Vô gia đình 3
Chương XXI
Tan tác
Có những ngày rỗi rãi, ngồi một mình, tôi nghĩ ngợi rồi tự nhủ:
- Minh ơi! Minh sung sướng lắm rồi! Chẳng được thế mãi đâu!
Cái tai họa nó sẽ xảy ra thế nào, tôi không đoán được. Nhưng
tôi chắc chắn rằng từ phía này hay từ phía kia thế nào nó cũng đến.
Điều đó làm cho tôi buồn, nhưng cũng làm cho tôi hết sức chăm
lo công việc vì tôi sợ rằng lỗi tại tôi mà tai họa xảy đến.
Lỗi không phải tại tôi, tôi đoán nhầm.
Nhưng tai họa có xảy ra, tôi đoán đúng.
Trên kia tôi đã nói rằng chủ nhân chuyên nghề trồng lan tử-la.
Đó là một thứ hoa rất dễ trồng nên những thợ trồng hoa ở ngoại thành Ba-Lê đều
thành công cả: cứ xem những thân cây xanh mập có hoa từ gốc đến ngọn, người ta
đem vào bán ở các chợ trong thành phố vào tháng Tư và tháng Năm thì biết. Tuy
nhiên có một điều rất cần thiết cho người thợ trồng hoa tử-la là phải biết chọn
trồng những hoa kép vì theo mốt mới người ta không thích hoa đơn. Khốn nỗi những
hạt giống đem gieo thường mọc lên những hoa kép, hoa đơn lẫn lộn nhau. Như vậy,
nếu không biết chọn những cây kép và loại ngay những cây đơn ra thì phải “nuôi
nợ” những cây này, có tới 50%, trong một năm trời cho đến khi chúng thò hoa đơn
ra mới biết mà vứt đi thì đã muộn rồi. Vì thế người ta phải biết cách “lọc
hoa”, nghĩa là biết quan sát những đặc tính hiện ra ở gân lá, ở cách lá mọc mà
giữ hay nhổ những cây non đi. Công việc này không phải dễ. Vì thế rất ít người
biết thuật “lọc hoa” và cũng vì thế thuật đó được giữ bí truyền trong một vài
gia đình. Khi những thợ làm vườn cần chọn cây, bắt buộc họ phải nhờ đến những bạn
đồng nghiệp biết nghề; lúc đó những người này được trọng đãi không khác chi những
bác sĩ hay chuyên viên được thỉnh giáo.
Ông An-Thanh là một xảo thủ trong nghề lọc hoa ở Ba-Lê. Hễ đến
vụ này là ông vắng nhà luôn. Chúng tôi, nhất là Yến-Chi rất buồn. Trong cuộc gặp
gỡ nhau, các bạn trồng hoa không thể không dùng rượu, ít ra một chai, có khi
hai chai, ba chai. Vì thế, sau khi đi thăm hai hay ba ông bạn về, chủ nhân thường
mặt đỏ, tay run miệng nói líu ríu.
Không bao giờ Yến-Chi đi ngủ trước khi cha về, lắm hôm cô đợi
rất khuya. Tiếng động làm tôi tỉnh thức. Ở buồng tôi, tôi nghe rõ tiếng nói
chuyện:
Người cha hỏi:
- Sao con chưa đi ngủ?
Cô Yến-Chi đáp:
- Con thức để xem cha có sai bảo gì không.
- Thế ra cô Cảnh sát định dò xét tôi à?
- Nếu con không thức thì cha về nói chuyện với ai?
- Con xem, cha bước vẫn thẳng. Nhìn đây, cha có thể theo đúng
hàng gạch vào buồng ngủ các em.
Tôi nghe có tiếng bước loạng choạng vào bếp rồi lại trở ra.
Người cha lại hỏi:
- Lệ-Hoa ngoan chứ?
- Vâng. Em con ngủ rồi. Cha đừng làm động em dậy.
- Cha có làm động đâu. Cha bước thẳng. Cha phải bước thẳng thắn
vì các cô gái hay đổ vạ cho cha. À! Không thấy cha về ăn bữa tối, Lệ-Hoa có nói
gì không?
- Không. Em cứ nhìn chỗ cha ngồi.
- A! Nó nhìn chỗ ta?
- Vâng.
- Nhiều lần? Có phải nó nhìn nhiều lần không?
- Nhìn luôn luôn.
- Thế nó nói gì?
- Đôi mắt em nói rằng cha không có ở đấy.
- Nó có hỏi cha đi đâu, con có bảo nó là cha đến nhà các ông
bạn không?
- Em không hỏi gì và con cũng không nói gì vì em biết rõ cha ở
đâu rồi.
- Nó biết à, biết là… Bây giờ nó ngủ kỹ rồi chứ?
- Không. Vừa mới ngủ được mươi phút vì em thức mãi để đợi
cha.
- Thế con, con muốn gì?
- Con muốn em con không trông thấy lúc cha về.
Người cha im một lúc rồi lại nói:
- Yến-Chi con ơi! Con là một đứa con gái tốt. Con nghe cha
nói. Ngày mai cha phải đến nhà bác Lương nhưng thế nào cũng về ăn bữa tối với
các con. Cha không muốn các con phải đợi. Cha không muốn Lệ-Hoa phải đi ngủ băn
khoăn.
Nhưng lời hứa đó không thực hiện. Hôm sau ông lại về khuya
hơn mọi ngày vì nể bạn uống say. Ở nhà thì ông nghĩ đến Lệ-Hoa nhưng ra ngoài
thì ông quên mất.
Lúc về ông lại phân trần rằng:
- Con xem, người ta thường uống cốc thứ nhất không nghĩ ngợi
gì vì nể bạn, uống cốc thứ hai vì đã uống cốc thứ nhất. Người ta nhất định
không uống cốc thứ ba nhưng vì đã uống hai cốc rồi thành khát. Thế rồi hơi men
bốc lên đầu. Người ta chếch choáng, người ta quên hết nỗi buồn, quên cả chủ nợ,
người ta thấy mọi vật đều tươi sáng và hồn người ta thấy nhẹ nhàng như bay bổng
sang một thế giới thần tiên, sở dĩ người ta uống nhiều là vì thế.
Cũng may, việc uống rượu của ông rất hãn hữu. Và vụ lọc hoa
cũng không lâu. Một khi vụ đó hết rồi, ông chẳng còn lý do gì để ra ngoài nữa.
Mà ông cũng không đi đâu nữa. Ông không phải là người bê tha nơi tửu quán, cũng
không phải là người lười biếng thích chơi.
Mùa tử-la đã hết, chúng tôi sửa soạn để trồng hoa khác, và
theo phương thức của nhà trồng hoa thì không lúc nào được để vườn trống, lượt
hoa này bán hết phải trồng lượt hoa khác thay vào.
Kỹ thuật của người làm vườn là phải trồng làm sao cho có hoa
vừa đúng lúc những ngày lễ trọng trong năm như lễ các Thánh Phê-Rô, Ma-Ri, Lộ-Y,
hoa sẽ đắt. Biết cơ man nào là người mang tên Phê-rô, Ma-ri, Lộ-y, do đó biết
cơ man nào là bó hoa, chậu hoa sẽ cần thiết để chúc mừng một người bạn hay một
người bà con. Ai ai cũng biết quang cảnh các phố ở Ba-Lê hôm trước ngày lễ đó:
trăm thứ hoa bày rực rỡ tại các chợ, ở các cửa hàng, ở vĩa hè, ở đầu phố, không
một chỗ nào là không bán hoa.
Sau mùa tử-la nhà ông An-Thanh trồng các thứ hoa khác để bán
vào tháng Bảy, tháng Tám là vụ có những lễ các thánh Ma-Ri và Lộ-Y. Vì thế
chúng tôi đang gây hàng ngàn gốc thúy cúc, dương hồng, hùng quế dưới các giàn
kính và trong các nhà gương. Các cây hoa này phải nở đúng ngày đã định, nếu nở
muộn quá thì nụ bán cho ai. Ai cũng biết rằng muốn nuôi hoa như thế thực là việc
rất khó, vì người không phải là mặt trời, không phải là thời tiết mà muốn sao
được vậy. Ông An-Thanh lại rất tài về nghề này; hoa của ông không bao giờ nở sớm,
và cũng không bao giờ trổ muộn. Nhưng được thế, cũng lắm công phu.
Vụ hoa này của chúng tôi có nhiều hứa hẹn. Hôm ấy là ngày mồng
2 tháng Tám, các thứ hoa trong vườn đều sai nụ. Những bông thúy cúc hàm tiếu
rung rinh trước gió. Dưới giàn, trong nhà kính, những cây dương hồng, hùng quế
mọc tốt như bụi gai hay thành những Kim-tự-tháp nhỏ, nụ ra mơn mởn từ đầu đến
chân, trông rất đẹp. Thỉnh thoảng chủ nhân lại ra ngắm nghía, xoa hai bàn tay
vào nhau, ra chiều đắc ý.
Ông lại bảo các con:
- Ta được mùa hoa!
Ông mừng thầm và nhẩm tính số hoa lợi sắp thu về.
Cho được kết quả đó, chúng tôi phải làm việc luôn tay, cả
ngày chủ nhật không giờ giải trí. Để đền bù công khó nhọc của mọi người, chủ
nhân định tới chủ nhật mồng 5 tháng 8 này cho cả nhà đi dự bữa cơm chiều ở nhà
ông bạn ở làng Ích-Cương gần đó. Con Lãnh-Nhi cũng được phép đi. Hôm đó mọi người
sẽ làm việc gấp cho đến 3 hay 4 giờ. Xong việc, người ta sẽ khóa cửa đi chơi. Độ
5 hay 6 giờ tới Ích-Cương, ăn xong phải trở về ngay để khỏi ngủ muộn và có thể
sáng thứ hai dậy sớm làm việc được khỏe khoắn nhẹ nhàng.
Một dịp vui sướng biết bao!
Như lời đã định, trước bốn giờ độ vài phút, chủ nhân khóa cửa
ngoài.
Ông vui vẻ bảo:
- Các con lên đường!
Tôi cũng nói:
- Lãnh-Nhi! Tiến lên!
Rồi tôi cầm tay, dắt Lệ-Hoa chạy, Lãnh-Nhi theo sau và kêu những
tiếng vui vẻ. Nó nhảy chung quanh chúng tôi, nó tưởng lại được đi lâu trên đường
dài vì bị giam chân ở nhà mãi, nó buồn vì tôi ít thì giờ săn sóc nó, nó thèm đi
với tôi lắm.
Chúng tôi ai nấy đều diêm dúa trong bộ quần áo đẹp để đi ăn cỗ.
Nhiều người quay lại nhìn chúng tôi. Tôi không biết người tôi lúc đó thế nào
nhưng Lệ-Hoa với cái mũ cói trắng, chiếc áo dài xanh và đôi giầy vải xám, trông
rất linh động và xinh tươi, trong làng ít ai sánh kịp.
Thời giờ đi nhanh quá, tôi chẳng để ý đến. Tôi chỉ biết lúc
ăn xong, An-Sinh nhìn lên trời, về phía tây có đám mây đen. Vì tiệc bày ở gốc
cây mộc hương ngoài sân, nên mọi người nhận thấy có một cơn giông sắp sửa đến.
Ông An-Thanh bảo:
- Các con ơi! Mau về trại đi!
Các con đều kêu:
- Đã về kia à?
Lệ-Hoa không nói gì nhưng phụng phịu chưa muốn về.
- Gió làm vỡ kính mất. Về đi!
Ông không cần phải nói dài, chúng tôi đều biết rằng những tấm
kính là tất cả tài sản của những thợ trồng hoa, vạn nhất mà vỡ thì tuyệt nghiệp.
Ông nói:
- Ta và An-Sinh, Bằng-Mai rảo chân về trước. Còn Lê-Minh cùng
Yến-Chi và Lệ-Hoa đi sau.
Nói xong ông và hai con trai bước thật nhanh, chúng tôi theo
sau không kịp, vừa đi vừa đợi Lệ-Hoa.
Ai nấy im lặng. Bây giờ không là lúc cười nói, chạy nhảy như
lúc đi.
Trời đen dần. Trên đường gió cuốn, cát bụi bay lên từng đám lớn
như mây. Đang đi mà gặp làn bụi đó, người ta phải đứng lại, quay lưng về chiều
gió, lấy hai tay bưng mắt cho khỏi bụi vào; lại phải nín thở, nếu không người
ta thấy mồm đầy một vị như sỏi.
Sấm động ở đằng xa rồi đến gần với những tiếng nổ chói tai.
Yến-Chi và tôi, mỗi người dắt một tay Lệ-Hoa và kéo đi. Cô lê
từng bước nên chúng tôi muốn đi nhanh mà không được.
Không biết chúng tôi có về kịp cơn mưa không?
Ông An-Thanh và hai anh đã về đến nơi chưa?
Công việc của chúng tôi rất tầm thường là cốt tránh sao cho
khỏi bị mưa ướt.
Còn công việc của ông An-Thanh và hai con ông rất quan trọng,
là phải đóng các cửa kính ở vườn cho kịp, nếu không gió lay quật sẽ làm vỡ hết.
Mây đen kéo dầy đặc làm cho tối sầm hẳn lại. Thỉnh thoảng,
gió xẻ những đám mây, người ta nhìn thấy bên trong sâu thẳm một sắc đồng. Nhất
định, trong giây lát nữa những đám mây đó sẽ đổ xuống.
Sấm ù ù mỗi lúc một nhiều hơn. Rồi có những tiếng ầm ầm dữ dội
đi về phía chúng tôi như tiếng thiên binh vạn mã ào ào chạy gấp để tránh mưa.
Nhưng vô lý! Vì làm gì có kỵ binh kéo đến vùng này?
Thình lình mưa đá bắt đầu. Một vài hạt nhỏ tạt vào mặt chúng
tôi. Rồi trong chớp mắt, một trận to đổ xuống. Chúng tôi phải chạy vào ẩn ở một
cái cổng gần đó.
Đó là một trận mưa đá dữ dội nhất người ta chưa từng thấy bao
giờ. Mới mưa một lúc mà đường phố đã phủ một lớp trắng ngần như về giữa mùa
đông. Những viên đá to bằng quả trứng bồ câu rơi xuống lộp độp làm kính vỡ loảng
xoảng. Những hột mưa đá ở mái nhà rơi xuống cùng với mảnh ngói, vữa vụn, mảnh
đá đen thành từng đống trên hè.
Yến-Chi kêu:
- Còn gì là những cửa kính của nhà ta nữa?
Tôi cũng sực nghĩ đến điều đó liền nói:
- May ra ông về kịp.
- Dù có về trước cơn mưa cũng không sao đóng kịp tất cả các cửa
kính hoặc che rèm. Thế là tan nát cả!
- Người ta bảo mưa đá chỉ mưa từng chỗ thôi.
- Trận mưa này gần nhà ta quá, nên khó lòng thoát được. Trời
ơi! Cha tôi sẽ hết nghiệp! Cha tôi đã đặt bao nhiêu hy vọng vào tiền bán hoa.
Bây giờ lấy gì để trả nợ?
Tôi không biết rõ giá các vật. Nhưng nghe thấy người ta nói rằng
cứ 100 khung kính là 1500 hay 1800 phật-lăng. Nếu 5.600 tấm kính nhà tôi bị mưa
đá tàn phá, thật là một thảm họa cho chúng tôi, đó là chưa kể đến nhà gương và
các cây hoa bị hư nát nữa.
Tôi muốn hỏi Yến-Chi, nhưng mưa đổ ầm ầm, nói không nghe rõ.
Và Yến-Chi cũng không buồn nói, cô nhìn mưa đá rơi, thất vọng như những người đứng
nhìn nhà mình đang cháy.
Trận mưa đá ghê gớm đó không lâu, độ 5 hay 6 phút thôi. Nó chợt
tạnh cũng như nó chợt bắt đầu. Mây kéo về phía Ba-Lê. Chúng tôi có thể rời chỗ
trú được.
Ngoài đường, những hạt mưa đá tròn và lăn lạo xạo dưới chân
chúng tôi như những hòn sỏi ở bãi biển và ngập tới mắt cá chân.
Lệ-Hoa không lội trong đá lạnh bằng giầy vải được, tôi phải
cõng cô. Mặt cô lúc đi tươi thế; bây giờ buồn thiu, tôi thấy những giọt nước mắt
lã chã trên vai tôi.
Không bao lâu chúng tôi đã về đến nhà. Cửa ngoài mở rộng.
Chúng tôi vào ngay trong vườn.
Một cảnh tượng tàn phá bày ra trước mắt; khung cửa, hoa, mảnh
kính, hạt đá, thành một hỗn hợp, một đống lộn xộn không ra hình thể gì. Thửa vườn
ban mai tốt tươi thế, xinh đẹp thế, bây giờ thành ra những tàn vật không tên.
Chủ nhân đâu?
Chúng tôi kiếm mãi, không thấy. Sau chúng tôi vào nhà gương lớn
mà không một miếng kính nào nguyên vẹn, thấy ông ngồi rũ trên một cái ghế đẩu,
trong đám vụn vỡ ngổn ngang, An-Sinh và Bằng-Mai cũng đứng đó yên lặng.
Nghe tiếng chân giẫm trên đống kính vụn, ông biết chúng tôi
đã về. Chúng tôi vừa bước vào, ông ngửng đầu lên bảo:
- Các con ơi! Các con khốn nạn của cha ơi!
Rồi ông ôm lấy Lệ-Hoa mà khóc, không nói thêm một câu nào.
Ông sẽ nói những gì?
Đó là một thiên tai, nhìn trước mặt, ta chỉ thấy lớn lao
thôi, nhưng ta không tưởng tượng được cái hậu quả của nó ghê gớm đến thế nào!
Sau đó Yến-Chi và An-Sinh cho tôi biết rằng cách đây 10 năm,
ông An-Thanh đã tậu thửa vườn này và dựng ngôi nhà chúng tôi đang ở. Chủ đất
cho ông vay một món tiền lớn để sắm sửa vật liệu về nghề trồng hoa. Ông phải trả
góp trong 15 năm; mỗi năm một kỳ. Từ trước đến giờ ông đã trả được 10 kỳ rồi với
bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Những kỳ tiền phải trả đều đặn, nếu chậm trễ chủ đất
sẽ tịch thâu luôn cả nhà, đất lẫn vật liệu và cố nhiên mất hẳn 10 kỳ tiền đã trả.
Đó là một lối đầu cơ của chủ nợ thời đó nếu con nợ sòng phẳng, họ vẫn có lời, rủi
cho con nợ không trả được thì nghiễm nhiên họ được lợi to. Vì thế chủ nợ chỉ
mong có một ngày con nợ không trả được.
Ngày đó đã đến, nhờ trận mưa đá.
Thế rồi việc xảy ra như thế nào!
Chúng tôi không phải phấp phỏng lâu la gì. Ngày hôm sau hạn
trả nợ mà ông An-Thanh không có tiền trả, có một người ăn mặc đồ đen đến, thái
độ không được lịch sự lắm đưa cho chúng tôi một tờ giấy có dán tem trong có mấy
chữ viết vào dòng để trống.
Đó là ông Thừa phát lại.
Rồi từ đó, ông ta lại đến luôn luôn đến nỗi quen cả tên chúng
tôi. Ông ta nói:
- Chào em Lê-Minh! Chào em An-Sinh! Cô Yến-Chi vẫn mạnh đấy
chứ?
Rồi ông trao tờ giấy có tem cho chúng tôi, tươi cười như nói
với bạn:
- Các em chơi nhé!
- Chơi cái con mèo!
Ông An-Thanh không hay ở nhà. Ông thường ra Ba-Lê. Để làm gì?
Tôi không biết, thời thường ông rất cởi mở, bây giờ ông chẳng hề hé răng. Ông đến
nhờ các phòng biện sư hoặc hầu tòa.
Nói đến tòa tôi lại ghê người. Ông Vỹ-Tiên chẳng đã ra tòa và
kết cục thế nào tôi đã rõ.
Về phần ông An-Thanh, kết quả còn phải đợi. Không có tiền sửa
sang gây dựng lại giàn kính và nhà gương, chúng tôi phải bới đất trồng rau hoặc
vài thứ hoa không cần che kính để sinh sống cho qua mùa đông và cũng để có việc
làm.
Một buổi chiều kia, ông An-Thanh trở về rầu rĩ hơn ngày thường.
Ông gọi các con bảo:
- Các con ơi! Thế là hết cả!
Tôi định ra ngoài, vì tôi biết có chuyện biến gì đây và ông
chỉ gọi các con ông thôi nên tôi không nên ở lại.
Nhưng một cái vẫy tay, ông giữ tôi lại, ông nói:
- Con không phải là người trong gia đình hay sao? Dù con chưa
đến tuổi để nghe lời ta nói, nhưng cái biến cố xảy đến đã xúc động lòng con phần
nào và làm cho con hiểu: Các con ơi! Ta sắp từ biệt các con!
Các con đều kêu trời!
Lệ-Hoa chạy vào ôm lấy cha và nức nở khóc.
- Có phải cha tự ý bỏ các con đâu! Ai lại nỡ bỏ những đứa con
thảo như các con, ngoan như Lệ-Hoa?
Rồi ông ôm chặt lấy Lệ-Hoa nói tiếp:
- Vì cha không có tiền để trả nợ, người ta sẽ bán tất cả chỗ
này. Nhưng cũng không đủ số tiền nợ, người ta sẽ bỏ tù cha trong 5 năm. Không
trả được bằng tiền, ta phải trả bằng thân ta, bằng tự do của ta.
Chúng tôi đều khóc òa lên.
Ông nói:
- Phải. Buồn lắm. Các con ạ. Nhưng không thể cưỡng với pháp
luật vì là pháp luật. Năm năm! Trong thời gian đó các con sẽ như thế nào?
Đó là điều đau khổ.
Im lặng một lúc, ông lại nói:
- Ta cũng nghĩ đến điều đó và liệu sao cho các con khỏi phải
bơ vơ sau ngày cha bị bắt.
Lòng tôi nở chút hy vọng.
- Lê-Minh, con viết thư cho bà Cát-Tường, em gái ta ở làng Mộc-Văn
quận Đơ-Di, trình bày cảnh huống nhà ta và mời bà đến ngay. Bà là người sáng suốt
và thông thạo, có thể thu xếp mọi việc cho các con.
Thực là lần đầu tiên tôi cầm bút và viết một bức thư, bức thư
đó ngán nỗi lại báo một tin buồn.
Mặc dầu việc đó còn bấp bênh nhưng cũng cho chúng tôi một tia
hy vọng. Và trong hoàn cảnh của chúng tôi lúc ấy, hy vọng cũng là đã hay rồi!
Còn biết làm gì hơn nữa?
Chúng tôi hy vọng. Bà Cát-Tường sắp đến. Bà là một người thạo
việc, rất mừng cho những đứa trẻ thơ ngây và nhỏ dại như chúng tôi. Đối với người
thạo việc, trên đời này còn có việc gì khó khăn nữa?
Nhưng than ôi! Bà không đến sớm như lòng chúng tôi mong đợi.
Và những người cảnh sát Tư-pháp đã đến sớm trước bà.
Hôm ấy, ông An-Thanh cho tôi cùng đi để đến thăm một người bạn.
Chúng tôi vừa ra khỏi cửa thì gặp mấy người cảnh sát kéo đến quây lấy chúng
tôi. Ông An-Thanh không lẩn tránh, ông thất sắc như người bị đau. Ông nghẹn
ngào xin với mấy người cảnh sát đó được trở vào hôn các con.
Một người cảnh sát có lòng nhân từ bảo:
- Ông đừng lo. Tù nợ không khổ lắm đâu. Trong ấy cũng lắm người
tử tế.
Chúng tôi vào nhà, bọn cảnh sát theo sau. Tôi vội ra vườn gọi
các con trai ông. Khi chúng tôi trở vào thì thấy ông đang bế Lệ-Hoa, cô bé khóc
sướt mướt. Người cảnh sát nói trên ghé vào tai ông, nói nhỏ câu gì tôi không
nghe rõ, nhưng thấy ông trả lời:
- Vâng, thầy nói phải đấy. Phải thế mới được.
Rồi ông vụt đứng dậy, đặt Lệ-Hoa xuống đất. Nhưng cô cứ bám
chặt lấy ông không chịu buông ra.
Đoạn ông lần lượt hôn Yến-Chi, An-Sinh và Bằng-Mai.
Tôi đứng một góc, nước mắt ràn rụa. Ông gọi tôi:
- Minh, không lại hôn ta à? Con không phải là con ta hay sao?
Chúng tôi lúc bấy giờ cuống quít cả lên.
Ông nghiêm sắc mặt bảo:
- Các con ở lại. Không được nhốn nháo.
Rồi ông cầm tay Lệ-Hoa đặt vào tay Yến-Chi và ra thẳng.
Tôi toan theo ông, nhưng vừa ra đến cửa thì Yến-Chi ra hiệu
cho tôi đứng lại.
Lúc đó chúng tôi như những kẻ mất hồn, ngồi tụm trong bếp,
bưng mặt khóc như di. Không ai tìm được câu gì để nói. Nói gì? Chúng tôi vẫn biết
rằng ngày một ngày hai thế nào cha cũng bị bắt. Chúng tôi chắc có bà Cát-Tường ở
đó để bảo vệ chúng tôi. Nhưng bà Cát-Tường không ở đó.
Một giờ sau khi ông An-Thanh đi rồi, bà Cát-Tường mới đến. Bà
thấy chúng tôi ở cả trong bếp và chẳng ai nói một câu gì. Người mà xưa nay vẫn
bảo ban nâng đỡ chúng tôi, bây giờ cũng mất hết tinh thần rồi. Thực vậy, cô Yến-Chi
ngày thường khỏe mạnh và can đảm như thế, nay thấy mềm yếu hơn chúng tôi. Cô
không khuyên bảo gì nữa vì mất hết nghị lực, hết sáng kiến, hoàn toàn chìm đắm
trong đau khổ, có gượng được chút nào là chỉ để dỗ Lệ-Hoa thôi. Người hoa tiêu
đã rơi xuống biển rồi.
