh chấm đất.

Thi lễ xong, Lãnh-Nhi quay vào phía các bạn, một tay vẫn để ngang ngực, một tay ra hiệu.

Hai con chó khác, đã túc trực, liền đứng dậy, cầm tay nhau – như kiểu người ta dắt tay nhau – tiến lên sáu bước, rồi lại lùi xuống ba bước cúi chào toàn thể.

Vỹ-Tiên nói:

- Con mà tôi gọi là Lãnh-Nhi, có nghĩa là chỉ huy, nó là trưởng của những con chó kia. Nó thuộc giống chó Ý, rất thông minh, giữ việc truyền lệnh của tôi cho các bạn nó. Con lông đen kia, tráng kiện và phong nhã, nên gọi là Hiệp-Nhi. Còn con thứ ba, một con chó cái dòng dõi Anh Quốc, dịu dàng thùy mị, nên có tên là Thùy-Nhi. Cùng những nghệ sĩ tài ba này, tôi đã du hành qua nhiều nước, tùy theo vận khí may mắn hay là không, mà tiền thu thập được dồi dào hay ít ỏi, cũng chỉ để tồn tại trong cuộc sống này. Lãnh-Nhi!

Con chó trắng khoành hai chân trước lại.

- Lãnh-Nhi, lại đây nào, bạn của ta. Ta yêu cầu chú hãy lịch sự một chút. – mấy con vật này được dạy dỗ rất tử tế, tôi luôn luôn nói chuyện lịch sự với chúng – Chú vui lòng nói cho thằng bé đang tròn xoe mắt nhìn chú, bây giờ là mấy giờ.

Lãnh-Nhi buông xuống hai chân, đến bên người chủ, thò chân vào túi áo da, sau khi bới tìm trong túi áo khách ông già, nó lấy ra một chiếc đồng hồ lớn bằng bạc. Nó nhìn rồi sủa lên hai tiếng rất rõ, hai tiếng mạnh mẽ rõ ràng, tiếp đó nó lại kêu lên ba tiếng nhỏ nhẹ.

Lúc ấy đúng là hai giờ ba khắc.

Vỹ-Tiên nói:

- Tốt lắm! Cám ơn chú, Lãnh-Nhi; và bây giờ chú hãy mời cô Thùy-Nhi ra nhảy dây để chúng tôi được thưởng thức tài nghệ cô một chút.

Lãnh-Nhi liền bới túi áo khách ông già lấy ra một cuộn dây. Nó ra hiệu cho Hiệp-Nhi. Con này chạy ra đứng một bên. Lãnh-Nhi ném cho nó một đầu dây. Rồi cả hai con cầm dây quay lên thả xuống. Khi dây quay đều tay, Thùy-Nhi nhảy vào trong vòng và nhảy lên, nhảy xuống dịu dàng, mắt nhìn chủ.

Ông già nói:

- Đấy ông xem. Đám học trò tôi rất thông minh. Nhưng khiếu thông minh đó cần được so sánh thì mới có giá trị rõ rệt. Vì thế, tôi muốn lấy thằng bé vào đoàn của tôi. Nó sẽ đóng vai con vật. Óc thông minh của đám học trò tôi sẽ được nổi bật lên.

Ông Liên hỏi:

- Ồ! Làm con vật…

Vỹ-Tiên nói tiếp:

- Phải có trí khôn. Tôi chắc rằng thằng bé này không chịu kém nếu nó được huấn luyện. Ta có thể tìm ngay bằng chứng nếu nó thông minh, nó hiểu, ở với ông Bầu Vỹ-Tiên nó sẽ được diễm phúc đi ngao du khắp nước Pháp và các nước khác nữa, được sống một đời tự do, không phải theo sau con bò, quanh năm suốt tháng không phải dầm dãi ở cánh đồng. Còn như nếu nó kém thông minh, thì nó khóc, nó kêu. Mà ông Bầu Vỹ-Tiên rất ghét những đứa trẻ làm tàng, ông không cần cho nó theo. Lúc đó đứa trẻ làm tàng sẽ phải vào Nhà Phúc để ăn ít và làm nhiều.

Tôi cũng khá thông minh để hiểu những câu nói ấy, nhưng từ chỗ hiểu đến chỗ thực hành có một quãng ghê gớm khó qua.

Hiển nhiên là đám học trò của ông Vỹ-Tiên ngộ thật, vui thật và được đi ngao du luôn luôn cũng là cái thú. Nhưng đi theo họ thì phải lìa mẹ tôi.

Nếu tôi không chịu đi, có lẽ tôi cũng không còn được ở với mẹ tôi nữa, người ta sẽ đưa tôi vào Nhà Phúc.

Óc tôi bối rối, nước mắt tôi ràn rụa. Chợt ông Vỹ-Tiên lấy đầu ngón tay sẽ đập vào má tôi mà nói:

- Thế là thằng bé này đã hiểu, vì nó không kêu. Nó đã biết lẽ phải. Vậy, ngày mai…

Tôi kêu lên:

- Ông ơi! Để con ở nhà với mẹ con. Con xin ông tha cho con.

Tôi đang nói, con Lãnh-Nhi kêu ầm lên làm lấp cả tiếng tôi. Nó vừa cắn vừa nhảy lên bàn chỗ con Hảo-Tâm ngồi. Con này thừa dịp mọi người quay lại nhìn tôi, bưng cốc rượu còn đầy của chủ lên uống. Nhưng Lãnh-Nhi là một trật tự viên tinh mắt đã nhìn thấy con khỉ uống vụng và là một đầy tớ trung thành đã chạy đến ngăn cản kịp thời.

Vỹ-Tiên bảo con khỉ:

- Hảo-Tâm, mi đã tham lam và ăn cắp. Lại ngay góc kia đứng quay mặt vào tường. Còn Hiệp-Nhi hãy lại canh nó cho ta. Nếu nó động đậy sẽ cho nó cái tát. Còn Lãnh-Nhi, tốt lắm. Đưa chân cho ta bắt.

Con khỉ chạy ngay vào góc tường, tiếng kêu chin chít. Còn con chó vẫy đuôi sung sướng, giơ chân cho chủ.

Vỹ-Tiên nói tiếp với ông Liên:

- Ta hãy trở lại câu chuyện ban nãy. Tôi xin đưa ông 30 phật-lăng.

- Không được. Đúng 40.

Cuộc bàn cãi bắt đầu. Ông Vỹ-Tiên ngừng lại nói:

- Thằng bé này đứng đây mãi, có vẻ buồn. Nên cho ra ngoài sân chơi một lát.

Đồng thời, ông đưa mắt cho ông Liên.

Ông Liên bảo:

- Phải đấy. Cho mày ra sân. Khi nào gọi mới được vào. Nếu không nghe tao cáu tiết.

Ra sân, tôi không còn bụng dạ nào mà chơi được. Tôi ngồi trên một hòn đá, tư lự. Cái số phận của tôi đang được định đoạt trong giờ phút này. Nó sẽ ra sao? Cái rét và cái lo làm cho tôi gai người.

Vỹ-Tiên và ông Liên bàn cãi lâu lắm, vì hơn một giờ sau ông Liên mới ra sân.

Ông lững thững ra một mình. Ông định dắt tôi giao cho Vỹ-Tiên chăng?

Ông bảo tôi:

- Thôi, đi về nhà.

Về nhà! Có lẽ tôi không phải xa mẹ tôi nữa. Tôi định hỏi ông Liên, nhưng không dám vì ông có vẻ buồn thiu.

Đường về lẳng lặng. Nhưng khi còn mươi phút nữa tới nhà thì ông Liên dừng bước, quay lại kéo tai tôi thật đau và dặn rằng:

- Về nhà, nếu mày bép xép, nhắc lại những điều mà mày đã nghe thấy ở quán cà phê thì mày chết với tao. Nghe chưa?

Chương IV

nhà mẹ tôi

Khi chúng tôi vừa bước chân về đến nhà thì mẹ tôi hỏi ngay:

- Thế nào? Ông Xã Trưởng bảo sao?

- Tôi không đến Trụ sở xã.

- Sao không đến?

- Không đến, vì tôi gặp mấy ông bạn ở quán cà phê Đức-Bà giữ lại ngồi chơi. Khi ở đấy ra thì muộn quá. Để mai đi vậy.

Như vậy, ông Liên đã thôi việc giao dịch với ông già có lắm chó.

Trên đường về, nhiều lần tôi tự hỏi, chắc là lại có mưu mẹo gì đây. Nhưng nghe câu cuối cùng ông vừa nói thì tôi yên tâm và không ngờ vực gì nữa. Vì ngày hôm sau, chúng tôi lại phải đến Trụ Sở xã, thì chắc chắn rằng ông Liên đã bỏ việc bán tôi cho ông Vỹ-Tiên.

Mặc dầu ông Liên đã đe dọa tôi, nếu được lúc thuận tiện thế nào tôi cũng kể lại chuyện cho mẹ tôi nghe. Nhưng suốt cả buổi chiều ông Liên không đi đâu cả. Tối đến, tôi phải đi ngủ, tiếc không sao có dịp nói với mẹ tôi.

Tôi lên giường ngủ, định tâm đến hôm sau thể nào cũng nói cho mẹ tôi hay.

Nhưng sáng hôm sau, khi tôi thức dậy thì tôi không thấy mẹ tôi đâu cả.

- Mẹ ơi!

- Bà ấy vào làng đến chiều mới về.

Tôi không hiểu sao sự vắng mặt của bà làm cho tôi lo âu ghê gớm. Hôm qua, bà không nói là hôm nay có việc phải vào làng. Sao bà không đợi chúng tôi cùng đi, vì trưa nay ông Liên sẽ đưa tôi đến chỗ Xã trưởng? Trước khi chúng tôi đi không biết bà có kịp về không?

Một sự sợ hãi mơ hồ làm hồi hộp trái tim tôi. Không biết rõ cái nguy hiểm nó đang đe dọa tôi, nhưng tôi cảm thấy một tai nạn gì sắp xảy đến cho tôi.

Ông Liên cứ chòng chọc nhìn tôi.

Tôi phải ra vườn lánh mặt.

Cái vườn đó, không to lắm, nhưng đối với nhà tôi, rất có giá trị vì chính nó nuôi chúng tôi, cung cấp cho chúng tôi, trừ lúa mì ra, gần hết các thức ăn hàng ngày, nào khoai, đậu, nào bắp cải, củ cải trắng, đỏ… Vì thế, không một tấc đất nào bỏ không. Thế mà mẹ tôi cũng dành cho tôi một mẩu đất con để trồng những cỏ, những cây, những rêu mà tôi nhặt ở ria rừng hay ở bờ giậu khi đi chăn bò, về cắm đầy đặc trong mẩu vườn của tôi.

Vườn tôi không phải là một hoa viên với những lối đi rải cát, với những luống hoa xinh đẹp mà những khách qua đường phải dừng chân bên hàng giậu xén đều để ghé trông. Nhưng tôi thấy nó đẹp và quý nó vì nó là của tôi, của riêng tôi.

Mùa hè trước, tôi kiếm được ít hạt giống về trồng. Tính đến mùa xuân tới thì mới nở hoa. Nhưng đó là những giống hoa sớm nên không đợi hết mùa đông nó đã lần lượt khai hoa.

Tính tò mò tôi lúc này càng thấy chấn động. Cây trường thọ đã có nụ vàng. Cây đinh hương đã đâm mấy cành chi chít những điểm tim tím. Và trong đám lá dăn-gợn của cây ngọc-trâm-hoa trổ lên mấy búp như sắp nở tung ra. Tôi thích thú vô cùng.

Nhưng còn một khoảng vườn mà tôi lưu tâm nhất là chỗ tôi đã trồng một thứ cây lạ, không có ở vùng này mà người ta đã cho tôi, đó là cây cúc-vu. Người ta đã bảo giống cây này có những củ như khoai tây nhưng thơm ngon hơn. Những hứa hẹn đó đã nẩy cho tôi một ý kiến là sẽ làm cho mẹ tôi một bữa phải ngạc nhiên. Vì thế tôi không nói gì cho mẹ tôi biết. Nó có nảy mầm mọc lá, mẹ tôi sẽ tưởng là một giống hoa. Rồi đến ngày nào đó có củ, nhằm lúc mẹ tôi vắng nhà, tôi bới lên làm món súp tân kỳ - tôi chưa nấu súp bao giờ, nhưng chắc cũng dễ - và múc ra đĩa.

Ai sẽ phải ngạc nhiên? – Mẹ tôi.

Ai sẽ được vui sướng? – Mẹ tôi.

Thế là chúng tôi có một món ăn mới thay cho món khoai thường xuyên và mẹ tôi cũng bớt đau khổ về việc bán con Hồng-Ti.

Người sáng chế ra món ăn đó là tôi, là cu Minh. Như vậy tôi cũng có ích cho gia đình tôi đấy chứ.

Với dự định lớn lao ấy, ai cũng hiểu rằng tôi chăm chú đến cây cúc-vu biết là dường nào. Ngày nào tôi cũng ra xem nó đã mọc đến đâu. Vì tôi nóng lòng chờ đợi nên thấy nó chẳng mọc được tí nào.

Tôi quỳ xuống đất, chống hai tay cúi đầu nhìn đám cúc-vu.

Bỗng có tiếng gọi tôi rất gấp. Tiếng ông Bảo-Liên. Ông ấy muốn gì tôi?

Tôi vội vàng chạy về nhà.

Tôi tái mặt khi thấy ông Vỹ-Tiên với đàn chó đứng trước lò sưởi. Tôi hiểu ngay Bảo-Liên muốn gì.

Biết thân là không hy vọng gì Bảo-Liên thương tôi, cứu tôi, tôi liền chạy đến ông già:

- Ông ơi! Ông thương con. Ông đừng bắt con đi.

Rồi tôi khóc òa lên.

Ông già nhẹ nhàng bảo tôi:

- Nín đi. Con ơi! Đi với ta, con sẽ không khổ đâu, ta không hay đánh trẻ con. Rồi con có những học trò ta làm bạn, chúng rất vui. Con còn tiếc gì nữa?

- Mẹ tôi! Mẹ tôi!

Bảo-Liên kéo tay tôi và nói:

- Dù sao, mày cũng không được ở cái nhà này nữa. Đi với ông già hay đi Nhà Phúc. Mày chọn đằng nào thì chọn!

- Không! Tôi chỉ ở với mẹ tôi.

Bảo-Liên nổi giận đùng đùng gầm thét:

- À! Mày nhiễu tao có phải không? Nếu mày muốn đánh để tao đánh cho mày xem.

Vỹ-Tiên can:

- Thằng bé này nó nhớ mẹ nó. Không nên vì thế mà đánh nó. Nó có lòng tốt đấy.

- Nếu ông nựng nó, nó lại kêu già!

- Bây giờ ta thanh toán cho xong đi.

Nói xong Vỹ-Tiên xỉa lên bàn 8 đồng 5 phật-lăng. Bảo-Liên vơ luôn bỏ túi.

Vỹ-Tiên hỏi:

- Gói đồ đâu?

Bảo-Liên đưa một bọc, gói bằng chiếc mùi soa xanh thắt bốn góc, nói:

- Đây.

Vỹ-Tiên cởi nút mùi-soa xem: trong có hai sơ-mi và một cái quần vải của tôi.

Vỹ-Tiên nói:

- Không đúng như lời đã giao ước. Quần áo lành đâu? Đây ông đưa toàn đồ rách.

- Không có đồ nào khác.

- Nếu hỏi thằng này tất nó sẽ nói không đúng. Nhưng thôi, tôi không muốn cãi với ông vì tôi không có thì giờ. Tôi phải đi bây giờ. Đi bé con! À, tên nó là gì?

- Lê-Minh.

- Vậy Lê-Minh hãy cầm gói đồ, đi trước con Lãnh-Nhi. Tiến đằng trước, tiến!

Tôi khóc và giơ hai tay về phía ông già, rồi về phía Bảo-Liên nhưng cả hai người đều ngoảnh mặt đi. Tôi thấy bàn tay ông già cầm cổ tay tôi kéo đi.

Phải đi.

Than ôi! Ngôi nhà yêu dấu, khi bước chân khỏi cửa, tưởng chừng như tôi đã để lại một miếng da, miếng thịt của tôi.

Tôi vội nhìn chung quanh tôi, nhưng mắt tôi mờ đi vì ràn rụa nước mắt, tôi chẳng nhìn thấy ai để kêu cứu cả. Không có một ai trên đường và cũng không có người nào ở cánh đồng cỏ gần đó.

Tôi cất tiếng gọi:

- Mẹ ơi! Mẹ Liên ơi!

Nhưng không ai trả lời. Tiếng kêu của tôi nghẹn dần.

Tôi phải theo, Vỹ-Tiên không buông cổ tay tôi.

Bảo-Liên nói theo:

- Lên đường mạnh giỏi!

Rồi ông ta vào nhà.

Than ôi! Thế là hết!

Vỹ-Tiên bảo tôi:

- Minh! Con đi đi chứ!

Và bàn tay ông ta kéo tôi đi.

Lúc đó, tôi đi cạnh ông. May sao ông không bắt tôi đi nhanh và hình như ông theo bước chân tôi, đi chậm lại.

Con đường chúng tôi đi dần dần lên núi và theo hình chữ chi. Mỗi một chỗ ngẹo, tôi lại nhìn thấy nhà mẹ tôi nhỏ dần, nhỏ dần đi. Nhiều lần tôi đã đi qua con đường này, tôi biết rằng chỉ còn một chỗ ngẹo nữa là còn trông thấy nhà tôi thôi. Qua chỗ này vài bước, lên tới cao nguyên thì hết; hết cả không còn gì. Trước mặt tôi phong cảnh lạ lùng, sau lưng tôi là căn nhà ở đấy, cho tới ngày nay, tôi đã sống sung sướng mà rồi đây có lẽ không bao giờ tôi lại được nhìn thấy nữa.

May sao cái dốc đó khá dài. Nhưng đi mãi rồi chúng tôi cũng lên đến đầu dốc.

Vỹ-Tiên vẫn nắm cổ tay tôi. Tôi nói:

- Ông cho con nghỉ một chút.

- Được con cứ nghỉ.

Thế là lần đầu tiên ông già buông cổ tay tôi ra.

Nhưng đồng thời, ông đưa mắt nhìn con Lãnh-Nhi và ra hiệu, con này hiểu ngay. Lập tức, Lãnh-Nhi bỏ đàn chó và đến ngồi chồm hổm bên tôi.

Tôi hiểu là ông già đã ra lệnh cho con chó gác tôi. Nếu tôi làm một cử động gì để trốn, nó sẽ nhảy vào cắn chân tôi.

Tôi tìm chỗ ngồi trên một mỏm đá đầy cỏ êm. Lãnh-Nhi theo sát tôi.

Ngồi trên mỏm đá, tôi đưa mắt tìm mẹ tôi, nước mắt cứ tràn ra.

Dưới chân tôi là một thung lũng mà ở đó, chúng tôi vừa đi qua, cánh rừng và cánh đồng cỏ rồi đến chỗ thấp hơn hiện lẻ loi ngôi nhà êm đềm của tuổi thơ tôi, ngôi nhà mẹ tôi.

Nhà đó dễ nhận ra vì ở giữa đám cây cao, có một làn khói xanh xanh từ mái bếp tỏa lên trời và bay về phía tôi ngồi.

Không rõ vì quá tưởng tượng hay vì sự thực mà làn khói đó đưa đến bên tôi một mùi quen thuộc của cành sồi, thứ củi duy nhất mà chúng tôi đã dùng trong suốt mùa đông. Tôi mường tượng như là đang ngồi cạnh bếp nhà tôi, trên chiếc ghế dài, hai chân vùi vào đống tro, gió luồn vào nóc bếp hắt khói vào mặt chúng tôi. Mặc dầu, tôi ở xa và ngồi cao, trông về nhà tôi, mọi vật đều giữ nguyên hình rất rõ, duy có phần rút nhỏ đi thôi.

Trên đống phân khô, con gà mái nhà tôi, con gà cuối cùng còn lại, đang đi lại kiếm ăn, nhưng nó trông nhỏ đi nhiều. Nếu người không biết nó thì cho đó là con chim câu. Đầu nhà, tôi nhìn thấy cây táo thân cong mà tôi vẫn giả làm ngựa để cưỡi. Rồi, bên cạnh dòng suối như một giải bạc trên đám cỏ xanh, tôi nghĩ đến cái rãnh sâu mà tôi đã cố công đào, xẻ để chạy cánh cối xay, một thứ chong chóng tôi chế mất bao nhiêu thì giờ mà nó không sao quay được.

Tất cả mọi vật đều ở chỗ cũ, từ cái xe một bánh của tôi, cái cày làm bằng cành cây của tôi, cái chuồng thỏ khi chúng tôi còn nuôi thỏ, cho đến cái vườn, cái vườn thân yêu của tôi, nhìn rõ mồn một.

Ai sẽ xem nó nở. Những bông hoa xấu số của tôi? Ai sẽ sờ đến khóm cúc-vu của tôi? Chắc hẳn là Bảo-Liên, con người độc ác.

Chỉ còn một bước nữa là tôi mất tất cả những thức thân yêu đó.

Chợt trên con đường về nhà tôi, tôi nhìn xa xa thấy bóng cái mũ vải trắng. Nó biến vào trong đám cây rồi lại hiện ra.

Từ chỗ tôi đến đó xa quá nên tôi chỉ nhìn thấy sắc trăng trắng của cái mũ lượn ở trong đám cành cây như một cánh bướm mùa xuân. Cũng có những lúc lòng người nhìn rõ hơn mắt, dù là những con mắt tinh nhất. Vì thế, tuy đứng xa, tôi biết ngay là mẹ tôi. Phải, chính mẹ tôi đấy. Không còn nghi ngờ gì nữa.

Vỹ-Tiên chợt gọi tôi:

- Minh ơi! Ta tiếp tục đi đi!

- Ô! Thưa ông, con xin ông cho con…

- Bảo-Liên nói không đúng. Mày không có chân. Mới đi có thế đã nhọc. Như thế thì còn làm ăn gì được.

Tôi không trả lời. Tôi cứ nhìn về phía nhà tôi.

Chính mẹ tôi. Chính mũ vải của bà, chính chiếc áo xanh của bà. Chính bà đó. Bà rảo bước hình như mong cho chóng về tới nhà. Về đến cổng, bà đẩy cửa vào, đi qua sân rất nhanh.

Tôi liền đứng choàng dậy trên mỏm đá, không để ý đến con Lãnh-Nhi nhảy đến bên tôi.

Mẹ tôi không ở trong nhà lâu, bà ra ngay và hớt hải chạy ngang chạy ngửa trong sân, hai cánh tay giơ lên thất vọng. Mẹ tôi đang tìm tôi đấy.

Tự nhiên tôi cúi mình về đằng trước gào to:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi!

Nhưng tiếng gọi của tôi không xuống tới chân núi, không át nổi tiếng suối rì rào. Nó tắt hẳn trong khoảng không.