Chúng tôi, lũ trẻ con, từ nay không người bẻ lái, không ngọn
hải đăng dẫn đường, không có cách gì để vào bến, và cũng không biết có một bến
nào để ghé lên, chúng tôi thật bơ vơ trong biển của đời, bềnh bồng theo sóng
gió, không sao có một hành động hay một ý kiến gì để giải thoát, chỉ có lo sợ
và thất vọng mà thôi.
Bà Cát-Tường là một người có kinh nghiệm và sẵn ý chí. Bà từng
làm vú nuôi ở Ba-Lê trong mười năm cho 5 chủ khác nhau. Bà hiểu biết những khó
khăn trong đời và theo lời bà, bà biết khắc phục những trở lực đó. Sự có mặt của
bà thật là một mối an ủi lớn cho chúng tôi. Chúng tôi đã tìm được chỗ bám.
Chúng tôi lại đứng thẳng mình được trên đầu gối chúng tôi.
Đối với một người đàn bà, cưu mang một ổ gần 5 đứa trẻ, đứa lớn
nhất chưa đến 17 tuổi và đứa bé nhất lại câm, thực là một trách nghiệm nặng nề,
chính những người đảm đang nhất cũng phải lo ngại, làm gì cho những đứa trẻ bây
giờ? Nuôi chúng được chăng khi mà chính người ta cũng phải ăn bữa sáng lo bữa
chiều?
Một chủ cũ của bà ở Ba-Lê làm nghề Thừa phát lại. Bà đến đó để
nhờ chỉ giáo. Những lời khuyên của ông này sẽ định đoạt số phận của chúng tôi.
Rồi bà lại vào khám để bàn định với ông An-Thanh. Bà không hề nói gì về việc vận
động và ý kiến của bà với chúng tôi. Tám hôm, sau ngày bà đến Ba-Lê, bà cho
chúng tôi biết quyết định của bà. Vì chúng tôi còn bé quá không thể đi làm lấy
mà nuôi nhau được. Mỗi đứa phải đến ở nhờ một người trong họ.
Lệ-Hoa ở với cô Cát-Tường ở làng Mộc-Văn.
An-Sinh ở với chú làm thợ mỏ ở Văn-Xá, thuộc Xê-Viên.
Bằng-Mai ở với ông chú khác, thợ trồng rau ở Lan-Thành.
Còn Yến-Chi ở với một người cô lấy chồng ở miền Sa-Lăng ở miền
duyên hải Yến-Nam.
Tôi nghe bà phân phối và đợi đến lượt tôi.
Nhưng bà Cát-Tường cắt đặt đến Yến-Chi thì thôi không nói nữa.
Tôi liền tiến lại và hỏi:
- Thưa còn tôi nữa?
- Mày à? Mày không phải người nhà.
- Tôi sẽ làm cho bà.
- Mày không phải con cháu.
- Bà hỏi An-Sinh, hỏi Bằng-Mai xem có phải tôi rất chăm làm.
- Chăm cả ăn bánh mì nữa phải không?
Hai anh đều nói:
- Phải, phải. Minh cũng là người nhà.
Lệ-Hoa lại trước mặt bà Cát-Tường, chắp tay và trỏ vào tôi, ý
kêu van cho tôi cùng đi.
Bà Cát-Tường bảo:
- Cháu ơi! Cô hiểu lắm. Cháu muốn cho Minh cùng đi. Nhưng
cháu nên biết ở đời lắm lúc người ta không thể làm được những điều người ta muốn.
Cháu là cháu cô. Đến khi về nhà cô, chồng cô có ra bộ không bằng lòng thì cô có
thể nói rằng: “Nó là cháu, nếu ta không thương nó thì ai thương nó?”. Gia đình
các cô, các chú khác cũng thế. Người ta chỉ có thể rước những người họ, không
ai nuôi người ngoài. Người ta bớt bánh vì con cháu chứ không ai bớt bánh cho cả
mọi người.
Tôi nhận thấy tôi không thể làm gì hơn, nói gì hơn nữa. Những
điều bà Cát-Tường vừa nói thực quá phải. “Tôi không phải người nhà”. Tôi không
vì lẽ gì để đòi hỏi nữa, còn kêu xin tức là ăn mày, tôi không muốn thế. Dù
không phải là con một nhà, tôi cũng yêu các con ông như tình ruột thịt.
An-Sinh, Bằng-Mai há chẳng phải là các anh tôi sao! Yến-Chi, Lệ-Hoa há chẳng phải
là chị là em tôi sao! Các anh và chị lớn yêu tôi như yêu Lệ-Hoa. Và Lệ-Hoa cũng
yêu tôi như yêu các anh Bằng-Mai hay An-Sinh.
Bà Cát-Tường không hề thay đổi ý kiến một khi bà đã định làm.
Bà cho chúng tôi biết trước là ngày mai chia tay nhau và bây giờ thì đi ngủ cả
đi. Chúng tôi vừa vào buồng thì mọi người đã quây lấy tôi, Lệ-Hoa ôm lấy tôi mà
khóc. Tôi rất cảm động, nghĩ rằng mặc dầu gia đình tan tác, anh em phải xa lìa
nhau, mà họ thương tôi trước nhất, tôi há chẳng phải là người em hay sao? Tức
thì một ý tưởng rọi sáng trong óc rối bời của tôi, đó là một nguồn linh cảm tự
nhiên phát từ trái tim lên óc tôi. Tôi bảo các anh chị:
- Các anh chị ơi! Nếu các cô chú không nhận tôi, các anh chị
cứ cho tôi là con một nhà có được không?
- Có! Có! Minh bao giờ cũng là em chúng tôi!
Lệ-Hoa không nói được, nhấn mạnh câu đó bằng cái bắt tay quá
chân thành khiến tôi không cầm được nước mắt. Tôi nói:
- Tôi sẽ là em anh chị, một đứa em hết lòng. Tôi sẽ chứng
minh điều đó.
Bằng-Mai hỏi:
- Thế anh định đi làm đâu?
Yến-Chi nói:
- Có một chỗ làm ở nhà ông Bích-Niên. Anh có muốn tôi hỏi
giúp không?
- Tôi không muốn đi làm thuê. Nếu tôi làm thuê ở Ba-Lê, tôi sẽ
không bao giờ được gặp các anh chị và Lệ-Hoa nữa. Tôi sẽ lại khoác mảnh áo da cừu,
tôi sẽ hạ cây đàn mà tôi đã treo ở kia, tôi sẽ đi từ Lan-Thành đến Văn-Xá, từ
Văn-Xá đến Yến-Nam và từ Yến-Nam đến Mộc-Văn. Tôi sẽ lần lượt thăm hết anh chị
Lệ-Hoa. Và do tôi các anh chị và Lệ-Hoa sẽ được liên lạc với nhau luôn. Tôi còn
nhớ các bản “Tình-ca” và vũ khúc. Tôi sẽ mưu sinh được.
Nét mặt mọi người đều tươi hẳn lên. Và trong cơn phiền muộn,
lòng tôi thấy nhẹ nhàng. Chúng tôi nói chuyện rất lâu, hết chuyện dự định, chuyện
chia tay, đến chuyện tái ngộ, chuyện quá khứ, chuyện tương lai.
Đêm đã khuya, Yến-Chi giục chúng tôi đi ngủ. Nhưng suốt đêm
đó chẳng ai chợp mắt được, nhất là tôi.
Sáng sớm hôm sau, Lệ-Hoa dắt tôi ra vườn, tôi hỏi cô có điều
gì muốn nói.
- Cô muốn nói chuyện phải không?
Cô gật đầu.
- Cô buồn vì anh em xa cách. Cô không phải nói, tôi đã thấy
rõ ở đôi mắt cô và tôi đã cảm thấy ở trong lòng tôi.
Cô ra hiệu rằng không phải vấn đề đó.
- Trong 15 ngày nữa, tôi sẽ đến Mộc-Văn thăm cô.
Cô lắc đầu.
- Cô không muốn tôi đến Mộc-Văn?
Muốn nói chuyện với cô, thường đặt những câu hỏi để cô trả lời
“có” hay “không”.
Cô muốn tôi đến Mộc-Văn lắm, nhưng cô giơ tay về ba phía cho
tôi hiểu rằng tôi hãy thăm hai anh và chị cô trước.
- Cô muốn tôi đi đến Văn-Xá, Yến-Nam và Lan-Thành trước?
Cô mỉm cười, sung sướng vì tôi đã hiểu ý cô.
- Tại sao cô lại không muốn tôi đến thăm cô trước?
Tay cô và mắt cô đã nói lên như sau:
- Để cho anh biết tin tức chị Yến, anh An và anh Bằng trước,
rồi khi về Mộc-Văn, anh sẽ kể lại cho tôi nghe những điều anh trông thấy và những
lời các anh chị đã gửi anh.
Cô Lệ-Hoa đáng thương!
Bốn anh chị sẽ phải khởi hành hồi 8 giờ. Bà Cát-Tường đã thuê
một chiếc xe ngựa đưa các con ông An-Thanh vào khám để từ biệt ông, rồi ra ga,
mỗi người một gói lên tàu về các nơi đã định.
Lúc đó 7 giờ.
Đến lượt cô Yến-Chi đưa tôi ra vườn:
- Chúng ta sắp xa cách nhau, tôi muốn lưu cho anh một kỷ niệm.
Đây là cái hộp khâu trong đó có đủ kim, chỉ và kéo mà trước kia người cha đỡ đầu
đã cho tôi. Anh cầm lấy. Đi đường, anh sẽ cần đến các thứ này để đính cúc hoặc
vá áo. Tôi sẽ không có đấy để giúp anh. Khi cầm đến cái kéo, anh sẽ nhớ đến
chúng tôi.
Trong khi Yến-Chi nói chuyện với tôi, An-Sinh cũng lượn quanh
tôi. Khi cô trở vào, tôi đang cảm động không nói được câu nào thì An-Sinh lại gần
tôi bảo tôi:
- Tôi có 2 đồng 5 xu. Tôi biếu anh một đồng, anh nhận thì tôi
thích lắm.
Trong bọn năm người chúng tôi, An-Sinh là người quý tiền hơn
cả. Chúng tôi thường chế riễu anh luôn. Anh góp nhặt từng xu một. Khi đổi được
đồng 10 xu hay đồng 20 xu mới thì luôn tay đem ra ngắm nghía cái mặt lóng lánh
của nó hay rê lên để nghe tiếng kêu leng keng thì lấy làm thú lắm.
Đồng tiền biếu bất ngờ làm cho tôi vô cùng cảm xúc. Tôi không
muốn lấy nhưng anh nài tôi và bỏ vào tay tôi đồng tiền sáng loáng và đẹp quá.
Do đó, tôi nhận thấy anh quý tôi hơn tiền, vật mà anh thích nhất trên đời.
Bằng-Mai cũng không quên tôi. Anh cũng muốn lưu cho tôi một kỷ
niệm. Anh không có gì cả, chỉ có một con dao, anh đem đổi cho tôi lấy một xu vì
người ta thường kiêng cho nhau dao: “lưỡi dao hay cắt tình thân”.
Giờ phút đi nhanh chóng. Chỉ còn 15 phút nữa, rồi 5 phút nữa,
chúng tôi sẽ xa nhau. Lệ-Hoa không nhớ tôi hay sao?
Giữa lúc xe ngựa lạch cạch đến cửa, Lệ-Hoa ở buồng bà Cát-Tường
ra, gọi tôi theo cô ra vườn.
Bà Cát-Tường gọi giật lại:
- Lệ-Hoa!
Nhưng cô không trả lời, cứ ra thẳng vườn.
Trong vườn còn sót một gốc hồng giống Băng-Gan ở góc giậu. Lệ-Hoa
bẻ lấy một cành có hai nụ hàm tiếu, cô chia cho tôi một nhánh.
Ôi! Lời nói ở miệng không hùng hồn bằng lời nói ở mắt. Tiếng
nói không nồng nàn, đằm thắm bằng khóe mắt!
Bà Cát-Tường gọi gấp:
- Lệ-Hoa! Lệ-Hoa!
Đồ đạc xếp cả lên xe ngựa rồi.
Tôi vác đàn và gọi Lãnh-Nhi. Lãnh-Nhi trông thấy nhạc khí và
bộ áo của tôi năm xưa, nó nhảy nhót vui mừng. Chắc nó biết rằng nó sắp được chạy
nhảy tự do trên đường cái, sung sướng hơn là bị giam hãm ở xó vườn. Lúc phân kỳ
đã đến. Bà Cát-Tường muốn làm vắn tắt. Bà gọi Yến-Chi, An-Sinh, Bằng-Mai lên xe
và bảo tôi đỡ Lệ-Hoa lên lòng bà.
Rồi thấy tôi đứng ngây ra, bà đẩy nhẹ tôi ra và đóng cửa xe lại.
Tôi kêu với theo:
- Các anh hôn cha cho tôi với, vì…
Tôi nghẹn ngào không nói được.
Bà Cát-Tường giục người đánh xe:
- Đi đi!
Xe bắt đầu chuyển bánh.
Qua làn nước mắt, tôi thấy Lệ-Hoa nghiêng đầu ra cửa xe và
thò tay vẫy tôi. Rồi xe chạy nhanh, đến chỗ ngoẹo, tôi chỉ còn thấy một đám cát
bụi bay mù.
Thôi thế là hết!
Hai tay tì trên cây đàn, dưới chân con Lãnh-Nhi nằm đợi, tôi
đứng đó rất lâu nhìn đám bụi tan dần.
Một người hàng xóm giữ việc nhận nhà và khóa cửa cho chủ nợ,
lên tiếng gọi làm tôi giật mình và trở về thực tại.
Ông ta nói:
- Em có muốn ở lại đây không?
- Không. Tôi đi.
- Đi đâu bây giờ?
- Thẳng đằng trước mặt tôi.
Có lẽ ông còn chút từ tâm nên giơ tay và bảo tôi:
- Nếu em muốn ở, ta sẽ nuôi em nhưng không có tiền vì em còn
bé quá. Rồi sau sẽ hay.
Tôi cám ơn ông ta và chối từ.
- Cái đó tùy ý. Ta thương em nên bảo thế thôi. Chúc em lên đường
may mắn.
Rồi ông trở vào.
Xe đã đi xa rồi. Nhà đã khóa rồi. Tôi đeo đàn lên vai. Các
tác động quen thuộc đó làm cho Lãnh-Nhi chú ý. Nó đứng dậy, ngửa mặt nhìn tôi.
- Đi đi, Lãnh-Nhi.
Nó hiểu, nhảy lên trước và kêu “gâu gâu”.
Tôi ngoái nhìn lần cuối cùng ngôi nhà mà ở đấy tôi đã nương
náu hai năm trời, ở đấy tôi vẫn tưởng sống suốt đời, bây giờ bước ra không khỏi
ngậm ngùi.
Mặt trời đã lên cao. Trời trong sáng không một vẩn mây. Khí
trời ấm áp khác hẳn với đêm tuyết giá năm xưa tôi đã ngã gục ở cửa vườn kia.
Hai năm trời chỉ là một độ nghỉ. Nghỉ xong, tôi phải lên đường.
Độ nghỉ đó đã mát mẻ biết bao!
Nó đã cho tôi sức khỏe, và điều đáng quý hơn sức khỏe ở thân
thể tôi là tình hữu ái đang chứa chan ở trong trái tim tôi.
Tôi không cô quạnh ở trên đời nữa.
Đời tôi chỉ có một mục đích: giúp đỡ và làm vui lòng những
người yêu tôi và tôi yêu.
Tôi bắt đầu bước vào cuộc sống mới. Tôi nhớ lại thầy tôi, tôi
tự nhủ:
- Tiến lên!
Phần II - Chương XXII
tiến lên
Tiến lên!
Thế giới mở rộng trước mắt tôi. Tôi có thể đi về phương bắc
hay phương nam. Sang phương đông hay phương tây. Tùy sở thích của tôi.
Tôi vừa là một đứa trẻ con, vừa lại là ông thầy của tôi.
Than ôi! Chính vì tình cảnh đó mà tôi lại buồn cho tôi.
Biết bao đứa trẻ thầm ước rằng: “A! Giá mà ta có thể muốn làm
gì thì làm, giá mà ta được tự do, giá mà ta là thầy của ta” và chúng mong được
có cái ngày sung sướng đó để tự do… nghịch ngợm.
Tôi lại khác. Tôi nghĩ thầm: “A! Giá mà ta có được một người
nào ở bên cạnh để khuyên bảo ta, để điều khiển ta!”
Giữa những đứa trẻ đó và tôi, lòng ao ước cách nhau một vực một
trời!
Nếu những đứa trẻ đó nghịch ngợm, sau lưng chúng đã sẵn có
người giơ tay ra đỡ khi chúng sảy chân hay dắt chúng dậy khi chúng ngã. Còn
tôi, tôi chả có ai cả. Nếu tôi sảy chân, tôi cứ ngã đau. Và nếu không què gẫy,
tôi cứ việc tự mình lóp ngóp dậy. Khá nhiều kinh nghiệm cho tôi biết rằng tôi rất
có thể què gẫy. Mặc dầu tôi ít tuổi, tôi bị biến cố thử thách đã nhiều nên biết
thận trọng và suy nghĩ hơn những đứa trẻ bằng tuổi tôi. Đó là một lợi thế mà
tôi đã phải trả bằng giá rất đắt.
Trước khi bước chân vào con đường vô định, tôi muốn đến thăm
người mà trong mấy năm nay coi tôi như con. Nếu bà Cát-Tường đã không cho tôi
vào để từ giã ân nhân của tôi, một mình tôi, tôi cũng có thể đến hôn ông được.
Tôi vẫn thấy người ta nói nhà tù nợ ở phố Mã-Liên. Phố này
tôi biết lắm, đến nơi tôi sẽ hỏi thăm. Bà Cát-Tường cùng các con ông có thể vào
chào ông được, tất tôi cũng xin phép vào được. Tôi cũng là người nhà, là con
ông chứ có kém đâu!
Tôi không dám đi qua các phố ở Ba-Lê với con chó thả rong. Nếu
Cảnh binh hỏi thì tôi sẽ trả lời làm sao? Trong mọi thứ sợ, theo kinh nghiệm bản
thân của tôi thì cái sợ Cảnh binh là ghê gớm hơn cả, vì tôi chưa quên tấn kịch ở
Tu-lu. Tôi lấy dây cột vào cổ con Lãnh-Nhi – việc này làm trạnh lòng tự ái của
nó nhiều lắm vì nó vốn là một con vật thông minh và có giáo dục – rồi một tay cầm
đầu dây, tôi tìm đến nhà khám Kích-Chi.
Ở trên đời này có những điều sầu thảm khiến ta trông thấy phải
đau lòng. Không còn cái gì xấu hơn và buồn hơn là cái cửa nhà giam.
Đến nơi, tôi đứng dừng lại, không dám bước vào, tôi sợ người
ta sẽ giam tôi, sợ cái cửa oan nghiệt kia hé cho tôi vào để không bao giờ mở ra
nữa.
Tôi chỉ tưởng tượng là vào nhà lao thì khó ra, chứ có biết
đâu là rất khó vào.
Nhưng tôi không đến nỗi bị ngăn bị đuổi, cuối cùng tôi cũng
được phép vào. Người ta cho tôi vào phòng nói chuyện. Phòng này không có rào sắt
như tôi tưởng. Một lát sau thì ông An-Thanh ra, không phải đeo xiềng xích gì.
Ông nói:
- Minh ơi! Ta đợi con mãi. Ta có trách bà Cát-Tường sao không
cho con cùng đến với các con ta.
Từ sáng đến giờ tôi buồn quá. Câu nói đó làm cho tôi phấn khởi.
Tôi nói:
- Bà Cát-Tường không muốn cho con về với bà.
- Không được, con ạ! Ở đời lắm khi người ta không thể làm những
điều mà người ta muốn. Ta chắc con có thể tự túc được. Ông Suy-Ô, làm ở đập
sông Niên thực đấy, nhưng người ta không tuyển thợ làm vườn. Các con ta bảo con
muốn trở lại nghề cũ. Vậy con đã quên cái đêm suýt chết rét ở cửa nhà ta rồi
sao?
- Không. Con nhớ lắm!
- Thuở ấy, con không sống một mình, con có thầy con bên cạnh.
Bây giờ trơ trọi, tuổi lại còn non, con muốn phiêu lưu trên đường cái thực nguy
hiểm lắm!
- Con còn có Lãnh-Nhi!
Nghe thấy nhắc đến tên nó, Lãnh-Nhi ăng ẳng mấy tiếng như để
trả lời: “Có tôi đây. Nếu cần đến, tôi sẵn sàng!”
- Vẫn biết Lãnh-Nhi là một con chó có nghĩa, nhưng nó chỉ là
một con chó. Vậy con làm thế nào mà kiếm ăn được?
- Con sẽ đi hát và con Lãnh-Nhi sẽ diễn trò.
- Một mình Lãnh-Nhi thì diễn trò sao nổi?
- Con sẽ dạy nó nhảy múa làm xiếc. Nó sẽ vui lòng luyện tập.
Phải không Lãnh-Nhi?
Lãnh-Nhi đứng dậy, để một chân vào ngực.
- Nếu con biết nghĩ xa, con nên đi làm thuê, vì con đã biết
nghề rồi, còn hơn đi giang hồ, đó là một nghề của những kẻ lười biếng.
- Con không phải là một kẻ lười, chắc cha đã rõ. Không bao giờ
con phàn nàn là lắm việc, là vất vả. Với cha, con có thể ở mãi được, làm mãi được.
Nhưng ở với người khác, con không muốn.
Tôi nói mấy câu sau với một giọng cương quyết, nên ông nhìn
tôi một lúc không nói gì.
Sau ông bảo tôi:
- Con có kể lại cho ta hay rằng thầy con, ông Vỹ-Tiên, ngày
trước có tính khẳng khái lắm. Nay ta nhận thấy ở con cũng có tính đó. Con không
muốn làm tôi tớ người khác. Thôi, cái đó tùy con. Những lời ta khuyên con đây
cũng như những việc ta đã làm cho con; là cốt mong cho con hay. Nhưng bây giờ
con tự chủ rồi, vì con không có cha mẹ, không có thầy và ta đây cũng không đỡ đầu
cho con được nữa. Một kẻ khốn nạn như ta bây giờ không có quyền ra lệnh nữa.
Những điều ông An-Thanh vừa nói làm cho lòng tôi thêm bối rối.
Phải, một mình lang thang trên đường cái, long đong biết bao!
Tôi đã cảm thấy thế và nhìn thấy thế. Khi người ta đã sống một đời du mục như
tôi, khi người ta đã trải qua những đêm như đêm tuyết giá bị chó sói đến bắt những
con vật nuôi của mình, như đêm lặn lội vào lò đá, khi người ta đã bị đói cào ruột,
rét cắt da như tôi đã từng chịu đau khổ, khi người ta đã bị xua đuổi hết làng
này đến làng khác, không kiếm được một đồng xu nhỏ như hồi ông Vỹ-Tiên nằm ở
nhà lao, người ta mới thấm thía hết cái nguy hiểm và cái khổ cực của đời sống
không nhà, một đời sống mà ngày mai không vững chắc, và chính ngày hiện tại
cũng bấp bênh.
Nếu tôi từ bỏ cái đời sống gieo neo này, tôi chỉ còn có một
cách là làm theo lời ông An-Thanh vừa khuyên bảo: đi ở cho người ta. Nhưng tôi
không thể nào bỏ cái đời tự do, cái đời lữ hành đó mà không lỗi hẹn với Yến-Chi,
An-Sinh và Bằng-Mai, nghĩa là bỏ rơi các người thân yêu đó. Thực ra Yến-Chi,
An-Sinh và Bằng-Mai có thể không cần đến sự giúp đỡ của tôi vì họ có thể viết
thư cho nhau được. Nhưng Lệ-Hoa không biết viết, cả bà Cát-Tường cũng không. Lệ-Hoa
sẽ bặt tin mọi người, nếu tôi bỏ cô. Cô sẽ nghĩ gì về tôi? Chắc cô chỉ nghĩ có
một điều: tôi không yêu mến cô nữa. Chính cô đối với tôi có một tình hữu ái rất
chân thành. Tôi không thể làm thế được.
Tôi liền nói:
- Con sẽ thông tin tức các anh chị cho cha.
- Các con ta đã nói đến. Không muốn con phải vất vả vì gia
đình ta, nên ta khuyên con bỏ nghề diễn trò. Người ta không nên nghĩ đến mình,
trước khi nghĩ đến những người khác.
- Thưa cha, chính thế. Cha đã thương mà chỉ cho con điều hơn
lẽ thiệt. Nếu con sợ những nỗi nguy hiểm dọc đường mà cha vừa vạch ra, con bỏ lời
đã ước hẹn, như thế là con chỉ nghĩ đến phần con. Con không nghĩ đến gia đình
cha, không nghĩ đến Lệ-Hoa.
Ông lại nhìn tôi một lúc thật lâu hơn rồi thình lình, ông cầm
lấy hai tay tôi:
- Con ơi! Ta phải hôn con về câu nói đó. Con thực là đứa trẻ
hào khí. Người ta không phải cứ lớn mới có tính khí đó.
Tôi liền ôm lấy ông.
Ông nói:
- Con ơi! Ta chỉ nói thêm một câu nữa: Cầu trời phù hộ con!
Rồi cả hai ngồi im lặng trên ghế dài. Thì giờ đi vùn vụt. Đã
đến lúc phải rời nhau.
Chợt, ông thò tay vào túi và móc ra một cái đồng hồ quít bằng
bạc có dây da để đeo vào khuy.
- Trong khi ly biệt, ta không thể không cho con một chút gì
làm kỷ niệm. Đây, ta có chiếc đồng hồ cho con. Nó không đáng mấy – nếu nó đắt
thì ta phải đã bán tự lâu rồi – mà chạy cũng không đúng. Đôi khi phải vặn lại
kim. Nhưng đó là tất cả cái mà ta còn lại hiện giờ. Vì thế ta mới cho con.
Ông vừa nói vừa đặt cái đồng hồ vào tay tôi. Thấy tôi ngần ngại
không dám lấy món quà quý đó, ông nói thêm giọng buồn rầu:
- Con nhớ rằng ở đây không cần xem giờ. Sao mà thì giờ đi chậm
thế, ta phải đếm từng giờ thì đến buồn mà chết. Thôi! Vĩnh biệt con! Con hôn ta
lần nữa đi! Con thực là đứa trẻ can đảm. Con cố giữ lấy nết đó.
Xong tôi thấy ông cầm tay tôi đưa ra cửa. Rồi chúng tôi làm
gì, nói gì tôi cũng không biết nữa vì lúc đó tôi quá xúc động.
Khi ra đến phố rồi, tôi như ngây như dại, đứng mãi ở trước cửa
nhà lao; không biết nên đi sang bên phải hay bên trái. Có lẽ tôi sẽ đứng đó đến
tối nếu tay tôi không mân mê trong túi thấy một vật tròn và rắn. Tôi sờ mãi và
sực nhớ ra: cái đồng hồ!
Lập tức, buồn, lo, sợ tiêu tán hết. Một đứa trẻ bao giờ chả
thích đồng hồ? Ôi! Sung sướng quá! Tôi đã có đồng hồ, một cái đồng hồ của riêng
tôi, trong túi tôi. Tôi sẽ biết giờ giấc. Rồi tôi kéo ra xem mấy giờ? Đúng 12
giờ. 12 giờ hay 14 giờ, hay 10 giờ, cái đó cũng chẳng ích gì cho tôi. Nhưng tôi
thấy thích quá vì đúng 12 giờ. Tại sao thế? Tôi cũng không biết lý do, nhưng sự
thực là như thế. A! 12 giờ? Đã 12 giờ? Tôi biết rằng lúc đó là 12 giờ, đồng hồ
của tôi đã bảo tôi biết. Tôi tưởng tượng cái đồng hồ là một người bạn tâm sự.
- Bạn đồng hồ ơi! Mấy giờ rồi?
- 12 giờ rồi, bạn Minh ạ.
- Đến trưa rồi à? Vậy tôi phải làm việc này hay việc nọ phải
không?
- Đúng lắm.
- Nếu không có anh, tôi quên mất.
- Tôi sẽ ở luôn bên cạnh để nhắc anh.
Thế là bây giờ tôi có hai người bạn đường để trò truyện: bạn
Lãnh-Nhi và bạn đồng hồ.
Đồng hồ! Hai tiếng nghe êm ái biết bao? Đã lâu tôi mơ ước có
một cái đồng hồ. Nhưng tôi nghĩ rằng không đời nào tôi có cái may mắn đó. Thế
mà bây giờ trong túi tôi lại có đồng hồ đang kêu tích tắc. Ông An-Thanh bảo nó
chạy không được tốt, cần phải vặn kim luôn. Nếu vặn không xong, tôi sẽ mở hẳn
ra. Có lẽ thú lắm. Tôi trông thấy máy móc bên trong và xem nó chạy thế nào? Tôi
có thể săn sóc và làm cho nó chạy đều.
Tôi mải nói chuyện với đồng hồ, quên bẵng con Lãnh-Nhi. Chợt
nó kéo ống quần tôi và kêu ăng ẳng, làm cho tôi hết mơ màng trong giấc mộng.
Lãnh-Nhi? Muốn gì?
Nó nhìn tôi. Tôi không hiểu ý nó muốn gì, thì nó đứng lên bằng
hai chân sau, lấy một chân trước vỗ vào túi tôi đang đựng chiếc đồng hồ.
A! Nó muốn xem đồng hồ để báo cho các khán quan biết rằng mấy
giờ như ngày còn ông Vỹ-Tiên.
Tôi liền giơ đồng hồ ra cho nó coi, nó nhìn một lúc lâu như để
nhớ lại. Xong nó ve vẩy đuôi và cắn 12 tiếng. Nó vẫn xem được giờ, chưa quên.
Hay lắm, chúng tôi có thể kiếm ăn với cái đồng hồ này. Thêm một trò hay nữa mà
tôi không ngờ đến.
Chúng tôi lúc đó ở cửa nhà lao. Những khách qua đường quay
nhìn chúng tôi. Cũng có người đứng hẳn lại để xem.
Nếu tôi dám, tôi đã diễn trò ngay ở đó. Nhưng không bao giờ cảnh
sát lại để yên, vả lại lúc đó là 12 giờ, chính là lúc phải lên đường.
Tiến lên!
Tôi nhìn lần cuối cùng, tôi vĩnh biệt cái nhà lao kia mà vị
ân nhân của tôi đã bị cầm giữ ở đó. Rồi chúng tôi đi.
Cái vật liệu cần thiết nhất cho đời giang hồ của chúng tôi là
bản đồ nước Pháp. Tôi biết ở bến tàu có bán, nên tôi ra nơi đó để mua.
Khi qua công trường Các-Xuyên, nhìn thấy chiếc đồng hồ lớn của
một tòa lâu đài, tôi nghĩ thử đem đồng hồ của tôi ra so xem sao. Đồng hồ của
tôi lúc đó 12 giờ rưỡi. Đồng hồ rồi tòa lâu đài kia chỉ 1 giờ. Trong hai chiếc
đồng hồ, chiếc nào chạy đúng hơn? Tôi định vặn kim đồng hồ lên, nhưng một ý
nghĩ làm tôi dừng lại: không có cái gì chứng minh là đồng hồ tôi có lỗi và biết
đâu cái đồng hồ lớn kia lại không sai? Thế rồi tôi lại bỏ đồng hồ của tôi vào
túi và tự nhủ: giờ của ta còn sớm.
Việc mua bản đồ hơi lâu. Tôi muốn có một cái có vải bồi ở
phía sau gấp lại được và giá không quá 2 phật-lăng – món tiền lớn đối với tôi –
sau cùng tôi chọn được một cái đã cũ nhưng còn lành và chỉ phải trả có 13 xu
thôi.
Bây giờ tôi có thể rời khỏi Ba-Lê được và tôi muốn ra cho
nhanh.
Tôi có hai đường đi: một đường về Fonainebleau, một đường đi
Orléans. Cả hai nơi chẳng nơi nào quan trọng cho tôi cả. Cái ngẫu nhiên đưa tôi
về phía Fonainebleau.
Tôi vào phố Lục-Sinh, phố này gợi cho tôi bao nhiêu chuyện
cũ. Phú-Lợi, Mã-Tư, Cát-Độ, nồi khóa vung, roi da và sau cùng là ông Vỹ-Tiên,
thầy tôi, thà chịu chết đói còn hơn gán tôi vào tay kẻ hung ác ở phố Lục-Sinh.
Khi đến nhà thờ Thánh Mê-Đa, tôi trông thấy một đứa trẻ dựa lưng vào tường
trông giống Mã-Tư: cũng cái đầu to, cũng đôi mắt ướt, cũng cái miệng tươi, cũng
cái vẻ hiền lành và chịu đựng, nhưng có điều lạ là không lớn được chút nào.
Tôi lại gần để nhìn kỹ xem. Không còn nghi ngờ gì nữa. Chính
là Mã-Tư. Mã-Tư cũng nhận ra tôi, nét mặt xanh xao, sáng hẳn lên với một nụ cười.
Mã-Tư hỏi:
- Anh đấy à? Có phải có lần anh đã đến nhà Phú-Lợi với một
ông cụ già râu bạc. Ngày đó tôi đau đầu quá rồi phải đi nhà thương.
- Phú-Lợi vẫn là chủ anh?
Anh nhìn chung quanh rồi nói nhỏ:
- Phú-Lợi đã ngồi tù. Hắn bị bắt vì đánh chết một đứa trẻ tên
là Lan.
Nghe nói Phú-Lợi phải vào nhà lao, tôi sung sướng quá. Trước
kia, tôi yên trí nhà lao chỉ là một nơi đáng ghê sợ, bây giờ tôi mới biết nhà
lao là có ích.
Tôi hỏi:
- Còn những đứa trẻ khác đâu?
- Tôi không biết vì khi Phú-Lợi bị bắt, tôi không có đấy. Khi
tôi ở nhà thương ra, Phú-Lợi nhận thấy tôi là một đứa trẻ yếu chịu đòn và ốm
luôn nên tìm cách đẩy tôi đi. Hắn đem tôi đến gánh xiệc Gia-Sơn cho thuê một hạn
2 năm, và lấy tiền trước. Anh có biết gánh xiệc ấy không? Không à? Đó là gánh
xiệc không to lắm, nhưng cũng là một gánh xiệc. Họ cần một đứa trẻ làm trò dẻo
xương nên Phú-Lợi cho tôi làm ở đó. Đến hôm thứ hai vừa rồi, hết hạn, họ đuổi
tôi ra vì đầu tôi bây giờ to quá không lọt vào cái hòm. Tôi vừa ở Dị-Nho là nơi
gánh xiệc ở đó, đến đây tìm Phú-Lợi. Nhưng tôi chẳng thấy ai cả, mà nhà thì
khóa kín. Một người hàng xóm bảo tôi những lời như tôi vừa kể lại với anh,
Phú-Lợi bị tù rồi! Thành ra bây giờ tôi bơ vơ, không biết đi đâu và cũng không
biết làm gì.
- Sao anh không trở lại Dị-Nho?
- Khi tôi đi bộ về đây thì gánh xiệc ở Dị-Nho cũng dọn đi
Ru-Ăng. Tôi theo đến Ru-Ăng sao được? Vì đường thì xa mà tôi chẳng có đồng nào.
Từ trưa hôm qua đến giờ, tôi chưa được miếng bánh nào vào bụng.
Tôi không giàu có gì. Nhưng lúc đó trong túi tôi cũng có chút
ít không đến nỗi để Mã-Tư phải chết đói. Ngày tôi lang thang ở Tu-lu, cũng đói
như Mã-Tư bây giờ, giá mà ai cho tôi được một mẩu bánh thì ơn ấy phải nghĩ đến
đời đời.
Tôi bảo anh:
- Anh hãy đứng đây.
Rồi tôi chạy đến hàng bánh ở đầu phố. Lúc tôi trở về, tôi đưa
cho anh một ổ bánh, anh vồ lấy ăn ngấu nghiến.
Anh ăn xong, tôi hỏi:
- Bây giờ anh định làm gì?
- Tôi không biết.
- Phải làm một việc chớ?
- Tôi đang định bán cái đàn vi-ô-lông này thì gặp anh. Nếu vạn
nhất phải bán nó thì tôi buồn lắm anh ạ, vì nó là nguồn vui và nguồn an ủi của
tôi. Những khi tôi phiền muộn, tôi tìm chỗ vắng người, tôi dạo một vài bài để
nghe chơi. Lúc đó tôi thấy trời đất đẹp quá, đẹp hơn trong giấc mộng.
- Thế sao anh không đi đánh đàn trong các phố?
- Tôi đã thử đánh, nhưng chẳng ai cho tiền cả.
Tôi đã biết rõ lắm, biết rõ cái cảnh gảy đàn sái tay mà chẳng
ai thèm móc túi.
Mã-Tư hỏi tôi:
- Thế anh? Anh làm gì bây giờ?
Cái tính cao ngạo của tôi phát luôn ra câu trả lời:
- Ông bầu đoàn diễn trò.
Sự thực, tôi cũng có đoàn, đoàn của tôi có con Lãnh-Nhi.
Nhưng sự thực đó gần như sai.
Mã-Tư nói:
- Ô! Nếu anh vui lòng?
- Gì?
- Cho tôi nhập đoàn của anh.
Lúc đó, tôi chỉ vào con Lãnh-Nhi và nói thực:
- Anh trông, đoàn của tôi đó.
- Không hề chi, anh ạ! Hai chúng ta cũng đủ. Tôi xin anh. Anh
bỏ tôi một mình, tôi sẽ làm ăn gì được! Tôi sẽ chết đói.
Chết đói! Hai tiếng đó đối với người khác, có lẽ họ không hiểu
là gì. Nhưng hai tiếng đó đã vang dội trong lòng tôi vì chính tôi đã hiểu nghĩa
hai tiếng đó.
Mã-Tư nói:
- Tôi biết làm việc. Trước hết tôi biết hát, biết kéo vĩ-cầm
rồi tôi biết uốn mình, biết nhảy dây, biết lộn vòng. Nếu anh muốn thử tài, tôi
sẽ diễn anh xem. Tôi sẽ theo lệnh anh. Tôi không cần lương, được ăn là đủ rồi.
Nếu tôi làm hỏng, anh cứ việc đánh tôi. Tôi cam kết với anh như thế. Nhưng có
điều tôi xin anh là đừng đánh vào đầu tôi vì trước kia bị Phú-Lợi làm hại, bây
giờ hơi động đến là đau.
Nghe Mã-Tư nói thế, tôi không cầm được hai hàng nước mắt. Tôi
nỡ nào từ chối anh được.
Tôi nói:
- Nhưng đi với tôi, chắc gì anh đã khỏi chết đói hơn đi một
mình?
Anh nói:
- Không. Chúng ta hai người, không bao giờ chết đói được.
Chúng ta giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta đùm bọc lẫn nhau. Kẻ có cho người không có,
như anh vừa làm ban nãy.
Câu đó làm tôi quyết định, bởi vì tôi có, tôi phải giúp anh.
Tôi nói:
- Tôi xin vui lòng.
Lập tức anh cầm tay tôi mà hôn. Tôi cảm động quá, nước mắt ở
đâu ràn rụa ra.
Tôi nói:
- Đi với tôi, anh không phải là người đầy tớ mà là bạn tôi.
Tôi đeo đàn lên vai và nói:
- Tiến lên! Chúng ta tiến lên!
Mười lăm phút sau, chúng tôi ra khỏi Ba-Lê.
Gió đông bắc của tháng ba đã thổi khô đường, đất rắn dễ đi.
Khí trời dịu dàng. Mặt trời chói lọi trên nền trời xanh,
không một vẩn mây. Khí hậu êm ái này so với ngày mưa tuyết tôi vào Ba-Lê thật
khác nhau một vực một trời.
Hai bên lề đường, cỏ mọc xanh rờn, thỉnh thoảng lại điểm những
bông cúc, bông dâu chớm nở và hướng về phía mặt trời. Góc vườn, bên đường, những
nụ đinh hương đỏ chói trong đám lá xanh non. Một làn gió nhẹ thổi qua, những
cánh hoa vàng trên nóc tường lác đác rơi xuống đầu chúng tôi.
Trong các vườn, trong bụi, trên cây, đâu đâu cũng nghe thấy
tiếng chim hót vui tai. Những con chim én bay là là mặt đất bắt sâu.
Cuộc hành trình của chúng tôi khởi đầu thấy vui, nên chúng
tôi bước dài không mệt. Con Lãnh-Nhi được tháo dây, chạy loăng quăng, thấy xe
qua cũng sủa, gặp đống đá cũng sủa, sủa lung tung và chẳng có nghĩa gì, nếu
không phải là vì thích mà sủa cũng như người ta cao hứng mà hát.
Mã-Tư đi bên cạnh tôi không nói gì, có lẽ anh đang tư lự. Tôi
không muốn nói để làm phiền anh, vả lại chính tôi cũng đang nghĩ. Ta định đi
đâu bây giờ?
Thực ra tôi cũng chẳng biết chúng tôi đi đâu. Tôi chẳng biết
gì cả. Tôi nhớ ra rằng tôi đã hứa với Lệ-Hoa là đi thăm anh chị trước, nhưng
tôi không hứa với các anh chị là đến thăm ai trước. Vậy tôi có thể đến Xê-Viên,
Sa-Lăng hoặc Lan-Thành trước, tùy ý tôi.
Vì tôi ra phía nam thành Ba-Lê, nên không thể lộn lại để thăm
Bằng-Mai được. Vậy tôi chỉ còn chọn xem đến thăm An-Sinh hay Yến-Chi trước mà
thôi. Cái linh tính nó đưa tôi về phía nam hơn phía bắc là lòng nhớ mẹ tôi, bà
Bảo-Liên.
Đã lâu tôi không nhắc đến bà, xin quý độc giả đừng cho tôi là
một kẻ bạc nghĩa đã quên bà.
Cũng xin đừng cho tôi là kẻ bạc nghĩa đã quên bà vì không hề
viết một lá thư thăm bà trong bao nhiêu năm xa cách. Đã bao nhiêu lần tôi viết
thư “Con nhớ mẹ lắm, con yêu mẹ suốt đời con!” Nhưng một là bà không biết chữ,
hai là tôi sợ ông Bảo-Liên, chồng bà, nên tôi không dám viết. Nếu Bảo-Liên xem
thư, biết địa chỉ của tôi, ông ta sẽ tìm bắt tôi và bán cho một Vỹ-Tiên không
phải là Vỹ-Tiên thì nguy hại biết bao! Chắc chắn là ông ta có quyền và có thể
làm thế được. Chính vì lẽ đó mà tôi thà chịu mẹ tôi trách là đứa con tệ bạc còn
hơn là để rơi vào tay Bảo-Liên, ông ta có thể bán tôi hoặc bắt tôi làm nô lệ
cho ông ta. Tôi thà chết – chết đói – còn hơn là khinh thị mà làm điều mạo hiểm
đó.
Nhưng nếu tôi không dám viết thư cho bà, một khi tôi được rộng
cẳng, tôi có thể tìm cách về thăm bà được. Vì thế từ khi tôi nhận Mã-Tư vào
đoàn của tôi, tôi đã nghĩ, việc thăm bà có thể thực hiện được. Tôi cho Mã-Tư đi
trước. Tôi lánh mặt một chỗ, Mã-Tư sẽ vào nhà bà dò la tin tức. Nếu Bảo-Liên đi
vắng, tôi sẽ về ngôi nhà cũ để gặp mẹ tôi. Nếu Bảo-Liên vẫn ở làng, Mã-Tư sẽ mời
bà đến một chỗ nào đó để tôi được gặp mặt cho bõ những ngày thương nhớ.
Đó là cái chương trình tôi vừa đi vừa dự định. Tôi đăm đăm
suy nghĩ vì thực hiện được không dễ.
Thực vậy, tôi không phải chỉ có việc thăm bà Bảo-Liên mà
thôi. Tôi còn phải xem trên đường đi của chúng tôi có những làng nào, tỉnh nào
khả dĩ kiếm được tiền.
Muốn thế, tốt hơn hết là hỏi ở bản đồ.
Lúc đó, chúng tôi đang đi trong cánh đồng. Chúng tôi liền bảo
nhau ngồi nghỉ trên một đống đá để trò chuyện không sợ ai phiền nhiễu.
Tôi mở túi lấy bản đồ trải trên bãi cỏ. Tôi loay hoay ngắm
nghía và tìm phương hướng mãi. Sau cùng tôi theo cách ông Vỹ-Tiên, ấn định một
hành trình. Hành trình này phải qua bảy thành thị nhỏ.
Như vậy chúng tôi có thể đến làng Tả-Văn-Ông và có nhiều hy vọng
không đến nỗi chết đói ở dọc đường.
Mã-Tư trỏ vào bản đồ bảo tôi:
- Anh xem cái gì thế?
Tôi bảo anh biết đó là một bức bản đồ và dùng để làm gì. Tôi
cắt nghĩa cho anh nghe gần giống như những lời ông Vỹ-Tiên đã dạy tôi bài địa
lý đầu tiên.
Anh giương mắt nhìn tôi, chăm chú nghe. Anh hỏi:
- Thế thì phải biết đọc.
- Chính thế. Anh không biết đọc à?
- Không.
- Anh có muốn học không?
- Tôi muốn lắm!
- Tôi sẽ dạy anh.
Trong bản đồ, người ta có thể tìm thấy con đường Dị-Nho về
Ba-Lê không?
- Có chứ, dễ tìm lắm.
Tôi liền chỉ cho anh: tôi lấy tay đưa từ điểm Dị-Nho đến
Ba-Lê. Anh không tin và hỏi:
- Sao tôi đi bộ thấy đường dài lắm kia mà?
Tôi liền cắt nghĩa hết sức – hết sức có nghĩa là lúng túng –
cho anh biết người ta rút ngắn những con đường để vẽ trên bản đồ như thế nào.
Tai anh để ý nghe, nhưng óc anh không tin lắm về khoa học của tôi.
Lúc đó túi hành lý bỏ ngỏ, tôi chợt nghĩ nên kiểm điểm lại đồ
đạc và cũng để khoe với Mã-Tư. Tôi lấy ra và trải cả trên cỏ.
Tôi có ba sơ-mi bằng vải gai, ba đôi bí-tất, năm mùi soa còn
mới và một đôi giầy cũ. Mã-Tư choáng mắt.
Tôi hỏi Mã-Tư:
- Của anh có những gì?
- Tôi có chiếc vĩ cầm này và những quần áo tôi đang mặc.
- Vậy thì chúng ta phải chia cho đều vì chúng ta là anh em bạn.
Phần anh hai sơ-mi, hai đôi bí-tất và ba mùi soa. Cũng phải chia ra cho đều việc
vác túi, mỗi người đeo một giờ, thay đổi nhau cho được công bằng.
Mã-Tư không muốn nhận phần chia thứ nhất. Nhưng tôi theo lối
ông Vỹ-Tiên ra lệnh và không cho anh chống lại, nên anh đành chịu nhận. Cả cái
hộp khâu của Yến-Chi, cái hộp con của tôi đựng bông hồng của Lệ-Hoa cũng bày ra
trên chiếc sơ-mi. Mã-Tư muốn xem hộp con, tôi không cho và bỏ luôn vào túi.
Tôi bảo anh:
- Nếu anh muốn làm cho tôi vui lòng, anh không được mở hộp đó
vì là một vật kỷ niệm.
- Anh yên tâm, không bao giờ tôi đụng đến.
Từ khi tôi khoác áo da cừu và đeo đàn, có một điều làm tôi
câu thúc: đó là cái quần của tôi. Tôi thấy một người nghệ sĩ không bao giờ mặc
quần dài. Trình diễn trước công chúng, phải là quần ngắn, phải là những đôi
bí-tất đến đầu gối, chung quanh quấn chéo vải màu. Quần dài là quần của người
làm vườn. Bây giờ tôi là một nghệ sĩ kia mà!
Khi người ta có một ý kiến mà người ta lại làm chủ thì ý kiến
đó được thi hành ngay, không chậm trễ. Tôi mở hộp khâu Yến-Chi và lấy kéo.
Tôi bảo Mã-Tư:
- Trong khi tôi chữa quần, anh thử dạo một bản vĩ-cầm cho
vui.
- Tôi cũng nghĩ thế.
Rồi Mã-Tư lấy đàn ra kéo.
Tôi ướm quần đến đầu gối rồi bắt đầu cắt. Cái quần của tôi
hãy còn tốt, may bằng dạ xám như cái gi-lê và áo vét của tôi. Ngày trước ông
An-Thanh mua về cho tôi, tôi đã mừng quá. Bây giờ cắt cụt hai ống đi, tôi nghĩ
không phải là tôi hủy hoại, mà trái lại làm cho nó đẹp hơn, tiện lợi hơn!
Đầu tiên, tôi vừa cắt vừa nghe đàn, sau tôi ngừng kéo và lắng
tai nghe: Mã-Tư đàn vĩ-cầm không kém Vỹ-Tiên!
Tôi vỗ tay và nói:
- Ai dạy anh chơi vĩ-cầm thế?
- Không ai dạy cả. Hay tất cả mọi người, mỗi người bảo tôi một
tí, rồi tôi tự luyện lấy.
- Ai dạy anh nhạc?
- Tôi không biết. Tôi nghe người ta đánh thế nào thì đánh thế.
- Tôi, tôi sẽ dạy anh.
- Anh biết tất cả?
- Phải, vì tôi là đoàn trưởng.
Người ta không phải là nghệ sĩ nếu không có một chút tự ái.
Tôi muốn trổ tài cho Mã-Tư biết tôi cũng là một tay âm nhạc khá. Tôi lấy cây thụ
cầm ra gảy và hát bài Tình-ca “tủ” của tôi. Và theo lệ thường của con nhà nhạc
sĩ, Mã-Tư lại trả tôi lại những lời khen ngợi mà tôi vừa tặng anh bằng những tiếng
vỗ tay hoan hỉ. Mã-Tư có tài, tôi cũng có tài. Chúng tôi xứng đáng là đôi bạn
nghệ sĩ giang hồ.
Nhưng chúng tôi không thể cứ ngồi đó mà khen tặng lẫn nhau.
Sau khi đàn hát cho tai chúng tôi rồi, chúng tôi phải nghĩ đàn hát cho dạ dầy,
cho lưng chúng tôi nữa chứ! Tôi buộc túi lại, đến lượt Mã-Tư vác.
Chúng tôi tiến trên đường cát bụi. Tôi nghĩ lát nữa gặp làng
nào ở cạnh đường là phải dừng lại diễn trò, “bước đầu của đoàn Lê-Minh”.
Mã-Tư bảo tôi:
- Anh dạy tôi câu hát của anh để tôi cùng hát và đánh vĩ-cầm
theo: thế sẽ hay hơn.
Như thế, nhất định hay và chỉ có những khán quan trái tim sắt
đá mới không ném tiền.
Chúng tôi đã tránh được những trái tim sắt đá đó. Chúng tôi
vào một làng kia, đang tìm chỗ để diễn thì đi qua một cửa trại. Trong sân có
đông người ăn mặc như ngày đại hội, đàn ông thì gài hoa ở khuy áo, đàn bà thì
giắt hoa ở dây lưng. Cánh hoa lẫn với tơ lụa trông rất rực rỡ. Không cần phải
là người thông minh, ai cũng biết ngay đó là một đám cưới.
Tôi đoán họ đang cần âm nhạc để khiêu vũ. Tôi tiến vào trong
sân, Mã-Tư và Lãnh-Nhi theo sau. Gặp một thanh niên, tôi ngả mũ và cúi chào –
cái chào lịch sự của ông Vỹ-Tiên – tôi xin vào giúp vui.