Vỹ-Tiên hỏi tôi:

- Gì thế? Mày điên à?

Không trả lời, tôi đứng trơ, hai mắt rọi sâu về phía mẹ tôi, nhưng mẹ tôi nào có biết tôi còn đang được đứng gần mẹ tôi. Bà không nghĩ ngửng đầu lên để nhìn tôi.

Bà đi lại qua sân, ra hẳn ngoài đường nhìn tứ phía. Tôi lại gào to hơn nhưng cũng như lần trước, không hiệu quả gì.

Bấy giờ Vỹ-Tiên nghi hoặc, cũng leo lên mỏm đá, chỗ tôi. Ông nhận ngay thấy cái mũ trăng trắng đang cử động. Ông nói một mình:

- Khốn nạn cho thằng bé!

Phấn khởi bởi câu nói của ông, tôi liền kêu:

- Ông ơi! Ông thương con? Ông cho con về với mẹ con.

Nhưng ông cầm cổ tay tôi dắt xuống và nói:

- Con ơi! Chúng ta nghỉ đã lâu rồi. Bây giờ đi đi.

Tôi định giật tay ông ra nhưng ông già giữ chặt quá. Ông gọi:

- Lãnh-Nhi đâu! Hiệp-Nhi đâu!

Tức thì hai con chó vây tôi. Hiệp-Nhi đi trước, Lãnh-Nhi đi sau. Đi được vài bước, tôi quay đầu lại. Chúng tôi đã qua đỉnh núi. Tôi không nhìn thấy thung lũng và nhà tôi nữa. Xa xa, chỉ thấy những ngọn đồi xanh lô nhô trên nền trời cao rộng. Mắt tôi nhòa trong khoảng vô tận.

Chương V

lên đường

Người ta không cần phải là một con quỷ hay cần phải dự trữ thịt tươi để ăn mới mua trẻ con đến 40 phật-lăng!

Ông Vỹ-Tiên không ăn thịt tôi, cũng là sự hiếm có trong bọn người chuyên mua con nít, vì ông không phải là người ác.

Đây là một bằng chứng.

Chúng tôi ở trên ngọn núi phân cách triền sông Loa và triền sông Đô mà Vỹ-Tiên không cho tôi nhìn nhà cũ và lại nắm tay tôi lôi đi. Một lát sau thì chúng tôi xuống sườn núi phía Nam.

Ông buông tay tôi ra và nói:

- Bây giờ, con đi thong thả bên cạnh ta. Nhưng con đừng quên rằng nếu con chạy trốn thì Lãnh-Nhi và Hiệp-Nhi sẽ đuổi theo ngay. Răng chúng nó dài lắm đấy.

Chạy trốn ư? Tôi nhận thấy bây giờ không thể làm được. Vì thế, tôi không nghĩ đến sự trốn.

Tôi thở dài.

Vỹ-Tiên bảo tôi:

- Con buồn? Ta hiểu lắm và không ghét con đâu. Con cứ khóc đi, tha hồ khóc nếu con không cầm được nước mắt. Có điều con nên nhớ rằng không phải ta đưa đi để đày ải con đâu. Nếu ở lại con sẽ trở nên thế nào? Chắc chắn là phải vào Nhà-Phúc. Những người đã nuôi con không phải là cha và mẹ của con. Mẹ con, mà con vẫn gọi, thương yêu con lắm, nay xa bà thì con nhớ. Điều đó tốt lắm. Nhưng con thử nghĩ xem, bà ta có thể trái ý chồng mà giữ con được không? Còn người chồng không đến nỗi tàn nhẫn như con tưởng. Ông ta hết tiền rồi, lại mang cái chân tàn tật không làm lụng được. Ông ta nghĩ không thể chịu nhịn đói để nuôi con. Con ơi! Con nên hiểu rằng đời người ta là một cuộc chiến đấu, trong đó người ta thường không thể làm được những điều người ta muốn.

Đó là những điều dạy dỗ đầy kinh nghiệm, nhưng bấy giờ có một tiếng kêu to hơn làm át những lời khuyên ấy đi, đó là những tiếng lòng của buổi chia ly.

Tôi sẽ không bao giờ được nhìn thấy người đã nuôi nấng tôi, vuốt ve tôi, người mà tôi thương yêu nhất trên đời: Mẹ tôi.

Mỗi khi nghĩ đến thì tôi lại nghẹn ngào. Tuy nhiên, đi luôn bên cạnh Vỹ-Tiên, tôi cố nhắc lại trong óc những điều ông vừa bảo tôi.

Ông nói rất phải, Bảo-Liên không phải cha tôi. Lý nào bắt ông ấy phải nhịn đói nuôi tôi. Ngày trước, ông ấy đã sẵn lòng rước tôi về nuôi, bây giờ ông ấy đuổi tôi chỉ vì không thể cưu mang tôi được nữa. Thế thì không phải một hôm nay mà tôi phải nhớ đến ông ấy, mà tôi còn phải nhớ tất cả những năm tôi đã lớn lên trong nhà ông.

Vỹ-Tiên thỉnh thoảng lại nói bên tai tôi:

- Con ơi! Hãy nghĩ kỹ những điều ta nói: Đi với ta, con không đến nỗi khổ đâu!

Sau khi đã xuống một quãng sườn núi dốc, chúng tôi tới một vùng đất hoang dã, phẳng lì và mênh mông đến tận chân trời. Không cây lớn, không nhà cửa. Đó là một cao nguyên móc đầy những bụi rậm đỏ hoe; đây đó có những đám cây kim-tước cằn cỗi rập rờn theo làn gió.

Vỹ-Tiên giơ tay chỉ vào bãi hoang bảo tôi:

- Con xem, bây giờ thì khó trốn lắm. Lãnh-Nhi và Hiệp-Nhi săn đuổi ngay.

Lúc đó, tôi không nghĩ đến việc trốn. Tôi chỉ nghĩ không biết bây giờ đi đâu? Đi đến nhà ai?

Dù sao, ông già cao lớn, đẹp lão râu bạc này có lẽ không ghê gớm như óc tưởng tượng lúc ban đầu. Nếu ông là thầy tôi thì may ra cũng không đến nỗi là ông thầy ác nghiệt.

Chúng tôi đi mãi trong một niềm cô quạnh hết truông đến bãi, xa xa nổi mấy ngọn đồi trơ trụi.

Với óc non dại của tôi, tôi cứ tưởng tượng du lịch là ra khỏi lũy tre làng, được quan sát những phong cảnh đẹp, nhưng thực tế ra, trái hẳn với những điều mắt thấy lúc bấy giờ.

Là lần thứ nhất trong đời mà tôi phải đi một mạch dài không nghỉ.

Thầy tôi bước đều chân, cõng con Hảo-Tâm trên vai, hoặc đeo trong đảy. Mấy con chó chạy lon ton cạnh chủ.

Thỉnh thoảng ông lại nói với con chó một câu thân ái khi tiếng Pháp, khi bằng thứ tiếng mà tôi không hiểu.

Xem ra chủ cũng không và những con chó cũng không biết nhọc. Riêng tôi, không thế, tôi thấy lả người. Vì sức đã kiệt, cố theo kịp thầy tôi. Tôi không dám nghỉ chân.

Thầy tôi nói:

- Những chiếc guốc nó làm cho con khó đi. Đến Ích-Sơn ta sẽ mua giầy cho con.

Câu đó làm cho tôi phấn khởi.

Thực vậy, xưa nay tôi vẫn mơ ước một đôi giầy. Con ông Xã trưởng và con người chủ tiệm ăn đều đi giầy cả. Mỗi sáng chủ nhật, khi dự lễ Nhà Thờ, chúng đi êm ả trên nền gạch, còn tôi và những người nhà quê khác, lê những đôi guốc to kêu chí chát điếc tai.

- Ích-Sơn còn xa lắm không?

Vỹ-Tiên cười to và nói:

- Đó là tiếng nói của lòng con! Con ơi! Con muốn có giầy lắm phải không! Ta hứa cho con những đôi giầy đế đinh. Ta cũng hứa sẽ mua cho con một cái quần nhung, một cái áo vét và một cái mũ. Ta mong những cái đó sẽ an ủi con để con cố sức mà đi chừng sáu dặm đường nữa.

Đôi giầy đế đinh! Tôi thích quá và nguôi dần nỗi buồn.

Không, chắc chắn thầy tôi không phải là một người độc ác.

Người độc ác thì có bao giờ nhìn thấy đôi guốc của tôi nó làm tôi đau chân?

Đôi giầy, đôi giầy đế đinh! Một quần ngắn bằng nhung! Một áo vét! Một cái mũ! A! Nếu mẹ tôi được trông thấy tôi ăn mặc tươm như thế, tất lấy làm hãnh diện lắm.

Khốn nỗi Ích-Sơn còn xa lắm.

Mặc dầu giầy đinh và quần nhung ở cách đây sáu dặm đường mà chúng tôi còn phải đi, tôi thấy khó lòng đi nổi quãng đường xa đó.

May sao, thời tiết đến giúp tôi.

Trời vẫn xanh từ lúc khởi hành, dần dần kéo mây đen rồi đổ mưa, một trận mưa nhỏ hạt và liên miên.

Vỹ-Tiên có áo da cừu đủ che mưa. Con Hảo-Tâm gặp giọt mưa thứ nhất đã chui vào hang cũ. Còn những con chó với tôi, chúng tôi không có gì che thân, đành chịu để nước mưa thấm đến da. Tuy vậy, những con chó có cách giũ lông, vảy cho bớt nước, còn tôi không được phú cái phương tiện thiên nhiên ấy, đành phải bước chân dưới những hạt mưa dày giá lạnh.

Chợt thầy tôi hỏi tôi:

- Con có dễ bị cảm không?

- Con không biết. Con không nhớ có bị cảm bao giờ.

- Như vậy tốt. Trong người con khỏe đấy. Nhưng ta không muốn dãi dầu con một cách vô ích. Hôm nay chúng ta đi đến đây thôi. Phía trước có một làng, chúng ta sẽ vào tìm nhà ngủ.

Làng đó không có quán trọ và chả nhà nào muốn chứa một hạng hành khất có đứa trẻ và đàn chó theo sau, người cũng như vật đều lấm chư chôn như vùi. Họ trả lời:

- Đây không phải chỗ trọ. Rồi họ đóng sầm cửa lại. Chúng tôi đi hết nhà nọ đến nhà kia, không một nhà nào cho chúng tôi vào cả. Có lẽ phải đi luôn bốn dặm nữa cho tới Ích-Sơn? Không được nghỉ chăng?

Đêm tối dần, mưa càng lạnh. Tôi thấy chân tôi cứng đờ như chân gỗ.

Tôi nhớ đến nhà mẹ tôi và nghĩ:

- Ở nhà sung sướng quá!

Cuối cùng, một người ở làng có lòng từ thiện cho chúng tôi vào tạm trú ở buồng chứa cỏ, và giao hẹn không được đốt lửa.

- Ông già đưa diêm cho tôi giữ, mai ông đi tôi sẽ trả.

Thế là ít ra chúng tôi cũng có một mái nhà để trú ẩn trong đêm mưa lạnh.

Vỹ-Tiên là một người cẩn thận đã mang sẵn lương thực. Trong cái túi nhà binh ông vẫn đeo trên vai, có chứa một tấm bánh mì. Ông liền lấy ra chia làm bốn miếng.

Lúc bấy giờ tôi mới biết ông già đã giữ kỷ luật trong đoàn một cách nghiêm ngặt như thế nào.

Lúc chúng tôi tìm nhà đến ngủ nhờ, con Hiệp-Nhi chạy sộc vào nhà nọ rồi ra luôn với miếng vỏ bánh mì ngậm ở miệng.

Vỹ-Tiên trông thấy chỉ nói:

- Hiệp-Nhi! Giỏi thật! Tối sẽ hay!

Khi ông già lấy bánh ra, tôi quên hẳn việc con Hiệp-Nhi ăn cắp thì thấy nó cúi đầu buồn bã.

Chúng tôi ngồi trên hai bó cỏ, hai người hai bên, con Hảo-Tâm ở giữa. Ba con chó xếp hàng trước mặt chúng tôi. Lãnh-Nhi và Thùy-Nhi nghếch mõm nhìn chủ, còn Hiệp-Nhi thì cúi đầu và tai cụp xuống.

Vỹ-Tiên hạ lệnh:

- Quân ăn cắp không được đứng trong hàng, phải ra một góc và nghỉ ăn bữa tối. Hiệp-Nhi bò ra khỏi chỗ, đến một góc mà Vỹ-Tiên vừa chỉ tay. Nó chui vào trong đám cỏ khô. Chúng tôi không trông thấy nó nữa, nhưng nghe thấy tiếng u ú như than khóc.

Xử xong, ông già đưa bánh cho tôi. Rồi ông vừa ăn vừa ném dần những miếng bánh nhỏ cho con Hảo-Tâm và hai con chó.

Mấy tháng gần đây, nhà tôi tuy bán bò rồi, nhưng tôi cũng không đến nỗi kham khổ. Ôi món súp nóng mẹ tôi vẫn làm ngon biết bao mặc dầu không có bơ! Không chiều nào là không có. Bên cạnh đống lửa, êm ấm biết bao! Tôi sung sướng chui vào trong chăn, che kín cả đầu.

Nhưng than ôi! Còn đâu nữa nào đệm, nào chăn! Có được cái ổ băng cỏ khô cũng quý lắm rồi! Mình đau như giần. Chân sứt vì guốc, tôi gây gấy rét trong bộ quần áo đẫm nước.

Trời tối đã lâu rồi, tôi không sao ngủ được.

Vỹ-Tiên hỏi:

- Minh ơi! Răng con lập cập, con rét à?

- Vâng hơi rét.

Tôi nghe thấy ông già mở đảy.

Ông nói:

- Ta cũng không có nhiều quần áo. Đây có cái sơ mi khô và cái gi-lê cũ. Con cởi áo ướt ra mặc tạm vậy. Rồi con chui sâu vào đám cỏ khô, con sẽ đỡ rét và ngủ được.

Có phải ngày nào rồi cũng như hôm nay không? Đi bộ dưới trời mưa không nghỉ, ngủ trong vựa cỏ, rét run người, bánh khô thay súp, không người thương hại, không người yêu dấu, không có mẹ ở bên mình nữa!

Khi tôi đang trằn trọc, trái tim nao nao, nước mắt ràn rụa, tôi thấy một hơi nóng rọi vào mặt tôi. Tôi giơ tay ra thì thấy lông mềm của con Lãnh-Nhi. Nó lại gần tôi rất nhẹ nhàng không làm xạo cỏ. Nó hít đầu tôi, hơi thở của nó đưa vào mặt, vào tóc tôi.

Nó muốn gì?

Nó liền nằm trên ổ cỏ bên cạnh tôi rồi êm ái, nó liếm bàn tay tôi.

Cảm động về sự vuốt ve đó, tôi ôm đầu nó và ép vào mình.

Nó kêu những tiếng nho nhỏ, đặt một chân vào bàn tay tôi rồi nằm yên không cử động.

Lúc đó, tôi quên hết buồn bực. Cổ tôi như được nới ra, tôi thở nhẹ nhàng: Tôi không cô quạnh nữa, tôi đã có một người bạn.

Chương VI

bước đầu của tôi

Hôm sau chúng tôi lên đường sớm.

Mưa tạnh. Trời xanh. Nhờ gió thổi ban đêm nên bùn đã ráo. Trong các bụi rậm bên đường, chim chóc ca hót vui tai. Mấy con chó nhảy nhót chung quanh chúng tôi. Thỉnh thoảng Lãnh-Nhi lại đứng hai chân quay về phía tôi kêu ăng ẳng hai ba tiếng, nó muốn bảo tôi:

- Can đảm lên! Can đảm lên!

Đó là một con chó rất khôn. Nó hiểu hết và làm cho người ta hiểu nó. Nó không nói được, nhưng tôi không nghĩ thế. Chỉ một cái đuôi, nó có thể biểu lộ ra bao nhiêu ý chí và hùng hồn hơn con mắt, cái lưỡi của người nhiều. Vì thế, lời nói trở nên vô ích giữa Lãnh-Nhi và tôi; ngay buổi đầu tiên, chúng tôi đã hiểu nhau rồi.

Từ bé đến giờ không bao giờ tôi ra khỏi làng, nên nói đến tỉnh tôi rất thích được đi xem.

Nhưng tôi phải thú thực rằng thị xã Ích-Sơn đã làm cho tôi mất hứng. Những ngôi nhà cổ kính có tháp, có lẽ chỉ bổ ích cho những nhà thích khảo cổ, không làm cho tôi vui mắt chút nào.

Tuy nhiên tôi vẫn nhìn kỹ những ngôi nhà đó, không phải là để xem cách kiến trúc, vẻ mỹ lệ mà chỉ để xem trong đó có một hiệu giầy nào chăng?

Đôi giầy của tôi, đôi giầy ông già đã hứa, bây giờ đến lúc được xỏ chân!

Cái ngôi hàng đáng quý ấy, ngôi hàng sắp cung cấp cho tôi đôi giầy mới không biết ở chỗ nào?

Tôi chỉ để mắt tìm ngôi hàng đó, còn ngoại giả, nào tháp, nào lầu, nào đài kỷ niệm, tôi chẳng thiết gì.

Vì thế mối ký ức độc nhất mà thành Ích-Sơn còn để lại cho tôi là cái cửa hàng tường ám khói, trông tối om, ở cạnh chợ. Mặt hàng có bày bán nhiều đồ cũ: súng gỉ, áo nhà binh thêu những lon vàng và những ngù vai tua bạc, rất nhiều đèn và một thúng đồ sắt cũ trong có vô số khóa hỏng. Phải bước xuống ba bậc nữa mới vào được trong hàng. Đó là một phòng lớn và thấp, có lẽ từ ngày cất nóc đến nay, mặt trời chưa ngó tới bao giờ.

Sao một vật quý giá như đôi giầy lại có thể bán trong cái hiệu ghê tởm này được?

Tuy nhiên, Vỹ-Tiên khi bước vào hiệu này đã biết rõ là phải được việc, nên một lúc sau tôi được cái diễm phúc là xỏ chân vào đôi giầy đế sắt nặng gấp mười lần đôi guốc của tôi.

Tính rộng rãi của thầy tôi đến đó chưa hết. Mua xong giầy, thầy tôi còn sắm cho tôi một cái áo vét nhung xanh, một cái quần len và một cái mũ phớt, tóm lại là đủ các thứ mà thầy tôi đã hứa.

Một kẻ xưa nay mặc toàn đồ vải, nay có áo nhung, xưa nay chỉ dùng guốc gỗ, nay có giầy đế sắt, xưa nay chỉ lấy tóc để đỡ nắng mưa, nay có mũ phớt, thực không ngờ đến. Thầy tôi thực là một người tử tế nhất trên đời, một người quảng đại nhất và giầu nhất.

Sự thực thì nhung đã sờn, sự thực thì len đã xác, cũng sự thực là khó mà phân biệt được màu sắc của một cái mũ phớt đã trải bao phong trần, nhưng lúc đó tôi thích quá thành ra lóa mắt không nhận thấy những khuyết điểm ở bộ đồ mới của tôi.

Tôi vội mặc quần áo mới. Nhưng trước khi trao quần áo cho tôi, thầy tôi đã chế hóa nó đi, làm cho tôi vừa kinh ngạc vừa đau lòng.

Thì ra khi về đến nhà trọ, thầy tôi đã lấy kéo trong đảy cắt cụt hai ống quần đến đầu gối.

Thấy tôi nhìn bằng đôi mắt kinh hãi, thầy tôi bảo:

- Việc này cốt làm cho con khác hẳn những đứa trẻ khác. Chúng ta đang ở Pháp, ta cho con mặc kiểu Ý-đại-lợi. Rồi nếu chúng ta sang Ý, ta sẽ cho con mặc kiểu Pháp-quốc, không khó khăn gì.

Tôi chưa hết kinh ngạc, thầy tôi nói tiếp:

- Chúng ta là ai? Là những tài tử phải không? Là những kịch sĩ thì phải gợi tính hiếu kỳ của công chúng, tức là phải làm thế nào cho công chúng chú ý mới được. Con có tin rằng với những bộ quần áo nhà giàu hay dân quê, chúng ta diễn trò, người ta phải dừng lại nhìn chúng ta không? Chắc chắn không! Phải thế không con? Con phải biết ở đời sự quảng cáo một khi cũng cần thiết, điều đó đáng buồn, nhưng ta không thể làm khác được.

- Vì lẽ đó, có khi mới buổi sáng ta là người Pháp, chưa đến buổi chiều ta đã là người Ý rồi.

Quần tôi cắt cụt đến đầu gối. Bít tất dài của tôi được thầy tôi dùng dây quấn chéo ở ngoài như chiếc sà cạp. Còn mũ của tôi cũng được quấn thêm nhiều giải lụa sặc sỡ, và đính thêm một túm hoa bằng len.

Tôi không rõ người ngoài coi bộ dạng đó sẽ nghĩ gì về tôi. Nhưng để tỏ ra là thành thực, tôi xin nói là tôi tự thấy mình đẹp quá. Mà có lẽ đẹp thật vì con Lãnh-Nhi, bạn tôi, đã ngắm nghía tôi rất lâu và giơ chân bắt tay tôi lấy làm thỏa thích.

Sự thay hình của tôi không những được Lãnh-Nhi khen ngợi mà còn được Hảo-Tâm vui vẻ tán thành, vì trong khi tôi mặc quần áo, nó vừa nhăn mặt vừa bắt chước bộ điệu tôi và phóng đại ra. Khi tôi mặc xong, nó để hai tay lên cạnh sườn, đứng ngả đầu về đằng sau gật gù và “cười” lên những tiếng kêu chế nhạo.

Tôi thường nghe thấy người ta nói rằng: thực là một vấn đề bổ ích nếu xét được giống khỉ có biết cười hay không. Tôi tưởng rằng những người nêu ra vấn đề đó là những nhà bác học chỉ biết ngồi trong xó buồng, không bao giờ trông thấy con khỉ và để công nghiên cứu giống khỉ.

Còn tôi, được sống trong tình thân mật với khỉ, với Hảo-Tâm, trong một thời gian khá lâu, tôi có thể nói quyết rằng giống khỉ biết cười và lắm khi làm cho tôi mất thể diện nữa. Cái cười của giống khỉ nhất định không giống cái cười của người. Nhưng khi có một tình cảm gì làm cho nó hoan hỉ, người ta trông thấy hai bên mép nó kéo về đằng sau, hai mí mắt nó dăn lại, hai hàm răng nó rung động lên, nhất là hai con mắt nó tỏa ra một tia lửa như hai hòn than hồng thổi lên.

Những dấu hiệu đặc biệt của cái cười đó đã có lần làm cho lòng tự ái của tôi rất khó chịu.