Người thanh niên đó mặt đỏ như quả bồ-quân, cổ áo cứng cọ vào
tai, vẻ bình tĩnh.
Chàng không trả lời, quay cả người vào phía trong vì cái áo mới
bằng dạ len bóng loáng bó vào thân làm khó cử động, cho hai ngón tay vào mồm
làm còi, huýt một tiếng dài làm cho Lãnh-Nhi phải khiếp sợ.
Chàng nói theo:
- Này! Các vị đang ao ước âm nhạc. Đây, các nhạc sĩ đã đến!
Tiếng đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ rộn lên:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Âm nhạc tốt lắm.
- Sửa soạn khiêu vũ bộ tư!
Trong vài phút, những bọn kỵ binh đã ra tua tủa cả sân. Gà, vịt
sợ chạy tán loạn.
Tôi lo quá, hỏi nhỏ Mã-Tư bằng tiếng Ý:
- Anh đánh được vũ khúc bộ tư?
- Được.
Tôi cũng biết bản đó. Chúng tôi thoát nguy.
Người ta kéo ở nhà kho ra một chiếc xe chở hàng, lấy giá gác
tay xe cho vững rồi bảo chúng tôi lên ngồi. Tuy chúng tôi chưa hòa tấu với nhau
bao giờ, nhưng buổi đó cũng khá. Thực ra, chúng tôi được cái may là gảy đàn cạnh
những tai dễ dãi và không tinh tế lắm.
Chợt một ông mặt đỏ gay, hỏi chúng tôi:
- Có anh nào biết thổi “kèn” không?
Mã-Tư đáp:
- Có, nhưng chúng tôi không có kèn.
- Tôi bảo kiếm cho anh một cái, vĩ cầm hay thực, nhưng không
được mạnh mẽ.
Tôi hỏi lại Mã-Tư bằng tiếng Ý:
- Anh biết thổi “kèn” thật chứ?
- Cả kèn lớn, kèn con, cả sáo và tất cả các thứ.
Mã-Tư thật là một tài tử hiếm có.
Lát sau, kèn đưa đến, chúng tôi hòa tấu đủ các điệu khiêu vũ
nhất là điệu nhảy bộ tư.
Chúng tôi cử nhạc như thế cho đến khuya không được nghỉ tay
lúc nào. Tôi còn gượng được, nhưng Mã-Tư giữ phần vai chính, phần vì sức yếu
nên thấy mệt nhoài. Thỉnh thoảng tôi thấy anh lợt đi như bị quặn đau. Tuy nhiên
anh vẫn gò cổ ra thổi. May sao, ngoài tôi ra còn có một người khác nhận thấy
tình trạng ấy: đó là cô dâu. Cô kêu lên:
- Thôi! Thằng bé hết hơi rồi! Bây giờ thù lao cho nhạc sĩ đi
chứ!
Tôi liền nhảy xuống xe và nói:
- Nếu quý vị muốn, tôi xin phép cho thủ quỹ chúng tôi đi
lãnh.
Tôi ném cái mũ tôi cho Lãnh-Nhi. Nó lấy mồm bắt lấy, rồi đứng
bằng hai chân sau, đặt tay vào ngực chào khán quan. Tiếng vỗ tay vang dậy cả
sân. Điều thích thú hơn tiếng vỗ tay là những đồng tiền trắng rơi vào trong mũ.
Cô dâu xinh đẹp cho cuối cùng, cô ném vào trong mũ một đồng 5 phật-lăng. Món tiền
lớn thay! Thế cũng chưa hết. Người ta mời chúng tôi vào bếp, dọn cỗ cho chúng
tôi ăn và cho chúng tôi ngủ trong vựa lúa.
Tôi bảo Mã-Tư:
- Tôi phải chịu ơn anh. Một mình tôi không thành phường nhạc.
Với số tiền 28 phật-lăng trong túi, chúng tôi sung sướng như
ông hoàng. Khi đến tỉnh Cốt-Bây, tôi có thể mua sắm một vài thứ cần thiết.
Trước hết tôi mua một cái kèn ở hàng bán đồ sắt cũ hết 3 phật-lăng.
Với giá đó, cái kèn không mới, không đẹp, nhưng đem về đánh chuốt cũng tạm dùng
được. Rồi tôi mua những giải lụa đỏ để chằng bí-tất và một cái túi dết cũ của
quân nhân cho Mã-Tư dùng, vì vác luôn một vật nhẹ trên vai còn hơn thỉnh thoảng
lại phải đeo một túi nặng. Chia đồ đạc sang hai túi, chúng tôi sẽ được nhẹ
nhàng.
Ở tỉnh Cốt-Bây ra, chúng tôi ai nấy đều trang bị đầy đủ. Trừ
tiền mua sắm rồi, chúng tôi còn trong quỹ 30 phật-lăng vì những buổi trình diễn
của chúng tôi đều đạt được kết quả mong muốn. Cũng là nhờ có chương trình đổi mới
luôn để có thể trình diễn lâu một chỗ, khách xem không chán. Hơn nữa, chúng tôi
rất hợp ý nhau, thân yêu nhau như tình anh em.
Có lúc Mã-Tư đắc ý cười và bảo tôi:
- Một đoàn trưởng không hay cốp đầu đoàn viên như anh thực tử
tế quá!
- Anh thích chứ?
- Còn phải nói. Từ ngày tôi bỏ làng ra đi, đến bây giờ được ở
với anh, tôi mới không mơ ước nhà thương nữa.
Ở trong một hoàn cảnh thịnh vượng, lòng tôi sinh ra tham vọng.
Chúng tôi đang đi về tỉnh Mộng-Tác để tìm đường về nhà bà Bảo-Liên. Về làng để
thăm bà, cũng là một cử chỉ để tỏ lòng biết ơn bà. Nhưng sự biết ơn đó nhỏ mọn
và rẻ tiền quá. Nếu tôi có vật gì đem về nữa thì hơn. Bây giờ tôi làm ăn khá rồi,
bắt buộc tôi phải có quà. Quà gì bây giờ?
Tôi không phải nghĩ lâu. Tôi biết có một thứ quà làm cho bà
sung sướng nhất không những trong hiện thời mà còn trong lúc tuổi già nữa; đó
là một con bò cái, để thay cho con Hồng-Ti khốn nạn.
Bà Bảo-Liên sẽ vui sướng nếu tôi có thể biếu bà một con bò!
Và tôi cũng vui sướng biết nhường nào!
Trước khi về làng Văn-Ông, tôi sẽ mua một con bò, Mã-Tư sẽ dắt
bò vào sân nhà bà. Tất nhiên ông Bảo-Liên không có mặt ở đó. Mã-Tư nói:
“Thưa bà, có một con bò đem đến để biếu bà. Bà đáp: Một con
bò à? Có lẽ anh nhầm nhà chăng? (và bà thở dài) – Không thưa bà, có phải chính
bà là Bảo-Liên ở Văn-Ông không? Chính ông Hoàng bảo tôi dắt con bò này đến để
biếu bà. – Ông Hoàng nào?” Lúc đó tôi ở chỗ nấp chạy ra ôm lấy bà, chắc bà phải
mừng mà khóc. Sau đó bà sẽ làm bánh tráng, bánh sữa cho ba người cùng ăn, không
có ông Bảo-Liên ở đó như ngày lễ “tuần thánh” năm xưa, ông ăn mất cả bơ của
tôi. Giấc mộng đó đẹp làm sao! Nhưng muốn thực hiện giấc mộng đó, tôi phải mua
một con bò. Không biết giá bao nhiêu một con? Chắc là đắt, đắt lắm?
Con bò mơ ước đó không cần to lắm, lớn lắm. Trước hết vì bò
to giá đắt, sau vì bò to sẽ ăn mất nhiều, tôi không muốn cái quà của tôi lại
thành cái nạn cho bà. Điều cốt yếu là bây giờ tôi phải biết giá bò, một con bò
như ý tôi định mua.
Việc này không khó. Ngày nào, trên đường cái hay ở quán trọ,
tôi chả gặp những người chăn bò hay những người lái ngựa, tôi hỏi họ thì biết.
Chiều hôm đó, tôi gặp một anh chăn bò trông có vẻ khá, tôi liền hỏi giá, anh ta
cười chế nhạo tôi. Rồi anh ta ngả lưng ra ghế, lấy nắm tay đập xuống bàn, gọi
người chủ quán hỏi rằng:
- Ông có biết anh bé con đi hát này hỏi gì tôi không? Giá bao
nhiêu một con bò? Con bò không to, không lớn và là một con bò. Có cần nó phải
thông thái nữa không?
Nói xong, anh ta cười ngặt nghẹo. Nhưng tôi không lấy làm tức
và nói:
- Phải là con bò sữa tốt mà ăn ít.
- Có cần nó chịu để dắt dây đi trên đường trường như con chó
của anh không?
Sau khi trêu tôi chán và mở hết trí hài hước, anh ta nói chuyện
đứng đắn và bàn tính giúp cả tôi nữa.
Chính anh, anh có một con bò cái hiền lành, rất nhiều sữa, thứ
sữa thơm như kem và nó ăn rất ít hoặc không cho ăn cũng được. Nếu tôi xỉa trả
trên bàn 15 bích-tôn hay 50 đồng ê-quy, tôi sẽ dắt bò luôn.
Lúc đầu tôi khó làm cho anh ta rỉ răng bao nhiêu thì bây giờ
tôi khó làm cho anh ta im miệng đi bấy nhiêu vì anh ta cứ thao thao bất tuyệt.
Sau cùng chúng tôi được đi ngủ. Lên giường tôi cứ tơ tưởng về
câu chuyện vừa được nghe. 15 bích-tôn hay 50 đồng ê-quy nghĩa là 150 phật-lăng
một con bò. Tôi bao giờ có được món tiền đó?
Không biết tôi có thể kiếm được không. Chắc là không. Nhưng nếu
vận may trong buổi đầu còn theo mãi chúng tôi, thì góp nhặt từng xu may ra tôi
cũng có thể để ra 150 đồng phật-lăng đó. Muốn thế phải mất nhiều thì giờ. Một ý
nghĩ nảy ra trong óc tôi. Đáng lẽ về thẳng Văn-Ông, chúng tôi hãy trở đi Văn-Xá
trước rồi sẽ trở về Văn-Ông sau. Lúc đó, trong túi tôi có đủ 150 đồng phật-lăng
rồi, chúng tôi sẽ có thể diễn trò thần thoại “Con bò cái của ông Hoàng” và kết
quả chắc là hay lắm.
Sáng hôm sau, tôi ngỏ ý kiến cùng Mã-Tư, anh rất tán thành và
bảo tôi:
- Chúng ta đi Văn-Xá. Đấy có nhiều mỏ lạ lắm. Tôi vẫn muốn đi
xem.
Chương XXIII
thành phố đen
Con đường từ Mộng-Trang đến Văn-Xá ở về phía nam dẫy núi
Xê-Viên, thoai thoải về biển Địa-Trung-Hải. Nếu đi thẳng đường thì chỉ mất 5, 6
trăm cây số. Nhưng chúng tôi phải đi quanh co vào các làng lớn hay các thị trấn
diễn trò nên tính ra có tới trên ngàn cây số. Chúng tôi phải đi ròng rã ngót ba
tháng trời mới tới nơi. Khi gần đến Văn-Xá đếm tiền lại, chúng tôi rất sung sướng
vì đã không uổng phí thì giờ; trong túi đã dành được 128 phật-lăng. Như vậy chỉ
còn thiếu 22 phật-lăng nữa là mua được bò biếu bà Bảo-Liên.
Mã-Tư cũng vui như tôi. Anh không kém hứng thú vì đã chung sức
gây nên món tiền đó. Thực vậy, phần công anh rất lớn, nếu không có anh, không
có cái kèn của anh, riêng tôi và Lãnh-Nhi không khi nào kiếm được 128 phật-lăng
như thế.
Còn từ Văn-Xá đến Tả-Văn-Ông, kiếm thêm 22 phật-lăng nữa cũng
không khó.
Một trăm năm về trước, Văn-Xá là sào huyệt của bọn Tân-giáo
khởi loạn sau khi sắc lệnh Nantes bị bãi, địa thế hiểm trở, dân cư nghèo nàn. Đến
năm 1750, một thân sĩ có tuổi, say mê nghiên cứu về khoáng vật học, đã tìm ra mỏ
than đá Văn-Xá. Từ đó Văn-Xá nổi tiếng là một miền lắm than, đủ sức cung cấp
cho Nam-phần nước Pháp và có cơ cạnh tranh với than nước Anh trên thị trường Địa-Trung-Hải.
Khi thân sĩ khởi công đào bới, công chúng đều chê cười, nhạo
báng. Đào sâu tới 150 mét, chẳng thấy gì, người ta cho ông là điên và vận động
để giam nhốt ông lại. Gia sản ông phải chăng sẽ bị vùi sâu trong những hố đào
vô nghĩa. Văn-Xá có mỏ sắt mà người ta còn chưa tìm thấy, huống chi là than thì
có đến đời chết cũng chẳng bới đâu ra. Thân sĩ giả điếc, chui xuống hầm, ăn ngủ
ở đó không thò lên nữa để tránh nghe những la ó của nhân dân. Có chăng ông chỉ
chịu sự ngờ vực của bọn thợ ở cạnh ông thôi. Mỗi một nhát cuốc, bọn thợ lại so
vai lên. Nhưng kích thích bởi lòng tin tưởng sắt đá của chủ nhân, bọn thợ cố bổ
thêm nhát nữa, nhát mới nữa rồi cứ thế giếng một ngày một sâu, cho tới 200 mét,
bọn thợ reo mừng, họ đã bập vào một lớp than! Vị thân sĩ già kia không phải là
người điên nữa. Ông là một người có đặc tài. Chỉ hôm trước hôm sau, ông đã biến
thành một vĩ nhân!
Ngày mà chúng tôi đến, Văn-Xá là một thành phố có 12 ngàn
dân, một thành phố có tương lai sáng lạn về kỹ nghệ và cũng như mỏ A-Lai, mỏ
Bách-Xa là nguồn hy vọng của Nam phần nước Pháp.
Cái đã gây và sẽ gây nền thịnh vượng cho miền Văn-Xá này đều
nằm ở dưới mặt đất chứ không ở trên mặt. Thực vậy, ở trên mặt đất cảnh tượng
trông buồn làm sao! Toàn thị là những bãi hoang lương. Trừ một vài cây dẻ, cây
đậu, cây ô-liu còm cõi, ngoài ra không có cây to. Đất không trồng trọt được,
đâu đâu cũng thấy đá xám hay đá trắng. Một vài chỗ lớp đất hơi sâu và thấm nước
nẩy lên cây cỏ um tùm làm cho cảnh hoang vu bớt phần khô khốc.
Vì núi non trơ trụi không cây cỏ, nên mùa mưa đến, nước chảy
trên sườn núi xuống như chảy trên vỉa hè. Những dòng suối ngày thường cạn khô,
lúc mưa nước chảy cuồn cuộn và đầy sát bờ các sông con trong thung lũng, nhiều
khi nước tràn cả ra ngoài sinh ra ngập lụt: chỉ trong vài phút người ta thấy mực
nước ở lòng sông lên tới ba, bốn, năm mét, có khi cao hơn nữa.
Thành phố Văn-Xá nằm ngang trên một con sông con tên gọi
Đinh-Giang, có hai dòng suối đổ vào là Thụy-Khê và An-Khê. Thành phố gồ ghề và
không được đẹp đẽ lắm; suốt ngày những goòng chở quặng sắt và than đá lăn rầm rập
trên đường rầy giữa thành phố không lúc nào ngớt, tung lên những bụi đỏ, bụi
đen tối mù. Trời mưa, những bụi đó đọng thành bùn nhão và sâu như bãi lầy. Trái
lại, những ngày nắng ráo, gió cuốn những bụi đó bay lầm trên thành phố. Nhà cửa,
cái nào cũng đen thủi từ đầu xuống đến chân; đen vì bùn, bụi trát từ chân lên đến
mái; đen vì khói từ các lò, tỏa từ ống khói xuống tới mặt đường. Trước mặt một
màu tối đen: đất đen, trời đen, cả đến nước sông cũng đen. Những người đi đường
còn đen hơn cảnh vật chung quanh; ngựa đen, xe đen, lá cây cũng đen. Người ta
có thể nói được rằng, một đám mây mồ hóng đã đổ xuống thành phố hôm nào hay một
trận lụt hắc ín đã có lần dâng lên tới nóc mọi nhà. Phố sá không làm ra để cho
xe ngựa hay khách bộ hành đi, mà cốt để cho xe hỏa và các toa của mỏ. Trên mặt
đất chỗ nào cũng thấy đường sắt với bánh xe quay: trên đầu, nào cầu treo, nào
dây kéo, nào trục truyền chạy ầm ầm điếc tai. Những nhà máy lớn mà chúng tôi đi
ở ngoài tường thấy rung chuyển tới chân móng. Nếu người ta nhìn qua cửa sổ hay
cửa lớn, sẽ thấy gang nấu trong lò chảy ra như những dòng bạc; những búa, chày
nện xuống, tàn lửa tóe ra như mưa; chỗ nào cũng thấy những cần pít-tông lên xuống
đều đặn như cán bể thợ rèn. Không có lâu đài, không có vườn hoa, không có tượng
đồng ở công trường. Chỗ nào cũng giống chỗ nào: những công thự đều làm theo một
kiểu là hình khối vuông: Tòa án, nhà thương, trường học, nhà thờ, những khối
vuông có trổ hoặc ít nhiều cửa tùy theo nhu cầu.
Khi chúng tôi tới gần Văn-Xá thì đồng hồ đã chỉ ba giờ chiều.
Mặt trời sáng chói trên nền trời xanh. Nhưng chúng tôi càng gần tới tỉnh thì trời
càng tối dần. Ở khoảng giữa trời và đất có một lớp mây khói nặng nề đùn lên từ
những ngọn ống khói cao. Đã hơn một giờ, chúng tôi nghe thấy những tiếng ầm ầm
như sóng biển đang lên, đó là tiếng máy quạt, tiếng búa, tiếng chày.
Tôi biết chú anh An-Sinh là thợ mỏ tỉnh Văn-Xá, ở lò Thụy-Khê
và chỉ biết có thế thôi. Ông ta ở ngay trong tỉnh hay ở ngoại ô, tôi không biết.
Khi vào tỉnh tôi hỏi dò đường đến lò Thụy-Khê thì người ta trỏ tôi sang tả ngạn
sông Đinh-Giang, rồi đến một thung lũng, đấy là mỏ Thụy-Khê; lấy tên con suối
chảy qua đó.
Cảnh tượng thành phố đã buồn, cảnh tượng thung lũng lại tẻ ngắt.
Một vòng đồi trọc không cây, không có bao quanh như một hàng rào bằng đá xám
liên lu, thỉnh thoảng chen vào một lườn đất đỏ. Ở lối vào thung lũng có dựng những
nhà xây, những kho chứa, những chuồng ngựa, những văn phòng, những ống khói của
nhà máy chạy bằng hơi nước, và chung quanh ngổn ngang những đống than, đống đá.
Khi chúng tôi đi đến gần sở mỏ, có một người đàn bà vẻ lơ
láo, tóc xõa ngang lưng, tay kéo một đứa trẻ, đến trước mặt chúng tôi và đứng dừng
lại.
Bà ta hỏi:
- Con đường mát ở đâu? Em làm ơn chỉ giúp.
Tôi đứng sững người kinh ngạc.
Bà ta nói tiếp:
- Con đường có cây, có bóng râm, bên cạnh có suối reo, có
chim hót ấy mà!
Rồi bà ta huýt một điệu sáo vui vui.
Bà ta thấy tôi không trả lời và có lẽ không biết tôi kinh ngạc,
lại nói:
- Em không biết con đường ấy à? Đáng tiếc. Vậy nó hãy còn xa?
Ở tay phải hay tay trái? Em hãy bảo ta. Ta kiếm mãi không thấy.
Bà ta nói liến láu, một tay khoa lên, một tay xoa đầu đứa con
trai.
- Ta hỏi em con đường ấy vì ta chắc gặp Mạc-Lư ở đó. Em có biết
Mạc-Lư không? Không à? Mạc-Lư là cha đứa con ta. Khi anh bị khí nổ trong lò
than đốt bỏng, anh chạy ra con đường đó cho dịu vết thương. Anh biết con đường
đó, ta không biết. Vì thế đã sáu tháng nay ta tìm anh không thấy. Sáu tháng rồi,
dài quá, dài quá, cho những người yêu nhau. Sáu tháng, sáu tháng rồi, trời ơi!
Bà ta quay vào sở mỏ, vẻ mặt căm thù, xỉa tay vào những ống
đang nhả từng cuộn khói lên trời và thét lên:
- Việc làm dưới đất! Việc làm dưới âm phủ! Ngươi hãy trả Mạc-Lư
cho ta! Trả chồng ta đây!
Rồi bà ta quay ra bảo tôi:
- Em không phải là người ở đây phải không? Trông áo da cừu
kia ta biết em ở xa mới đến. Em thử vào nghĩa địa kia xem. Em đếm một, hai, ba,
một hai, ba đếm đi! Tất cả những người nằm đó đều chết vì mỏ cả.
Rồi bà ta kéo con lại, ôm chặt vào cánh tay, nhìn lũ ống khói
và nói:
- Còn thằng Thạch, con ta đây, ta quyết không khi nào để
ngươi bắt được đâu… Nước ngọt, nước mắt! Con đường đó ở đâu?... À thế mày không
biết à? Mày cũng như những đứa khác cứ nhe răng cười à? Sao mày lại bắt ta đứng
đây? Mạc-Lư đang chờ ta!
Xong bà ta ngoắt mình lại, vừa đi vừa huýt sáo một cách tự
nhiên.
Tôi hiểu ngay đó là một người đàn bà hóa điên vì chồng mới chết
bởi một tai nạn ở mỏ.
Dưới bầu trời u ám, trong khung cảnh buồn thiu, việc gặp người
đàn bà điên vì đau khổ này, ở ngay cửa mỏ làm cho chúng tôi chán ngán vô cùng.
Người ta chỉ lối cho chúng tôi đến nhà ông An-Thiện, chú cậu
An-Sinh. Ông ở gần mỏ, trong một phố ngoằn ngèo và dốc đi từ sườn đồi ra phía bờ
sông. Đến nơi, tôi hỏi một bà đứng tựa lưng vào cửa đang nói chuyện với một bà
hàng xóm cũng đứng tựa lưng vào cửa bên cạnh, bà ta cho tôi biết là tan tầm sáu
giờ ông mới về.
Bà hỏi:
- Em muốn hỏi ông ấy việc gì?
- Tôi đến thăm anh An-Sinh.
Bà liền nhìn tôi từ đầu xuống chân rồi lại nhìn Lãnh-Nhi, bà
hỏi:
- Em là Lê-Minh phải không? An-Sinh thường nhắc đến em và có
ý đợi em.
Và bà ta trỏ Mã-Tư:
- Còn em này là ai?
- Thưa bà, bạn tôi.
Đó là thím cậu An-Sinh, tôi tưởng thế nào bà cũng mời chúng
tôi vào nhà nghỉ vì chân chúng tôi lấm láp và mặt chúng tôi cháy nắng đã quá biểu
lộ vẻ mệt nhọc của chúng tôi. Nhưng bà tôi không mời gọi gì cả. Bà chỉ nhắc lại
rằng 6 giờ An-Sinh mới về, khác nào như đuổi chúng tôi. Người ta đã không mời
thì chúng tôi cũng chẳng xin. Tôi cảm ơn bà ta rồi kéo nhau ra phố tìm hàng
bánh mì, vì chúng tôi đã đói bụng, ăn từ sáng đến giờ rồi còn gì. Nghĩ sự tiếp
đãi của bà thím kia làm tôi xấu hổ vì tôi thấy Mã-Tư như có ý nghĩ ngợi. Vượt
hơn ngàn cây số đến đây chả hóa ra vô ích lắm sao?
Hình như Mã-Tư có một ý tưởng không được tốt đẹp về các bạn của
tôi. Mã-Tư sẽ không tin tôi nữa. Tôi cố giữ sao cho anh khỏi vì thế mà bỏ lòng
thiện cảm đối với Lệ-Hoa.
Thái độ nhạt nhẽo của thím cậu An-Sinh làm cho tôi không muốn
trở lại nữa. Chúng tôi định trước sáu giờ sẽ đến đợi An-Sinh ở cửa mỏ.
Sở mỏ Thụy-Khê gồm có ba lò: lò Thánh Duy Liên, lò Thánh
An-phong, lò Thánh Phan-Cát. Theo tục của dân mỏ, khởi đào ngày nào thì xem lịch
lấy tên thánh ngày đó đặt tên lò, một là đã làm lễ động thổ, hai là để nhớ ngày
hưng công. Những lò đó là lò kéo than, lò thông khí và lò rút nước chứ không phải
là chỗ để thợ lên xuống. Muốn lên, xuống, người ta đã có một đường hầm riêng,
đi từ nhà chứa đèn xuống đến tầng khai than thứ nhất rồi ở đó lại chia ra làm
nhiều lối thông với các phần khác. Đi đường riêng như thế lợi được hai điều.
Trước hết người ta không sợ đứt dây hoặc thùng vất vào thành lò mà quẳng người
xuống một cái hố sâu hơn hai ba trăm mét. Người ta còn tránh cho thợ những sự
di chuyển bằng máy quá nhanh đang ở đáy hầm nóng thình lình lên chỗ lạnh dễ mắc
chứng sưng màng phổi hoặc bệnh phế viêm.
Tôi đứng đợi ở cửa hầm với Mã-Tư và Lãnh-Nhi. Sáu giờ điểm
xong độ vài phút, nhìn xuống hầm sâu thẳm và tối mò, tôi thấy những điểm sáng lắc
lư và lớn dần ra. Đó là những thợ mỏ làm việc xong, xách đèn lên mặt đất. Họ đi
thong thả, bước nặng nề hình như bị nhức gối. Tại sao họ đều như thế? Về sau
tôi mới biết vì chính tôi có dịp xuống tầng hầm cuối cùng bằng thang. Mặt họ lọ
lem như trát mồ hóng, quần áo và mũ dính đầy than hay những vẩy bùn còn ướt.
Khi qua nhà đèn, người nào cũng treo đèn của mình vào một cái đinh.
Tôi nhìn ngang nhìn ngửa chẳng thấy An-Sinh đâu. Chợt có người
chạy đến ôm lấy cổ tôi, tôi mới biết là anh. Anh đen từ chân lên đến đầu khác hẳn
với anh bạn ngày nào chạy tung tăng trong vườn, áo sơ-mi cụt tay và cổ bẻ trông
rõ làn da trắng mịn, nên khó mà nhận ra.
Cậu quay lại nói với một người đàn ông trạc độ 40 tuổi đi bên
cạnh cậu, khuôn mặt tươi tỉnh và hiền lành giống hệt cha cậu, điều này không
khiến tôi lấy làm lạ vì hai ông chính là anh em ruột:
- Thưa chú, đây là anh Minh.
Tôi hiểu đó là ông An-Thiện.
Ông nói:
- Chúng ta đợi em đã lâu.
- Đường từ Ba-Lê về đây xa lắm.
Ông cười và nói:
- Mà chân em thì ngắn, phải không?
- Vâng, chính thế.
Lãnh-Nhi được gặp An-Sinh cũng mừng lắm, cắn tay áo anh mà
lôi.
Tôi giới thiệu Mã-Tư với ông An-Thiện: anh là một người bạn tốt,
một đoàn viên của tôi, tôi quen biết đã lâu, vừa mới gặp lại anh, thổi kèn rất
giỏi.
Ông nói:
- Còn Lãnh-Nhi kia, phải không? Mai là chủ nhật, lúc nào rỗi,
hai anh sẽ diễn trò cho chúng tôi coi. An-Sinh khoe rằng con chó này khôn như
người, có khi hơn người.
Tôi chán bà thím bao nhiêu thì tôi lại ưa ông chú bấy nhiêu.
Ông thực xứng đáng là em ông An-Thanh.
- Hai cậu cứ nói chuyện với nhau đi, chắc là lắm chuyện lắm,
để tôi tiếp chuyện bạn nghệ sĩ có tài về môn thổi kèn này.
Chuyện chúng tôi kể đến một tuần không hết. An-Sinh hỏi tôi về
cuộc hành trình, tôi hỏi anh về đời sống mới. Hai người chỉ kịp hỏi nhau và kịp
trả lời nhau. Chúng tôi đi chậm lại. Những đám thợ đi sau vượt qua chúng tôi đi
thành hàng dài chật cả phố. Người nào trông cũng đầy bụi đen như bụi ở mặt đường.
Khi gần về đến nhà, ông An-Thiện bảo chúng tôi:
- Mời các anh về ăn súp với tôi.
Lời mời đó làm tôi rất vui, vì trong khi đi đường, tôi cứ băn
khoăn, lúc tới cửa có nên vào không, vẻ lãnh đạm của bà thím đã làm tôi mất cả
nhuệ khí.
Đến nhà, ông giới thiệu với bà vợ:
- Đây là em Minh và người bạn nhỏ.
- Tôi đã biết vì các em đã đến ban nãy.
- Thế thì hay lắm. Tối nay cho các em ăn súp.
Tôi rất sung sướng được ngồi ăn và nói chuyện với anh An-Sinh
tối nay và thật ra tôi cũng rất sung sướng sẽ được ăn súp. Từ ngày rời Ba-Lê,
chúng tôi ăn đường, ăn chợ, khi ăn bánh nóng, khi bánh khô, không bao giờ ăn ra
bữa, và được ngồi ghế với đĩa súp trên bàn. Với số tiền kiếm được, chúng tôi rất
có thể vào tiệm ăn uống đàng hoàng nhưng chúng tôi phải tiết kiệm mua bò cho
ông Hoàng. Mã-Tư cũng là người tốt, rất sung sướng khi nghĩ đến việc tậu bò.
Tiếc thay, tối hôm đó, cái món ăn ao ước ấy chỉ là vật vô
hình. Tôi ngồi vào bàn, đợi mãi không thấy súp dọn ra. Ở đây, công ty Mỏ đã mở
những hãng lớn bán đủ thứ thực phẩm, với giá vốn cho thợ thuyền. Cái lợi thực
hiển nhiên. Người thợ mua được thức ngon, mà giá hạ, tiền không phải trả ngay,
sẽ tính trừ vào kỳ lương. Do đó, họ không phải mua sỉ ở các hiệu buôn nhỏ, chém
rất nặng và tránh được công nợ.
Tuy nhiên, tất cả những việc hay, có cái lợi thì cũng có cái
hại. Ở Văn-Xá, các bà vợ công nhân có cái tập quán ăn không ngồi rồi trong khi
chồng làm lụng vất vả ở dưới hầm than. Họ sang nhà này nhà nọ lấy cà-phê và
bánh ngọt về ăn uống với nhau, họ ngồi lê đôi mách, đến khi chồng đi làm về, họ
không kịp nấu súp. Lúc đó, họ chạy ra hãng lấy dồi, lấy thịt về ăn. Không phải
nhà nào cũng thế, nhưng kiểu này rất nhiều.
Cũng vì bà thím áp dụng kiểu này nên bữa đó, chúng tôi không
có súp. Bà có tật lười biếng, bép xép, lắm mồm. Mãi sau tôi mới biết trong sổ
mua chịu hàng của bà chỉ độc có hai khoản: khoản cà-phê, sô-cô-la và khoản
ba-tê và xúc-xích. Ông chú là người dễ tính, thích yên tĩnh. Ông chịu ăn mãi
xúc-xích và không kêu ca gì. Đôi khi ông nói rất nhẹ nhàng.
Ông cầm cốc rượu bảo:
- Tôi không thành người nghiện rượu vì tôi có đức tính. Chiều
mai cố làm súp ăn.
- Thì giờ đâu?
- Thì giờ ở trên mặt đất ngắn hơn thì giờ ở dưới hầm hay sao?
- Ai vá cho? Ông vận hại quần áo quá!
Lúc đó, ông nhìn vào quần áo ông, lem luốc những than và sờn
rách nhiều chỗ. Ông nói:
- Chỉ vì ta ăn mặc sang quá ông Hoàng.
Bữa ăn chấm dứt rất chóng.
Ông chú bảo tôi:
- Con! Con ngủ với An-Sinh.
Rồi quay ra Mã-Tư:
- Còn con, con cùng ta xuống bếp, dọn ổ cỏ nằm rất tốt.
An-Sinh và tôi, chúng tôi cùng nhau qua một đêm trắng để chuyện
trò.
Ông An-Thiện làm thợ cuốc nghĩa là ông có công việc dùng cuốc
để vạc những khối than mỏ. An-Sinh giữ chân đẩy goòng trên đường sắt ở dưới hầm.
Khi than đã chất đầy, An-Sinh phải đẩy ra đến cửa lò, đến đó, người ta móc dây
cáp vào và cho máy trục kéo lên mặt đất.
Tuy mới làm thợ mỏ, An-Sinh đã yêu nghề và thích mỏ. Anh cho
mỏ Thụy-Khê là một mỏ đẹp nhất và lạ nhất. Anh khéo kể lại, ai nghe cũng lấy
làm thú.
Muốn xuống mỏ, trước hết phải qua một đường hầm khoét trong
đá. Đi độ 10 phút đến một cái bệ có nhiều bậc dốc, chân bệ nối với một cái
thang dài bằng gỗ, chân thang này lại có một cái bệ nhiều bậc, cũng nối với một
cái thang gỗ nữa, thì đến tầng hầm thứ nhất, cách mặt đất 50 mét. Muốn xuống tầng
hai, sâu 90 mét và tới tầng ba sâu 200 mét, người ta cũng phải qua một hệ thống
thang như trên.
Tầng ba này là chỗ làm việc của An-Sinh. Như vậy, muốn tới
công trường của anh, anh phải đi gấp ba lần đường hơn người lên tháp chuông nhà
thờ Đức Bà ở Ba-Lê.
Không những thế, cầu thang tháp chuông nhà thờ sáng sủa và có
những bậc đều đặn, lên xuống dễ. Cái thang xuống hầm không thế. Những bậc phải
đẽo theo lườn đá nên có bậc cao, có bậc thấp, có chỗ rộng, có chỗ hẹp rất khó
đi. Ngoài ánh sáng ngọn đèn xách ở tay không còn ánh sáng nào khác. Lối đi lúc
nào cũng ướt vì nước trên trần thấm xuống, rỏ từng giọt, đôi khi rơi vào mặt lạnh
toát.
Xuống sâu 200 mét cũng khá dài, nhưng chưa hết. Người thợ còn
phải theo những đường khác để đến chỗ làm việc. Tất cả đường hầm và các chi
nhánh ở mỏ Thụy-Khê tổng cộng lại có tới từ 35 đến 40 cây số. Dĩ nhiên là một
người không phải đi khắp 40 cây số đó. Chỉ đi một đoạn cũng đủ mệt rồi. Nhất là
những chỗ phải lội. Nước ở hai bên khe đá rỉ ra, chảy vào giữa đường thành suối,
đến cửa lò đã có máy bơm lên mặt đất.
Đường nào được đào trong đá thì vững vàng như những tụy đạo
(hầm) xe lửa. Những đường phải xuyên qua những chỗ đất dễ lở phải có gỗ đỡ trần
và chăn vách. Mặc dầu người ta đã dùng rất nhiều khúc gỗ thông để chống đỡ cho
đất khỏi sụp, nhưng nhiều chỗ sức ép của đất nặng quá làm oằn cả gỗ khiến cho
những lối đi thu hẹp lại hoặc sụt xuống chỉ còn khe để lách hoặc bò.
Những trần và vách gỗ đâm ra những nấm, những rêu xốp và trắng
như bông. Gỗ lên men, xông ra một mùi hăng hắc. Trên những nấm, những rêu, những
cây không tên, người ta thấy những thứ ruồi, nhện và bướm, hình thù khác hẳn với
những con cùng giống ở trên mặt đất. Có rất nhiều chuột chạy nhanh như biến và
những con dơi hai chân bám chặt lấy trần, đầu lộn xuống đất.
Những đường hầm giao nhau, nhiều chỗ như những ngã tư ở thành
phố Ba-Lê. Cũng có những khoảng rộng đẹp như ở các đại lộ, cũng có khoảng thấp
và hẹp như trong các ngõ hẻm. Tuy nhiên cái thành phố ở dưới đất này không được
soi sáng bằng những thành phố trên đất về ban đêm, vì không có những cột đèn lồng
hoặc ánh đèn gaz, chỉ có những đèn tay lí tí của thợ mỏ.
Trong hầm, dù thiếu ánh sáng nhưng những tiếng động đã nói
lên rằng đấy không phải là xứ của người chết. Ở công trường sở than người ta
nghe thấy tiếng thuốc nổ ù ù và ngửi thấy mùi khét, mùi khói do luồng hơi đưa đến.
Trong đường hầm, tiếng goòng chạy ầm ầm. Trong lò sâu, những tiếng thùng than
kéo lên, cọ vào đường dây kêu ken két. Cuối cùng là những tiếng ình ình của các
máy bơm nước ở tầng thứ hai.
Chỗ đáng chú ý nhất là ở các ngánh, nghĩa là những đường đục
theo sườn mạch than. Ở đó thợ mỏ phải cởi trần, nằm nghiêng mình hay quỳ gối để
cuốc than. Những than này được đưa xuống nền để xếp lên goòng đẩy ra cửa lò kéo
than.
Đó là cảnh tượng những ngày làm việc trong mỏ. Tuy nhiên một
đôi khi cũng xảy ra tai nạn. Hai tuần trước sau khi An-Sinh đến Văn-Xá, anh đã
mục kích một tai nạn mà suýt nữa anh cũng bị hại: khí ghi-du nổ! Ghi-du là một
thứ khí cháy được, có rất nhiều ở dưới hầm than, hễ gặp lửa là nổ bùng ra.
Không gì ghê gớm bằng nạn hơi nổ đó; nó đốt hết, làm tan vỡ hết bất cứ thứ gì ở
trên luồng nó đi. Người ta có thể ví nó như kho súng phát nổ. Chỉ một ngọn đèn
bỏ ngỏ hay một que diêm cháy đưa đến chỗ có khí ghi-du, lập tức tất cả khu hầm
đó, khí cháy bùng và nổ như tiếng bom. Nó phá mọi thứ trong mỏ và làm tung cả
những mái lò nữa. Một đôi khi, nhiệt độ cao quá, đốt cháy than thành xỉ.
Sáu tuần lễ trước đây, nạn nổ đó đã giết chết 10 người. Vợ một
nạn nhân thương chồng quá hóa điên. Đó là người đàn bà mà tôi đã gặp, bà ta dắt
con đi tìm con đường mát.
Người ta đã dùng mọi cách để đề phòng tai nạn đó. Việc cấm thợ
thuyền hút thuốc là quan trọng. Các viên kỹ sư đi tuần thường bắt họ hà hơi vào
mặt mình để kiểm xem ai đã trái lệnh. Rồi đến việc dùng đèn Đa-Vy, một thứ đèn
do nhà Bác học nước Anh tên là Đa-Vy phát minh ra. Đèn này có cái chóp kín đan
bằng sợi kim loại rất sít, ngọn lửa không thể bốc ra được. Như vậy dù có đem đến
chỗ có khí ghi-du, khí cháy lọt vào chỉ nổ bên trong đèn thôi, không lan ra
ngoài được vì lưới kim loại đã làm nguội phần nào sức nóng của lửa nổ phát ra.
Đèn tắt, người ta biết ngay chỗ đó có ghi-du, phải quạt mạnh cho thông khí đi.
Những điều An-Sinh kể lại khích tính hiếu kỳ của tôi đã có sẵn
từ khi mới đến Văn-Xá, tôi chỉ ước ao được xuống mỏ xem. Hôm sau tôi ngỏ ý đó
cho ông An-Thiện biết, ông bảo không được vì chỉ có ai làm ở mỏ mới được phép
xuống thôi.
Rồi ông lại cười và bảo tôi:
- Nếu con muốn làm thợ mỏ, rất dễ. Lúc đó tha hồ mà xem. Vả
chăng nghề làm mỏ không phải là mạt nghệ. Nếu con sợ mưa nắng, việc này rất
thích hợp với con. Dù sao, cũng còn hơn đi hát rong. Con sẽ ở với An-Sinh, ý
con thế nào? Mã-Tư cũng sẽ có việc làm, mà không phải là việc thổi kèn đâu!
Không phải là vì mỏ mà tôi tìm đến đây. Tôi còn có một phận sự
khác, một mục đích khác, cần cho tôi hơn là suốt ngày chỉ có việc đẩy goòng
than ở tầng nhì hay tầng ba của mỏ Thụy-Khê.
Tôi đành bỏ sự ao ước của tôi. Mai mốt tôi đi. Tôi đành biết
mỏ Thụy-Khê qua câu chuyện của An-Sinh kể lại và những điều ông An-Thiện đã bảo
tôi. Nhưng do một trường hợp xảy ra rất ngẫu nhiên, tôi lại được đóng vai một
người thợ mỏ và do đó mắc một tai nạn ghê gớm ở dưới hầm.
Chương XXIV
phu đẩy goòng
Nghề làm mỏ không phải là một nghề làm hại sức khỏe. Trừ một
vài bệnh sinh bởi thiếu khí trời và thiếu ánh sáng lâu ngày làm cho người xanh
xao, người thợ mỏ vẫn được lành mạnh như người nông phu ở trên đồng ruộng. Người
thợ mỏ còn hơn người làm ruộng ở chỗ không phải bị dầm mưa dãi gió hay bị nắng
cháy da, rét cắt ruột. Tuy nhiên, người thợ mỏ thường gặp nhiều nguy hiểm như đất
sụt, khí nổ, hầm lụt cùng những tai nạn do việc làm vụng về, bất cẩn gây nên.
Trước hôm tôi định từ giã Văn-Xá, chiều hôm đó, An-Sinh đi
làm về, bàn tay phải bị sưng vù và một ngón tay bị giập. Anh đã vô ý để một khối
than đè phải.
Thầy thuốc của Công Ty đã đến ngay chỗ làm và băng bó cho
anh. Bệnh tình không nặng lắm, tay anh sẽ lành, ngón tay cũng thế, nhưng anh cần
phải nghỉ ngơi.
Ông An-Thiện có tính gặp sao chịu vậy, không buồn rầu mà cũng
không bực tức. Duy có điều làm cho ông nóng ruột là thiếu An-Sinh việc làm của
ông bị ngăn trở. Khi ông thấy nói An-Sinh phải nghỉ vài hôm, ông kêu trời! Ai
làm thay cho An-Sinh bây giờ? Không có ai cả. Nếu phải có người thay vĩnh viễn
thì tìm được, chứ cần người làm giúp một vài ngày thì không kiếm đâu ra.
Ông chạy khắp nơi để mượn người nhưng lại về không. Ông đứng
ngồi không yên. Nếu không tìm được ai thay An-Sinh thì bắt buộc ông cũng phải
nghỉ. Ông mà nghỉ nữa thiệt cho quỹ gia đình đã chẳng dồi dào.
Đứng trước cảnh tình đó, trước nghĩ âu cũng là một dịp để đền
ơn biệt đãi mà ông đã dành cho tôi, tôi liền hỏi ông:
- Việc đẩy goòng có khó lắm không?
- Không gì dễ hơn. Chỉ có việc đẩy cái xe cho nó chạy trên đường
sắt.
- Xe có nặng lắm không?
- Không nặng lắm vì An-Sinh có thể đẩy được.
- Con làm được không?
Ông cười lớn rồi nghiêm trang bảo tôi:
- Nếu con vui lòng. Con có thể làm được.
- Con rất vui lòng vì có thể giúp ích cho ông.
- Con là đứa trẻ có tâm địa tốt. Được rồi. Sáng mai con sẽ
cùng ta vào mỏ. Con giúp việc cho ta thực đấy, nhưng may ra cũng có ích cho
con. Con sẽ làm quen với nghề và thích nghề, còn hơn là nay đây mai đó, thất thểu
trên đường; ở mỏ lại không phải sợ chó sói.
Khi tôi tạm thay An-Sinh xuống mỏ thì Mã-Tư sẽ làm gì? Không
lẽ để anh ngồi nhà ăn hại ông An-Thiện, tôi hỏi anh có thể hàng ngày cùng
Lãnh-Nhi đi quanh phố diễn trò không, anh ưng thuận ngay. Anh vui vẻ nói:
- Tôi rất sung sướng được đi kiếm tiền một mình, thêm vào để
mua bò.
Đã ba tháng nay chúng tôi chung sống với nhau, anh được ở nơi
thoáng khí. Mã-Tư trông không giống nữa, đứa trẻ còm cõi, buồn rầu mà tôi gặp ở
cửa nhà Thờ Thánh Mê-Đa hôm nào, và càng không giống nữa, cái quái thai ốm yếu
mà tôi trông thấy lần thứ nhất ở bếp nhà Phú-Lợi, vừa ngồi canh nồi súp, vừa ôm
cái đầu bị thương. Mã-Tư bây giờ hết đau đầu, hết buồn bã, hết còm gầy. Nếu cái
vựa cỏ ở phố Lục-Sinh đã làm cho anh hao mòn; thì ánh sáng và khí trời nơi
khoáng đãng đã đem lại lành mạnh và vui tươi cho anh.
Trên đường trường, khí sắc anh lúc nào cũng vui vẻ, nhìn mọi
vật bằng con mắt lạc quan, gặp cái gì cũng đùa, điều nhỏ mọn cũng đắc ý, khôi
hài, cười cợt luôn. Đã bao lần tôi mệt mỏi, tôi lo buồn, nếu không có anh ở bên
cạnh thì tôi đã trở nên thế nào?
Tính nết của chúng tôi không giống nhau, có lẽ vì khí chất,
vì bản lãnh của mỗi người mà có lẽ cũng vì dòng giống, vì chủng tộc nữa.
Anh là người Ý. Anh lúc nào cũng hòa nhã, vô tâm, cần cù làm
những việc khó không nóng nảy và phát khùng, khác xa với người nước tôi hay có
tính phản kháng và chống đối lại.
Chắc quý độc giả muốn hỏi tôi:
- Thế em là người nước nào? Em cũng có quê hương, xứ sở à?
Tôi sẽ xin trả lời sau vì hiện giờ tôi chưa biết. Và tôi chỉ
muốn nói rằng Mã-Tư và tôi, hai người không giống nhau. Tuy nhiên chúng tôi rất
bằng lòng nhau, cả những khi tôi dạy anh “nốt” nhạc hay học chữ. Về âm nhạc,
anh học rất dễ dàng, nhưng về tập đọc, thì khó khăn quá, lắm lúc tôi không giữ
được bình tĩnh và khoan dung như các nhà giáo huấn. Nhưng chẳng bao giờ xảy ra
sự xích mích cả. Mặc dầu nhiều lần tôi tỏ ra bất công, Mã-Tư không hề oán giận
tôi.
Chúng tôi đã ấn định rằng ngày mai tôi đi làm mỏ, Mã-Tư sẽ đi
diễn trò để kiếm tiền thêm. Tôi cũng cắt nghĩa cho Lãnh-Nhi nghe, nó hiểu ý và
ve vẩy đuôi.
Sáng hôm sau, người ta cho tôi mặc quần áo An-Sinh. Sau khi dặn
dò Mã-Tư và Lãnh-Nhi lần nữa, tôi theo ông An-Thiện vào mỏ.
Ông trao cho tôi cái đèn và bảo:
- Phải cẩn thận! Con theo bước chân ta, khi xuống thang, phải
nắm chắc bậc sau thì mới buông bậc trước ra.
Chúng tôi xuống hầm, ông đi trước, tôi theo sau. Ông dặn tiếp:
- Nếu trượt chân ở trên bậc đá, phải cố níu lại đứng để lăn
đi vì đáy hầm sâu lắm đấy.
Tôi không cần phải nghe câu nói đó mới hồi hợp, vì từ lúc bước
chân vào hang tối, tôi đã rờn rợn rồi. Tự nhiên, tôi chùn bước ngay và quay lại
phía sau, nhưng chúng tôi đã vào quá sâu rồi. Ánh sáng cửa hầm xa trông tròn
tròn và trăng trắng khác như mặt trăng hiện trên nền trời đen tối và không sao.
Tôi hơi xấu hổ về cái cử chỉ nhút nhát đó và tôi mạnh dạn theo sau ông An-Thiện.
Chợt ông bảo tôi:
- Đến bậc đá rồi.
Chúng tôi đứng trước một cái lỗ đen ngòm, sâu thăm thẳm, tôi
trông thấy những đốm sáng lung lay, trước còn to, sau tiến xa và nhỏ dần đi, đó
là ánh đèn của những người thợ đã xuống trước chúng tôi. Tiếng họ nói chuyện
nghe rầm rì không rõ. Một luồng khí nóng đưa lên, tạt vào mặt chúng tôi, tôi ngửi
thấy một mùi hăng hắc như là mùi ê-te và ét-săng trộn với nhau.
Đi hết bậc đá đến thang gỗ, hết thang gỗ lại đến bậc đá. Ông
An-Thiện bảo tôi:
- Chúng ta đến tầng thứ nhất rồi.
Tôi nhìn thấy một đường hầm, khung tò vò, hai bên tường thẳng
và xây gạch. Khung vòm cao hơn đầu người, nhưng cũng có chỗ phải cúi mình mới
đi qua được hoặc vì vòm tụt xuống, hoặc vì đất đùn lên.
Ông An-Thiện nói:
- Đó là sức đẩy ép của đất. Vì thân núi chỗ nào cũng đục rỗng,
đất tìm những chỗ trống tràn vào, khi nào đất nặng quá, nó đè bẹp đường hầm.
Trên mặt đất có những đường sắt xe hỏa và suốt dọc đường hầm
có một dòng suối con.
Ông bảo tôi:
- Suối này do nước thấm vào sinh ra, hợp với những suối khác
thành một dòng lớn chảy ra giếng cửa lò. Tính ra có tới một ngàn hay ngàn hai
mét nước mà máy bơm mỗi ngày phải đưa lên mặt đất và trả về sông Đinh-Giang. Nếu
máy đó ngừng hoạt động thì mỏ sẽ đầy nước ngay. Nói tóm lại, hiện giờ chúng ta
đang đứng ở gầm sông Đinh-Giang.
Tự nhiên tôi chực quay lại, ông cười to và bảo:
- Đáy sông còn cách đây hơn 50 mét. Sợ gì nó dội vào đầu.
- Nếu có lỗ dò thì sao?
- Phải, có thể lắm. Cũng có những mỏ phải đề phòng nạn lụt,
nhưng ở đây thì không. Ở đây chỉ có khí nổ và đất sụt, nhưng ít khi xảy ra.
Lát sau đến công trường, ông An-Thiện chỉ dẫn việc làm cho
tôi. Khi toa than của chúng tôi đầy, ông đẩy cùng tôi và dạy cách đẩy ra cửa
lò, cùng cách rẽ sang đường tránh khi gặp những toa khác tiến đến.
Tôi có thể nói được đó không phải là một nghề khó khăn. Chỉ
trong một, hai giờ, nếu tôi không thạo lắm thì tôi cũng tạm được. Phàm làm nghề
gì cũng phải khéo tay và có tập quán thì mới đạt được. Tôi thiếu hai yếu tố đó,
phải dùng sức cố gắng để thay vào, nên việc làm ít mà mệt thì nhiều. May sao
cái đời sống cần lao trong mấy năm nay và nhất là cuộc lữ hành trong ba tháng vừa
qua đã luyện cho tôi tính nhẫn nại nên tôi đã khắc phục được mệt nhọc và không
phàn nàn gì. Ông chú khen tôi là một đứa trẻ đủ điều kiện thành một người thợ mỏ
tốt.