Khi tôi đội mũ xong, Vỹ-Tiên bảo tôi:

- Ngày mai là phiên chợ, ta sẽ mở cuộc biểu diễn. Con đã ăn mặc xong rồi, bây giờ chúng ta bắt tay vào việc để đến mai con có thể “nhập nghề”.

Tôi tự hỏi, không biết “nhập nghề” là cái gì thì Vỹ-Tiên bảo tôi:

- Nghĩa là con sẽ ra sân khấu lần thứ nhất diễn trò trước công chúng.

Ông nói tiếp:

- Ngày mai là buổi diễn đầu tiên, con sẽ có mặt ở đó. Nay ta dạy con đóng vai trò mà con phải phụ trách.

Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì cả.

- Con ơi, vai trò tức là những việc con phải làm trong buổi diễn. Ta đưa con đi, không phải là cốt cho con cái thú đi chơi, vì ta chẳng giàu có gì. Đưa con đi là để cho con làm việc. Mà việc của con chính là việc đóng trò với đồ đệ của ta.

Tôi lo sợ quá kêu lên:

- Con không biết diễn trò.

- Chính vì thế mà ta phải dạy con. Chắc con cũng biết rằng không phải tự nhiên mà con Lãnh-Nhi biết đi bằng hai chân sau, không phải vì khoái chí mà con Thùy-Nhi thích nhảy dây. Chúng phải tập tành khá nhiều và khá lâu mới được có những biệt tài đó và đã làm cho chúng thành những kịch sĩ kỳ diệu. Thế thì con, con cũng phải tập luyện những vai mà con phải đóng với chúng. Vậy ta phải thực hành luôn.

Thuở ấy, tôi có một ý nghĩ rất ngây thơ về sự đi làm. Tôi tưởng tượng đi làm tức là phải cuốc đất, chặt cây, đẽo đá và không biết gì khác nữa.

Vỹ-Tiên nói:

- Bản kịch mà chúng ta sắp diễn nhan đề là “Người đầy tớ của ngài Hảo-Tâm”. Đây là cốt truyện: Ngài Hảo-Tâm từ trước vẫn có một người đầy tớ rất vừa ý là Lãnh-Nhi. Nhưng Lãnh-Nhi ngày một già yếu nên ngài Hảo-Tâm muốn nuôi một người đầy tớ khác. Lãnh-Nhi được ủy đi tìm người đầy tớ đó, nhưng hắn không tìm một con chó khác để kế chân. Hắn tìm một đứa con trai tên là Minh.

- Như con.

- Không như con, mà chính là con, con ở làng lên tỉnh để giúp việc cho ngài Hảo-Tâm.

- Nhưng con khỉ làm gì có đầy tớ?

- Trong kịch thì có. Con đến nơi, ngài Hảo-Tâm nhận thấy con có vẻ khờ dại.

- Thế thì buồn quá.

- Không sao vì để làm trò cười thôi. Con hãy tưởng tượng đến một nhà giàu để hầu hạ thực, và họ sai con dọn bàn ăn chẳng hạn. Kia là cái bàn sẽ dùng khi diễn trò. Con lại xem và thử đặt bát đĩa.

Trên bàn đó, có mấy cái đĩa, một cái cốc, một con dao, một cái dĩa và một cái khăn trắng.

- Sẽ phải xếp đặt thế nào nhỉ?

Đứng bên cạnh bàn, tôi tự hỏi thế, mặt thuỗn ra, mồm há hốc, đầu cúi về đằng trước, hai tay đưa ra, luống cuống không biết phải làm gì trước.

Thầy tôi vỗ tay, cười ngặt ngoẹo:

- Hay! Hay tuyệt! Cách vận dụng dung mạo của con khéo lắm. Thằng bé ta nuôi trước con làm hỏng vì coi bộ láu lỉnh quá. Con trông khờ khạo, vẻ ngây thơ của con rất thích hợp.

- Con chẳng hiểu con làm gì.

- Chính điều đó lại là điều cốt yếu. Đến mai, hay trong vài ngày nữa. Con sẽ hiểu rõ những điều mà con sẽ phải làm. Lúc đó con phải nhớ lại cái điệu bộ bối rối của con bây giờ và làm như con không biết gì. Nếu con diễn lại được cái điệu bộ ngây ngô và cái dáng điệu lúng túng đó, con sẽ thành công to. Vai trò của con là phải diễn tả một người quê mùa, không trông thấy gì và không biết gì. Anh ta đến nhà một con khỉ, anh tự thấy mình ngu xuẩn và vụng về hơn con khỉ. Kẻ ngu hơn con khỉ, đó là vai của con. Muốn đóng cho được hoàn toàn, con chỉ việc giữ dáng điệu của con như ngày hôm nay là được.

“Người đầy tớ của ngài Hảo-Tâm” không phải là kịch dài, diễn độ 20 phút là xong. Nhưng chúng tôi phải luyện tập và diễn thử đến ba tiếng đồng hồ. Vỹ-Tiên bắt tôi và nhất là những con chó làm đi làm lại một việc đến ba lần, bốn lần, có khi đến mười lần.

Thực vậy, những con chó hay quên một vài phần trong vai của chúng nên Vỹ-Tiên lại phải bắt đầu và dạy lại.

Lúc đó, tôi nhận thấy thầy chúng tôi là một người rất nhẫn nại và ôn hòa. Tôi còn nhớ ở làng tôi, người ta đối đãi với súc vật một cách khác hẳn. Chửi và đánh là hai phương pháp duy nhất để huấn luyện gia súc.

Sự diễn tập dù phải kéo dài đến bao nhiêu, thầy chúng tôi không hề bực tức một lần nào, không hề chửi rủa một câu nào. Khi nào không vừa ý, thầy tôi chỉ nghiêm nét mặt nói:

- Lãnh-Nhi! Hỏng, không được! Hay Hảo-Tâm! Mày không bao giờ để ý cả. Phải mắng bây giờ!

Có thế thôi. Chỉ có thế là cùng.

Buổi diễn tập xong, thầy tôi bảo tôi:

- Này con! Con xem con có thể theo nghề diễn trò được không?

- Con không biết.

- Con có ngại không?

- Không. Con có phần thích.

- Như thế thì tốt lắm. Con có tư chất thông minh và có nết, quý hơn nữa là có sự chú ý. Chú ý và dễ bảo thì làm gì cũng được. Con hãy trông những con chó của ta và so sánh nó với con Hảo-Tâm. Con Hảo-Tâm có lẽ lanh lợi hơn và thông minh hơn, nhưng nó rất khó bảo. Nó dễ thuộc, nhưng dễ quên. Nó không bao giờ vui lòng làm những điều ta sai bảo. Lại hay hục hặc, bướng bỉnh. Đó là bản tính của nó, nên ta không bực tức. Giống khỉ không như giống chó, nó không có ý thức về bổn phận và do đó kém xa giống chó. Con có hiểu không?

- Dạ.

- Vậy, con ơi! Con phải chú ý, phải dễ bảo. Phải hết lòng, hết sức vào công việc con làm. Trong đời phải như thế.

- Thầy thực là hiện thân của sự nhẫn nại. Suốt buổi diễn tập, lúc nào thầy cũng bình tĩnh không hề gắt gỏng với con hay với các con vật bao giờ.

Vỹ-Tiên mỉm cười nói:

- Từ trước đến giờ con chỉ ở cạnh những người dân quê độc ác với loài vật, họ tưởng muốn sai khiến loài vật lúc nào cũng phải có cái gậy trong tay.

Tôi cãi:

- Mẹ tôi rất tốt với con Hồng-Ti.

Ông nói:

- Thế là bà ấy biết lẽ phải. Bà ấy sáng suốt hơn mọi người khác, bà hiểu rằng ngọt ngào hơn là hung hãn. Ta không bao giờ đánh những con vật ta nuôi. Chúng sẽ khiếp sợ, sự khiếp sợ làm nhụt trí khôn. Hơn nữa ta cũng không bao giờ nổi giận lên với chúng, vì nếu ta phát khùng thì ta không phải là ta nữa, ta sẽ không giữ được cái tính kiên trì mà con đã nhận thấy. Chính những kẻ dạy cũng là người đã học lại được nhiều. Ta đã cho con chó của ta bao nhiêu bài học thì ngược lại, ta đã nhận của chúng bấy nhiêu bài. Ta mở mang trí khôn cho chúng, chúng tu dưỡng tính tình cho ta.

Nghe câu nói lạ, tôi cười.

- Con cho thế là lạ lùng phải không? Một con chó có thể dạy được người? Thế mà thực đấy. Con thử nghĩ xem. Con có nhận thấy rằng một con chó bao giờ cũng chịu ảnh hưởng của chủ không?

- Điều đó đúng lắm.

- Vì thế, khi đã bắt tay vào việc giáo hóa một con vật, người chủ phải giữ gìn tư cách. Trong khi dạy Lãnh-Nhi, giả sử ta phát khùng, phát cáu, con Lãnh-Nhi sẽ làm gì? Nó cũng sẽ theo gương ta phát khùng, phát cáu, rồi thành ra hư hỏng. Con chó thường là tấm gương phản chiếu của người nuôi. Cho ta xem con chó của con, ta có thể bảo con là người thế nào. Quân cướp có con chó ăn cướp, kẻ trộm có con chó ăn trộm. Người quê mùa có con chó thô thục. Người phong nhã có con chó đáng yêu.

Các bạn tôi, ba con chó và con khỉ, được tôi đóng thêm trong trò nên vui thích lắm, chúng nhìn ngày mai đến không e sợ gì. Về phần chúng, chúng đã được làm đi làm lại đến trăm, nghìn lần rồi.

Còn tôi, tôi không được yên tâm như chúng. Tôi nghĩ ngợi: nếu tôi diễn hỏng, thầy tôi sẽ bảo sao? Khách xem sẽ nói gì? Ý nghĩ đó làm rối óc tôi. Khi tôi ngủ, tôi mê thấy những người đến xem ôm bụng cười, chế nhạo tôi.

Vì thế, sáng hôm sau, lúc rời nhà trọ ra chỗ diễn, lòng tôi xao xuyến vô cùng.

Vỹ-Tiên đi trước, đầu cao, ngực ưỡn, tay ve vẩy, chân bước theo nhịp còi ông thổi bài khiêu vũ. Sau ông là Hảo-Tâm. Với bộ nhung phục Đại-tướng Anh, áo quần đỏ, lon vàng, mũ cao đỉnh cắm một chiếc lông dài, Hảo-Tâm bệ vệ cưỡi trên lưng Lãnh-Nhi. Rồi cách xa một chút để tỏ ý kính trọng, Hiệp-Nhi và Thùy-Nhi xếp hàng đôi đi sau. Cuối cùng là tôi.

Vẻ linh đình của đoàn chúng tôi làm mọi người chú ý. Hơn nữa tiếng còi lanh lãnh của thầy tôi lại lọt vào tới trong cùng nhà, gợi óc tò mò của dân phố Ích-Sơn. Họ chạy ra cửa. Họ vén màn cửa sổ để xem chúng tôi đi qua. Một lũ trẻ con theo sau chúng tôi, cả mấy người nhà quê cũng nhập bọn thành một đoàn dài.

Sân khấu của chúng tôi được thiết lập một cách nhanh chóng: một cuộn dây chăng chung quanh bốn gốc cây thành hình vuông dài, chúng tôi ở giữa.

Phần thứ nhất của cuộc diễn gồm có những trò nhảy, múa của những con chó. Chúng diễn thế nào tôi cũng không biết vì óc tôi còn mải ôn lại những vai trò tôi sắp ra và rất lo lắng.

Tôi chỉ nhớ rằng Vỹ-Tiên cất còi vào túi, lấy vĩ cầm ra kéo những khúc khiêu vũ rất nhịp nhàng hoặc những bài êm ái du dương.

Công chúng đến mỗi lúc một đông, chen chúc chung quanh hàng dây chắn. Tôi ngửng mặt lên, mắt tôi vấp phải trăm nghìn con mắt tò mò nhìn chòng chọc vào và ném ra những tia chói lọi.

Phần thứ nhất chấm dứt. Lãnh-Nhi mồm ngậm cái bát gỗ con, đi bằng hai chân sau, viếng các quý khán giả chung quanh hàng dây. Khi không còn ai ném tiền cho nữa, nó đặt bát xuống sân, lấy hai chân trước kề vào áo khán giả nào ngoan cố, ăng ẳng hai ba tiếng và lấy chân vỗ vào túi quý vị đó như muốn mở ra.

Lúc đó, công chúng cười như phá lên, kẻ nói đùa, người chế nhạo:

- Con chó tinh thế! Nó biết người nào túi nặng!

- Thôi cho ra đi!

- Anh ta sắp cho!

- Anh ta không cho!

- Cho đi! Gia tài chú anh sẽ đền bù cho anh!

Thế là cuối cùng những đồng bạc dù nằm sâu ở đáy túi cũng phải lòi ra.

Trong khi đó Vỹ-Tiên không nói một câu gì, mắt không quên nhìn bát tiền, tay luôn luôn kéo những bài khi nhặt, khi khoan.

Lát sau, Lãnh-Nhi ngậm bát tiền đầy đem lại cho chủ, có vẻ hãnh diện lắm.

Bây giờ đến lượt Hảo-Tâm và tôi ra trò.

Vỹ-Tiên ra hiệu bằng tay kéo và tay đàn cho chúng tôi và nói:

- Thưa các bà, thưa các ngài, chúng tôi xin tiếp tục buổi diễn bằng một kịch vui “Người đầy tớ của ngài Hảo-Tâm”. Một người như tôi không bao giờ tự hạ để khoe hay và khen trước những tài tử của mình. Tôi trân trọng đề nghị một điều là xin quý vị hãy để mắt, để tai vào tấn kịch và sửa soạn tay để tán thành.

Cái mà Vỹ-Tiên gọi là kịch vui đó là một tấn tuồng câm, nghĩa là một bản diễn toàn bằng điệu bộ chứ không dùng lời. Mà bắt buộc phải như thế vì một lẽ rất dễ hiểu là hai vai chính trong kịch không biết nói. Và vai thứ ba là tôi, tôi không thể mở miệng nói ra được hai tiếng.

Tuy nhiên muốn cho công chúng dễ hiểu. Vỹ-Tiên nói giáo đầu trước khi mỗi trò sắp ra.

Vừa kéo khúc quân hành, ông vừa giới thiệu lúc Hảo-Tâm ra sân khấu:

"Đây là ngài Hảo-Tâm, Đại-tướng Anh-Quốc đã thăng quan tiến chức và làm giàu trong thời kỳ chiến tranh ở Ấn-Độ. Từ trước đến giờ ngài có một kẻ hầu là con Lãnh-Nhi. Nhưng ngày nay ngài muốn dùng người để thay thế. Ngài có thừa đủ phương tiện để làm việc xa xỉ đó: những giống vật đã làm nô lệ cho loài người lâu lắm rồi, bây giờ là lúc đổi lại. Trong khi đợi người đầy tớ mới, Đại-tướng Hảo-Tâm đi lại chững chạc trong sân, miệng ngậm điếu xi-gà lớn. Ngài lại tinh quái nhắm thở khói vào mặt khán giả.

Đợi lâu, Đại-tướng nóng ruột, ngài bắt đầu trợn mắt lên như sắp nổi trận lôi đình, rồi ngài cắn môi, rồi ngài đập chân xuống đất".

Đến tiếng đập thứ ba, tôi phải ra trò do Lãnh-Nhi dắt.

Nếu tôi quên thì đã có Lãnh-Nhi nhớ. Tôi đang bàng hoàng, Lãnh-Nhi bỗng giơ chân ra dắt tôi vào cạnh Đại-tướng.

Vừa nhìn thấy tôi, Đại-tướng giơ hai tay lên trời thất vọng. Tìm cho ngài người đầy tớ thế này ư? Rồi, ngài ngửa đầu nhìn kỹ mặt tôi, ngắm chung quanh tôi và so vai lên tỏ ý không bằng lòng. Điệu bộ ngài trông rất ngộ, toàn thể đều cười ầm. Công chúng hiểu rằng Đại-tướng nhận thấy tôi là một kẻ đại ngu ngốc. Mà chính ngay khán giả cũng cho tôi là thằng ngu ngốc.

Vở kịch đã chú ý xây dựng để phô diễn được hết cái ngu ngốc của một người xuẩn. Mỗi một xen, tôi lại phải tỏ một vài cử chỉ khờ dại, trái lại con Hảo-Tâm lại có dịp để biểu lộ trí thông minh và tài lanh lợi của nó.

Sau khi đã ngắm nghía tôi từ chân đến đầu, Đại-tướng tỏ ý thương tình và cho tôi ăn.

Vỹ-Tiên nói:

- Đại-tướng nghĩ rằng khi thằng bé này được ăn no thì nó không ngốc nữa. Chúng ta hãy xem sao.

Tôi vào ngồi cạnh một cái bàn con, trên có đặt đủ bộ đồ dùng để ăn cơm. Trước mặt tôi có một cái khăn đặt trong cái đĩa.

Cái khăn này dùng để làm gì? Lãnh-Nhi ra hiệu cho tôi bảo dùng đi. Nhưng dùng thế nào bây giờ?

Tôi nghĩ ngợi mãi, rồi cầm khăn lên xì mũi vào.

Thấy vậy, Đại-tướng cười ngặt nghẹo. Lãnh-Nhi thất vọng ngã lăn ra bốn chân chỏng lên trời.

Nhận thấy mình lầm, tôi ngắm nghía cái khăn lần nữa, nghĩ mãi, nghĩ mãi mới ra. Tôi liền cầm khăn cuộn lại thành cái cà vạt quàng vào cổ.

Lãnh-Nhi lại lăn đùng ra. Đại-tướng lại ôm bụng cười.

Rồi tôi cứ dùng nhầm mãi, Đại-tướng bực mình lôi tôi ra khỏi ghế. Ngài ngồi vào chỗ tôi, dùng xuất ăn đã dành cho tôi.

A! Đại-tướng dùng khăn ăn rất thạo! Một cách rất duyên dáng, ngài đặt một đầu khăn vào khuy áo, còn đầu kia trải trên đầu gối. Rồi ngài bẻ bánh và uống rượu một cách rất tự nhiên.

Ăn xong, ngài lại không quên dùng tăm xỉa bộ răng trắng ởn.

Tiếng vỗ tay nổi dậy một góc đường. Và cuộc diễn kết thúc một cách rất hoàn hảo.

Con khỉ đã thông minh biết bao! Người đầy tớ thực đã khờ dại biết bao!

Khi trở về nhà trọ, thầy tôi không dứt lời khen ngợi tôi. Tôi rất sung sướng đã làm thầy tôi vui lòng.

Chương VII

học vỡ lòng

Đó là những nghệ sĩ đại tài của đoàn Vỹ-Tiên – tôi muốn nói những con chó và khỉ – nhưng những tài đó không được thay đổi và biến hóa.

Khi chúng tôi diễn xong ba hay bốn trò thì người ta biết hết chương trình. Mà chúng chỉ có thể diễn đi lại những trò đó thôi.

Vì thế, không thể đóng lâu ở một tỉnh nào. Ở Ích-Sơn được ba ngày, chúng tôi lại phải tìm đi nơi khác.

- Thưa thầy, bây giờ đi đâu?

Tôi đánh bạo hỏi thầy tôi như thế. Thầy tôi nhìn tôi và trả lời:

- Con biết vùng này à?

- Không.

- Thế sao con lại hỏi bây giờ đi đâu?

- Để biết.

- Biết cái gì?

Tôi bí quá, nhìn vào con đường trắng xóa trước mặt tôi dài dằng dặc vào tận một thung lũng sâu và rậm rạp, không tìm được câu trả lời.

Thầy tôi nói tiếp:

- Nếu ta bảo con là chúng ta đến Ô-Lạc, để đi Boóc-Đô, rồi từ Boóc-Đô lại đi Py-rê-nê, thì con có hiểu gì không?

- Thế thầy, thầy biết rõ miền này à?

- Ta không đi qua bao giờ.

- Thế sao thầy cũng biết những nơi chúng ta phải đi?

Thầy tôi nhìn tôi một lúc lâu như muốn tìm hiểu gì trong tôi. Đoạn thầy tôi hỏi tôi:

- Con không biết đọc phải không?

- Không.

- Con có biết thế nào là quyển sách không?

- Có. Người ta thường mang sách đến Nhà Thờ để đọc kinh, khi người ta không niệm bằng tràng hạt nữa; con đã được nhìn thấy nhiều sách, những trang sách đẹp, trong có ảnh, ngoài bọc da.

- Tốt. Vậy con có hiểu người ta đã đặt vào trong sách những câu kinh không?

- Có.

- Người ta có thể đặt những điều khác nữa ở trong sách. Khi con niệm tràng hạt thì con đọc lại những tiếng mà mẹ con đã đặt vào tai con. Những tiếng đó từ tai con xếp vào óc con để rồi khi con niệm thì những tiếng đó xuống đầu lưỡi con và ra trên môi con. Còn như những người đọc kinh bằng sách thì họ không rút những tiếng ở trong óc họ ra. Họ dùng mắt để lấy những tiếng đó trong sách ra vì những tiếng đó đã đặt sẵn trong sách. Thế nghĩa là học đọc đấy.

Tôi mừng quá, như một người không ngu ngốc nữa, đã hiểu thấy những điều người ta nói cho mình hay, liền nói:

- Con đã trông thấy người ta đọc sách.

Thầy tôi nói tiếp:

- Người ta đã làm ra sách chép kinh, thì người ta cũng có thể làm sách chép những điều khác được. Ta cũng có một quyển sách, khi nào rỗi sẽ đưa con coi. Ta sẽ tìm thấy trong sách đó những chuyện của những tỉnh mà ta đi qua. Những người đã ở hay đã đi qua những tỉnh đó đã “để” vào trong cuốn sách của ta những điều họ đã trông thấy hay đã nghe thấy. Ta chỉ việc mở cuốn sách của ta ra đọc là biết được những tỉnh đó. Ta biết chuyện các nơi đó chẳng khác chi có người kể bên tai cho ta nghe vậy.

Tôi vốn sống ở nơi quê mùa, xa thanh giáo, nên không có ý niệm gì về đời sống văn minh. Những lời nói đó của thầy tôi đã chiếu rọi vào óc tôi trước còn lộn xộn, sau sáng sủa dần. Thực ra mẹ tôi cũng đã cho tôi đi học, nhưng chỉ học được một tháng thôi. Trong tháng đó người ta không hề đặt quyển sách vào tay tôi, cũng không hề dạy tôi tập đọc hay tập viết. Tóm lại người ta không hề cho tôi một bài học nào bất cứ dưới một hình thức nào.