Nhưng, tôi muốn xuống hầm mà tôi không muốn ở đó vì tôi có
tính hiếu kỳ chứ tôi không có chí hướng.
Muốn sống dưới hầm phải có nhiều đặc tính mà tôi không có. Phải
có tính ưa yên lặng, thích vắng vẻ và tĩnh tâm. Phải quen sống những giờ, những
ngày dài đằng đẵng với khối óc thu hẹp lại, không trao đổi một lời nào, không
giải trí một phút nào. Mà tôi thì quen sống cái đời khoáng đãng, suốt ngày chỉ
có đi với hát, không sở trường về cái phương diện nói trên, nên cảm thấy buồn lắm.
Buồn thực! Suốt ngày đẩy xe trong hang tối, ngoài ánh sáng le lói của chiếc đèn
tay, không còn ánh sáng nào khác, ngoài những tiếng bánh xe lăn, tiếng lội nước
bì bõm, thỉnh thoảng lại nghe mìn nổ trong vắng lặng làm cho âm khí nặng nề
thêm.
Riêng việc xuống hầm, lên hầm cũng đã vất vả, không kể phải
làm ở đó suốt 12 tiếng đồng hồ. Buổi ăn trưa ở mỏ, buổi tối mới được về nhà.
Cạnh công trường của ông An-Thiện, tôi có một người bạn đẩy
xe, đáng lẽ là một đứa trẻ như tôi, lại là một ông râu bạc; khi tôi nói râu bạc,
xin quý độc giả hiểu cho rằng: bộ râu chỉ trắng trong ngày chủ nhật vì được tẩy
rửa, còn từ thứ hai đến thứ bảy nó cứ xám dần thành sắc đen. Ông già năm nay
hơn 60 tuổi. Ngày còn trẻ, ông làm nghề thợ mộc cho một sở mỏ, chuyên việc đóng
gỗ chống hầm. Một hôm đất sụp, ba ngón tay ông bị kẹp nát, vì thế phải bỏ nghề.
Công ty mỏ đó cho ông một khoản lương dưỡng cấp vì ông đã can đảm cứu ba người
bạn mà bị què. Ông lĩnh tiền cấp dưỡng được ba năm thì Công ty đó bị vỡ nợ. Ông
thành ra túng thiếu, phải xin vào làm chân đẩy goòng ở sở Thụy-Khê. Người ta
quen gọi ông là “Giáo-sư”, tức là thầy học trường làng vì ông biết nhiều hơn
các thợ mỏ, có khi hơn cả những thầy mỏ và nhất là vì ông thích nói và rất tự
hào về kiến thức của ông.
Tôi được quen ông trong bữa ăn trưa. Ông cũng tỏ ý mến tôi.
Tôi là một đứa trẻ hay hỏi, ông là một người hay nói. Chúng tôi rất tương đắc.
Trong hầm người ta có tính ít nói, thấy chúng tôi nói nhiều người ta gọi chúng
tôi là kẻ đa ngôn.
Những chuyện An-Sinh đã nói cho tôi nghe chưa thỏa mãn tính
hiếu kỳ của tôi. Và những câu ông An-Thiện trả lời tôi cũng vẫn còn mờ nghĩa. Đại
khái tôi hỏi ông:
- Than đá là gì?
Ông trả lời:
- Là một thứ than rắn như đá.
Ông Vỹ-Tiên ngày trước đã dạy tôi: phàm biết cái gì thì phải
biết cho đến nơi đến chốn. Vì thế tôi lại đem câu hỏi trên hỏi Giáo-sư, thì
Giáo-sư lại trả lời khác hẳn.
Giáo-sư nói:
- Than đá chỉ là một thứ than củi. Than củi là do những cây
người ta đốn về, đắp lò và hầm âm ỉ cho thành than. Than đá cũng là cây, nhưng
những cây ở rừng thuở xưa sập xuống và do sức tạo hóa biến ra than, ta muốn nói
những rừng cháy, những núi lửa, những động đất thiên nhiên.
Thấy tôi nhìn ông bằng đôi mắt ngạc nhiên, ông nói:
- Bây giờ ta không có thì giờ nói dài vì còn phải đẩy xe. Đến
mai, chủ nhật, con đến nhà ta, ta sẽ cắt nghĩa kỹ cho con nghe. Ta có đủ những
mảnh than và mảnh đá, nó giúp con hiểu kỹ bằng mắt những điều con nghe thấy bằng
tai. Họ trêu và gọi ta là “Giáo-sư” nhưng con sẽ biết Giáo-sư cũng có ích phần
nào. Cuộc sống của con người ta không hoàn toàn chỉ ở trong tay người ta mà còn
ở trong đầu óc nữa. Khi ta còn nhỏ, ta cũng có tính tò mò như con. Ta sống
trong mỏ, ta muốn hiểu tất cả những sự vật ta trông thấy hàng ngày. Ta hỏi các
kỹ sư và ta đọc sách. Sau ngày bị nạn ta phải nghỉ việc, ta dùng thì giờ để học.
Khi người ta có mắt để nhìn, khi người ta có kính để đeo trên mắt để xem sách
mãi mãi rồi người ta cũng phải biết. Bây giờ ta không có thì giờ đọc sách,
không có tiền mua sách, nhưng ta vẫn còn có mắt, vẫn chú ý học hỏi.
- Ngày mai, con sẽ đến chơi, ta rất sung sướng dạy con biết
quan sát chung quanh con. Người ta không biết rằng một lời nói rơi vào cái tai
lương hảo có thể bắt rễ nẩy mầm. Chính vì ta được dẫn đường cho nhà Đại bác học
Bồng-Nha (Brongniart) trong mỏ than Bét-Xe (Bességes) và được nghe ông giảng giải
nhiều điều hay, cho nên bây giờ ta biết nhiều hơn các bạn đồng nghiệp của ta
đôi chút. Thôi! Để đến mai, con ạ.
Hôm sau, tôi xin phép ông An-Thiện để tới thăm Giáo-sư.
Ông An-Thiện cười và bảo tôi:
- A! Con đã tìm được người để nói chuyện. Con cứ đi vì lòng
con muốn. Con có thể biết được nhiều cái hay lắm đấy. Nhưng có điều con nên nhớ
là nếu nhờ Giáo-sư, con biết thêm chút gì, con đừng vì thế mà kiêu hãnh. Chính
Giáo-sư, nếu Giáo-sư không mắc tật đó, thì đã là một người hoàn toàn.
Giáo-sư không ở trong thành phố như phần đông những người thợ
khác. Ông ở một xóm nghèo ngoài thành phố. Nơi này, sườn núi có nhiều hang hốc.
Người ta cho ông thuê lại một căn lều, trong đó ông kê một chiếc giường vào chỗ
cao ráo hơn hết. Nói là cao ráo, nhưng cao ráo tương đối trong căn lều thôi, vì
dưới bốn chân giường đều có nấm mọc. Tuy nhiên, đối với một người thợ mỏ quen dẫm
chân dưới bùn, dưới nước, quen chịu những giọt nước lạnh rỏ trên lưng, điều đó
không lấy gì làm quản ngại. Sở dĩ ông thích ở khu này là vì gần hang núi, tiện
việc sưu tầm của ông và tha hồ trữ những mảnh than, mảnh đá còn mang những dấu
tích và những vật hóa thạch.
Rồi tôi đến nhà Giáo-sư. Ông vui vẻ chạy ra đón và nói:
- Ta đã bảo dầm ít hạt dẻ để thết con, vì nếu thanh niên, có
tai, có mắt, thanh niên cũng còn có dạ dầy nữa chứ! Cái phương tiện hay nhất để
tỏ tình thân ái không gì hơn là làm thỏa mãn được ba điều đó một lúc.
Hạt dẻ dầm nghĩa là hạt dẻ rang lên rồi ngâm vào rượu vang trắng
để ăn, đó là một món ăn rất thú vị của người dân miền Xê-Viên.
Giáo-sư nói tiếp:
- Sau tiệc hạt dẻ, chúng ta sẽ nói chuyện và ta cho con xem
những bộ sưu tập của ta.
Ông nhấn mạnh hai tiếng “sưu tập” bằng một giọng tự mãn, giọng
nói đó đã chứng minh lời diễu cợt của bạn bè. Bộ sưu tập của ông thật súc tích,
bày la liệt khắp nhà: những vật nhỏ thì xếp trên giá, trên bàn; vật lớn thì xếp
dưới đất. Đã hai mươi năm nay, ông góp nhặt tất cả những thứ lạ ông tìm thấy
trong khi làm việc. Những mỏ miền này có rất nhiều thảo vật hóa đá, cho nên những
mẫu Giáo-sư kiếm được rất quý đối với các nhà địa chất học và thiên nhiên học.
Vì tôi muốn chóng được hỏi và được nghe, nên tiệc ăn hạt dẻ
chấm dứt rất nhanh.
Ông nói:
- Vì con muốn biết thế nào là than đá, ta cắt nghĩa qua cho
con nghe. Ta nói một vài điều sơ lược để con có đủ ý thức xem những vật liệu
sưu tập của ta, nó sẽ giúp con hiểu hơn về ta. Vì tuy người ta có gọi ta là
Giáo-sư thực, nhưng ta nào phải là nhà bác vật, cái gì cũng biết.
- Trái đất mà chúng ta đang ở bây giờ không phải là từ xưa đến
nay vẫn thế. Nó đã chịu bao sự biến thiên mà người ta gọi là sự chu chuyển của
địa cầu. Đã có thời, nước ta mọc đầy những thứ thảo mộc mà bây giờ chỉ xứ nóng
mới có. Thế rồi một trận biến thiên xảy đến, lớp thảo mộc đó bị thay thế bằng một
lớp khác, rồi lớp khác lại phải nhường chỗ cho một lớp khác nữa. Hết lớp này đến
lớp khác, cứ luân lưu như thế trong khoảng hàng nghìn, hàng vạn, triệu năm
không biết chừng. Những lớp cây đó chồng chất lại, đè ép lên nhau, biến đổi dần
mà thành những lớp than. Nếu con không tin, lát nữa ta cho con xem những mảnh
than và rất nhiều mảnh đá ngầm ở dưới hầm. Những miếng than, hoặc đá đó còn giữ
nguyên những di tích cành lá như người ta ép những bông hoa trong tập bách-thảo
vậy.
- Như trên đã nói, than đá phát sinh ra bởi sự chồng chất của
cây cỏ ở dưới đất: nó chỉ là gỗ biến nát và bị lèn nén lại. Chắc con muốn hỏi:
sự chồng chất của cây cối đó xảy ra như thế nào? Điều này thực khó trả lời. Thiết
tưởng cả đến những nhà bác học cũng không sao cắt nghĩa dứt khoát được vì các vị
đó cũng bất đồng ý kiến về sự phát sinh của than đá. Có những vị cho rằng: tất
cả những cây cối đó bị nước cuốn đi thành những bè lớn chảy ra biển rồi bị hải
lưu làm cho lắng xuống đáy sâu. Những vị khác lại nói rằng: những lớp than đá
sinh ra bởi sự sụt đọng âm thầm của cây cối, hết lớp này đến lớp khác lần lượt
bị chôn vùi ngay chỗ chúng mọc. Về điểm này các nhà bác học đó đã làm các con
tính khiến ta phải chóng mặt. Các vị đó tính rằng mỗi mẫu tây rừng rú nếu chặt
hết và đặt nằm trên đất, chất gỗ tản ra cho đều thì chiều dầy chỉ đo được 8 ly.
Lớp mỏng đó nếu biến ra than thì chỉ còn có 2 ly. Nay có những lớp than đá nằm ở
dưới đất dày 20 đến 30 mét, vậy phải mất bao nhiêu thì giờ để cho những lớp đó
biến thành than? Con phải biết một cánh rừng không thể mọc lên trong một ngày
được. Ít nhất trong 100 năm mới thành. Như vậy muốn có một lớp than dày 10 mét,
phải có 5.000 cánh rừng mọc một chỗ, kế tiếp nhau sụt xuống đất và phải đợi
trong thời gian là 500.000 năm. Đó là một con số làm cho ta kinh ngạc, phải
không? Tuy vậy, con số đó cũng chưa hẳn là đúng, vì những cây cối đó không thể
lớp này chết đi, lớp khác mọc ngay lên đều đặn như thế được. Muốn cho một lớp
cây mới mọc lên chỗ lớp cây cũ, cần phải có một thời kỳ biến thái để cho lớp
cây này thối nát hoặc đổi thể mới đủ nuôi lớp cây mới. Tất nhiên, con nhận thấy
500.000 năm cũng chưa đủ, còn phải nhiều năm nữa. Độ bao nhiêu? Ta cũng không ước
đoán được, vì ta không phải là nhà chuyên môn để nghiên cứu vấn đề đó.
- Điều cốt yếu là ta muốn con có một ý thức về than đá, để có
thể xem và hiểu những tài liệu của ta. Bây giờ ta chỉ dẫn con xem.
Cuộc triển lãm kéo dài đến tối, và mỗi miếng đá, mỗi dấu cây,
Giáo-sư lại giảng thuyết một hồi dài. Nhờ đó mà tôi hiểu được tất cả những điều
trước kia làm cho tôi thắc mắc.
Chương XXV
lụt mỏ
Sáng hôm sau, chúng tôi lại gặp nhau trong mỏ.
Ông An-Thiện hỏi Giáo-sư:
- Thế nào? Giáo-sư đã gặp học trò, vừa ý chứ?
- Vừa ý lắm. Nó có tai. Tôi mong nó sẽ có mắt.
An-Thiện nói thêm:
- Trong khi chờ đợi, tôi mong nó có cánh tay.
Rồi ông An-Thiện đưa tôi vào một góc giúp ông bẩy tảng than
ra, vì những người đẩy xe vẫn có bổn phận giúp người cuốc than.
Xong tôi đẩy than ra lò Thánh An-Phong. Đến chuyến thứ ba,
tôi chợt nghe thấy về phía cửa lò có tiếng ầm ầm dữ dội, mà tôi chưa từng nghe
thấy ở hầm bao giờ. Có phải là đất sụt hay hầm đổ chăng? Tôi lắng nghe. Tiếng động
đó lan ra mọi phía. Thế là nghĩa gì? Tôi khiếp quá định leo lên thang, nhưng
người ta thường cười tôi nhát, sợ xấu hổ, tôi không chạy. Có lẽ là tiếng mìn nổ,
tiếng goòng rơi xuống lò hay là tiếng đất người ta đổ xuống để lấp những chỗ
trũng chứ gì.
Chợt một đoàn chuột chạy qua chân tôi như một đạo kỵ quân thất
trận rút lui. Rồi tôi nghe như có tiếng nước vỗ vào vách hầm. Chỗ tôi đứng vẫn
khô ráo nên không hiểu tiếng đó là tiếng gì. Sau tôi cho đèn sát xuống đất để
nhìn. Quả nhiên có nước. Nước chảy từ phía cửa lò ngược lại đường hầm. Những tiếng
ầm ầm liên tiếp là tiếng thác nước ở trên cao đổ xuống mỏ. Bỏ xe trên đường sắt,
tôi chạy về công trường.
- Chú Thiện ơi! Nước vào mỏ.
- Nói bậy.
- Sông Đinh-Giang có lỗ rò. Chúng ta chạy đi thôi!
- Để ta làm việc.
- Chú hãy nghe con.
Giọng nói tôi run run làm cho ông An-Thiện phải dừng tay cuốc
để nghe. Tiếng ào ào mỗi lúc một to, một dữ. Không còn nghi ngờ gì nữa. Nước chảy
vào hầm thật.
Ông kêu lên:
- Ta rút đi cho nhanh! “Nước vào mỏ rồi”!
“Nước vào mỏ rồi”! Mọi người kêu inh ỏi.
Ông An-Thiện vội vớ lấy đèn. Đó là cử chỉ thứ nhất của người
thợ mỏ khi gặp biến. Ông hoảng hốt bước trượt chân luôn.
Chúng tôi đi được vài bước thì gặp Giáo-sư ở đâu đến hỏi
chúng tôi:
- Tiếng gì ầm ầm thế?
An-Thiện đáp:
- Nước vào mỏ rồi!
Tôi nói theo:
- Đinh-Giang có lỗ rò.
- Chỉ nói bậy.
Giáo-sư bảo tôi:
- Con chạy đi!
Mực nước lên rất nhanh, lúc đi nước chấm đầu gối chúng tôi,
vì thế chúng tôi bước rất chậm.
Giáo-sư cùng chạy với chúng tôi. Cả ba khi đi qua các công
trường đều kêu to:
- Chạy đi! Nước vào mỏ rồi!
Nước dâng lên cuồn cuộn. May sao chúng tôi đã gần đến chân
thang. Nếu còn ở xa thì không bao giờ bước tới kịp.
Giáo-sư đến chân thang trước bảo chúng tôi:
- Lên trước đi! Tôi nhiều tuổi hơn và thư tâm hơn.
Không phải là lúc trình bày lễ phép; An-Thiện lên luôn, tôi
theo sau rồi đến Giáo-sư. Một lát sau có mấy người thợ nữa cũng leo lên. Chưa
bao giờ chúng tôi vượt 40 mét đường từ tầng hai lên tầng nhất một cách mau lẹ
như thế. Nhưng khi lên đến bậc chót, một luồng nước giội vào đầu chúng tôi và
làm ngụp cả đèn. Đó là một cái thác!
An-Thiện bảo tôi:
- Bám cho chặt!
Ba chúng tôi đều bám riết vào bậc thang để đứng ghì lại. Mấy
người lên sau chúng tôi đều bị nước lôi đi cả. Nếu chúng tôi còn cách 10 bậc nữa
thì cũng bị cuốn đi như họ vì lúc đó nước đổ xuống như vỡ đê. Chúng tôi lên được
tầng nhất rồi, nhưng chưa phải là thoát thân vì còn 50 mét nữa mới ra đến cửa
hang, mà tầng này cũng có nước, lối đi tối mò vì tắt lửa cả.
Giáo-sư giọng nói bình tĩnh:
- Chúng ta chết đến nơi rồi! Minh ơi, con cầu nguyện đi!
Ngay lúc đó có bảy, tám ngọn đèn tiến đến phía chúng tôi. Lúc
đó, nước lên đến quá đầu gối, không phải cúi mình, bàn tay chúng tôi sờ thấy nước.
Không phải là một đám nước yên lặng. Đó là một luồng nước cuồn cuộn chảy, gặp bất
cứ cái gì cũng lôi đi và làm quay những khúc gỗ trên mặt nước như những chiếc
lông.
Những người xách đèn đến chỗ tôi định tìm cầu thang gần đó để
lên, nhưng nước chảy mạnh như thế lại có nhiều củi gỗ lao theo thì tiến làm sao
được.
Những người thợ đó nhắc lại đúng câu Giáo-sư vừa bảo chúng
tôi:
- Chúng ta chết đến nơi rồi!
Rồi họ lại chỗ chúng tôi.
Giáo-sư kêu to:
- Lại cả chỗ này, phải đấy. Ta tìm hầm cũ để lánh nạn.
Hầm cũ là một phần của mỏ đã bỏ hoang từ lâu mà chẳng ai để
chân đến bao giờ. Duy có Giáo-sư thường kỳ cục tìm đến để thu lượm tài liệu, mới
biết mà thôi.
Giáo-sư nói:
- Đi lộn cả lại. Cho tôi cái đèn để tôi dẫn đường.
Thời thường, khi Giáo-sư nói gì thì người ta bưng miệng cười
hay so vai và quay mặt đi. Những người khỏe nhất vẫn tự phụ về sức lực của
mình, năm phút trước đây họ còn nhạo báng Giáo-sư, bây giờ cũng cúi đầu nghe
theo cả. Tự nhiên, mọi chiếc đèn đều giơ ra cho Giáo-sư. Ông cầm một chiếc, còn
một tay dắt tôi. Ông dẫn đầu. Chúng tôi quay lại, theo chiều nước chảy, nên đi
được nhanh.
Tôi không biết phải đi đến chỗ nào, nhưng lòng tôi có chút hy
vọng. Đi được một lúc, không biết là mất mấy phút hay mấy giây vì lúc đó cũng
chẳng ai để ý đến thời gian. Giáo-sư đứng lại.
Giáo-sư nói lớn:
- Chúng ta không đủ thì giờ đến hầm cũ. Nước lên nhanh quá!
Thực vậy, nước đuổi chúng tôi dữ quá, từ đầu gối lên đến thắt
lưng đã lên đến ngực rồi.
Giáo-sư nói tiếp:
- Chúng ta đành lên hốc đá kia vậy.
- Rồi đi đâu?
- Hốc đá không có lối đi đâu nữa.
Lên hốc đá chẳng khác chi chui vào đáy túi. Nhưng chúng tôi
không còn thì giờ để chờ đợi, lựa chọn: lập tức phải lên hốc đá để được sống
thêm vài phút với cái hy vọng may ra thoát nạn, nếu cứ đi thì chỉ trong vài
giây nữa nhất định bị nước chôn vùi. Do Giáo-sư dẫn đầu, chúng tôi leo lên hốc.
Hai người trong bọn chúng tôi không nghe, cứ đi thẳng. Những người đó không bao
giờ chúng tôi trông thấy lần thứ hai nữa.
Được dừng bước, chúng tôi nghe thấy những tiếng lục ục bên
tai mà từ trước mải đi không để ý đến: tiếng đất sụt, tiếng sóng cuộn, tiếng nước
đổ, tiếng vách gẫy, những tiếng nổ do không khí bị đè ép mà tung ra. Đó là những
tiếng động hãi hùng phát ra trong toàn mỏ làm cho chúng tôi táng đảm kinh hồn.
- Đại-Hồng-Thủy!
- Ngày tận thế!
- Hỡi Thượng-Đế! Cứu vớt chúng con!
Từ lúc lên hốc đá rồi, Giáo-sư không nói gì nữa, vì linh hồn
Giáo-sư còn cao hơn những lời phàn nàn vô ích.
Giáo-sư bảo:
- Các bạn ơi! Không nên để cho thân thể quá mệt nhọc. Nếu
chúng ta cứ ghì chân, bám tay mãi thế này, chúng ta không khỏi kiệt lực. Chúng
ta phải khoét sâu chỗ đứng cho vững. Những diệp thạch này cũng dễ đào.
Lời khuyên rất hay nhưng khó thực hành, vì không ai mang cuốc.
Ai cũng có đèn, ngoài ra trong tay không còn khí cụ nào khả dĩ đào bới được.
Giáo-sư nói tiếp:
- Chúng ta lấy móc đèn treo mà đào!
Thế rồi mọi người đều dùng móc đèn của mình khoét sâu chỗ đất
để chân. Chân hốc nghiêng và trơn, việc đào rất khó. Nhưng ai nấy đều hiểu rằng
nếu chỗ đứng không vững, lỡ sẩy chân thì mất mạng nên hăng hái làm việc. Chỉ
trong mươi phút, chúng tôi đã có một chỗ đứng vững vàng.
Làm xong, mọi người đều thấy nhẹ mình. Lúc đó mới nhận mặt
nhau. Chúng tôi có tất cả 7 người: Giáo-sư, ông An-Thiện và tôi, ba người thợ
cuốc là Ba-Điền, Tư-Cổn, Bảy-Nhu và người đẩy xe là Cao-Dĩ. Còn những người thợ
khác đều mất tích cả.
Trong mỏ vẫn nghe thấy tiếng động ầm ầm. Không có danh từ gì
để gọi đúng những tiếng động hãi hùng đó, tiếng đại bác hợp với tiếng sấm cũng
không to bằng.
Thất đảm, chúng tôi đứng nhìn nhau, như để tìm trong mắt người
bạn những lời giải thích mà mình không biết.
Một người nói:
- Đó là một trận Đại-Hồng-Thủy.
- Là ngày tận thế.
- Nạn động đất.
- Thần Mỏ ra oai.
- Nước tích ở các hầm cũ đổ xuống.
- Một lỗ rò ở đáy sông.
Giả thuyết cuối cùng này là của tôi. Tôi bảo thủ ý kiến của
tôi. Giáo-sư không nói gì. Ông nhìn từng người một, so vai lên như người đang ở
ngoài trời, dưới bóng cây dâu vừa bàn cãi vừa ăn một củ hành.
Khi đã nghe ý kiến của từng người, Giáo-sư phát biểu sau
cùng:
- Chắc chắn là một nạn lụt.
- Sinh ra bởi động đất.
- Do Thần Mỏ báo thù.
- Từ các hầm cũ đổ xuống.
- Bởi lỗ rò của sông Đinh-Giang.
Mọi người nhái lại ý kiến trước của mình.
Giáo-sư nhắc lại:
- Đó là thủy tai.
Nhiều tiếng cất lên để hỏi:
- Rồi sau thế nào? Nước ở đâu đến?
- Tôi không biết, nhưng bảo là do Thần Mỏ thì xuẩn quá, cho
là tự các hầm cũ thì chỉ tầng thứ ba bị lụt thôi, nhưng đây lụt cả tầng nhì tầng
nhất. Các bạn phải biết, nước chỉ chảy xuống, không bao giờ chảy ngược lên cao.
- Lỗ rò?
- Không bao giờ lại có một lỗ rò tự nhiên như thế.
- Động đất?
- Tôi không biết.
- Không biết thì nói làm gì!
- Tôi biết đó là nạn lụt, đó cũng là một điều đáng kể rồi nước
lụt từ trên chảy xuống đây.
- Cái đó ai chả biết, nước đã chảy theo chân ta là gì!
Từ lúc mọi người được yên vị ở một chỗ khô ráo và nước không
lên nữa, hình như họ không cần đến Giáo-sư nữa.
- Ông đừng lên mặt thông thái nữa, ông chẳng biết gì hơn
chúng tôi.
Trí quá cảm trước nguy hiểm đã cho ông một uy quyền, nhưng
bây giờ uy quyền đã mất rồi. Ông im lặng không nói gì.
Chúng tôi lúc đó đều nói thật to để át tiếng động của mỏ,
nhưng vô ích, chẳng nghe rõ câu gì ra câu gì.
Giáo-sư bảo tôi:
- Con thử nói đi!