Quý độc giả cũng không nên đem những công việc hiện hữu ở các trường học ngày nay mà cho lời tôi nói là vô lý. Vì thuở tôi nói đây, có một số rất nhiều làng ở nước Pháp không có trường học. Ở những làng có trường học thì các ông thầy vì một lẽ này hay lẽ khác, nghĩa là các ông không biết gì hay có biết nhưng còn công việc khác phải làm, các ông chẳng dạy gì cả. Các ông chỉ có việc giữ trẻ con khỏi chạy rông, tưởng rằng thế là đủ nhiệm vụ rồi.

Đó là trường hợp ông thầy ở làng tôi. Không biết ông có đôi chút học thức không? Có thể có, tôi không dám buộc ông vào tội dốt. Nhưng sự thật là trong suốt thời gian tôi đến nhà ông, ông không hề cho bạn tôi cũng như cho tôi một bài học ngắn nào. Ông vốn chuyên nghề đẽo guốc, nên ông chỉ làm việc cho guốc. Từ sáng đến tối, người ta thấy ông lúi húi làm bắn chung quanh ông những vỏ bào, gỗ dẻ hay gỗ đào. Chẳng bao giờ ông nói với chúng tôi một lời, trừ ra khi ông hỏi thăm cha mẹ chúng tôi, hay nói về trời rét, trời mưa. Đến việc tập đọc, làm tính, tuyệt nhiên ông không nói một tiếng nào.

Về việc này, ông giao cho cô con gái thay ông để dạy chúng tôi. Nhưng cô này chuyên nghề may thuê, cũng chăm làm như cha. Trong khi ông bào, ông đẽo thì cô đẩy kim, kéo kim.

Phải làm để sống. Vì chúng tôi cả thảy là 12 học sinh, mỗi tháng mỗi người phải trả 50 xu. Như vậy 6 phật-lăng không đủ nuôi sống hai nhân mạng trong 30 ngày. Những cái guốc và đồ khâu phải bổ túc cho số thu nhập của nhà trường. Vì thế, có đến trường, có đi học, mà tôi không được chữ nào.

Tôi vừa đi vừa nghĩ. Một lúc lâu, tôi hỏi Vỹ-Tiên:

- Học đọc có khó lắm không?

- Khó cho những kẻ tối dạ. Khó hơn nữa cho những kẻ không có chí. Con có tối dạ không?

- Con không biết. Nhưng nếu thầy dạy con tập đọc, con chắc rằng con không đến nỗi không có chí.

- Tốt lắm. Chúng ta sẽ học, khi nào sẵn thì giờ.

Khi nào có thì giờ! Sao không bắt đầu ngay từ bây giờ? Tôi không hiểu rằng học đọc cũng khó, có dễ đâu. Tôi tưởng tượng lập tức tôi mở quyển sách là tôi đọc được ngay.

Hôm sau trong khi đi đường, tôi thấy thầy tôi cúi xuống đất nhặt một mảnh gỗ mỏng, cát bụi bám gần khắp. Thầy tôi bảo tôi:

- Sách tập đọc của con đây.

Quyển sách sao lại là một mảnh gỗ? Tôi nhìn thầy tôi xem có ý chế riễu tôi chăng. Tôi thấy vẻ mặt của thầy tôi nghiêm trang nên tôi lại nhìn kỹ mảnh gỗ của thầy tôi vừa nhặt được.

Đó là một mảnh gỗ, một mảnh gỗ giẻ thôi, dài bằng hai cánh tay, rộng bằng hai bàn tay, hai mặt nhẵn nhụi. Ở trên không thấy một chữ hay một nét vẽ nào cả.

Đọc thế nào trên mảnh gỗ đó? Mà đọc cái gì?

Thầy tôi cười và hỏi tôi:

- Con nghĩ gì thế?

- Thầy định riễu con?

- Con ơi! Không. Sự chế riễu đôi khi cũng tốt là để cải hóa một thói xấu. Nhưng nếu dùng để đùa cợt một người dốt thì lại là vô ý thức. Con hãy đợi khi đến chòm cây ở đằng kia, chúng ta sẽ nghỉ và con sẽ được xem ta dạy con học bằng mẩu gỗ đó.

Chúng tôi rảo bước đến chòm cây. Túi bỏ ra, chúng tôi ngồi trên đám cỏ xanh non, thỉnh thoảng điểm vài bông cúc trắng. Hảo-Tâm được tháo xích, trèo tót lên cây, rung hết cành nọ đến cành kia như để làm rụng hạt giẻ. Còn những con chó yên lặng hơn, nhất là mệt nhọc hơn, nằm cuộn tròn chung quanh chúng tôi.

Bấy giờ Vỹ-Tiên móc dao trong túi ra, cầm miếng gỗ cố tách thành từng miếng rất mỏng. Khi chẻ xong, thầy tôi lấy lưỡi dao gọt nhẵn cả hai mặt. Xong thầy tôi cắt thành từng miếng vuông nhỏ đều nhau, tôi đếm được 12 miếng.

Tôi chăm chú nhìn thầy tôi làm. Mặc dầu tôi nghĩ nát óc, tôi cũng không thể hiểu với nghĩ mẩu gỗ đó, thầy tôi làm sách bằng cách nào. Tôi tuy dốt nát thực, nhưng tôi cũng biết, một quyển sách phải có những tờ giấy trắng, bên trên có ghi những dấu đen đen. Bảo là sách thì những tờ giấy đâu? Những dấu đen đen đâu?

Thầy tôi nói:

- Đến mai ta sẽ lấy mũi dao khắc trên mỗi miếng gỗ đó một chữ tự mẫu. Con sẽ học và nhận mặt từng chữ. Khi con đã thuộc tất cả các chữ không nhầm, con sẽ ghép được những tiếng ta đọc cho con nghe, thế là con có thể tự mình nhìn trong sách mà đọc được.

Từ hôm đó, trong túi tôi lúc nào cũng chứa đầy những miếng gỗ đẹp. Rồi không bao lâu tôi đã thuộc tất cả tự mẫu. Nhưng biết đọc lại là chuyện khác. Không phải ngày một ngày hai mà đọc được. Đã có lúc tôi nghĩ mình rất dại tự nhiên lại xin học chữ.

Cho được công bình với mình, tôi phải nói ra rằng không phải vì tôi lười mà tôi nghĩ thế, chính là vì lòng tự ái của tôi bị xúc phạm.

Thực vậy, khi dạy học cho tôi, Vỹ-Tiên nghĩ rằng cùng một lúc có thể dạy Lãnh-Nhi được vì con chó có thể xem giờ đồng hồ được thì tại sao lại không nhận được mặt chữ.

Thế là chúng tôi cùng học chung một bài. Tôi là bạn học của Lãnh-Nhi, hay Lãnh-Nhi là bạn học của tôi, cái đó tùy ý độc giả gọi sao cũng được.

Lẽ dĩ nhiên, Lãnh-Nhi không đọc lên được những chữ nó trông thấy vì nó không biết nói, nhưng khi những miếng gỗ bày ra trên cỏ, nó biết lấy chân kéo ra những chữ mà thầy tôi đọc lên.

Buổi đầu, tôi học tấn tới hơn Lãnh-Nhi nhiều. Nhưng nếu tôi thông minh hơn nó thì nó cũng có trí nhớ hơn tôi. Cái gì nó đã thuộc rồi thì nó nhớ mãi mãi, không bao giờ quên. Vả nó không đãng trí, nên không bao giờ nó ngập ngừng hoặc sai nhầm cả.

Một hôm tôi đọc sai, thầy tôi nói luôn:

- Lãnh-Nhi sẽ biết đọc trước Minh.

Con chó nghe thấy, có lẽ nó hiểu nên nó đắc chí vẫy vẫy cái đuôi.

Vỹ-Tiên lại nói:

- Ngu hơn loài vật, trong khi diễn trò thì hay, chứ lúc học mà thế thì xấu hổ lắm.

Tôi bực quá, hết sức chăm chú, không dám sao lãng một chút nào. Ít lâu tôi đọc được, khi đó con Lãnh-Nhi đáng thương hại chỉ biết “viết” tên nó bằng cách rút những chữ gỗ trong bản tự mẫu.

Vỹ-Tiên hỏi tôi:

- Bây giờ con đọc chữ thông rồi, con có muốn đọc “nốt nhạc” không?

- Có phải khi con biết đọc nốt nhạc, con sẽ hát được như thầy không?

Một đôi khi Vỹ-Tiên có hát. Nghe ông hát, lòng tôi rất thích thú nhưng ông không biết.

- Vậy con muốn hát như ta?

- Ô! Hát như thầy! Hát làm sao được. Con chỉ muốn hát thôi.

- Con thích nghe ta hát?

- Thích nhất đời! Con họa mi hót đã hay, mà tiếng thầy còn hay hơn, mà giọng thầy lại thay đổi luôn. Khi thầy hát lên, thầy có thể sai khiến được lòng con, khi con muốn khóc, khi con muốn cười. Và câu này con nói ra thì có lẽ thầy cho là xuẩn: khi thầy hát giọng êm ái và buồn rầu, nghe những tiếng hát đó tự nhiên con nhớ đến mẹ con, trông thấy mẹ con ở nhà. Tuy nhiên, con vẫn không hiểu những lời trong bài hát đó vì bằng tiếng Ý-đại-lợi.

Tôi vừa nói vừa nhìn thầy tôi. Tôi thấy thầy tôi dơi dân dấn nước mắt. Lúc đó tôi không nói nữa và hỏi thầy tôi rằng:

- Con nói thế làm cho thày buồn?

Bằng giọng cảm động, thầy tôi đáp:

- Không, con ạ. Con không làm ta buồn đâu, trái lại, con làm ta nhớ lại thuở thanh niên, những ngày tươi đẹp của ta thôi. Con cứ yên tâm. Ta sẽ dạy cho con biết hát. Vì con là một đứa trẻ có tâm hồn, con cũng sẽ làm cho người ta khóc được và con sẽ được hoan hô. Con sẽ hiểu…

Nói đến đây, thầy tôi bỗng ngắt lại. Tôi cho rằng về vấn đề này thầy tôi không muốn đi xa hơn nữa. Còn cái lý do nó làm cho thầy tôi ngừng lời thì tôi không sao đoán được. Mãi mãi về sau này tôi mới được rõ nguyên nhân trong những trường hợp đau khổ cho tôi. Sau này, tôi sẽ xin kể lại đến việc đó.

Sáng hôm sau, thầy tôi bắt đầu gọt những miếng gỗ vuông và dùng mũi dao khắc những dấu vào các miếng gỗ ấy, chẳng khác chi lần trước, để làm sách dạy âm nhạc cho tôi.

Tuy nhiên, công việc lần này của thày tôi có phần khó khăn hơn vì những dấu làm nhạc phổ rất tỉ mỉ, đòi hỏi nhiều công trình hơn là bản tự mẫu.

Mỗi miếng gỗ gọt nhẵn hai mặt, mặt nào cũng kẻ năm vạch ngang: một mặt ghi dấu sol, một mặt ghi dấu fa. Khi đã làm xong đâu đấy, bài học bắt đầu. Tôi xin thú thực rằng những bài đó cũng khó vào óc không kém những bài tập đọc. Hơn một lần, ông Vỹ-Tiên là người rất kiên nhẫn với các con chó, đã phải gắt với tôi.

Thày tôi kêu to:

- Với một con vật, người ta có thể chịu đựng được vì người ta biết nó là loài vật, còn con, con làm ta đến chết mất thôi!

Thầy tôi vừa nói vừa giơ hai tay lên trời như “làm tuồng”, rồi vỗ đét xuống đùi. Hảo-Tâm hay có tính bắt chước những cái lạ, liền “rập” đúng cái cử chỉ đó. Nó thường ngồi cạnh nhìn tôi tập hát. Khi tôi ấp úng, nó liền chạy ra, giơ thẳng hai tay lên trời, rồi vỗ đét vào đùi, tôi bực mình quá không làm sao được.

Đã thế, thầy tôi lại nói thêm:

- Hảo-Tâm nó cũng riễu con đấy!

Nếu tôi dám thì tôi đã cãi rằng nó riễu cả thầy lẫn trò đấy. Nhưng phần vì kính trọng, phần vì nể sợ thầy tôi, nên tôi không dám ứng đối thế.

Không bao lâu, những bước đầu đã vượt qua với bao khó nhọc, tôi đã cầm giấy đọc được những nốt nhạc mà thầy tôi ghi cho tôi.

Hôm đó, thày tôi không vỗ đùi nữa mà lấy tay sẽ đập đập vào hai bên má tôi tỏ dấu thân yêu và tuyên bố rằng nếu tôi tiếp tục học như thế tôi sẽ trở thành một đại danh ca.

Quý độc giả đã biết, sự học của tôi không phải thực hành trong một ngày mà hàng tuần, hàng tháng với những mảnh gỗ lúc nào cũng chèn đầy trong túi.

Hơn nữa, việc học của tôi lại không được đều đặn như việc học của học trò đến trường vào những giờ nhất định. Tôi đây, chỉ có lúc nào thày tôi rảnh việc thì tôi mới học được.

Mỗi ngày, chúng tôi phải đi cho hết đoạn đường hoặc dài, hoặc ngắn tùy theo những làng ở cách nhau xa hay gần. Chúng tôi phải diễn trò mỗi khi gặp chỗ đông đúc có thể thu được tiền. Chúng tôi phải luyện lại những vai trò cho các con chó và con Hảo-Tâm. Chúng tôi phải làm cơm bữa sáng, bữa chiều. Ngoài những việc đó, mới là thì giờ để học chữ hay học nhạc. Nơi dừng chân để học phần nhiều là trong quán chợ, dưới gốc cây hay bên đống đá, mà bãi cỏ hay vệ đường thường dùng bàn làm để bày những bảng gỗ.

Cách giáo dục này khác hẳn cách giáo dục phần đông những trẻ bằng tuổi tôi được đến trường. Chúng không phải làm lụng gì. Chỉ có việc học. Thế mà nhiều khi chúng còn phàn nàn không đủ thì giờ để làm bài. Nhưng có một điều – còn quan trọng gấp mấy thì giờ cần thiết để học tập, đó là sự chuyên cần. Không phải cái thời gian ta dùng để học một bài, nó ghi được bài đó vào ký ức của ta đâu, chính là cái ý chí hiếu học vậy.

Phúc cho tôi, tôi đã đem được hết tâm trí vào sự học, không thú chơi đùa cám dỗ. Nếu tôi chỉ có thể làm việc được trong phòng với hai tay bịt tai, hai mắt dán vào quyển sách như vài đứa trẻ khó tính khác, thì tôi sẽ trở nên như thế nào? – Chẳng làm trò gì được, vì chúng tôi không có buồng để ở, và trong khi đi đường, tôi phải nhìn luôn xuống chân cho khỏi vấp ngã.

Thế mà, tôi cũng đã học được đôi điều, đồng thời cũng tập quen đi đường trường, một môn học không kém bổ ích bằng những bài của thầy tôi. Tôi là đứa trẻ yếu ớt khi còn ở với mẹ tôi. Bà Liên đã kêu tôi là “đứa trẻ tỉnh thành”. Vỹ-Tiên đã chê tôi “chân tay mảnh dẻ quá”, như vậy đủ hiểu thể cách của tôi hồi đó thế nào.

Ở gần thầy tôi, tôi được sống những nơi thoáng đãng, tôi lại đi nhiều, chân tay trở nên cứng cáp, lồng ngực nở nang ra, da dầy dạn như sắt, thế tôi có thể chịu được rét cũng như bức, mưa cũng như nắng, chịu được đau buồn, thiếu thốn, mệt nhọc, coi như không.

Cái trường huấn luyện này thực là một đại phúc cho tôi, vì nó đã đào tạo để sau này đủ sức phấn đấu với những tai biến hiểm nghèo, ghê gớm dồn dập sả vào đầu tôi trong những ngày niên thiếu bơ vơ.

Chương VIII

núi quạnh đồng hoang

Chúng tôi đã đi qua một phần miền Nam nước Pháp: O-Véc, Vơ-Lay, Vi-ve-re, Kéc-xi, Ru-éc, Xê-ven, Lăng-Đốc. Hành trình của chúng tôi rất giản dị: chúng tôi cứ tiến thẳng phía trước mặt, đi cầu may. Khi nhìn xa thấy làng nào không đến nỗi xơ xác lắm, chúng tôi chỉnh bị một cuộc lâm trường rất rầm rộ. Tôi trang sức cho chó, đội mũ cho Thùy-Nhi, vận áo cho Hiệp-Nhi, dán lông mày giả cho Lãnh-Nhi để đóng vai ông già càu nhàu. Cuối cùng tôi ép Hảo-Tâm phải mặc áo Đại-tướng. Việc này rất khó nhọc vì con khỉ biết rằng vận áo nghĩa là sắp phải làm việc nên nó chống lại, nhảy nhót và giở nhiều trò kỳ quặc để trốn mặc áo. Tôi phải gọi đến Lãnh-Nhi giúp sức nó mới chịu “lai hàng”.

Sửa soạn xong, Vỹ-Tiên thổi còi đi trước, chúng tôi thứ tự theo sau.

Vào làng, nếu số người xem đông thì chúng tôi diễn, trái lại nếu người ít quá xem chừng không thu được mấy, chúng tôi lại tiếp tục đi. Chỉ đến những thị xã lớn là chúng tôi ở nhiều ngày. Những hôm đó, buổi sáng rỗi, tôi được phép đi chơi rong phố với Lãnh-Nhi – dĩ nhiên nó không khoác áo tuồng.

Vỹ-Tiên xưa nay vẫn giữ tôi luôn bên cạnh, bây giờ mới thả cho tôi tự do.

Ông bảo tôi:

- Cái ngẫu nhiên đã đưa con đi khắp nước Pháp trong khi những trẻ bằng tuổi con đang cắp sách đi học; vậy con phải mở rộng mắt ra, nhìn lấy và học lấy. Có điều gì con không hiểu, có điều gì làm con bối rối, con cứ hỏi ta, đừng sợ. Có lẽ ta không thể trả lời được tất cả những câu hỏi của con vì ta không dám tự phụ là biết hết, nhưng có lẽ nhiều câu ta cũng có thể giải thích làm thỏa được ý con. Vốn dĩ, ta có chuyên là ông bầu của đám vật làm trò rong đâu, vì ta đã học những điều khác, không phải những điều để “giới thiệu Lãnh-Nhi hay Hảo-Tâm trước quý khán giả” như bây giờ đâu!

- Thày đã học nghề gì?

- Một ngày kia ta sẽ cho con biết. Bây giờ con hãy biết rằng một người làm nghề “trình diễn chó” cũng có thể có địa vị trong xã hội. Và con cũng hiểu rằng nếu bây giờ con đang ở bậc thang dưới cùng trong xã hội, con rất có thể – nếu con quyết chí – có thể dần dần tới một bậc cao hơn. Điều đó tùy theo cảnh ngộ một ít, còn tùy ở con rất nhiều. Con ơi! Con hãy nghe những bài học của ta, những lời khuyên của ta. Sau này khôn lớn, con sẽ nhớ đến – ta mong thế – nhớ đến người nghệ sĩ giang hồ già nua đã dứt con ở trong tay người mẹ nuôi con, chắc con phải ngậm ngùi và biết ơn, vì ta yên trí rằng cái duyên gặp gỡ giữa ta và con sẽ đem lại hạnh phúc cho con.

Tôi không hiểu thầy tôi trước kia đã ở vào bậc nào trong bức thang xã hội mà mỗi khi hơi nói chạm thì thày tôi lại thôi. Điều đó nhiều lần gợi trí tò mò và làm cho óc tôi phải suy nghĩ. Nếu Vỹ-Tiên đã ở trên một bậc cao trong bức thang xã hội như có lần ông đã nói thì tại sao bây giờ ông phải tụt xuống bậc thấp? Ông lại cho rằng tôi có thể lên cao nếu tôi muốn, tôi chẳng là cái gì, không biết gì, không gia đình và không một ai giúp đỡ. Thế sao chính ông lại bị xuống thấp?

Sau khi đã vượt qua núi O-Véc, chúng tôi đến miền hoang dã Kéc-xi. Ở đây mặt đồng mấp mô như sóng gợn, không trồng trọt gì, chỉ có những đám rừng thưa thớt, còm cõi. Đó là một miền bần bạc nhất và quạnh hiu nhất. Trong vùng, tuyệt nhiên không có một vũng nước nào. Không có suối, không có sông, không có ao. Đây đó, người ta nhìn thấy những dòng cạn khô, đáy lởm chởm đá. Nước đã chảy hết vào vực thẳm và ngấm xuống đất để rỉ ra những chỗ xa và chảy vào suối hoặc những sông con.

Ở giữa cánh đồng cháy nắng, đó là làng Bastide Murat (Bát-ti-đơ Muy-ra). Chúng tôi vào tìm chỗ trọ và ngủ đêm trong vựa cỏ của một hàng cơm.

Chiều hôm đó, trước khi đi ngủ, Vỹ-Tiên nói chuyện với tôi:

- Chính ở đây, trong vùng này, và có lẽ ngay trong quán trọ này đã sinh ra một người, người đó làm chết bao nhiêu quân lính, xuất thân chỉ là một trẻ chăn ngựa, rồi trở nên Hoàng tử, rồi lên đến ngôi Vua, người đó tên là Murat. Người ta coi là một vị anh hùng và lấy tên đặt cho làng này. Ta có quen ông ấy và đã nhiều lần nói chuyện với ông ấy.

Tôi buột miệng hỏi:

- Khi ông ấy còn chăn ngựa?

- Không, khi ông ấy đã làm Vua rồi. Tuy ta mới đến làng Bastide này là lần thứ nhất, nhưng ta đã gặp ông ta tại thành Naples ở giữa triều đình.

- A! Thầy quen vua!

Tôi thích chí kêu to quá làm thầy tôi phải bật cười và cười mãi.

Chúng tôi ngồi trên cái ghế dài trước chuồng ngựa, lưng tựa vào tường còn nóng, vì phơi nắng cả ngày. Trên đầu chúng tôi lá sung rườm rà, những con ve sầu ri rỉ điếc tai. Trước mặt chúng tôi trăng tròn hiện lên quá nóc nhà và đang dần dần lên cao. Ban ngày nóng nực bao nhiêu thì đêm đó êm ả mát dịu bấy nhiêu.

Vỹ-Tiên hỏi tôi:

- Con có buồn ngủ không? Nếu không, ta kể chuyện vua Murat cho con nghe.

- Ô! Xin thầy kể cho con nghe.

Rồi thầy tôi kể từ đầu chí cuối chuyện đó cho tôi nghe. Chúng tôi ngồi trên ghế hàng mấy giờ đồng hồ, thầy tôi thì nói, tôi thì mắt để vào mặt thầy tôi, lấp loáng trong ánh trăng xanh. Phải, chuyện đó có thể có được, không những có thể có mà còn thực nữa. Từ trước tới giờ, tôi không có một ý niệm gì về sử cả. Ai kể cho mà nghe? Mẹ tôi chắc chắn là không kể, vì bà cũng chẳng biết sử là gì. Bà sinh trưởng ở làng Tả-văn-Ông, rồi bà cũng sẽ từ trần ở đó. Óc bà không hề đi xa hơn con mắt của bà. Và đối với con mắt của bà thì vũ trụ chỉ là vòm trời từ trên đỉnh núi Ô-đui đến tận chân trời bao quanh mà thôi.