- Ông bảo nói gì bây giờ?
- Nói gì cũng được, cần nói lên thôi.
Tôi nói vài câu.
- Được. Nói nhỏ hơn một chút. Ừ, như thế vừa rồi.
Ba-Điền nói:
- Giáo-sư ơi! Điên rồi sao?
- Sợ quá hóa rồ rồi à?
- Ông tin rằng ông chết à?
- Tôi tin rằng nước sẽ không bao giờ lên tới đây, tôi tin rằng
nếu ta có chết, ta cũng không đến nỗi chết đuối.
- Thế nghĩa là gì? Giáo-sư?
- Nhìn ngọn đèn của anh xem.
- Nó đang cháy.
- Nó cháy như thường không?
- Không. Ngọn to hơn và ngắn hơn.
- Vậy có khí nổ không?
Giáo-sư đáp:
- Không. Cứ yên tâm. Khí nổ không có, cũng như nước không tài
nào dâng lên được nữa.
- Đừng giở trò phù thủy.
- Ta không giở trò phù thủy. Nhưng các anh nên biết rằng
chúng ta hiện đang bị úp trong cái chuông đầy không khí. Chính bầu không khí bị
ép đó ngăn nước không lên được. Cái hốc kín mít này khác nào như cái chuông của
thợ lặn. Nước đã dồn tất không khí ở hầm vào cái hốc này, bây giờ nó ấn xuống
không cho nước lên nữa.
Nghe Giáo-sư cắt nghĩa, bảo chúng tôi đang ở một thứ chuông
thợ lặn, đầy không khí, nước không vào được, mọi người đều lẩm bẩm không tin.
- Chỉ nói khoác! Nước chả mạnh bằng mấy không khí ấy?
- Mạnh khi nào ở ngoài thôi. Khi anh úp cái cốc không vào chậu
nước đầy: hỏi rằng nước có ngập lên tới đáy cốc không? Có một chỗ trống. Vậy
thì chỗ trống đó là không khí đấy. Ở hốc này cũng thế. Chúng ta đang ở đáy cốc
đấy. Nước không bao giờ lên chỗ chúng ta được.
Ông An-Thiện nói:
- Tôi hiểu rồi. Giáo-sư nói phải đấy. Tôi nhận thấy các bạn
thường chế diễu Giáo-sư là nhầm. Giáo-sư đã biết nhiều điều mà chúng ta mù tịt.
Cao-Dĩ nói:
- Thế thì chúng ta được cứu sống.
- Cứu sống? Tôi không tin thế. Nhưng nhất định rằng chúng ta
không bị chết đuối. Cái đã cứu ta là hốc kín, khí trời không ra được. Nhưng
ngán thay! Cái đã cứu ta đồng thời nó cũng hại ta. Không khí không ra được vì bị
hãm, chúng ta cũng thế, bị giam và không ra được.
- Ra được khi nước rút…
- Rút hay không? Tôi không biết. Muốn biết điều đó cần phải
rõ nước từ đâu đến mới được. Ngồi ở đây thì nói đúng sao được?
- Ông vừa nói là nạn lụt?
- Phải, chính là nạn lụt. Nhưng nước đó tự đâu mà ra? Do nước
sông Đinh-Giang tràn qua bờ chảy vào cửa lò? Hay bởi mưa bão? Hay nước nguồn chảy
xuống chăng? Hay là nạn động đất? Phải là người ở ngoài nhìn thấy mới nói được.
Chúng ta ở đây thì rõ làm sao được?
- Có khi cả thành phố và nước cuốn rồi!
- Rất có thể……
Một lúc im lặng và hãi hùng.
Tiếng nước chảy đã hết, thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng nổ
ình ình làm rung cả đất.
Giáo-sư nói:
- Mỏ ngập đầy rồi, nước không chảy vào nữa.
Ba-Điền thất vọng kêu:
- Không biết thằng Phi nhà tôi thế nào?
Phi là con trai Ba-Điền cũng làm thợ cuốc như cha nhưng ở tầng
thứ ba. Từ nãy đến giờ mải chiến đấu với cái chết cho bản thân không có thì giờ
nghĩ đến con, nay thấy Giáo-sư nói “mỏ ngập đầy rồi”, Ba-Điền mới nhớ ra, Ba-Điền
gào lên:
- Phi ơi! Phi! Phi ơi!
Không tiếng đáp lại. Tiếng gọi của người cha không ra khỏi hốc
đá.
Giáo-sư nói:
- Biết đâu nó chẳng tìm được mỏm đất như ta. Một trăm rưỡi
người chết chìm dưới nước là điều quá ghê gớm! Thượng-Đế không muốn thế đâu!
Giáo-sư nói câu đó bằng một giọng không được vững chắc. Sáng
nay ít nhất cũng có 150 người thợ xuống hầm. Có được bao nhiêu người lên thoát
hoặc tìm được chỗ lánh nạn như chúng tôi? Bạn bè, bà con chúng tôi chết hết rồi
chăng? Nghĩ đến điều đó, chẳng ai dám nói một câu nào.
Nhưng tình trạng chúng tôi lúc bấy giờ không để cho lòng
chúng tôi thương xót người khác.
Sau một lúc im lặng, Bảy-Nhu cất tiếng:
- Về phần chúng ta, chúng ta phải làm thế nào bây giờ?
- Anh muốn làm gì?
Giáo-sư nói:
- Chỉ còn cách chờ đợi thôi.
- Chờ đợi cái gì?
- Phải chờ đợi. Mặt đất cách ta tới 4, 50 mét, anh có thể
khoét bằng móc treo đèn không?
- Thế thì chết đói mất.
- Điều nguy hiểm không ở chỗ đó.
- Thế Giáo-sư bảo nguy hiểm nhất ở chỗ nào? Giáo-sư làm chúng
tôi lo quá!
- Cái đói, ta có thể chống lại được. Tôi đã được đọc chuyện
những người thợ mỏ như chúng ta bị lụt, họ có thể nấp trong mỏ trong 24 ngày
không ăn uống gì mà vẫn còn sống. Chuyện đó xảy ra đã lâu rồi. Những cái gì đã
có ngày trước thì ngày nay cũng có thể có được. Như vậy, ta không sợ chết đói.
- Ông đã bảo rằng nước không tài nào lên được nữa, thế thì
còn sợ gì?
- Các bạn có thấy nặng đầu ù tai không? Có dễ thở không? Tôi
không.
- Tôi, nhức đầu.
- Tôi, chóng mặt.
- Tôi, thái dương nhoi nhói.
- Tôi như dại.
- Đó là điều nguy hiểm nhất đấy. Chúng ta có thể sống trong bầu
không khí này bao lâu nữa? Tôi không biết vì không phải là nhà khoa học. Chúng
ta có 40 mét đất dầy ở trên đầu, và ba mươi nhăm hay 40 mét nước sâu ở dưới
chân chúng ta: thế nghĩa là bầu không khí này bị một áp lực nặng gấp 4 hay 5 lần
áp lực thường. Chúng ta sống thế nào được trong cái khối không khí nén ép này?
Đó là điều mà chúng ta phải lo ngại và có lẽ đồng thời chúng ta cũng rút được một
vài kinh nghiệm, một bài học quá đắt.
Tôi không có một quan niệm gì về không khí ép. Vì thế, nghe
Giáo-sư nói, tôi hết hồn. Những bạn tôi cũng tỏ ra kinh hãi và họ cũng không biết
gì hơn tôi. Cái không biết sinh ra lo lắng.
Tuy biết chúng tôi ở trong một tình thế tuyệt vọng, Giáo-sư vẫn
cố gắng tổ chức mọi cách để bảo vệ lấy vận mệnh chúng tôi chỉ còn như treo đầu
sợi tóc.
Giáo-sư bảo chúng tôi:
- Bây giờ ta phải chọn chỗ ngồi cho khỏi lăn xuống vực sâu.
- Đã có những lỗ để đứng rồi.
- Liệu anh có thể đứng mãi như thế này không?
- Ông tưởng rằng chúng ta phải ở đây lâu?
- Nào ai biết được.
- Người ta sẽ đến cứu ta.
- Chắc chắn có. Nhưng muốn cứu được chúng ta, người ta cũng
phải đợi đến lúc có thể làm được mới làm. Từ lúc người ta tìm cách cứu đến lúc
người ta bắt tay vào việc cũng phải mất bao nhiêu thì giờ. Chỉ có người ở trên
đất mới biết khoảng thời gian đó. Còn chúng ta ở dưới này chỉ có cách xếp đặt
làm sao cho bớt khổ trong khi chờ đợi. Vì, nếu không may, ai trợt chân thì có
phải thiệt đời không.
- Chúng ta buộc vào nhau.
- Dây đâu?
- Nắm lấy tay nhau cũng được.
- Nắm được mãi à? Theo ý tôi, tốt hơn hết là phải đào những bậc
như bậc thềm. Chúng ta có bảy người, hai bậc cũng đủ: bốn người ngồi bậc trên,
ba người ngồi bậc dưới.
- Đào bằng gì bây giờ?
- Cuốc đâu?
- Chỗ đất cát dùng móc đèn, chỗ rắn dùng dao.
- Đào đến đời nào cho xong!
- Anh Ba-Điền ơi! Đừng nói thế! Trong tình cảnh này người ta
không tiếc gì, cốt sao cho sống. Nếu một người trong chúng ta lỡ ngủ quên đi,
có phải người đó tự gieo mình xuống nước không?
Lòng can đảm và trí cương nghị đã cho Giáo-sư một uy quyền mỗi
lúc một mạnh khiến chúng tôi phải khuất phục. Tự nhiên, chúng tôi thấy cái sức
mạnh tinh thần của Giáo-sư đang chiến đấu với tai họa, tựa vào sức đó, chúng
tôi mới vững lòng chờ đợi cứu cấp. Chúng tôi bảo nhau làm việc. Phải làm cho được
hai bậc đó nếu không hoàn hảo thì cũng phải đủ ngồi để khỏi lăn xuống vực sâu ở
dưới chân chúng tôi. Bốn ngọn đèn vẫn cháy, đủ ánh sáng cho chúng tôi làm.
Giáo-sư bảo:
- Nên tìm chỗ dễ đào thì hơn.
An-Thiện bảo các bạn:
- Các anh em! Hãy nghe tôi. Tôi có một ý kiến. Chúng ta ở đây
người nào cũng rối trí cả, duy có Giáo-sư là người rất trấn tĩnh và sáng suốt,
lại có lòng nhân nữa. Giáo-sư trước kia cũng là thợ cuốc như chúng ta, nhưng lịch
duyệt hơn chúng ta nhiều. Tôi đề nghị bầu Giáo-sư là người đồn trưởng chỉ huy
chúng ta làm việc. Các bạn nghĩ sao?
Cao-Dĩ, một kẻ dốt nát và cục súc chỉ quen việc đẩy goòng liền
cãi:
- Giáo-sư! Sao lại bầu Giáo-sư mà không bầu tôi? Nếu cần một
người đẩy xe chỉ huy thì tôi đây cũng là người đẩy xe như Giáo-sư chứ có kém gì
đâu?
- Anh ngu lắm. Có phải người ta cần phu đẩy xe đâu! Chúng ta
cần một “người” mà trong bọn chúng ta đây, chỉ có Giáo-sư là “người” hơn cả.
- Hôm qua, ông không nói thế.
- Hôm qua tôi cũng ngu như anh. Tôi cũng nhạo báng Giáo-sư
như các bạn khác, không biết Giáo-sư giỏi hơn chúng ta. Nay tôi mới rõ, tôi đề
nghị bầu Giáo-sư là vì thế. Vậy thưa Giáo-sư, Giáo-sư sai tôi làm gì bây giờ?
Cánh tay tôi khỏe lắm, Giáo-sư đã rõ. Còn các bạn, thế nào?
- Xin vâng lời Giáo-sư.
- Sẽ vâng lời mãi mãi.
Giáo-sư nói:
- Các bạn muốn cho tôi làm đồn trưởng. Tôi xin vâng. Nhưng có
một điều kiện là tôi bảo gì thì phải làm. Chúng ta còn phải ở đây lâu, nhiều
ngày. Tôi không biết rồi sau ra sao. Chúng ta ở đây chẳng khác chi những người
sống sót trên một cái bè giữa biển khơi. Có phần đau khổ hơn vì ngồi trên bè ít
ra người ta cũng được thoáng khí và trông thấy trời. Người ta thở được và nhìn
được. Dù xảy ra đến thế nào, đã bầu tôi làm trưởng đồn, các bạn phải triệt để
nghe tôi.
Mọi người đồng thanh đáp:
- Chúng tôi xin nghe lời.
- Những điều các bạn tin là phải thì nghe đã đành. Nhưng có
những điều mà các bạn không tin là phải thì sao?
- Chúng tôi rất tin cậy ở Giáo-sư.
- Giáo-sư ơi! Mọi người đều biết Giáo-sư là người bụng dạ tốt.
- Là người can đảm.
- Là người biết nhiều.
- Xin Giáo-sư đừng nghĩ đến những lời diễu cợt xưa.
Tôi còn nhỏ dại chưa hiểu việc đời mấy, nên rất lấy làm lạ rằng
sao những kẻ trước đây vài giờ không ngớt lời nhạo báng Giáo-sư, bây giờ lại ca
tụng Giáo-sư nhiều thế và sao những cơ hội đã làm cho người thay đổi ý kiến và
cảm tình chóng thế?
Giáo-sư nói:
- Các bạn đã “thề” như thế?
Chúng tôi đều đáp:
- Xin “thề”!
Thế rồi chúng tôi bắt đầu làm việc. Ai cũng có dao trong túi
cả, toàn dao tốt, cán bền, lưỡi sắc.
Giáo-sư nói:
- Ba người đục bậc, ba người khỏe. Còn những người yếu như
Lê-Minh, Cao-Dĩ, Ba-Điền và tôi, chúng tôi san bằng mặt đất.
Bảy-Nhu, một người to lớn, sức lực, ngắt lời:
- Không. Giáo-sư không phải mó tay, vì Giáo-sư không khỏe lắm
vả lại Giáo-sư là “Kỹ sư” rồi. Những Kỹ sư không phải làm việc lao lực.
Mọi người đều đồng ý với Bảy-Nhu và nói rằng Giáo-sư bây giờ
là “Kỹ sư” thì được miễn lao dịch. Ai nấy đều cảm thấy sự chỉ huy của Giáo-sư rất
cần thiết và nhiệt thành đến nỗi, nếu có thể được thì cũng đặt Giáo-sư vào một
cái ổ bông để tránh mọi tai nạn cho Giáo-sư không quản ngại gì, vì Giáo-sư bây
giờ là người Hoa tiêu trong chiếc thuyền ngộ nạn của chúng tôi.
Nếu chúng tôi có dụng cụ thì việc làm rất dễ. Nhưng làm bằng
dao thì khó và lâu. Chúng tôi phải đào thành hai bậc trong sườn đá diệp thạch.
Những bậc này phải rộng để có thể chứa được một hàng bốn người, một hàng ba người.
Chúng tôi phân công. Mỗi bậc do ba người phụ trách, hai người
dũi đá, một người gạt những mảnh con vứt đi, “Kỹ sư” tay xách đèn đi từ “công
trường” nọ đến “công trường” kia. Trong khi đào, người ta tìm được mấy thanh gỗ
bị vùi dưới cát. Những thanh gỗ đó rất có ích, dùng để đóng vỉa cho đá khỏi lở.
Suốt ba tiếng đồng hồ làm việc không nghỉ, chúng tôi đào xong hai bậc và có thể
tạm ngồi được.
“Kỹ sư” ra lệnh:
- Bây giờ các bạn hãy nghỉ tay. Rồi sau có thì giờ ta hãy làm
rộng thêm để có thể nằm được. Ta không nên làm thái quá. Hãy dành sức cho lúc cần
đến.
Rồi người ta chia nhau ngồi. Giáo-sư, An-Thiện, Cao-Dĩ và tôi
ngồi bậc dưới. Ba người thợ cuốc ngồi bậc cao.
Mọi người yên vị xong; Giáo-sư nói:
- Ta phải dành đèn. Tắt cả đi, chỉ để một ngọn đèn thôi.
Mọi người sắp sửa thi hành thì Giáo-sư vội ra hiệu ngừng lại
và bảo:
- Xin các bạn một phút. Một luồng gió có thể làm tắt đèn của
ta: điều này không chắc lắm. Nhưng ta vẫn cứ phải đề phòng cái “không thể có”.
Có ai mang diêm không?
Mặc dầu có lệnh cấm bật lửa trong hầm, nhưng hầu hết các thợ
đều có diêm trong túi cả. Vì thế, lúc đó không có Kỹ sư của Công ty ở đây kiểm
soát xem ai trái lệnh, nên Giáo-sư vừa hỏi “Có ai mang diêm?” thì bốn tiếng trả
lời: “tôi có”.
Giáo-sư nói:
- Tôi cũng có nhưng diêm bị ướt cả.
Đó cũng là trường hợp chung cho tất cả mọi người, vì ai cũng
bỏ diêm trong túi quần và ai cũng lội nước đến ngực, đến vai.
Cao-Dĩ là người hiểu chậm và cũng nói chậm, trả lời sau rốt.
- Tôi cũng có diêm.
- Ướt?
- Không rõ vì tôi để trên mũ.
- Vậy đưa mũ tôi xem.
Đáng lẽ phải trao cho Giáo-sư cái mũ bằng da rái cá to như
cái khăn của người Thổ-Nhĩ-Kỳ đội ngày phiên chợ, Cao-Dĩ đưa ra một bao diêm.
Nhờ cái vị trí đóng trên cao trong khi chúng tôi lội nước nên những que diêm
không bị dìm.
Giáo-sư ra lệnh:
- Bây giờ tắt đèn đi.
Thế rồi chỉ còn một ngọn lửa nhỏ le lói trong hang, khi tỏ
khi mờ.
Chương XXVI
trong hốc đá
Trong mỏ im lặng, tuyệt nhiên không có một tiếng động nào tới
chỗ chúng tôi. Dưới chân chúng tôi, nước đứng yên không một gợn sóng, không một
tiếng rì rào. Mỏ đầy nước, đúng như lời Giáo-sư đã nói. Nước sau khi chiếm hết
các hầm từ nền lên đến mái, đã giam chúng tôi vào trong xó này, kín hơn là một
nhà lao vây tường đá. Cái tĩnh mịch của cõi chết này làm cho chúng tôi ghê sợ,
hãi hùng hơn là những tiếng động, tiếng nổ lúc ban đầu. Chúng tôi ở trong mỏ rồi,
bị chôn sống rồi! Ba, bốn mươi mét đất dầy đè nặng lên trái tim chúng tôi.
Công việc làm quên đi, ngồi rồi sinh lo nghĩ. Chúng tôi thẫn
thờ như người mất vía, ai nấy đều lo cho số phận mình.
Chợt tôi thấy có giọt nước nóng rỏ trên tay tôi. Thì ra anh
Cao-Dĩ đã khóc thầm.
Ngay lúc đó, có những tiếng thở dài đưa ra ở bậc trên và tiếng
lẩm lẩm:
- Phi, con ơi! Phi!
Ba-Điền đang nhớ đến con.
Không khí nặng nề, khó thở. Tôi thấy tức ngực và ù tai.
Hoặc giả Giáo-sư ít lo buồn, hoặc giả Giáo-sư muốn xua đuổi
cái lo buồn và làm cho chúng tôi quên đi, Giáo-sư phá tan làn yên lặng.
Giáo-sư nói:
- Bây giờ, nên xem ai có mang thức ăn.
An-Thiện hỏi:
- Giáo-sư tin rằng ta bị giam ở đây còn lâu?
- Không. Nhưng phải đề phòng. Ai có mang theo bánh mì?
Không ai trả lời.
Tôi nói:
- Tôi, tôi có mang một chiếc ở trong túi.
- Túi nào?
- Túi quần.
- Thế thì bánh của con thành cháo rồi. Nhưng cứ lấy ra xem.
Tôi móc tìm chiếc bánh lấy ra. Sáng ngày chiếc bánh vàng và
giòn thế, mà bây giờ nhão như bánh đúc. Tôi thất vọng định vứt đi thì Giáo-sư
kéo vội tay tôi lại và bảo:
- Hãy giữ lấy để ăn bữa tối, dù nó nát rồi, con cũng sẽ thấy
ngon.
Tôi không tin lắm nên cũng chẳng để ý. Mãi về sau này, tôi nhớ
lại những lời đó mới biết lúc này Giáo-sư vẫn sáng suốt, nhìn rõ tình cảnh
chúng tôi và nếu không phải là phòng xa, từ cái nhỏ nhặt, những thống khổ có thể
xảy ra cho chúng tôi thì ít ta Giáo-sư cũng tỏ ra không quá tin là cuộc cấp cứu
sẽ dễ dàng.
Giáo-sư hỏi thêm:
- Không còn ai có bánh mì nữa à?
Không một tiếng trả lời.
Giáo-sư than:
- Thế thì buồn lắm!
Tư-Cổn hỏi:
- Giáo-sư đói à?
- Tôi không hỏi bánh cho tôi, mà hỏi cho Lê-Minh và Cao-Dĩ:
bánh sẽ dành cho hai kẻ đó.
Bảy-Nhu nói:
- Sao lại không chia đều cho mọi người? Chúng ta bình đẳng
trước cái đói.
- Nếu vậy, giá có bánh, thì chúng ta lại bực thêm. Anh đã hứa
theo lời tôi. Nhưng bây giờ tôi thấy anh chỉ theo lời sau khi bàn cãi và nhận
ra rằng tôi nói là phải.
- Anh ấy sẽ vâng lời.
- Nghĩa là sẽ có một trận khẩu chiến! Tôi không muốn có cuộc
khẩu chiến đó. Muốn thế, tôi xin cắt nghĩa cho các bạn nghe tại sao phần bánh
phải dành cho Lê-Minh và Cao-Dĩ. Không phải tôi đặt ra lệ đó. Chính là pháp luật.
Nếu tôi không nhầm thì Pháp luật đã định rằng: khi nhiều người cùng mắc nạn thì
những người già nhất từ 60 tuổi phải coi như là sống đã lâu rồi, câu đó có
nghĩa là Lê-Minh và Cao-Dĩ còn ít tuổi được cứu chết trước Ba-Điền và Bảy-Nhu.
- Thế thì Giáo-sư quá 60 tuổi rồi!
- Phải, tôi, tôi không kể đến. Vả chăng tôi không phải là hạng
người tham ăn.
Cao-Dĩ nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Như vậy, nếu tôi có bánh mì thì tôi sẽ được ăn cả?
- Không. Phải chia cho Lê-Minh nữa!
- Nếu tôi không muốn cho.
- Người ta sẽ cứ lấy: em đã “thề” rồi mà!
Cao-Dĩ yên lặng một lúc lâu rồi bỗng móc ở mũ ra một tấm
bánh.
- Đây, bánh của tôi đây.
- Mũ của Cao-Dĩ là cái kho vô tận chăng?
Giáo-sư bảo:
- Đưa mũ đây ta xem.
Cao-Dĩ cố giữ mũ lại, nhưng người ta giật lấy và đưa cho
Giáo-sư, Giáo-sư gọi lấy đèn và nhìn những vật nhét ở lườn mũ. Lúc đó, mặc dầu
chúng tôi đang ở trong cảnh buồn, nhưng cũng được một phút giải trí.
Giáo-sư lần lượt lấy ra: một cái tẩu, một hộp thuốc lá, một
cái chìa khóa, một miếng dồi, một hộp đào khoét thành sáo, mấy cái que đánh
chuyền bằng xương cừu; ba trái bồ đào, một củ hành. Không phải là cái mũ, đó là
tủ đồ ăn, cái kho thập vật.
- Bánh và dồi sẽ để cho em và Lê-Minh ăn chiều nay.
Cao-Dĩ nói, giọng buồn rầu.
- Nhưng tôi đói lắm. Tôi đói ngay bây giờ.
- Chiều nay, em sẽ đói hơn.
- Chán quá, trong cái kho thập vật của em bé này không có đồng
hồ. Chúng ta không biết giờ! Đồng hồ tôi cũng chết rồi!
Chiếc đồng hồ ông An-Thanh cho tôi cũng bị ngấm nước rồi!
Ý tưởng về đồng hồ đã đưa chúng tôi về thực cảnh. Mấy giờ rồi?
Chúng tôi ở trong hốc này đã bao lâu rồi? Người ta hỏi nhau, nhưng mỗi người một
ý. Người này bảo đúng trưa. Người khác bảo 6 giờ tối. Theo giờ trên thì chúng
tôi bị giam độ 5 giờ. Theo giờ dưới thì những 11 giờ, thành ra họ cãi nhau,
không biết ai nói đúng.
Một lúc lâu, chuyện vãn, chúng tôi ngồi im, ai nấy đều trầm lự.
Các bạn tôi đang nghĩ gì, tôi không biết. Về phần tôi, tôi thấy
buồn quá. Mặc dầu Giáo-sư vẫn quả quyết, tôi không tin rằng mai mốt sẽ thoát nạn.
Tôi sợ nước, sợ bóng tối, sợ chết. Sự im lặng làm tôi ghê người. Vòm hang mỗi
ngày mỗi đè trĩu trên đầu tôi.
Thế là không bao giờ tôi lại được trông thấy Lệ-Hoa, Yến-Chi,
An-Sinh, và Bằng-Mai. Ai sẽ thay tôi làm liên lạc? Tôi cũng không được nhìn thấy
bà Mỹ-Lưu, cậu An-Tuyên, bạn Mã-Tư và con Lãnh-Nhi nữa! Không biết rồi đây Lệ-Hoa
có hiểu rằng tôi chết vì cô không? Còn bà Bảo-Liên, mẹ nuôi tôi nữa! Bao giờ lại
gặp để trả ơn bà? Lòng tôi ngổn ngang những nỗi lo lắng, đau thương.