Thầy tôi thực đã trông thấy bao nhiêu là điều lạ, điều hay.

Vậy thì trong thời niên thiếu, thầy tôi đã làm gì? Và tại sao đến lúc tuổi già, thày tôi lại ở trong hiện trạng này?

Đó là một câu hỏi nó làm cho óc non của tôi phải suy nghĩ.

Chương IX

người khổng lồ với đôi giầy bảy dặm

Đi hết miền hoang dã, chúng tôi tới một thung lũng mát mẻ xanh tươi, đó là thung lũng sông Dordogne. Chúng tôi ghé tại đây nhiều ngày vì đất phì nhiêu và dân phong phú. Chúng tôi diễn trò liên tiếp và với cái bát con, Lãnh-Nhi cũng hái được lắm tiền.

Một cái cầu lửng lơ trên không như treo bởi những sợi dây của Thánh-Mẫu, nằm ngang trên con sông, nước chảy lững lờ; đó là cầu Quy-giác và sông Dordogne.

Một thành phố hoang tàn với những hầm, những hồ, những tháp và ở giữa những bức tường đổ nát của một nhà tu, cây cối mọc um tùm, tiếng ve kêu ra rả. Đó là thành phố thánh Emillion.

Ngày nay, tất cả những cảnh tượng đó lu mờ trong óc tôi, duy có cảnh trí sau này hiện còn rõ rệt trong trí nhớ.

Chúng tôi lưu lại một đêm trong một làng nhỏ. Sáng hôm sau chúng tôi lên đường lúc mặt trời chưa mọc.

Sau khi đi mãi trên con đường đầy bụi, hai bên trồng nho, chúng tôi đến một khoảng mênh mông, phong cảnh hiện ra trước mắt như một bức tranh.

Một con sông lượn quanh trái đồi mà chúng tôi vừa đến. Bên kia bờ sông, nổi lên san sát những mái nhà; những tháp chuông của một thành phố rộng lan mãi tận chân trời. Biết cơ man nào là nhà! Cơ man nào là ống khói! Một vài ống khói ngất nghểu như những cái cột đại-dài vượt hẳn lên, nhả ra những cuộn khói đen, tỏa theo chiều gió rồi tan ra thành một đám sương phủ mờ trên thành phố. Dưới sông, thuyền đậu chen chúc bên nhau. Những cột buồm, dây buồm, cánh buồm đâm chi chít như đám cây rừng, trong đó những sắc cờ phân phất bay ngang. Người ta nghe thấy những tiếng tù và, tiếng sắt, tiếng nồi súp-de, tiếng búa, thêm vào đó, có cả tiếng xe cộ chạy ầm ầm trên bến nữa.

Vỹ-Tiên bảo tôi:

- Thành phố Boóc-Đô đây!

Đối với đứa trẻ sinh hoạt như tôi, từ bé đến giờ chỉ được trông thấy những làng khổ ở vùng Cờ-rơ (Cereux), hơn chút nữa là những tỉnh nhỏ tình cờ tôi được trông thấy khi dưới đường, thì thành phố này là một cảnh tiên.

Không nghĩ ngợi gì, tôi đứng ngay lại, yên lặng nhìn đằng trước tôi, chỗ gần, chỗ xa và khắp cả chung quanh tôi. Xong, mắt tôi chú vào điểm: khúc sông có tàu thuyền đậu. Thực vậy, chỗ đó có một hoạt động tưng bừng mà tôi chưa nhìn thấy bao giờ.

Có những chiếc tàu, thẳng cánh buồm, nghiêng mình chạy xuôi; những chiếc khác, chạy ngược dòng, chậm hơn. Cũng có chiếc đứng yên như những hòn đảo. Cũng có chiếc quay tròn như cánh chong chóng. Sau cùng, cũng có những chiếc không cột, không buồm nhưng có một cái ống nhả từng cuộn khói đen lên trời, chạy ngang, chạy dọc rất nhanh, rẽ làn nước vàng và để lại ở đằng sau những luồng bọt trắng xóa.

Thấy tôi ngơ ngác, Vỹ-Tiên giảng nghĩa cho tôi:

- Đến giờ nước triều lên. Những tàu này mới ở biển vào; chúng đã đi xa và đi lâu nên nước sơn đã bạc, và vỏ ngoài đã gỉ. Những chiếc kia vừa rời bến. Còn những chiếc đang quay ở giữa sông là chúng xoay quanh neo để hướng mũi tàu vào sóng triều lên. Còn những chiếc đang chạy hiên ngang trong đám khói đen kia là những chiếc tàu dắt.

Tôi được nghe bao nhiêu tiếng lạ và trông thấy bao nhiêu điều mới! Từ trước đến giờ, không bao giờ chúng tôi nghỉ lâu ở những tỉnh đã đi vì chúng tôi ít trò quá, phải đi mỗi ngày một nơi để diễn thì mới có khách xem. Với những kịch sĩ của đoàn Vỹ-Tiên, chương trình khó lòng mà biến hóa cho nhiều. Vì thế khi chúng tôi đã diễn xong “Người đầy tớ của Ngài Hảo-Tâm”, “Cái chết của Đại-tướng”, “Công bình vẫn thắng”, “Liều thuốc tẩy”, và ba bốn bản nữa là hết. Khán giả đã xem đủ và cho là đủ rồi. Phải đem “Người đầy tớ của Ngài Hảo-Tâm” hay “Liều thuốc tẩy” đến một nơi khác mà công chúng chưa được xem.

Nhưng đến đây, thành Boóc-Đô là một đô thị lớn, ở đó, khán giả thay đổi luôn luôn. Chúng tôi chỉ luân chuyển đi các phố là có thể diễn ba xuất mỗi ngày. Công chúng không đến nỗi kêu như ở Ca-ô:

- Cứ mãi một trò!

Ở Boóc-Đô được ít lâu, chúng tôi lại phải đi tỉnh Pô. Từ ngoại châu thành Boóc-Đô đến dẫy núi Py-rê-nê, chúng tôi phải qua một bãi sa mạc người ta thường gọi là Lăng-Đê.

Tôi tuy không phải là con chuột con nói trong chuyện ngụ ngôn, trông thấy cái gì cũng lạ, cũng hay và cũng sợ, nhưng trong đoạn đầu cuộc hành trình trên sa mạc, tôi bị một cái nhầm to khiến thầy tôi cười mãi và chế nhạo mãi đến tỉnh Pô mới thôi.

Rời Boóc-Đô được 7, 8 ngày, sau khi theo bờ sông Ga-ron đến Lăng-gôn thì chúng tôi sẽ sang đường đi Mông-mác-săng. Không còn vườn nho, không còn đồng cỏ, không còn vườn quả nữa. Chỉ thấy toàn rừng thông và bụi rậm. Nhà dân cư mỗi ngày một thưa, một tồi tàn hơn. Rồi chúng tôi đi qua một giải đồng không mông quạnh, mặt đất mấp mô và bát ngát đến chân trời. Không có chỗ nào cày cấy, không có rừng, xa xa toàn đất xám. Gần chúng tôi, hai bên đường rêu phủ, lác đác có những bụi gai khô và những cây kim-tước cằn cỗi.

Vỹ-Tiên bảo tôi:

- Chúng ta đang ở bãi Lăng-Đê đây. Còn phải đi trong sa mạc này từ 20 đến 25 dặm nữa. Con phải để hết can đảm vào hai chân con.

Tôi nghĩ không những phải để hết can đảm vào hai chân mà còn phải để vào óc vào tim nữa vì đi trên con đường hình như vô tận này, tôi cảm thấy một sự buồn khó thể khua tan được.

Từ thuở đó đến giờ, tôi đã nhiều lần đi biển. Mỗi khi tôi ở giữa biển mà không trông thấy bóng một cánh buồm nào là lòng tôi lại thấy phảng phất một mối buồn khôn tả như cái buồn mà tôi cảm thấy trong bãi sa mạc này. Khác nào như ở trên biển cả, chúng tôi đưa mắt nhìn khắp bốn phương, cho tới chân trời chìm đắm trong màn sương thu, chẳng thấy gì cả, chỉ thấy màu đất xám mênh mông, hiu quạnh ở trước mặt chúng tôi.

Chúng tôi cứ tiến. Lắm lúc, ngước mắt nhìn chung quanh, tôi tưởng chừng như giậm chân nguyên một chỗ, không tiến được bước nào vì cảnh tượng cứ y nguyên: vẫn bụi gai, vẫn khóm kim-tước, vẫn đám rêu và vẫn những cỏ dương, lá rậm và mềm, nhấp nhô theo làn gió như những lớp sóng rờn.

Từng quãng rất xa mới lại thấy những khu rừng nhỏ. Nhưng những khu rừng này cũng chẳng làm phong cảnh thêm vui mắt như ở các nơi khác. Rừng toàn là những cây thông chặt hết cành. Khắp thân đều mang những vết chém sâu. Ở những vết thương đó chảy ra những giọt nhựa bám vào vỏ cây như những giọt lệ trắng kết tinh. Khi những cơn gió to thổi qua rừng, một âm thanh rên rỉ đưa ra khiến ta tưởng tượng như nghe thấy tiếng thật của những cây khốn nạn kia đang than khóc phận mình.

Vỹ-Tiên bảo tôi đến chiều hôm đó thì tới một làng mà chúng tôi có thể nghỉ chân được.

Nhưng chiều đến, chúng tôi chẳng nhìn thấy dấu hiệu gì tỏ ra là đã gần đến làng đó. Không có đồng ruộng hoa màu, không có trâu bò ăn cỏ, mà ở xa cũng chẳng thấy một đám khói xanh nào chứng tỏ nơi đó có dân cư.

Từ sáng hôm nay, tôi đã thấy mệt rồi. Đến bây giờ thì thân thể đau như giần. Thế mà đi mãi vẫn không thấy cái làng sung sướng đó nổi lên đầu đường bất tận của chúng!

Tôi cố giương mắt nhìn xa. Tôi chỉ trông thấy toàn bãi hoang là bãi hoang. Những bụi cây hỗn loạn chìm dần vào trong bóng tối mỗi lúc một dày thêm.

Tưởng rằng sắp tới nơi nên ai nấy đều rảo bước. Thầy tôi vốn quen đi đường trường, cũng thấy nhọc rồi. Thầy tôi bảo dừng lại và nghỉ một lúc bên vệ đường.

Nhưng đáng lẽ phải ngồi bên cạnh thầy tôi, tôi muốn leo lên trái đồi kim tước gần đó, đứng xem quanh đấy có ánh đèn lửa của một làng mạc nào không.

Tôi gọi Lãnh-Nhi cùng đi với tôi. Nhưng nó, nó cũng nhọc, và giả điếc. Đó là cái mưu lược vẫn quen áp dụng với tôi mỗi khi nó không thích nghe lời tôi.

Vỹ-Tiên hỏi tôi:

- Con sợ à?

Câu nói đó làm tôi không rủ Lãnh-Nhi nữa. Tôi đi khám phá một mình vậy. Nghĩ đến câu nói của thầy tôi, tôi trở nên mạnh bạo. Tuy nhiên, đêm tối, không trăng, chỉ có sao lấp lánh trên trời tỏa ánh sáng yếu ớt xuống vùng không khí vẩn đục ít nhiều hơi nước.

Tôi vừa đi vừa nhìn hai bên. Tôi nhận thấy buổi chạng vạng này làm cho mọi vật có một hình dáng kỳ dị. Phải nhìn mãi mới đoán ra được đây là bụi rậm, là khóm kim tước, và đằng kia là mấy cây nhỏ, thân cong queo, cành vặn vẹo. Ở xa hơn nữa, những bụi cỏ, những khóm cây trông giống những loài vật thuộc một thế giới huyền ảo.

Với bóng lờ mờ của đêm tối, cánh đồng biến dạng hẳn, hình như chứa đầy những quái vật hiện hình.

Tôi nghĩ một người khác vào địa vị tôi có lẽ phải khiếp sợ trước những hình thù kỳ quái đó. Điều đó có thể xảy ra được vì Vỹ-Tiên chẳng đã hỏi tôi rằng “con sợ à?”. Tuy nhiên, tôi tự hỏi tôi thì tôi thấy rằng tôi không hề sợ sệt gì.

Tôi càng lên đồi thì những cây kim-tước càng to dần ra, những bụi rậm cao hơn lên. Những ngọn cây nhiều chỗ vượt khỏi đầu tôi và lắm lúc tôi phải chui dưới cành lá.

Không mấy lúc tôi đã lên được ngọn đồi. Tôi nhìn chung quanh, chả thấy tí ánh lửa nào. Tôi nhìn sâu vào trong bóng tối, chỉ thấy những hình mập mờ, những bóng đen kỳ dị, những cây kim-tước giơ cành ra như những cánh tay vớ lấy tôi, những bụi rậm nhảy nhót chung quanh tôi.

Không nhìn thấy gì tỏ ra là có nhà nào ở gần đó, tôi cố lắng tai nghe xem có tiếng động gì không, tiếng bò kêu, tiếng chó sủa chẳng hạn.

Tôi đứng yên một lúc, nín thở để nghe cho rõ hơn, chợt tôi sởn người, cảnh vắng lặng của cánh đồng làm cho tôi hoảng hốt, tôi sợ. Sợ gì? Tôi cũng không hiểu. Có lẽ sự yên lặng, sự vắng vẻ và sợ đêm tối chăng? Dù sao, tôi cảm thấy hình như có một sự nguy hiểm gì sắp đến nơi.

Ngay lúc đó, tôi lo lắng nhìn chung quanh, tôi thấy một bóng đen to lớn đang cử động trên ngọn những cây kim-tước, đồng thời tôi nghe thấy tiếng sột soạt trong đám lá cây.

Tôi cố trấn tĩnh cho rằng vì tôi quá lo sợ thành ra hoảng hốt, cái bóng đen kia có lẽ chỉ là một cây to mà lúc trước tôi chưa nhìn thấy.

Nhưng tiếng sột soạt kia ở đâu ra? Lúc đó không có một tí gió nào. Những cành cây dù nhẹ đến đâu cũng không thể tự cử động được, phải có gió thổi hoặc có ai lay thì chúng mới chuyển được.

Ai? Nhưng không, không thể là người được, cái thân hình to đen đen đang tiến đến phía tôi. Có lẽ là một con vật mà tôi chưa trông thấy bao giờ, hay một con chim khổng lồ đi ăn đêm, hay một con nhện rừng có bốn chân, những chân mảnh dẻ đó đang lều khều bước trên cái bụi rậm dưới ánh xanh lợt của trời sao. Có điều chắc chắn là con vật đó chân rất dài đang bước vội đến tôi.

Đích là nó đã trông thấy tôi và đang đuổi tôi.

Nghĩ thế, tôi liền quay lại, cắm cổ chạy xuống sườn đồi chỗ Vỹ-Tiên.

Nhưng lạ quá! Tôi thấy tôi xuống chậm quá, không bằng lúc leo lên. Tôi vướng chân ngã chúi, ngã dụi vào các bụi cây. Gỡ được ra, tôi nhìn lại đằng sau, con vật đã đến gần, nó sắp theo kịp tôi.

May sao, tôi đã xuống chân đồi, hết bụi rậm, đường lại phẳng nên tôi chạy xăm xăm trên ngọn cỏ.

Tôi chạy đã nhanh, con vật còn bước nhanh hơn tôi. Tôi không cần ngoảnh lại cũng biết con vật đã đến sau lưng tôi.

Tôi không thở được nữa và tối cả mặt mũi lại. Tôi chạy thù tử đến chân thầy tôi và ngã lăn ra. Ba con chó giật mình tỉnh dậy sủa ầm lên.

Tôi chỉ nói được hai tiếng:

- Con vật! Con vật!

Tôi nghe thấy tiếng cười lớn phát ra trong những tiếng chó sủa. Đồng thời, thầy tôi vỗ vai tôi, bắt tôi quay mặt lại và bảo:

- Con vật vẫn là Minh. Con hãy nhìn lại một tí. Có dám nhìn không?

Tiếng cười, nhất là lời nói của ông đã làm tôi vững dạ. Tôi dám mở to mắt và nhìn về phía tay ông trỏ.

Con quái vật nó đuổi tôi bây giờ cũng dừng lại. Nó đứng im trên đường cái.

Tôi trông thấy, xin thú thực, cũng còn hơi run run. Nhưng có thầy tôi đây, lại có đàn chó nữa nên tôi trấn tĩnh lại, tôi nhìn kỹ hình thù đó.

- Có phải con vật không? Có phải người không?

Giống người vì nó có mình, có đầu và hai cánh tay. Giống con vật vì da nó có lông lá và nó có hai cái cẳng chân còm, rất dài đến 2, 3 mét.

Mặc dầu trời đen tối, tôi cũng nhận rõ những chi tiết đó vì cái bóng đen của con quái vật “hẳn” rõ trên nền trời lờ mờ ánh sao.

Tôi đang nghĩ phân vân không biết đó là vật hay là người thì thầy tôi cất tiếng hỏi bóng đen đó.

- Có làng xóm nào gần đây không? Chỉ giúp chúng tôi!

Đó là người à? Vì thầy tôi đang nói với nó.

Một tiếng cười the thé như tiếng chim đáp lại.

Đó là giống vật à?

Thế mà thầy tôi cứ cố hỏi, tôi thấy cả là một sự vô lý, vì ai chả biết rằng dù giống vật đôi khi có thể hỏi ta nói gì, nhưng nó có nói được bao giờ mà ta hỏi. Tôi bỗng ngạc nhiên biết là nhường nào khi tôi thấy con vật đó trả lời rằng chung quanh đây không có nhà cửa gì, chỉ có trại cừu; nếu muốn đi thì nó đưa đến.

Nó nói được, sao nó lại có cái cẳng dài?

Nếu tôi cả gan, thì tôi đã đến sờ xem hai cái chân nó thế nào. Nhưng dù nó không có vẻ gì là dữ tợn, tôi cũng không có can đảm làm thế. Tôi đành nhặt túi, xách theo thầy tôi và yên lặng đi không nói gì.

Thày tôi hỏi tôi:

- Con đã nhìn rõ con quái vật nó làm con sợ hết hồn chưa?

- Con nhìn rõ rồi. Nhưng con không hiểu. Thế ra vùng này có những người khổng lồ à?

- Phải. Khi họ đi kheo.

Rồi thày tôi cắt nghĩa cho tôi nghe. Những dân miền Lăng-Đê muốn qua những bãi cát hay bãi lầy thường dùng kheo để đi cho khỏi thụt chân xuống cát, xuống bùn. Những cái kheo là những cái gậy dài, trên đầu có bàn guốc để xỏ và buộc chân vào.

- Vì thế, họ thành những người khổng lồ với những đôi giầy bảy dặm trước con mắt những trẻ em hay sợ hão huyền.

Chương X

trước cửa công

Thành phố Pô đã để lại cho tôi một kỷ niệm rất êm đềm. Mùa đông, trời ít gió. Ngày nào chúng tôi cũng diễn trò trong các phố, trong các công trường, trên các đại lộ và thu thập được khá nhiều.

Suốt mùa đông, chúng tôi ngày nào cũng có một số khán giả rất đông, phần nhiều là trẻ con Anh, những em trai da thịt hồng hào, những em gái nhỏ xinh tươi với đôi mắt dịu dàng như đôi mắt Thùy-Nhi. Các em xem mãi và không kêu: “cứ mãi một trò”. Các em thường đem sẵn các thứ bánh ngọt trong túi để lúc xem phân phát cho Hảo-Tâm, cho các con chó và cho cả tôi nữa, do đó tôi mới biết mùi những thứ bánh ngon.

Mùa xuân đến. Ngày bắt đầu nóng thì chúng tôi cũng bắt đầu thưa khách dần. Một chiều, sau khi diễn trò, các em bé lần lượt bắt tay Hảo-Tâm và Lãnh-Nhi như để vĩnh biệt chúng tôi.

Hôm sau, chúng tôi thấy trơ trọi trong công trường không một khán giả. Chúng tôi nghĩ phải rời đi nơi khác.

Một buổi sáng, chúng tôi lên đường. Ngoảnh lại thì những ngọn tháp thành Pô đã xa mờ. Chúng tôi tiếp tục cuộc sống lang thang trên đường cái. Chúng tôi cứ thẳng trước mặt mà đi, khi xuống lũng lên đồi, khi qua rừng lội suối, cứ đi như thế không biết bao nhiêu là ngày, bao nhiêu là tuần, bên tay phải chúng tôi vẫn thấy dẫy Py-rê-nê xa trông như đám mây thành.

Rồi một buổi chiều, chúng tôi đến một thành phố lớn, ở trên dòng sông con, trong miền ruộng đất phì nhiêu. Nhà cửa xây toàn bằng gạch đỏ trông không đẹp mấy. Đường xá rải bằng sỏi vừa rắn vừa nhọn làm đau chân những kẻ lữ hành, đã mỏi mệt vì đi mỗi ngày mười dặm.

Thầy tôi bảo chúng tôi đã tới tỉnh Tu-lu và sẽ lưu trú ở đó ít lâu.

Theo lệ thường, công việc thứ nhất của chúng tôi là phải tìm chỗ để hôm sau ra mắt công chúng. Chúng tôi tìm được ngay vì công trường ở Tu-lu không hiếm, nhớ là về phía vườn Bách-Thảo. Ở đó có một hoa viên đẹp và râm mát bốn ngả có đại lộ đổ vào. Chúng tôi chọn một chỗ rất tốt bên lề đại lộ đó. Và buổi diễn đầu tiên đã được nhiều người thưởng thức.

Không may, người cảnh binh coi phố đó không đồng ý cho chúng tôi diễn tại chỗ ấy, hoặc vì ông ta không thích cho, hoặc chúng tôi làm ngăn trở công vụ của ông ta, hoặc vì một lẽ khác nên ông ta cố tình đuổi chúng tôi đi.

Ở hoàn cảnh của chúng tôi, nên nhượng bộ viên cảnh sát là phải, là khôn vì cuộc chiến đấu giữa những kẻ diễn trò rong với cảnh sát viên là một cuộc chiến đấu không đồng sức, cầm chắc cái thua. Nhưng, không hiểu sao thầy tôi ngày thường nhẫn nại là thế, bỗng nổi phẫn khí lên và không chịu bãi trò.

Tuy là người diễn trò nghèo túng – bây giờ mới phải thế – thầy tôi vẫn hào hãnh. Hơn nữa, thầy tôi lại cho mình là phải, sẽ được bênh vực vì không làm gì hại đến luật pháp hoặc mệnh lệnh cảnh sát cả.

Thầy tôi nhất định không nghe khi người cảnh sát đến đuổi đi.

Khi thầy tôi muốn nén tức giận, thầy tôi thường có tính tỏ ra quá lễ phép. Cứ nghe những lời bẩm gởi của thầy tôi, người ta tưởng thầy tôi đang đứng trước mặt một vị cao cấp.

Thầy tôi, mũ cầm tay, nghiêng mình trả lời người cảnh sát:

- Kính thưa vị đại diện của Nha Cảnh Sát, xin ngài sẵn lòng làm ơn cho chúng tôi xem bản sắc lệnh của Quý Nha nói về việc cấm những lẻ làm trò hèn mọn như chúng tôi không được trình diễn cái tiểu xảo của chúng tôi trên công trường này.

Người cảnh binh bảo không phải là việc cãi vã mà là việc tuân lệnh.

Vỹ-Tiên đáp:

- Đành thế. Tôi đã hiểu rõ. Tôi xin cam đoan là tuân lệnh ngay lập tức, nếu ngài đại diện cho tôi biết ngài đã thi hành khoản nào trong mệnh lệnh cảnh sát?

Hôm đó người cảnh sát quay ra, thầy tôi, mũ cầm tay giả bộ lễ phép theo tiễn chân và cúi rạp xuống chào.

Nhưng hôm sau, người cảnh sát lại đến, bước qua dây và nhảy vào giữa vòng trò đang diễn. Người cảnh sát hầm hầm bảo:

- Giàm miệng chó lại!

- Giàm miệng chó?

- Đó là luật cảnh sát, ông phải biết.

Lúc đó chúng tôi đang diễn “Liều thuốc tẩy”. Vì tấn kịch đó khai diễn hôm nay là lần thứ nhất tại thành phố này nên đông người xem lắm. Bởi thế, sự can thiệp của người cảnh sát làm cho công chúng xôn xao và bất mãn.

- Đừng phá đám!

- Để họ diễn xong đã!

Vỹ-Tiên giơ tay yêu cầu yên lặng.

Xong, cất mũ cúi chào quá thấp, lông mũ quét cả đất. Vỹ-Tiên lại trước mặt viên cảnh sát, kính cẩn nghiêng mình ba xá và hỏi:

- Kính thưa ngài đại diện khả kính của Nha Cảnh sát có phải ngài truyền tôi phải giàm miệng chó lại không?

- Phải, giàm ngay lại. Còn lôi thôi cái gì?

Vỹ-Tiên liền hướng vào công chúng và cả viên cảnh sát nói to:

- Giàm miệng Lãnh-Nhi, Hiệp-Nhi, Thùy-Nhi! Đó là ngài chưa soi xét cho. Hiện Bác sĩ Lãnh-Nhi, nổi tiếng và thông thái khắp hoàn cầu đang cho bệnh nhân uống thuốc, nếu giàm miệng bệnh nhân lại thì uống làm sao được? Kính thưa ngài, tôi xin thất lễ trình ngài biết cho rằng chính do đằng miệng mà Y học đã dùng để dẫn thuốc trị bệnh. Nay Bác sĩ Lãnh-Nhi không dám tự tiện dùng lối khác để dẫn thuốc trước mặt các vị khán giả ưu tú này.

Đến câu này, tiếng cười nổi lên vang dậy. Ai cũng khen ngợi Vỹ-Tiên và còn chế nhạo viên cảnh binh. Họ thích nhất khi thấy con Hảo-Tâm cũng làm trò trêu cợt. Nó đứng đằng sau vị đại diện cảnh sát cuộc. Nó bắt chước đúng điệu bộ của vị này, khi khoanh tay trước ngực, khi khuỳnh tay hai bên sườn, khi ngã đầu về đằng sau và nhăn nhó mặt mũi, trông không nhịn cười được.

Khó chịu về những câu nói của Vỹ-Tiên, lại bực tức bởi những tiếng cười của công chúng, viên cảnh sát coi bộ không phải là người kiên nhẫn, quay phắt ra.

Viên cảnh sát gặp ngay con khỉ đứng khuỳnh tay hai bên sườn ra vẻ đắc chí. Người và vật trừng mắt nhìn nhau trong mấy giây đồng hồ như để xem ai phải cúi mặt chịu thua.

Tiếng cười rộ lên làm viên cảnh sát bỏ đi ra, còn ngoái lại giơ nắm tay đe rằng:

- Đến mai nếu ông không giàm miệng chó, tôi sẽ biên bản trình Tòa. Bảo ông biết thế.

Vỹ-Tiên đáp:

- Đến mai! Thưa ngài, đến mai!

Rồi Vỹ-Tiên lại khúm núm cúi chào rất lễ phép. Cuộc diễn lại tiếp tục.

Tôi yên trí thế nào thầy tôi cũng đi mua “giàm” cho chó, nhưng không, suốt cả buổi chiều, thầy tôi chẳng nói gì đến chuyện cảnh sát cả. Tôi đánh bạo nhắc thầy tôi:

- Thầy nên mua giàm đeo trước cho con Lãnh-Nhi quen đi, kẻo đến lúc làm trò mới dùng sợ nó dứt ra.

- Con tưởng ta phải đeo giàm cho chó chăng?

- Trời! Thầy không xem ông Cảnh binh cố ý hành ta?

- Con cứ yên tâm. Mai ta sẽ thu xếp để khỏi phải biên bản và cũng để cho những con chó của ta khỏi phải khổ. Về mặt khác, cũng nên nhân dịp đó làm cho công chúng vui thêm. Người Cảnh binh đó có lẽ sẽ giúp chúng ta thu được nhiều tiền, vì hắn sẽ vô tình đóng một trò trong tấn hài kịch mà ta đang dự bị. Muốn thế, ngày mai con sẽ chăng giây và dạo một vài bản thụ cầm. Khi công chúng dự khá đông và người Cảnh binh đến thì sẽ có mặt ta và các con chó ở đấy. Lúc đó, hài kịch sẽ mở màn.

Tôi kém vui và thấy ngài ngại. Tôi không muốn ra chỗ diễn một mình. Nhưng biết tính thầy tôi một khi đã quyết điều gì thì khó ai lay chuyển được. Tôi đành phải vâng lời.

Sáng hôm sau, tôi đến chỗ diễn cũ xếp đặt và chăng dây. Tôi vừa dạo đàn vài tiếng đã thấy công chúng kéo đến rộn rã chung quanh vòng dây.

Mấy tháng gần đây, nhất là trong thời gian ở Pô, thầy tôi đã dạy tôi đánh thụ cầm. Tôi học không đến nỗi dở lắm. Tôi thuộc được nhiều bài, duy có khúc “Dân ca Ý” là tôi đàn và hát trội hơn cả, nhiều lần được công chúng vỗ tay tán thưởng.

Sở dĩ sáng nay công chúng đến đông như vậy là vì họ biết chuyện xảy ra hôm trước. Họ đem theo cả bạn hữu đi. Ở Tu-lu, họ không thích Cảnh binh. Họ tò mò muốn xem ông già Ý khu xử thế nào. Mặc dầu Vỹ-Tiên ngọt ngào nói: “Thưa ngài, đến mai!”, người ta cũng đoán được rằng sự gặp gỡ hôm nay sẽ có nhiều trò vui thích do ông già “cương” ra để trêu người cảnh binh vụng về và bẳn tính.

Vì thế khi thấy có một mình tôi với con Hảo-Tâm, mấy người khách đã hỏi tôi:

- Ông già Ý không đến à?

- Ông sắp đến.

Rồi tôi tiếp tục hát bài “Dân ca” của tôi. Một lát sau, không phải thầy tôi đến mà là viên cảnh binh đến. Hảo-Tâm nhìn thấy trước, nó liền khuỳnh tay lên sườn, ngửa đầu về đằng sau, đi đi lại lại nghênh ngang trong vòng dây.

Công chúng vỗ tay cười nhiều lần.

Viên Cảnh binh bực tức tròn xoe mắt nhìn tôi.

Công chúng lại cười ầm.

Tôi cũng buồn cười, nhưng lo quá, không biết chuyện này sẽ đi đến đâu. Nếu thầy tôi ở đây, thầy tôi sẽ đối đáp với viên cảnh binh. Nhưng tôi có một mình, không biết ăn đối làm sao nếu người cảnh binh hỏi tôi.

Người cảnh binh trông mặt hầm hầm, có ý tức giận lắm.

Ông ta đi đi lại lại ngoài dây, mỗi khi qua mặt tôi, ông lại liếc qua vai lườm tôi, tôi sợ có điều chẳng lành.

Con Hảo-Tâm không hiểu tình hình rất khẩn trương đó, cứ trêu người cảnh binh mãi. Nó cũng đi đi lại lại, qua mặt tôi, nó cũng ngẹo cổ lườm tôi và nhăn nhó làm cho công chúng cười phá lên.

Không dám để cho người cảnh binh khích nộ đến cực điểm, tôi gọi con Hảo-Tâm vào, nhưng nó không chịu vì cái trò đó đang làm nó đắc chí. Tôi đuổi bắt nó thì nó lại tuột đi.

Người cảnh binh đang lúc nổi sung, lóa cả mặt, tưởng tôi thúc giục con khỉ làm trò trêu ông ta, liền nhảy tót vào trong dây.

Chỉ hai bước là ông ta đến bên tôi và tát tôi một cái ngã gục xuống.

Tôi lóp ngóp bò dậy, mở mắt ra thì – ủa! Lạ quá! Không biết thầy tôi đến lúc nào mà đã đứng giữa tôi và người cảnh binh mà ông đang nắm chặt lấy cổ tay. Thầy tôi nói:

- Tôi cấm ông không được đánh đứa trẻ này nữa. Cái cử chỉ vừa rồi của ông rất hèn!

Người cảnh binh giật tay ra nhưng ông già không chịu buông.

Hai người giáp mặt nhau, nhìn nhau chòng chọc.

Người cảnh binh lúc đó mặt vàng như nghệ. Thầy tôi trông vẻ cao quý, ngữa hẳn cái đầu tóc trắng như tuyết để lộ nét mặt phẫn khái và oai hùng.

Đứng trước thái độ đó, tôi tưởng người cảnh binh phải xấu hổ lắm. Nhưng không thế, ông ta giật mạnh tay ra, túm luôn cổ thầy tôi và đẩy về phía trước một cách rất hung hãn.

Thầy tôi ức quá, đứng thẳng người, lấy cánh tay quất mạnh vào cổ tay người cảnh sát để gỡ ra.

Vỹ-Tiên hỏi:

- Ông muốn làm gì tôi?

- Tôi muốn điệu ông về bót. Ông phải đi ngay.

Vỹ-Tiên nói:

- Muốn đuổi chúng tôi, ông không cần phải đánh thằng bé.

- Không cần phải nói. Đi theo tôi.

Vỹ-Tiên, trấn tĩnh ngay, không sợ sệt gì, quay lại dặn tôi:

- Con hãy về nhà trọ. Cứ ở đó với bạn con. Ta sẽ gởi tin tức cho con hay.

Thầy tôi không nói thêm gì được nữa vì bị người cảnh binh lôi tuột đi.

Cuộc diễn của chúng tôi đã kết thúc như thế đó. Thầy tôi tưởng làm cho nó vui hơn, ai ngờ lại sinh nỗi nước này!

Cử chỉ đầu tiên của các con chó là chạy luôn theo chủ. Nhưng thầy tôi vẫy tay bắt chúng lộn lại với tôi. Tôi ngạc nhiên thấy con nào cũng đeo một cái giàm bằng giải lụa thắt thành những bông hoa rất đẹp. Lãnh-Nhi lông trắng đeo giàm đỏ, Hiệp-Nhi lông đen đeo giàm trắng bạch. Còn Thùy-Nhi lông xám đeo giàm xanh. Đó là những cái giàm phường tuồng.

Công chúng giải tán rất nhanh. Một vài người ở lại sau, bàn tán về chuyện vừa xảy ra:

- Ông già phải.

- Ông già trái.

- Tại sao người cảnh binh lại đánh thằng bé con? Nó chả có tội gì!

- To chuyện đấy! Nếu người cảnh binh khép tội kháng cự quan lệnh, ông già tất phải tù!

Tôi về nhà trọ, buồn rầu và lo lắng.

Bây giờ tôi không còn ở thời kỳ sợ ông Vỹ-Tiên như buổi đầu nữa. Nói cho đúng cái thời kỳ đó cũng ngắn thôi. Vì dần dần tôi thấy mến ông một cách thành thực và mỗi ngày tình yêu càng khắng khít hơn lên. Chúng tôi cùng sống một đời du mục. Chúng tôi ở bên nhau từ sáng đến chiều, và từ chiều đến sáng nằm chung một ổ rôm. Một người cha săn sóc con vị tất đã được như thầy tôi chăm nom cho tôi. Thầy tôi dạy tôi viết, dạy tôi làm tính, dạy tôi hát và đánh đàn. Trong những cuộc đường trường, thầy tôi cho tôi những bài học khi về điều này, khi về điều khác, tùy theo trường hợp hay sự ngẫu nhiên đưa đến vấn đề. Những ngày đông giá lạnh, chúng tôi cùng đắp chung một chăn. Những ngày trời nắng như thiêu, thầy tôi mang bớt những hành lý cho tôi khỏi đeo nặng trên đường xa. Khi ngồi bàn ăn, nói đúng ra là đến bữa ăn vì chúng tôi không có bàn ăn bao giờ, thầy tôi không bao giờ ăn lấy một mình và dành miếng không ngon cho tôi. Chúng tôi chia đều những miếng ngon cũng như những miếng không ngon. Tóm lại, chúng tôi vui buồn có nhau, ngọt bùi cay đắng có nhau. Thực ra cũng có khi thầy tôi beo tai tôi hay tát tay tôi, nhưng không phải vì những hình phạt vặt đó mà tôi quên được sự săn sóc, lời ngọt ngào và lòng âu yếm của thầy tôi – đối với tôi từ ngày tôi theo thầy tôi. Nói vắn tắt: thầy tôi thương tôi và tôi cũng mến thầy tôi. Bởi thế, cuộc chia ly này làm cho tôi đau đớn vô cùng.

Bao giờ tôi lại trông thấy thầy tôi?

Người ta đã nói đến “ngồi tù”. Thời gian ngồi khám, ước độ bao lâu? Trong thời gian đó, tôi sẽ làm gì? Sống thế nào? Sống bằng gì?

Thầy tôi có thói quen giữ tiền trong mình. Trước khi bị bắt không kịp giao tiền cho tôi.

Tôi chỉ còn một vài xu trong túi. Số tiền này đủ nuôi cả bọn, Hảo-Tâm, ba con chó và tôi không?

Mất hai ngày, tôi ngồi yên trong nhà lo lắng, không dám thò ra sân nhà trọ, săn sóc các con chó và Hảo-Tâm, xem chừng con nào cũng ngơ ngác và buồn rầu.

Ngày thứ ba, một người đem phong thư của thầy tôi cho tôi.

Thầy tôi nói trong thư rằng thầy tôi bị giữ để đến thứ bảy tới đưa ra Tòa án về tội kháng cự công chức đang thi hành nhiệm vụ và về tội làm thương tổn đến thân thể viên chức đó.

Thầy tôi nói thêm: trong khi cả giận, ta đã làm một lỗi lớn, nó sẽ làm ta khổ não. Ngày phiên tòa, con sẽ đến để lĩnh một bài học. Đoạn thầy tôi khuyên tôi mấy câu về cách cư xử. Cuối thư, thầy tôi không quên hôn tôi và bảo tôi vuốt ve các con Lãnh-Nhi, Hảo-Tâm, Thùy-Nhi và Hiệp-Nhi thay cho thầy tôi.

Trong khi tôi đọc thư, Lãnh-Nhi ngồi dưới chân tôi nghếch mõm lên ngửi hít rồi ve vẩy đuôi, thì ra nó đã đánh hơi biết được tờ giấy qua tay chủ nó. Đã ba hôm nay, bây giờ tôi mới thấy nó tươi tỉnh lên một chút.

Sáng thứ bảy, hỏi người ta tôi biết Tòa án sẽ họp 10 giờ. Nhưng mới có 9 giờ tôi đã đến Tòa trước tiên và lén vào ngồi trong một góc. Dần dần phòng đầy người. Trong đám đến xem tôi nhận thấy nhiều người quen mặt vì họ đã chứng kiến tấn kịch hôm nọ.

Tôi chẳng hiểu Tòa án và Công lý là gì. Nhưng khi vào Tòa, tôi cảm thấy một mối lo sợ mặc dầu người ta sắp xử thầy tôi chứ không phải tôi. Tôi lẩn vào ngồi sau một cái lò sưởi lớn và sát tường để không ai chú ý đến tôi.

Vụ thứ nhất không phải việc của thầy tôi. Tòa xử những người ăn cắp, những người đánh nhau. Ai cũng kêu oan và bị án cả. Cuối cùng, hai người Hiến binh kèm thầy tôi ra và để ngồi xuống chỗ ghế những người bị cáo trước.

Đầu tiên, người ta làm gì, hỏi gì và thầy tôi trả lời thế nào, tôi cũng không biết, vì tôi cảm xúc quá không nghe thấy gì và cũng chẳng hiểu gì cả. Vả lại, tôi không có ý nghe, tôi chỉ để mắt trông thầy tôi. Thầy tôi đứng đó, mái tóc bạc vuốt về đằng sau, trông có vẻ ngượng ngùng và buồn bã. Tôi lại nhìn quan tòa. Quan tòa hỏi:

- Như vậy ông thú nhận có thoi viên cảnh binh đến bắt ông nhiều cái?

- Thưa ông Chánh án. Không phải nhiều cái. Có một thoi thôi cốt để gỡ tay ông ấy túm lấy cổ tôi. Khi tôi đến chỗ diễn trò, gặp ông ấy đang tát đứa bé trong đoàn tôi.

- Đứa bé không phải con ông chứ?

- Thưa ông Chánh án, không, nhưng tôi coi nó như con tôi. Khi tôi trông thấy nó bị đánh đập, tôi tức giận, có chạy lại nắm tay ông cảnh binh để khỏi hành hung nữa.

- Chính ông có đánh viên cảnh binh?

- Nghĩa là khi ông cảnh binh nắm lấy cổ tôi, tôi phẫn uất quên hẳn ông ta là ai, chỉ thấy có người ức hiếp thì tôi chống lại. Đó là một cử động tự nhiên, không dụng tình…

- Với tuổi ông, không nên nóng giận quá thế.

- Người ta không nên nóng giận thật. Nhưng khốn nỗi nhiều khi người không làm được những điều phải làm. Ngày nay, tôi nhận thấy đúng như thế.

- Bây giờ đến lượt thầy cảnh binh.

Viên cảnh binh ra khai đúng những việc đã xảy ra, nhưng nhấn mạnh về chỗ người ta đã nhạo báng người ông ta, tiếng ông ta, điệu bộ ông ta và nhất là chỗ ông bị đánh vào cánh tay.

Khi người cảnh binh cung khai như thế đáng lẽ thầy tôi phải chú ý nghe xem có xuyên tạc không, nhưng thầy tôi nhìn xuống phòng và khắp các phía. Tôi hiểu thầy tôi tìm tôi. Tôi liền lén lên hàng nghế đầu.

Thầy tôi trông thấy tôi và nét mặt sáng bừng lên. Tôi nhận thấy thầy tôi rất mừng rỡ được gặp tôi. Bất giác, hai hàng nước mắt của tôi chảy ra.

Cuối cùng ông Chánh án hỏi:

- Đó là tất cả những gì ông khai để bào chữa? Ông còn nói thêm gì nữa không?

- Riêng về phần tôi, tôi không nói thêm gì nữa. Nhưng về phần đứa trẻ mà tôi thương như con tôi, nó sẽ phải sống một mình. Vì đứa trẻ đó, tôi kêu gọi lượng khoan hồng của Tòa và xin Tòa đừng để tôi xa cách nó lâu ngày.

Tôi tưởng thầy tôi kêu thế, thì Tòa sẽ tha bổng. Nhưng không phải thế.

Một quan Tòa nữa đứng lên nói vài phút. Xong, ông Chánh án, giọng nghiêm nghị tuyên án:

- Xét rằng Vỹ-Tiên đích xác có xúc phạm đến danh dự và thân thể của một viên chức đang thi hành phận sự, tòa phạt Vỹ-Tiên hai tháng tù ngồi và 100 phật-lăng tiền vạ.

Hai tháng tù ngồi!

Tôi đưa mắt đầy lệ nhìn thầy tôi. Cái cánh cửa đã mở cho thầy tôi vào bây giờ lại mở cho thầy tôi ra với người hiến binh đi theo rồi lại đóng sập lại.

Hai tháng trời xa cách!

Biết đi đâu bây giờ!

Chương XI

nương náu dưới thuyền

Khi tôi trở về nhà trọ, người thẩn thờ, mắt đỏ; tôi qua cửa sân thì ông chủ quán gọi giật tôi lại và hỏi:

- Tin tức thầy mầy ra sao?

- Thầy tôi ngồi tù.

- Bao nhiêu?

- Hai tháng.

- Còn phạt vạ?

- Một trăm phật-lăng.

Chủ quán nhắc đi nhắc lại hai ba lần:

- Hai tháng tù, một trăm phật-lăng phạt!

Tôi định vào trông mấy con chó thì chủ quán lại giữ tôi và hỏi:

- Thế mày định làm gì trong hai tháng ấy?

- Thưa ông, tôi không biết.

- Không biết? Mày có đủ tiền ăn và nuôi các con vật đấy chứ?

- Thưa ông, không.

- Vậy mày trông vào tao để ở đây hẳn?

- Ồ! Thưa ông, không. Tôi chẳng biết trông vào ai cả.

Chủ quán nói tiếp:

- Này, bé ơi! Mày nghĩ phải đấy. Thầy mày còn nợ tao nhiều lắm. Cho mày ăn chịu những hai tháng rồi ai trả tiền cho tao? Mày phải đi đi.

- Đi. Thưa ông, ông bảo tôi đi đâu bây giờ?

- Mày muốn đi đâu thì đi. Không phải việc của tao. Tao có phải là cha mày đâu. Mà cũng chẳng phải là thầy mày. Tại sao mày cứ muốn tao cho mày ở?

Tôi ngây người. Nói gì nữa? Chủ quán rất có lý. Ông giữ ta làm gì? Ta chỉ là cái nợ cho ông.

- Thôi mày vào dắt chó, cõng khỉ đi thôi. Nhớ để lại cái túi của thầy mày. Thầy mày khi được tha sẽ đến lấy và thanh toán các khoản.

Câu nói đó làm tôi nảy một ý nghĩ và tôi tưởng có cách để ở lại. Tôi nói:

- Thưa ông, vì thầy tôi thế nào cũng còn trở lại đây để thanh toán tiền nong. Vậy ông cứ cho tôi ở đến ngày đó. Tiền ăn của tôi sẽ tính thêm vào khoản nợ của thầy tôi, có được không?