Tôi nhìn các bạn tôi, người nào cũng ủ rũ như tôi. Tuy nhiên,
họ quen đời sống ở mỏ, thiếu ánh sáng, thiếu khí trời, thiếu tự do, đất lúc nào
cũng đè trĩu trên vai nên về thể xác họ có phần bớt đau khổ hơn tôi.
Chợt trong khoảng yên lặng, tiếng An-Thiện đưa lên:
- Theo ý tôi, dễ thường người ta chưa bắt đầu vào việc cứu
ta?
- Tại sao anh lại nghĩ như thế?
- Tôi không nghe thấy tiếng động gì cả.
- Cả thành phố bị sụt vì động đất rồi!
- Hoặc ở trên ấy người ta tưởng chúng ta chết hết cả rồi nên
không nghĩ đến việc cứu cấp nữa.
- Thế nghĩa là người ta bỏ rơi chúng ta?
Giáo-sư nói:
- Sao lại cả tin lời bạn anh thế? Không được buộc tội cho họ.
Anh nên biết rằng: một khi xẩy ra một tai nạn, thợ mỏ không bao giờ bỏ nhau. Mười
người, một trăm người thà chịu chết còn hơn là bỏ một người mà không cứu. Anh
có biết điều đó không?
- Chính thế.
- Nếu chính thế, sao anh lại bảo người ta bỏ anh?
- Vì chúng tôi không nghe thấy gì.
- Chúng ta không nghe thấy gì, thật đấy. Nhưng ở đây liệu ta
có thể nghe được không? Ai thính tai? Chứ tôi thì kém. Nếu khi chúng ta có thể
nghe được và thấy rằng người ta không làm việc, thì ta có thể nói quyết rằng
người ta bỏ chúng ta không? Chúng ta có biết nguyên do cái tai họa đó ở đâu ra
không? Nếu là một cuộc động đất thì người ta còn phải cứu những người còn sống
sót trong thành phố chứ. Nếu là một trận lụt như tôi đã đoán, thì người ta xem
tình trạng các lò đã. Những lò có thể lở hầm. Hầm nhà đèn cũng có thể sụt được.
Cần phải có thì giờ mới tổ chức cuộc cấp cứu được. Tôi không nói rằng chúng ta
được cứu thoát. Nhưng tôi nói rằng người ta sẽ làm việc để cứu chúng ta.
Giọng nói cương quyết của Giáo-sư khiến những người hoài nghi
hay những người nhút nhát cũng phải yên trí.
Tuy nhiên, Bảy-Nhu vẫn chưa chịu, hỏi:
- Nếu người ta tưởng chúng ta chết cả rồi thì sao?
- Người ta vẫn tiến hành. Nếu sợ người ta tưởng chúng ta chết
rồi thì chúng ta tìm cách tỏ cho người ta biết là chúng ta vẫn còn sống. Chúng
ta nên đập mạnh vào vách đá, vì tiếng động có thể truyền qua đất được. Nếu người
ta nghe thấy, người ta sẽ làm gấp và tiếng động của ta sẽ chỉ lối cho họ tìm.
Bảy-Nhu, chân đi đôi bốt to tướng, đá mạnh vào vách cồm cộp
như kiểu những người thợ mỏ thường gọi nhau. Tiếng gõ đó và nhất là lòng mong đợi
làm cho chúng tôi tỉnh táo đôi chút. Người ta có nghe thấy không? Người ta có
trả lời chúng tôi không?
An-Thiện nói:
- Giáo-sư ơi! Nếu người ta nghe biết chúng ta, thì người ta sẽ
làm thế nào để cứu chúng ta?
- Chỉ có hai cách. Tôi tin rằng các Kỹ sư trên ấy thế nào
cũng phải dùng đến: một mặt đào những hố sâu cho tới chỗ chúng ta, và một mặt
múc hết nước trong hầm đi.
- Đào hố ư?
- Múc nước ư?
Giáo-sư không để ý đến những câu hỏi đó và nói tiếp:
- Chúng ta ở cách mặt đất 40 mét, phải không? Mỗi ngày đào được
6 hay 8 mét thì phải 7 hay 8 ngày mới đến chỗ chúng ta.
- Người ta không thể đào mỗi ngày 6 mét được.
- Lúc thường thì không, nhưng cấp cứu người ta có thể gắng
làm được.
- Giáo-sư ơi! Sống làm sao được trong 8 ngày? Nhịn ăn 8 ngày?
- Thế còn nước thì tát thế nào?
- Còn nước, ta không biết. Phải biết hiện giờ trong mỏ có bao
nhiêu mét khối nước, 200.000m3 hay 300.000m3 thì mới tính được. Tuy nhiên, muốn
đến chỗ ta, người ta không cần múc hết nước trong hầm, vì chúng ta ở tầng thứ
nhất. Người ta có thể múc nước ở ba lò trong một lúc. Một lò lúc bằng hai cái
thùng chở than. Như thế, mỗi lần múc 6 thùng, mỗi thùng đựng được 25 héc-tô-lít
hay 2.500 lít nước, vị chi là 150 héc-tô-lít hay 15.000 lít đổ ra ngoài. Như vậy,
lợi thì giờ hơn là đào hố. Các bạn nghĩ có phải không?
Mọi người bàn cãi về hai phương pháp giải cứu nói trên. Tôi
nghe ra thì nếu người ta dùng cả hai phương tiện đó, không gặp ngăn trở, ít nhất
chúng tôi cũng phải nằm dưới mả 8 ngày.
Tám ngày! Giáo-sư có kể chuyện một bọn thợ mỏ bị vùi dưới mỏ
24 ngày không chết. Nhưng đó là một câu chuyện cổ tích. Còn chúng tôi đây mới
là câu chuyện thật. Không biết sau 8 ngày chúng tôi có được lên mặt đất không?
Óc tôi cứ bề bộn về ý nghĩ đó không biết mất bao nhiêu thì giờ.
Chợt Cao-Dĩ kêu:
- A! Các ông thử nghe xem!
Cao-Dĩ vốn đần độn như một con vật, nhưng lại có cái năng khiếu
của loài vật phát triển hơn chúng tôi: hắn nghe rất tinh.
- Cái gì thế?
- Có tiếng gì ở dưới nước.
- Em làm rơi hòn đá chứ gì?
- Không. Có tiếng lờ mờ.
Chúng tôi lắng nghe. Tôi rất thính tai nhưng chỉ nghe trên đời
thôi. Ở dưới đất tôi chẳng nghe thấy gì. Các bạn tôi quen nghe tiếng động trong
mỏ, tỏ vẻ sung sướng và mừng rỡ hơn tôi.
Giáo-sư nói:
- Phải, có cái gì động xuống nước.
- Cái gì thế?
- Tôi không biết.
- Nước chảy xuống chăng?
- Không, tiếng động đó không liên tục, nghe ình ịch, cách khoảng
rất đều.
- Nghe ình ịch và rất đều à? Các bạn ơi! Chúng ta sống rồi!
Đó là những thùng múc nước đấy!
- Thùng múc nước!
Như bị điện giật, chúng tôi cùng nói thế và cùng đứng dậy một
loạt.
Chúng tôi không còn ở sâu 40 mét nữa. Không khí không đặc nữa.
Tiếng ù trong tai cũng mất. Chúng tôi thở dễ dàng. Trái tim chúng tôi lại nhảy
đều trong ngực!
Cao-Dĩ nắm tay tôi và bóp mạnh.
Anh bảo tôi:
- Anh là người tốt.
- Không phải. Chính anh.
- Tôi nói rằng anh là người tốt.
- Nhưng chính anh đã nghe thấy tiếng thùng nước đều tiên.
Anh hết sức đổ cho tôi là người tốt. Anh chếch choáng như người
say rượu. Mà thực ra tất cả mọi người trong chúng tôi đều say sưa về hy vọng.
Nhưng cái hy vọng đó làm gì đã được thành tựu sớm thế?
Trước khi lại được nhìn thấy tia nắng ấm của mặt trời, trước
khi lại được nghe thấy tiếng gió rì rào trong đám lá xanh, chúng tôi còn phải ở
trong ngục tối qua những ngày dằng dặc và sầu bi, chịu tất cả những thống khổ,
lúc nào cũng nghĩ không biết có còn sống được để trông thấy ánh sáng trên đời
và nghe thấy cái âm thanh êm ái kia không?
Bây giờ, để độc giả biết rõ cái tai họa ghê gớm xảy ra ở mỏ
Thụy-Khê, tôi xin kể lại nạn đó đã diễn ra như thế nào và những phương tiện các
Kỹ sư đã dùng để cứu chúng tôi.
Sáng hôm ấy, thứ hai, khi chúng tôi xuống mỏ, bầu trời u ám
và có dấu hiệu báo trước là sắp có cơn dông. Đến bảy giờ, dông tố nổi lên và
mưa như trút nước. Những đám mây đen và thấp kéo vào thung lũng ngoắt ngéo của
sông Đinh-Giang, rồi bị vướng hãm trong vòng đồi. Mây không lên cao được, có
bao nhiêu nước trút hết xuống thung lũng. Không phải mưa rào nữa, là một cái
thác, là một Đại-Hồng-Thủy. Chỉ trong mấy phút, nước sông Đinh-Giang và các phụ
lưu sông ấy đều lên to. Điều này rất dễ hiểu, vì đất toàn đá và dốc nước không
những không ngấm đi đâu được, lại chảy rất nhanh vào sông. Thình lình nước sông
đầy lên đến bờ. Mà các suối An-Khê và Thụy-Khê cũng đầy tràn cả.
Bị nước lũ ở sông Đinh-Giang dồn lại, dòng Thụy-Khê không còn
chỗ thoát, tràn lan ra khắp vùng mỏ rất nhanh chóng. Những thợ giữ việc rửa quặng
nghỉ ngay nên không bị nguy hiểm gì cả.
Không phải lần thứ nhất mà miền Thụy-Khê bị lụt, người ta yên
trí như mọi khi các cửa lò đã khơi cao, không sợ nước mưa chảy xuống, nên người
ta chỉ để ý đến việc thu gọn những đống gỗ đã xẻ sẵn dùng vào việc ghép đường hầm.
Đang lúc Kỹ sư đốc thúc việc này bỗng thấy nước xoáy xuống một cái vực sâu mà
nó vừa đào. Vực sâu này ở ngay chỗ mạch than nổi gần mặt đất.
Không phải nghĩ ngợi gì, Kỹ sư hiểu ngay: nước đã phá đất và
chảy xuống hầm. Mực nước ở ngoài rút dần đi, khắp mỏ sắp bị ngập, thợ thuyền sắp
chết hết.
Kỹ sư chạy đến lò Thánh Duy-Liên ra lệnh cho người ta thả Kỹ
sư xuống lò. Khi sắp bước chân vào thùng, Kỹ sư nghe thấy một tiếng động kinh
khủng ở dưới hầm mỏ: đó là tiếng thác đổ.
Những thợ chung quanh giữ Kỹ sư lại và nói:
- Kỹ sư đừng xuống nữa!
Nhưng Kỹ sư dứt ra, móc ở túi gi-lê ra một chiếc đồng hồ quả
quít đưa cho một người đứng gần đó và bảo:
- Anh cầm lấy và đưa cho con gái tôi nếu tôi không trở lại nữa.
Rồi Kỹ sư ra lệnh cho người kéo trục:
- Thả cho tôi xuống! Mau!
Thùng từ từ xuống, Kỹ sư ngửa lên và bảo thêm người giữ đồng
hồ rằng:
- Anh bảo giúp rằng tôi hôn nó.
Thùng xuống đáy lò, Kỹ sư gọi to, năm người thợ mỏ chạy ra, Kỹ
sư bảo vào cả thùng. Trong khi thùng kéo những người này lên, Kỹ sư lại cố sức
gọi to hơn nhưng vô ích vì tiếng nước chảy và tiếng đất sụt át đi.
Lúc đó, nước đã vào hầm, Kỹ sư trông phía trước mặt thấp
thoáng có mấy ngọn đèn, Kỹ sư lội nước đến đầu gối, tới chỗ đó và dắt được ba
người ra. Thùng lại thả xuống, Kỹ sư cho ba người ngồi vào rồi lại toan chạy đến
chỗ xa xa có ánh sáng. Nhưng những người vừa được Kỹ sư cứu, lôi tuột Kỹ-sư vào
thùng và ra hiệu kéo lên. Vừa khéo! Thùng vừa nhắc lên thì nước chiếm đầy hầm.
Cách cứu bằng thùng không được nữa rồi. Phải tìm cách khác!
Cách nào? Chung quanh Kỹ-sư, hầu như chẳng còn ai nữa. Một trăm rưỡi người thợ
đã xuống hầm vì sáng nay một trăm rưỡi cái đèn đã được phân phát. Thế mà chỉ có
30 cái đèn đem về trả cho nhà đèn thôi. Như vậy còn 120 người bị giữ ở dưới mỏ.
Họ còn sống? Hay họ chết? Họ có tìm được chỗ lánh không? Những câu hỏi đó làm
loạn óc Kỹ-sư đang lo lắng hãi hùng.
Trong lúc Kỹ-sư đang lo cho số phận một trăm hai mươi mạng
người mắc nạn thì đây: đất và đá bắn tung lên, nhà cửa rung chuyển như động đất.
Hiện tượng đó, Kỹ-sư đã đoán ngay ra. Đó là khí ghi-du và không khí bị nước dồn
ép vào những hốc kín và ở dưới một lớp đất mỏng nên tức hơi nổ tung vỏ đất ra,
khác nào như cái thành nồi súp-de bị nổ. Mỏ đầy nước rồi! Cái thảm họa đã bày
ra trước mắt.
Tin dữ này đã bay khắp vùng Văn-Xá rất chóng. Tứ phía người
ta kéo đến mỏ Thụy-Khê: thợ thuyền, những người tò mò, và nhất là những vợ, những
con các nạn nhân. Họ đến tìm và hỏi. Những người có trách nhiệm không biết trả
lời thế nào, họ càng bực tức và đau đớn. Người ta dấu sự thực. Đó là lỗi ở Kỹ-sư.
Giết chết Kỹ-sư đi! Giết chết nó đi! Họ định tràn vào phá văn phòng Kỹ-sư. Lúc
đó Kỹ-sư đang cúi xuống bản đồ, chẳng nghe thấy gì, đang tìm xem những chỗ nào
thợ mỏ may ta đã trú ẩn được và phải cứu họ bằng cách gì?
May sao, những Kỹ-sư và thợ thuyền các mỏ gần đấy cũng chạy đến,
người ta đã ngăn giữ được đám người toan bạo động và giải thích cho họ nghe.
Nhưng giải thích thế nào cho ổn? Một trăm hai mươi con người thiếu mặt! Bây giờ
họ ở đâu?
- Cha tôi đâu?
- Chồng tôi đâu?
- Trả con tôi đây!
Tiếng hỏi chen tiếng khóc. Người ta biết trả lời thế nào cho
những người con, những người vợ và những người mẹ khốn nạn ấy?
Các Kỹ-sư họp bàn và đã trả lời vắn tắt:
- Để chúng tôi tìm. Chúng tôi liều làm thử.
Thế rồi công cuộc cấp cứu bắt đầu.
Liệu có thể tìm được một người sống sót trong đám 120 người
đó chăng?
Phần không chắc thì nhiều mà phần hy vọng thì ít. Nhưng có cần
chi? Cứ việc tiến!
Công cuộc cấp cứu tổ chức đúng như lời Giáo-sư phỏng đoán. Những
thùng múc nước được đặt ở ba lò và người ta làm ngày làm đêm cho đến giọt nước
cuối cùng được trả vào sông Đinh-Giang.
Đồng thời, người ta bắt đầu đào những đường hầm. Đào ngả nào?
Từ chỗ nào? Người ta cũng không biết rõ. Đào phỏng chừng và cứ việc đào.
Ý kiến bất đồng xảy ra giữa những Kỹ-sư về việc đào hầm thế
nào cho đúng chỗ các nạn nhân sống sót. Nhưng Kỹ-sư mỏ Thụy-Khê quả quyết rằng
thợ của Kỹ-sư có thể trốn lên các hầm cũ, chỗ đó nước không tới được và nhất định
đào một đường thẳng xuống chỗ đó dù không tìm thấy một người nào.
Con “đường hang chuột” này đào hết sức hẹp lòng để khỏi mất
nhiều công và nhiều thì giờ. Vì thế chỉ dùng một người thợ cuốc xuống đào, than
vụn cuốc ra lần lượt được kéo lên bằng một cái rổ có dây thòng xuống. Người thợ
này mệt, người thợ khác xuống thay ngay.
Cứ luôn tay như thế, ngày cũng như đêm, người ta làm không
nghỉ, không ngừng, ở cả hai nơi: múc nước và đào hang.
Thì giờ đã dài cho những người làm việc bên trên thì lại càng
dài cho chúng tôi ở dưới đất không biết bao nhiêu. Chúng tôi bị giam cầm và phải
bó tay đành chịu chờ người đến cứu vớt mà thôi. Tiếng thùng múc nước xa vẳng
bên tai không làm cho chúng tôi mừng cuống như lúc ban đầu nữa. Biết rằng chúng
tôi không bị bỏ rơi, người ta đi tìm chúng tôi, chúng tôi hy vọng thực, nhưng
nghĩ không biết đến bao giờ nước mới múc hết, nên chúng tôi buồn nản quá.
Cái thống khổ về tinh thần bây giờ lại liên kết cái thống khổ
về vật chất. Ngồi gò bó mãi trên cái bậc hẹp, thân thể chúng tôi tê dại và đầu
óc chúng tôi thấy nhức nhối, nặng nề.
Trong bọn chúng tôi duy có Cao-Dĩ là người không chịu đựng được
hơn cả.
Thỉnh thoảng Cao-Dĩ lại kêu:
- Giáo-sư ơi! Tôi đói lắm! Xin Giáo-sư miếng bánh!
Sau cùng, Giáo-sư phải lấy ở cái mũ da rái cá ra một mẩu bánh
và phân phát cho Cao-Dĩ với tôi.
Cao-Dĩ ăn xong lại kêu:
- Còn đói lắm.
- Phải ăn dè sẻn cho được lâu.
Còn những bạn khác nếu được tí bánh thì sung sướng lắm đấy,
nhưng họ đã thề và quyết giữ lời thề.
Tư-Cổn nói:
- Nếu tôi không được ăn, thì tôi vẫn được phép uống nước chứ?
- Về khoản này, tha hồ. Nước có rất nhiều, muốn uống bao
nhiêu thì uống.
- Múc ở hầm lên.
Ba-Điền muốn lội xuống, nhưng Giáo-sư không cho phép:
- Anh sẽ làm lở vỉa bậc. Lê-Minh người nhẹ và khéo hơn, xuống
lấy nước cho chúng ta.
- Bằng cái gì?
- Bằng chiếc giầy ống của ta.
Người ta liền trao cho tôi một chiếc ủng, tôi sửa soạn tụt xuống
nước. Giáo-sư nói:
- Khoan đã. Đưa tay cho ta giữ.
Giáo-sư đừng ngại. Con biết bơi.
- Cứ để ta giữ tay cho chắc.
Khi Giáo-sư vừa bước ra, hoặc vì chân bị tê cóng, hoặc vì bước
hụt hay vì đất lở, Giáo-sư lộn nhào xuống nước. Chiếc đèn Giáo-sư xách ở tay
cũng theo Giáo-sư xuống vực sâu.
Tự nhiên tối mò, mọi người đều kêu lên. May sao lúc đó tôi đã
tụt được xuống nước. Ngày tôi theo ông Vỹ-Tiên, tôi tập bơi, lặn rất khá, cử động
dưới nước cũng dễ dàng như ở trên cạn. Nhưng ở trong cái vũng tối như mực này
thì biết xoay xở làm sao?
Tôi không nghĩ đến nỗi khó khăn này khi tôi tụt xuống, tôi chỉ
nghĩ đến cái chết của Giáo-sư mà tự nhiên tôi lội xuống như thiên tính của giống
chó Tân-Địa (hay cứu người chết đuối). Tìm Giáo-sư ở chỗ nào? Quờ tay ra phía
nào? Lặn thế nào? Tôi đang bối rối bỗng một bàn tay co rúm bám lấy vai tôi và
kéo tôi chìm xuống. Tôi đạp mạnh một cái ngoi lên mặt nước, bàn tay kia vẫn bíu
cánh tay tôi.
- Giáo-sư nắm chặt lấy tay tôi và ngửa đầu lên. Không sợ!
Không sợ! Nhưng biết bơi vào phía nào? Tôi vụt có một ý nghĩ,
tôi kêu:
- Các bạn ơi! Nói lên!
- Lê-Minh ở đâu!
Tôi nhận ra tiếng An-Thiện. Tôi bơi về phía tay trái.
- Thắp đèn lên!
Lập tức, một ngọn lửa bật lên. Tôi chỉ có việc bơi một sải là
tới bờ. Một tay tôi bám vào một mẩu than, một tay tôi kéo ông vào. Ông đã uống
nước nhiều, nhưng còn tỉnh.
An-Thiện và Cao-Dĩ cúi xuống giơ tay đón chúng tôi. Còn Ba-Điền
cầm đèn soi. An-Thiện và Cao-Dĩ mỗi người cầm một tay kéo Giáo-sư mà tôi thì đẩy
bên dưới. Khi Giáo-sư đã lên được rồi, tôi mới bắt đầu leo lên. Lúc đó Giáo-sư
đã tỉnh hẳn.
Giáo-sư gọi tôi:
- Minh ơi! Lại đây cho ta hôn. Con đã cứu sống ta.
- Chính Giáo-sư đã cứu sống tất cả chúng tôi.
Cao-Dĩ vốn ít tình cảm và chỉ nghĩ đến mình, nói:
- Rút lại chỉ có mình tôi bị thiệt mất chiếc giầy mà không được
ngụm nước nào!
- Để tôi xuống tìm giầy anh.
Nhưng mọi người đều nắm tôi lại.
Giáo-sư nói:
- Ta cấm con không được xuống tìm.
- Vậy, cho tôi xin chiếc khác để lấy nước.
Tư-Cổn nói:
- Tôi không khát nữa.
- Nhưng để uống mừng sức khỏe Giáo-sư?
Rồi tôi xuống nước lần thứ hai, rất thong thả và cẩn thận hơn
lần trước.
Tuy thoát chết đuối, nhưng Giáo-sư và tôi tới khó chịu vì ướt
át từ chân đến đầu. Lúc mới chúng tôi không nghĩ đến đều đó, nhưng bây giờ quần
áo ẩm làm chúng tôi thấy lạnh.
Giáo-sư nói:
- Nên nhường cho Lê-Minh một cái áo cánh.
Không ai trả lời cả vì lời kêu gọi kia không chỉ định ai và bắt
buộc ai.
- Không ai trả lời?
Cao-Dĩ nói:
- Tôi cũng rét.
- Thế chúng tôi bị ướt, chúng tôi nóng hơn hay sao?
- Còn các bạn khác nữa cũng không bị ngã.
Giáo-sư nói:
- Nếu vậy, phải rút thăm xem ai phải nhường áo. Về phần tôi,
tôi không cần đến. Nhưng tôi kêu gọi sự đồng đều.
Vì tất cả bọn chúng tôi cũng đã lội đến thắt lưng, tôi đến cổ,
nên việc đổi áo cũng không có lợi gì. Tuy nhiên Giáo-sư bảo thủ ý kiến và sau
khi rút thăm, tôi được mặc áo của Tư-Cổn. May sao, Tư-Cổn có đôi chân cao bằng
đầu tôi, nên chiếc áo còn khô nguyên.
Được chiếc áo ấm, tôi bắt đầu dễ chịu.
Cái nạn bất kỳ vừa rồi đã làm cho chúng tôi xáo động trong một
thời gian. Sau đó im lặng lại hoàn im lặng. Ai cũng lo cái chết. Có lẽ mọi người
lo hơn tôi nên cứ tỉnh thức trong cơn âu sầu, còn tôi, tôi ngủ lúc nào không biết.
Chỗ tôi nằm cheo leo, dễ lăn lắm. Thấy thế, Giáo-sư đưa cánh
tay ôm lấy đầu tôi, không khít lắm, đủ giữ cho tôi khỏi ngã. Tôi ngả đầu trên
đùi Giáo-sư như đứa trẻ gối trong lòng mẹ. Thực là một người có trí sáng suốt
và nhân từ. Khi tôi cựa mình, Giáo-sư thay chiều cho cánh tay khỏi tê rồi lại
ngồi im. Giáo-sư nói nhỏ:
- Con ơi! Ngủ đi. Không sợ ngã. Đã có ta giữ. Ngủ đi, con!
Rồi tôi lại ngủ, yên trí đã có người bảo vệ cho tôi.
Thì giờ đi chậm nhưng vẫn đi và tiếng thùng múc nước vẫn đều
đều.
Chương XXVII
cuộc cứu vớt
Mỗi ngày, chúng tôi thấy bực dọc quá với các bậc hẹp của
chúng tôi. Chúng tôi đồng ý khơi rộng bậc ra và mỗi người lại phải bắt tay vào
việc. Chúng tôi lại dùng dao moi than và vứt xuống nước. Vì đã có chỗ đứng vững
để xoay xở, nên việc làm không khó nhọc lắm. Không bao lâu chúng tôi khoét rộng
được cái nhà giam của chúng tôi. Dễ chịu biết bao nhiêu khi chúng tôi được nằm
dài và được duỗi thẳng chân không phải ngồi co, tê cả đùi như trước.
Chiếc bánh của Cao-Dĩ dù chia dè sẻn thế nào rồi cũng phải hết.
Mẩu bánh cuối cùng đã phân phát cho chúng tôi kịp thời, vì khi Giáo-sư đem cho
chúng tôi, con mắt mọi người thợ cuốc cứ nhìn trừng trừng, tôi nhận thấy nếu
còn bánh phát lần nữa, thế nào họ cũng không để yên, họ sẽ đòi ăn và cứ lấy phần.
Chúng tôi dần dần chẳng buồn nói chuyện nữa. Lúc mới bị nạn
nói nhiều bao nhiêu thì bây giờ im lặng bấy nhiêu. Có nhắc đến chăng thì cũng