- Thật à? Thầy mày chỉ trả được vài ngày cơm thôi, chứ hai tháng lại là chuyện khác.

- Ông cho ăn ít cũng được.

- Thế còn những con vật của mày? Không được, mày phải đi. Mày có thể đi kiếm ăn trong các làng.

- Nhưng thưa ông, tôi đi thì thầy tôi về biết đâu mà tìm tôi? Vì hết hạn tù thầy tôi chỉ tìm tôi ở đây thôi.

- Có khó gì! Đến ngày đó thì mày trở về đây. Từ nay đến ngày đó, mày sẽ tạm đi chơi chừng hai tháng, vào các làng gần đây, có thể kiếm ăn được đấy!

- Nếu thầy tôi viết thư về cho tôi?

- Tao sẽ giữ cho mày.

- Nhưng nếu tôi không trả lời?

- Mặc mày! Mày vặn tao mãi! Ra khỏi ngay cái nhà này! Mau! Tao cho mày 5 phút để thu xếp. Nếu mày không đi tao sẽ liệu cho mày!

Tôi thấy kêu nài cũng vô ích. Tôi liền vào chuồng ngựa, tháo Hảo-Tâm và mấy con chó, buộc túi đồ lại, đeo đàn lên vai và ra thẳng.

Chủ quán đứng ở cửa để kiểm soát và nói theo:

- Nếu có thư, ta sẽ giữ cho mày.

Tôi rảo bước ra thành phố cho nhanh vì chó của tôi không đóng giàm. Nếu lại gặp cảnh binh thì khốn. Tôi không đủ tiền mua giàm. Đếm đi đếm lại mãi, vốn liếng tôi chỉ còn có 11 xu trong túi. Thầy tôi bị bắt, tôi cũng bị bắt nữa thì ai nuôi đàn chó và khỉ? Bây giờ nghiễm nhiên tôi là ông bầu đoàn diễn, ông chủ gia đình, tôi, một đứa trẻ vô gia đình và tôi thấy một gánh nặng đè trĩu trên vai.

Trong khi đi những con chó cứ ngước mắt nhìn tôi, chúng không nói được, nhưng cũng làm cho tôi hiểu chúng muốn gì? Chúng đói bụng.

Hảo-Tâm ngồi trên cái túi đeo trên vai tôi, thỉnh thoảng lại kéo tai tôi, bắt tôi ngoảnh lại: nó lấy tay cào cào vào bụng nó. Cái cào đó cũng có nghĩa như cái nhìn của những con chó.

Tôi cũng thế, nếu có thể được thì tôi cũng kêu đói như chúng, vì tôi cũng như chúng không có mẩu bánh nhỏ nào trong bụng từ sáng đến giờ.

Với 11 xu trong túi, chúng tôi không thể ăn bữa sáng và bữa chiều. Chúng tôi ăn một bữa, bữa đó sẽ ăn vào giữa ngày có thể thay thế cho hai buổi kia.

Nhà trọ mà chúng tôi vừa từ biệt, ở trên đường đi Montpellier. Vì thế lúc ra đi, chúng tôi cũng theo con đường đó.

Chúng tôi vội ra khỏi thành phố cho nhanh nên không kịp hỏi đường. Điều cần nhất cho chúng tôi là phải thoát mau ra ngoài thành phố Tu-lu, các việc khác không khẩn cấp mấy. Tôi không lựa chọn nên đi tỉnh này hay tỉnh khác vì đi đến đâu người ta chả đòi tiền ăn, đòi tiền trọ. Bây giờ việc trọ không cần lắm là vì mùa hè, chúng tôi có thể ngủ ngoài trời, dưới gốc cây hay cạnh bức tường được.

Nhưng còn việc ăn?

Đi đã được hai giờ rồi, tôi không dám ngoảnh cổ lại. Mỗi lúc những con chó lại ngước mắt nhìn tôi như van lơn, và con khỉ cứ kéo tai tôi và gãi bụng nhiều hơn.

Bây giờ tôi ra khỏi tỉnh Tu-lu rồi không sợ gì nữa. Tôi vào một hàng bánh mì. Tôi hỏi mua một tấm rưỡi bánh.

Chủ hàng bảo tôi:

- Sao em không mua cả hai chiếc. Không nhiều đâu. Phải cho các con vật ăn no chứ?

Không nhiều thực. Nhưng nếu mua cả hai tấm thì hết 10 xu chỉ còn lại một xu thôi. Tôi không dám tiêu hoang, phải dành lại chút tiền đến ngày mai cho khỏi chết đói trước khi kiếm được đồng khác. Mỗi tấm bánh 5 xu thì tấm rưỡi hết 7 xu rưỡi… Tôi còn lại 3 xu rưỡi.

Nhẩm tính xong, tôi bảo bà hàng cứ bán cho tôi chiếc rưỡi vì tôi chỉ cần có thế không mua hơn.

Bà đưa cho tôi một chiếc và cắt nửa chiếc nữa. Bà trao cho tôi và nói:

- Nữa này già đấy, đáng 3 xu.

Rồi bà vơ cả 8 xu của tôi vào ngăn kéo.

Tôi thường thấy nhiều người từ chối không lấy lại những xu lẻ do nhà hàng trả lại và nó không dùng để làm gì. Nếu bà hàng trả lại nửa xu thừa cho tôi thì không khi nào tôi lại từ chối. Nhưng bà ta có trả tôi đâu mà tôi cũng không dám đòi. Tôi lẳng lặng cầm bánh đi ra.

Ba con chó mừng rỡ nhảy nhót chung quanh tôi. Hảo-Tâm kéo tóc tôi và kêu những tiếng nhỏ.

Đi một quãng ngắn, tới một cây to bên đường, tôi hạ đàn, tựa vào gốc cây rồi ngồi phịch xuống vệ cỏ, những con chó đến xếp hàng trước mặt tôi. Lãnh-Nhi đứng giữa, Hiệp-Nhi và Thùy-Nhi ở hai bên. Còn Hảo-Tâm không mệt lắm đứng gần đó rình có bánh là chộp lấy phần.

Việc chia bánh của tôi rất quan trọng. Tôi cắt làm 5 phần hết sức đều nhau. Mỗi phần lại cắt nhiều khoanh ném cho các con vật của tôi ăn dần. Vì Hảo-Tâm bé nhỏ ăn ít đã no nên tôi giữ lại ba miếng nhỏ dành cho ba con chó ăn sau này.

Tiệc xong, bây giờ là lúc tôi phải nói đôi lời cho các bạn tôi biết cái hiện tình nguy ngập của chúng tôi.

Lãnh-Nhi có lẽ đoán được ý tôi, nên đôi mắt nó cứ long lanh nhìn tôi. Tôi nói:

- Phải đấy, Lãnh-Nhi ơi! Phải đấy các bạn Thùy-Nhi, Hiệp-Nhi và Hảo-Tâm ơi! Tôi có một tin rất buồn cho các bạn biết: chủ ta phải lìa ta trong hai tháng.

Lãnh-Nhi kêu:

- Ẳng!

- Đó là một điều đau khổ cho chủ ta và chúng ta. Chủ ta vẫn kiếm bánh cho chúng ta ăn. Bây giờ chủ ta đi vắng, chúng ta ở vào một tình thế rất nguy khốn. Chúng ta hết “tiền”!

Nghe tiếng đó Lãnh-Nhi hiểu ngay, đứng dậy bằng hai chân sau và đi vòng quanh như bộ xin tiền các “quý khán giả”.

Tôi nói tiếp:

- Bạn muốn chúng ta đi diễn trò. Ý kiến rất hay. Nhưng chắc đâu thu được tiền? Việc khó khăn là ở chỗ đó. Tôi nói cho các bạn biết tất cả của cải của chúng ta chỉ còn có 3 xu, vì thế bữa nay chúng ta phải ăn đói. Tình trạng là thế. Tôi mong rằng các bạn hiểu cái cảnh nguy khốn mà chúng ta đang lâm vào và đáng lẽ, trêu chọc tôi, thì các bạn nên đem hết trí thông minh vào… sự vụ. Tôi kêu gọi sự vâng lời, sự tiết độ và lòng can đảm của anh em. Các bạn hãy siết chặt hàng ngũ. Hãy tin vào tôi cũng như tin vào các bạn.

Tôi không dám tin chắc những bạn tôi đã hiểu hết những lời hay ý đẹp trong bài diễn văn ứng khẩu của tôi, nhưng tôi chắc chắn rằng các bạn của tôi cũng hiểu được đại ý, vì thấy vắng mặt chủ tôi, chúng biết có sự gì trầm trọng và chúng không đợi tôi giải thích. Thì tôi đã giải thích. Nếu chúng không hiểu tất cả những điều tôi nói, ít ra chúng cũng biết cách tôi đối đãi với chúng thế nào, nên sau khi tôi dứt lời, con nào trông cũng có vẻ hài lòng và dễ chịu lắm.

Con nào cũng hài lòng, là tôi nói riêng về mấy con chó thôi, chứ con Hảo-Tâm, không thể bắt nó chú ý lâu về một việc gì. Khi tôi nói, lúc đầu nó rất chăm chú, nhưng nghe được hai chục tiếng thì nó đã nhảy tót lên cây đánh đu ở hết cành này đến cành khác. Nếu Lãnh-Nhi mà vô lễ thế, thì tôi đã phật ý, nhưng là Hảo-Tâm thì tôi chấp nó làm gì.

Nó chỉ là một con vật vô tâm và óc rỗng, cũng nên để nó chơi đùa một chút.

Tôi xin thú thực rằng tôi cũng muốn nhảy nhót và đánh đu như nó thì thích lắm. Nhưng cái trọng trách và chức vụ của tôi trong lúc này không cho phép tôi được giải trí kiểu đó.

Nghỉ đã lâu rồi, tôi ra hiệu lên đường. Chúng tôi phải tìm chỗ trú đêm nay và nhất là bữa sáng mai. Chỗ trú không cần lắm, chúng tôi có thể tiết kiệm bằng cách ngủ ngoài trời.

Đi được một giờ, chúng tôi trông xa xa thấy một làng, mừng thầm may ra có thể thực hiện được ý muốn của tôi.

Coi bề ngoài, làng này có phần xơ xác, số thu lượm sẽ chẳng được là bao, nhưng tôi không thể vì thế mà nản lòng. Tôi không khó tính về điểm đó, tôi tự nghĩ làng này càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi lo gặp cảnh sát càng ít bấy nhiêu.

Tôi mặc y phục cho các bạn tôi rồi rất trật tự, chúng tôi chững chạc vào làng. Thiếu cái còi mà thầy tôi vẫn giữ. Thiếu cả cái hình dáng cao lớn và cái mái tóc đặc biệt của thầy tôi vẫn làm cho mọi người chú ý. Nhìn cái thân hình loắt choắt của tôi mà tôi buồn và không vững dạ.

Trong khi đi, tôi nhìn sang hai bên, xem có ảnh hưởng gì không. Rất ít, vì người ta ngửng đầu lên rồi cúi xuống. Chả có ma nào theo sau chúng tôi cả.

Đi đến một bãi rộng, giữa có trồng cây, chúng tôi dừng lại. Tôi lấy đàn ra và đánh một vũ khúc. Tiếng đàn vui, ngón tay tôi đưa đẩy nhịp nhàng, nhưng lòng tôi buồn hình như có vật gì đè nặng trên hai vai.

Tôi bảo Hiệp-Nhi và Thùy-Nhi ra biểu diễn. Chúng tuân lời và nhảy múa. Nhưng chẳng có ai đến xem cả. Gần đó tôi nhìn thấy mấy người đàn bà đang đứng ở cửa đan áo và nói chuyện với nhau.

Tôi tiếp tục gẩy đàn. Hai con Thùy-Hiệp cố sức nhảy múa.

Rồi cũng có người đến xem chứ! Nếu có một người đến trước, tất có người thứ hai, thứ ba, thứ mười, thứ hai mươi.

Nhưng đàn, múa vô ích cả. Họ ở nhà họ cả mà cũng chẳng thèm nhìn chúng tôi nữa.

Thực đáng thất vọng!

Tuy nhiên tôi không nản chí, tôi cố đánh đàn, đánh to, đánh mạnh tưởng chừng như sắp đứt dây.

Chợt một em bé mới chập chững đi, rời ngưỡng cửa đi ra phía chúng tôi. Mẹ em bé có lẽ sẽ theo em.

Rồi một người bạn nữa, thế là chúng tôi có khán giả, có tiền công.

Tôi đánh đàn nhỏ đi và rất du dương để em bé khỏi sợ và để rủ em vào.

Em bé hai tay ve vẩy bên sườn đi bước một. Em đương đến. Em gần đến. Còn vài bước nữa là đến chỗ chúng tôi thôi.

Người mẹ ngẩng đầu lên. Giật mình không thấy con đâu, nhìn ngang nhìn ngửa. Bà ta thấy con đang đi. Tôi tưởng bà ta chạy nhưng bà cứ đứng yên đó gọi con vào. Em bé ngoan ngoãn quay vào với mẹ.

Có lẽ ở đây họ không thích xem khiêu vũ. Có thể lắm.

Tôi liền đổi trò. Tôi ra lệnh cho hai con Thùy-Hiệp ra nằm một chỗ để tôi hát. Tôi vào hát được đến câu thứ hai của bài “Tình ca” thì có một người đàn ông vận áo vét, đội mũ phớt đến. Tôi cố lên giọng cho hay.

Chợt ông khách đó hỏi tôi:

- Mày làm trò gì thế? Thằng ranh kia!

Tôi ngơ ngác, há miệng, đứng nhìn ông ta. Ông ta lại hỏi:

- Mày không trả lời à?

- Thưa ông, ông đã nhìn thấy tôi hát.

- Mày có giấy phép được hát ở trong làng này không?

- Thưa ông, không.

- Vậy thì bước đi chỗ khác. Nếu không, ta bắt bây giờ.

- Nhưng, thưa ông…

- Gọi tao là Tuần phiên. Thôi cút đi, đồ ăn mày!

Tuần-phiên! Kinh nghiệm đau đớn của thầy tôi đã cho biết rằng đương đầu với các ông cảnh binh hay tuần-phiên là một điều rất tai hại.

Không để ông ta phải đuổi đến lần thứ hai, tôi “cút” ngay như lời ông ta bảo, trở ra đường cũ tiếp tục đi.

Ăn mày! Danh từ này không đúng. Tôi có đi ăn xin bao giờ? Tôi hát, tôi nhảy. Đó là cách làm việc của tôi. Tôi có làm hại ai đâu?

Trong năm phút, tôi ra khỏi cái làng lãnh đạm và cẩn phòng đó.

Những con chó của tôi cúi đầu lẳng lặng đi, chắc chúng hiểu rằng đã xẩy đến cho chúng tôi một chuyện chẳng lành.

Lãnh-Nhi thỉnh thoảng lại đi lên trước quay cổ lại nhìn tôi bằng đôi mắt đầy ý nhị. Nó biết lắm vì tôi thấy hai hàm nó run run bởi nó cố giữ không để sủa thành tiếng.

Khi chúng tôi đi đã khá xa, không sợ người tuần-phiên độc ác theo dõi nữa, tôi liền ra hiệu, ba con chó liền chạy lại quây lấy tôi. Lãnh-Nhi đứng giữa im lặng nhìn vào mắt tôi.

Đã đến lúc tôi phải giải thích cho các bạn tôi nghe. Tôi nói:

- Vì chúng ta không có giấy phép nên không được diễn ở đó. Họ đuổi chúng ta.

- Bây giờ?

Lãnh-Nhi hếch đầu như hỏi tôi thế.

- Bây giờ chúng ta tìm chỗ ngủ, bất cứ chỗ nào và nhịn ăn.

Nghe tiếng “ăn”, hai con chó kia và con khỉ nhao nhao lên.

Tôi giơ 3 xu ra nói:

- Các bạn biết, chúng ta chỉ còn có thế này thôi. Nếu ta tiêu hết 3 xu chiều nay thì sáng mai ta không có gì ăn. Vả hôm nay, ta cũng đã được ăn rồi. Nghĩ đến ngày mai thì khôn hơn.

Nói xong, tôi lại bỏ 3 xu vào túi.

Lãnh-Nhi và Thùy-Nhi cúi đầu chịu đựng. Hiệp-Nhi có tính háu ăn, nó kêu ăng ẳng hoài.

Tôi quắc mắt nhìn nó, nó cũng không thôi. Tôi phải nhờ đến Lãnh-Nhi:

- Cắt nghĩa cho Hiệp-Nhi nghe. Nó không muốn hiểu. Bảo nó ta phải nhịn ăn chiều nay thì sáng mai mới có cái ăn.

Lãnh-Nhi liền lấy chân vã vào mặt Hiệp-Nhi. Tức thì có cuộc đấu khẩu giữa hai con chó.

Chắc độc giả nghe thấy tiếng “đấu khẩu” đem dùng cho loài vật sẽ cho là một từ không thích hợp. Nhưng xét ra rất đúng. Mỗi giống vật có một tiếng nói riêng. Nếu nhà quý vị có hàng hiên chạm trổ hay những cửa sổ cao và có những chim yến đến làm tổ ở đó, hẳn quý vị cũng nhận thấy rằng lúc thường chim yến kêu véo von như tiếng ca, nhưng hễ trời rạng đông là chúng kêu ríu ra ríu rít với nhau. Đó chính là những câu chuyện mà chúng đang nói, những việc quan trọng mà chúng đang bàn hay những lời yêu đương mà chúng trao đổi cùng nhau. Lại những con kiến cùng một đàn, khi gặp nhau trên một con đường hẻm thường cọ râu vào nhau, quý vị thử nghĩ xem, chúng làm gì thế; nếu không phải là chúng thông tin cho nhau? Còn những con chó không những chúng biết nói mà còn biết đọc nữa. Quý vị hãy trông chúng đưa mũi lên không, hay đầu cúi xuống mặt đất đánh hơi hay ngửi những hòn sỏi, những bụi rậm; có khi chúng đứng trước một đám cỏ hay một chân tường và dừng lại một lúc. Chúng ta không nhìn thấy gì ở tường, nhưng con chó đã đọc được mọi điều lạ viết ở đó bằng thứ chữ bí ẩn mà mắt ta không thể phân biệt được.

Những câu gì Lãnh-Nhi nói với Hiệp-Nhi, tôi không nghe thấy vì nếu những con chó hiểu được tiếng nói của người, trái lại, người không hiểu được tiếng nói của chó. Tôi chỉ nhận thấy Hiệp-Nhi không chịu nghe lời phải, cứ nằng nặc đòi tiêu nốt ba xu ngay bây giờ. Lãnh-Nhi nổi giận và giơ những chiếc nanh nhọn ra thì Hiệp-Nhi mới chịu nằm im vì nó vốn nhát, hễ ai già thì nó non.

Thế là vấn đề ăn đã giải quyết xong, còn vấn đề ngủ.

May sao, trời tạnh, mây quang. Ngủ ngoài trời về mùa này không đến nổi khổ. Chỉ cần tìm chỗ nào tránh được chó sói, nếu vùng này có, và nhất là tránh khỏi những ông tuần-phiên mà tôi cho là đáng sợ hơn cả.

Vậy cứ việc đi thẳng trước mặt trên con đường trắng dài cho đến khi tìm được chỗ trú. Việc đó chúng tôi đã làm.

Đường cứ thấy dài ra. Hết những cây số này lại đến những cây số khác. Khi những ánh hồng cuối cùng của hoàng hôn đã tắt, chúng tôi chưa tìm được chỗ nào để nghỉ. Bây giờ không thể kén chọn gì nữa phải liệu tìm chỗ trú. Lúc đó chúng tôi đang đi cạnh khu rừng, thỉnh thoảng lại có những khoảng trống nổi lên những tảng đá hoa cương. Nơi này vắng và buồn lắm. Nhưng biết làm sao được. Tôi nghỉ ở giữa những tảng đá đó, “chúng tôi” có thể tạm trú được để tránh khí lạnh ban đêm. Tôi nói “chúng tôi” tức là Hảo-Tâm và tôi vì về phần những con chó, tôi không cần phải lưu tâm lắm. Chúng đã quen nằm sương gió lắm rồi, không sợ cảm mạo. Nhưng tôi, tôi phải thận trọng vì tôi hiểu biết trách vụ của tôi. Nếu tôi ốm thì đoàn của tôi sẽ trở nên thế nào?

Chúng tôi liền bỏ đường cái tìm vào đám đá. Bỗng tôi thấy một tảng đá lớn đứng nghiêng làm cho chân nó có hang, đầu nó thành mái. Trong hang, gió đã thổi vào đầy lá thông khô. Không còn gì tiện hơn nữa: chúng tôi có cái ổ sẵn sàng để ngã lưng và có cái mái thiên nhiên để trú ẩn. Chỉ còn thiếu một thứ là bánh mì. Nhưng tôi phải cố quên đi và cố ngủ sớm. Tục ngữ chả có câu: “Ai ngủ tức là đã ăn rồi” là gì?

Trước khi đi ngủ, tôi đã dặn Lãnh-Nhi phải giữ việc canh gác. Con vật trung thành đó đáng lẽ được nằm với tôi ở trên lá, đã phải ở ngoài để phòng thủ. Tôi được yên tâm, vì ban đêm, nếu có sự gì bất trắc thì Lãnh-Nhi sẽ báo cho tôi biết.

Tôi nằm trên đống lá thông, cạnh tôi là con Hảo-Tâm quấn trong cái áo vét của tôi. Dưới chân tôi hai con Thùy, Hiệp nằm cuộn tròn. Tôi không chợp mắt được, lo lắng hơn là mỏi mệt.

Ngày thứ nhất cuộc hành trình của tôi đã xấu rồi. Không biết ngày hôm sau sẽ ra sao: Tôi đói. Tôi khát. Trong túi chỉ còn 3 xu. Tôi lần từng đồng trong túi và đếm đi đếm lại mãi nó cũng không nảy thêm đồng nào, vẫn một, hai, ba đồng.

Lấy gì nuôi đoàn của tôi, lấy gì nuôi tôi nếu ngày mai và các ngày sau nữa tôi không được diễn trò? Nào dàm miệng chó, nào giấy phép, kiếm đâu bây giờ? Trời ơi! Có lẽ tôi phải chết đói ở góc rừng này, ở chân tảng đá này chăng?

Lòng tư lự, mắt tôi nhìn lên những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời tối sẫm. Không có một hơi gió nào. Bốn bề vắng lặng như tờ. Không một cành lá động. Không một tiếng chim kêu, không một tiếng xe chạy ngoài đường! Tôi đưa mắt nhìn chung quanh: trời rộng, đêm sâu. Chúng tôi trơ trọi có một mình, chúng tôi bị ruồng bỏ!

Nước mắt tôi tự nhiên ràn rụa ra. Tôi nức nở: Mẹ ơi! Thầy ơi!

Tôi nằm sấp, gục đầu vào lá khô, hai tay bưng mặt khóc mãi không thôi. Bỗng tôi thấy một làn hơi ấm đưa vào mái tóc tôi. Tôi sẽ quay mặt ra, một cái lưỡi êm đềm và nóng, quệt vào mặt tôi. Đó là con Lãnh-Nhi, nghe thấy tiếng tôi khóc, nó vào dỗ tôi như đêm đầu tiên tôi phải xa nhà đi với ông già Vỹ-Tiên.

Tôi giơ hai cánh tay ôm lấy cổ Lãnh-Nhi, ép đầu nó vào má tôi. Nó liền nằm vật xuống và thút thít khôn ra tiếng: nó cùng khóc với tôi.

Khi tôi trở dậy thì trời đã sáng rõ. Lãnh-Nhi ngồi đằng trước tôi. Chim chóc hát vang trên cành. Xa xa vẳng tiếng chuông nhà thờ làm lễ ban mai. Mặt trời đã lên cao, rọi những tia ấm áp làm khỏe khoắn thân thể cũng như tâm hồn.

Sửa soạn xong, chúng tôi lên đường, theo tiếng chuông mà đến. Ở đó tất có làng, có hàng bán bánh mì. Một khi người ta ngủ thay ăn thì cái đói nói chuyện rất sớm.

Tôi đã tính cả rồi. Tôi sẽ mua cả 3 xu bánh mì. Còn thì sẽ liệu sau.

Khi vào làng, tôi không cần phải hỏi hàng bánh mì ở đâu. Mũi chúng tôi tự nhiên dẫn chúng tôi đến đúng chỗ. Cái khứu giác của tôi lúc này cũng tinh tế không kém những con chó của tôi ngửi ngay thấy mùi thơm của bánh nóng.

Ba xu mua được già nửa cái bánh, đủ chia cho mỗi con một mẩu. Vì thế bữa ăn của chúng tôi rất nhanh.

Bây giờ là lúc phải tìm cách để kiếm tiền. Muốn thế, tôi dạo quanh làng tìm chỗ tốt để diễn trò và cũng dò trên nét mặt dân sự xem có thể là bạn hay là kẻ thù.

Tôi không muốn diễn ngay vì giờ đó không thuận tiện. Nhân thế, tôi nghiên cứu dân tình, tìm tòi chỗ diễn để buổi trưa đó cầu may.

Tôi đang mãi nghĩ, chợt có tiếng kêu ở sau lưng tôi. Tôi quay lại thấy một bà già đang đuổi Hiệp-Nhi. Tôi hiểu ngay tại sao có tiếng kêu và sự đuổi đó! Thừa dịp tôi đãng trí, Hiệp-Nhi bỏ tôi sộc vào nhà kia cướp một miếng thịt tha ngang mồm chạy ra. Bà lão kêu:

- Làng nước ơi! Cướp! Cướp! Bắt chúng nó lại cho tôi!

Nghe tiếng đó, tôi nhận thấy tôi có tội, vì phải chịu trách nhiệm về lỗi của con chó của tôi, tôi cũng cắm cổ chạy. Nếu bà lão túm được tôi bắt đền miếng thịt chó tha, thì tôi biết nói thế nào? Lấy gì mà đền? Nếu bị bắt, thì đến ngồi tù mất.

Thấy tôi chạy, Lãnh-Nhi và Thùy-Nhi cũng không chịu chậm chân. Tôi thấy chúng bám sát gót tôi. Con Hảo-Tâm bám chặt cổ tôi cho khỏi ngã.

Tôi không sợ bà già đuổi kịp chúng tôi, chỉ sợ người ta thấy động ra đón bắt chúng tôi. Quả nhiên, trước mặt chúng tôi thấp thoáng có hai ba người đứng giăng ra đường như có ý đợi chúng tôi. May chỗ ấy có một chỗ quẹo, tôi liền chạy vào, mấy con chó nhảy bổ theo sau. Chúng tôi phi một mạch ra đến cánh đồng, không thấy bóng người theo nữa mới hoàn hồn. Tôi thở không được vì phải chạy dài hơn hai cây số.

Lãnh-Nhi và Thùy-Nhi quấn lấy chân tôi. Còn con Hiệp-Nhi thủng thỉnh đi đằng xa, có lẽ bây giờ nó mới có thì giờ nhai ngấu nghiến miếng thịt.

Tôi ra hiệu gọi nó, nó đứng dừng lại. Rồi có lẽ nó sợ phải đòn nên đáng lẽ về với tôi, nó quay ngang và trốn mất.

Chỉ vì đói quá mà con Hiệp-Nhi phải làm xằng, tôi biết thế. Nhưng đó không phải là lý do để bào chữa. Có việc ăn cắp thì thủ phạm phải bị trừng phạt. Nếu không thì còn gì là kỷ luật trong đoàn tôi? Đến làng khác, Thùy-Nhi cũng bắt chước Hiệp-Nhi. Rồi đến lượt Lãnh-Nhi, Lãnh-Nhi cũng theo gương đó thì sao?

Tôi phải công khai đánh cho Hiệp-Nhi một trận. Nhưng đợi nó về trình diện mới được.

Tôi nhờ Lãnh-Nhi:

- Tìm Hiệp-Nhi về đây cho ta!

Lãnh-Nhi tuân lệnh. Nhưng coi nó có vẻ không được sốt sắng như mọi ngày, và trước khi đi, đôi mắt nó nhìn tôi có nghĩa muốn làm luật sư cho Hiệp-Nhi hơn là làm hiến binh cho tôi.

Tôi đợi Lãnh-Nhi đưa phạm nhân về. Mất nhiều thì giờ quá. Có lẽ Hiệp-Nhi không chịu để bắt giải về ngay. Trong thời gian đó, tôi buồn quá. Tuy có yên tâm là không bị truy nã nữa, nhưng người tôi mệt quá nên tôi muốn nghỉ ngơi một chút. Vả tôi vội vã để làm gì? Khi tôi không biết mình sẽ đi đâu và chả có việc gì làm cả.

Chỗ tôi nghỉ, bây giờ tôi mới nhìn ra, là một chỗ mát mẻ, có thể ngồi lâu được. Thì ra trong khi tôi chạy lạc lõng đã tới bờ sông Nam mà không biết. Nơi này phong cảnh xanh tươi: có nước, có cỏ, có cây. Lại một dòng suối trong khe đá chảy ra, hai bên có những cây nhỏ đâm bông, rập rờn như thác hoa rớt xuống, trông rất ngoạn mục.

Một giờ đã qua mà chưa thấy con nào về. Tôi bắt đầu lo thì thấy Lãnh-Nhi về một mình, đầu cúi xuống.

- Hiệp-Nhi đâu?

Lãnh-Nhi nằm một chỗ, vẻ sợ hãi. Tôi nhìn thấy một bên tai rướm máu.

Tôi không cần phải hỏi cũng biết việc đã xảy ra: Hiệp-Nhi đã khởi loạn, nó chống lại hiến binh; Lãnh-Nhi cố thi hành nhiệm vụ nên bị đả thương.

Có nên mắng nó vì đã không làm tròn sứ mạng không? Tôi không có can đảm quở phạt nó. Vả tôi cũng không có định ý làm cực người khác trong khi chính mình đang đau khổ.

Cuộc tuần hành của Lãnh-Nhi không có kết quả, tôi chỉ còn một phương sách là đợi nó trở về vậy. Tôi biết tính nó sau khi đã vi lệnh rồi, nó đành chịu phạt. Tôi sẽ nhìn thấy nó hối hận trở về.

Tôi nằm dài dưới bóng cây, tay không quên giữ xích con Hảo-Tâm sợ nó lại đùa tôi mà đi theo Hiệp-Nhi. Lãnh-Nhi và Thùy-Nhi cũng nằm dưới chân tôi.

Thời gian trôi. Hiệp-Nhi vẫn không về. Mí mắt tôi nặng dần, tôi ngủ lúc nào không biết.

Khi tôi thức dậy thì mặt trời đã đứng bóng. Mấy giờ đã đi qua. Tôi không cần nhờ đến mặt trời mới biết là muộn, vì cái dạ dày tôi nó kêu rằng nó chỉ được một mẩu bánh con đã từ lâu rồi. Về phần những con chó và Hảo-Tâm, chúng cũng tỏ ra đói meo. Lãnh-Nhi, Thùy-Nhi bộ dạng ủ rũ. Hảo-Tâm nhăn nhó, kém hoạt động.

Hiệp-Nhi vẫn không thấy về.

Tôi gọi. Tôi huýt sáo. Vô ích. Có lẽ nó ăn thịt no rồi, nằm khểnh ở bờ bụi nào cho dạ dày an nhàn tiêu hóa.

Tình thế của tôi lúc đó rất khó xử! Nếu tôi đi, Hiệp-Nhi sẽ mất vì nó không biết lối để theo tôi: nếu tôi cứ ở đây thì lấy tiền đâu mà ăn?

Nhưng rồi cái sự ăn cần thiết hơn. Những con chó nhìn tôi thất vọng. Hảo-Tâm gãi bụng và kêu choe chóe tỏ ý không chịu được.

Tôi liền cho Lãnh-Nhi đi tìm bạn nó lần thứ hai. Nửa giờ sau nó lại trở về không và tỏ ý không tìm thấy bạn nó đâu cả.

Làm thế nào bây giờ?

Dầu rằng Hiệp-Nhi có tội vì cái thói xấu của nó đã đưa tôi vào một tình trạng ghê gớm, nhưng tôi không thể vì thế mà bỏ nó. Thầy tôi sẽ bảo tôi sao khi thầy tôi trở về không đủ ba con chó? Vả lại, dù sao tôi cũng yêu nó, một con vật luyến chủ.

Tôi quyết đợi nó đến chiều. Nhưng không thể ngồi không mà nghe dạ dày làm reo. Phải tìm cách để khuây khỏa cho tôi và cho mấy con vật của tôi.

Nhưng tìm cách gì bây giờ?

Tôi chợt nhớ ra thầy tôi thường bảo rằng: khi chiến tranh, nếu đạo quân mệt mỏi vì đi nhiều, người ta cho nghe những bài âm nhạc vui vẻ và khích lệ thì quân lính quên cả nhọc.

Tôi thử đánh những bài vui vẻ may ra có thể quên được đói phần nào. Nếu không quên được đói thì khi hai con chó nhảy với Hảo-Tâm ít ra cũng tiêu được thì giờ.

Tôi cầm cây thụ cầm dựng ở gốc cây, quay lưng ra sông, sau khi các nghệ sĩ của tôi đã chỉnh bị, tôi cử một bài khiêu vũ chậm rồi đến một bài khiêu vũ xoay tròn.

Thoạt đầu, những đào kép của tôi nhảy rời rạc lắm vì mẩu bánh ban mai không đủ kéo dài hơi sức, nhưng dần dà chúng hoạt động hơn. Âm nhạc quả có hiệu lực. Chúng tôi không nghe thấy tiếng dạ dầy nữa, tôi để ý vào đàn, những bạn tôi để ý vào nhảy.

Chợt tôi nghe thấy một tiếng trong trẻo, tiếng trẻ con, ở sau lưng đưa ra:

- Hoan hô!

Tôi quay đầu lại xem ai.

Một con thuyền nhỏ dừng lại ở bên sông. Mũi quay về chỗ chúng tôi. Hai con ngựa kéo thuyền đứng cả ở bờ bên kia.

Đó là một chiếc thuyền lạ mắt, tôi chưa từng trông thấy cái nào như thế. Ngắn hơn cái thuyền thường, boong không cao hơn mặt nước mấy, Trên boong có một căn phòng lắp kính. Trước phòng có mái hiên, những dây leo rủ từng chùm lá xanh xuống coi rất râm mát. Dưới hiên, tôi trông thấy hai người: một thiếu phụ gương mặt cao quý nhưng hơi buồn, đứng cạnh một cậu con trai trạc tuổi tôi đang nằm thì phải. Có lẽ chính cậu bé này đã “hoan hô”.

Tôi cất mũ chào người đã khen tôi. Thiếu phụ hỏi tôi:

- Có phải em chơi một mình cho vui không?

Bà nói giọng người ngoại quốc. Tôi đáp:

- Thưa bà, tôi chơi cho các con vật của tôi vui là cũng để tôi giải trí nữa.

Cậu bé ra hiệu, bà mẹ cúi xuống. Đoạn bà ngẩng lên hỏi tôi:

- Em tiếp tục diễn cho chúng tôi coi.

Không để bà nói đến hai lời, tôi liền hỏi:

- Bà muốn xem khiêu vũ hay diễn kịch?

Cậu bé kêu:

- Diễn kịch!

Nhưng thiếu phụ lại muốn xem khiêu vũ.

Cậu bé lại kêu:

- Khiêu vũ ngắn quá.

- Khiêu vũ xong, nếu quý vị muốn, chúng tôi xin trình bày một vài trò như “các phường xiếc ở Ba-Lê”.

Đó là câu nói thường xuyên của thầy tôi, tôi lại đem ra nhắc lại để lấy thanh thế.

Nghĩ kỹ ra, tôi không đồng ý diễn kịch vì nhiều lẽ: trước hết thiếu Hiệp-Nhi, sau nữa không có đủ quần áo, mũ cho đào kép.

Tôi lại cầm cây đàn đánh bài khiêu vũ xoay tròn. Tức thì Lãnh-Nhi lấy hai chân trước ôm Thùy-Nhi và quay theo điệu nhạc. Đến lượt Hảo-Tâm ra nhảy một mình. Rồi lần lượt tôi cho ra hết cả chương trình của chúng tôi. Chúng tôi không thấy mệt. Những nghệ sĩ của tôi chắc hẳn đã hiểu sẽ có thù lao, nên chúng trổ hết tài cũng như tôi cố nắn nót tiếng đàn cho xinh.

Trong khi chúng tôi đang diễn, bỗng Hiệp-Nhi ở trong bụi rậm vượt ra và chạy vào giữa hai bạn nó và diễn theo vai trò của nó.

Tôi vừa đánh đàn vừa trông cậu bé. Tôi ngạc nhiên thấy cậu ấy tuy rất chú ý đến trò nhưng không hề nhúc nhích. Cậu nằm ngay như khúc gỗ, chỉ thấy hai cánh tay cử động để vỗ khen chúng tôi mà thôi.

Cậu này tê liệt chăng? Mà hình như thân cậu bị buộc vào một tấm ván.

Dần dần, gió đưa chiếc thuyền áp hẳn vào cạnh bờ tôi đứng. Bây giờ tôi được nhìn rõ cậu bé như tôi ở dưới thuyền bên cạnh cậu.

Tóc cậu vàng hoe, mặt xanh xao, trông những gân xanh xanh trên trán cậu. Vẻ mềm mại, yếu ớt và như có nét buồn thoảng qua.

Chợt thiếu phụ hỏi tôi:

- Em lấy bao nhiêu một người?

- Bà cho bao nhiêu cũng được?

Cậu bé nói:

- Mẹ trả khá khá cho người ta.

Rồi cậu nói bằng tiếng gì, tôi nghe không hiểu. Xong bà mẹ nói:

- An-Tuyên muốn xem gần những vai trò của em.

Tôi ra hiệu cho Lãnh-Nhi, nó lấy đà nhảy vọt vào thuyền.

An-Tuyên kêu:

- Còn những con khác đâu?

Hiệp-Nhi và Thùy-Nhi liền theo sang với bạn.

- Còn con khỉ?

Hảo-Tâm có thể nhảy qua một cách dễ dàng. Nhưng tôi không dám tin nó. Một khi sang thuyền, sợ nó giở những trò không được lịch sự với thiếu phụ chăng?

Thiếu phụ hỏi:

- Nó dữ à?

- Thưa bà, không. Nhưng, nó thường không chịu vâng lời. Sợ nó có điều gì vô lễ chăng?

- Vậy em đem nó sang đây.

Nói xong, bà liền ra hiệu cho người đàn ông ngồi ở lái thuyền. Người này lại đầu thuyền bắc tấm ván lên bờ làm cầu.

Tôi vai vác đàn, tay bế Hảo-Tâm bước sang thuyền.

An-Tuyên reo:

- A! Con khỉ! Con khỉ!

Tôi lại gần cậu bé. Khi cậu vuốt ve con khỉ, tôi có dịp ngắm kỹ cậu.

Lạ thực, thân cậu buộc vào tấm ván như tôi đoán lúc đầu thực.

Bà An-Tuyên hỏi tôi:

- Em ơi! Em còn cha chứ?

- Có, nhưng bây giờ thì không?

- Vậy cha đi vắng trong bao lâu?

- Trong hai tháng.

- Hai tháng. Tội nghiệp! Một tí thế này, em phải lang thang một mình? Trong một thời gian lâu thế?

- Thưa bà, bắt buộc phải thế!

- Cha em bắt phải kiếm tiền trong hai tháng đem về?

- Thưa bà, không. Cha tôi không buộc gì cả. Quý hồ tôi kiếm đủ tiền nuôi tôi và các con vật của tôi thôi.

- Thế đến ngày nay em vẫn kiếm được đủ ăn chứ?

Tôi ngập ngừng không trả lời. Tôi chưa từng trông thấy một bà nào lại có vẻ phúc hậu và đáng kính như bà. Bà nói với tôi một cách rất tử tế ân cần. Tiếng nói của bà êm ái, đôi mắt của bà rất dịu dàng và đáng tin cậy nên tôi định đem hết chuyện kể cho bà nghe. Vả lại, tại sao lại im?

Tôi liền kể lại, thầy tôi, Vỹ-Tiên, chỉ vì bảo vệ cho tôi mà bị ngồi tù và từ khi tôi rời Tu-lu, tôi chẳng kiếm được đồng nào.

Khi tôi nói chuyện với bà, An-Tuyên chơi với mấy con chó. Tuy nhiên cậu vẫn để ý nghe tôi nói. Cậu hỏi:

- Vậy tất cả “đoàn” của anh chắc bị “đói” lắm?

Nghe tiếng đói, các bạn tôi hiểu nghĩa, tức thì ba con chó ăng ẳng sủa lên và con khỉ ôm bụng nhăn nhó.

An-Tuyên gọi:

- Mẹ ơi!

Bà hiểu ý con liền bảo một người đàn bà đứng ở cửa phòng bằng tiếng ngoại quốc. Tức thì người đàn bà đó bưng ra một bàn thịnh soạn. Bà An-Tuyên nói:

- Con ơi! Ngồi xuống đây.

Tôi không làm khách, đặt luôn đàn xuống và ngồi vào bàn. Ba con chó đến chung quanh tôi. Hảo-Tâm leo lên đùi tôi ngồi.

An-Tuyên hỏi tôi:

- Những con chó của anh có biết ăn bánh mì không?

- Có.

Tôi cho mỗi con một miếng, chúng đang ăn lấy ăn để.

An-Tuyên lại hỏi tôi:

- Còn con khỉ?

- Không cần phải săn sóc đến nó. Tôi mải cho chó ăn, nó đã vồ một miếng bánh nhân thịt, nhảy xuống gầm bàn nuốt vội đang mắc nghẹn kia.

Đến lượt tôi, tôi cầm một khoanh bánh ăn. Tôi, tuy không đến nỗi bị nghẹn như Hảo-Tâm, nhưng cũng nuốt nhanh không kém nó.

Bà An-Tuyên vừa rót thêm rượu bia vào cốc tôi vừa nói:

- Thương hại cho con quá!

Còn cậu An-Tuyên không nói gì, nhìn chúng tôi không hề chớp mắt, chắc phải kinh dị vì thấy chúng tôi ăn uống như vũ như bão, cả đến con Hiệp-Nhi đã lửng dạ vì miếng thịt cướp ở dọc đường, cũng không chịu thua.

An-Tuyên hỏi tôi:

- Nếu không gặp chúng tôi thì chiều nay, anh ăn ở đâu?

- Có lẽ chúng tôi không ăn.

- Thế ngày mai, các anh ăn ở đâu?

- Ngày mai, may ra lại được quý khán giả như hôm nay.

An-Tuyên thôi nói chuyện với tôi, quay về phía bà mẹ. Hai người đàm thoại bằng tiếng ngoại quốc hồi lâu. Chợt An-Tuyên lại quay đầu ra phía tôi hỏi:

- Anh có thể ở đây với chúng tôi được không?

Tôi nhìn cậu và không trả lời được vì câu hỏi bất thần đó.

- An-Tuyên hỏi con có bằng lòng ở đây với chúng ta không?

- Trong thuyền này?

- Phải, ở trong thuyền. Con ta ốm, bác sĩ cấm không cho cử động, thân thể phải buộc kèm vào tấm ván như con đã trông thấy. Để cho em khỏi buồn, ta cho em đi rong chơi bằng thuyền. Con ở đây với ta. Mấy con chó và con khỉ sẽ diễn trò cho khán giả là An-Tuyên xem. Còn con, nếu con muốn, con ơi, con sẽ đánh đàn cho ta nghe. Như thế, con sẽ giúp việc cho ta và ta cũng có ích cho con phần nào. Ngày ngày con không phải đi lang thang để tìm khán giả, mà cũng không dễ dàng đâu nhất là con mới có bấy nhiêu tuổi đầu.

Đi thuyền! Từ bé tôi chưa được đi thuyền bao giờ! Nay tôi sắp được sống trong thuyền, trên mặt nước, thơ mộng quá, lòng tôi sung sướng biết bao.

Thực là một dịp may cho tôi. Và bà An-Tuyên đã tử tế biết là dường nào!

Nghĩ ngợi trong giây lát, tôi chạy lại cầm tay bà và hôn.

Cảm động về dấu chân thành của tôi, bà âu yếm xoa đầu tôi và nói:

- Tội nghiệp quá!

Để tỏ thiện chí và lòng biết ơn của tôi, tôi xách đàn ra mũi thuyền, bắt đầu dạo mấy tiếng.

Ngay lúc đó, bà cầm một cái còi bằng bạc để lên miệng huýt một tiếng dài.

Tôi ngừng tay, không hiểu tại sao bà lại huýt còi: bà chê ta đánh dở hay bảo ta thôi?

An-Tuyên hiểu ý tôi vội bảo:

- Mẹ tôi ra hiệu cho ngựa đi đấy.

Thực vậy, con thuyền do ngựa kéo rời bến rồi từ từ tiến trên mặt nước phẳng lặng của sông con. Nước vỗ vào mạn thuyền lách tách, hai bên bờ cây cối chạy ngược về phía sau dưới ánh nắng xiên khoai của buổi hoàng hôn.

An-Tuyên bảo tôi:

- Anh cứ đánh đàn đi!

Rồi An-Tuyên gọi mẹ đến ngồi bên cạnh, âu yếm ôm lấy tay mẹ trong suốt thời gian tôi đánh những bản đàn mà thầy tôi đã dạy tôi.

Hector Malot

Hà Mai Anh dịch

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ​ Trong Gia Đình Giới thiệu   Hector Malot (Hécto Malo) sinh năm 1830 ở miền Bắc nước Pháp. Ông là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết...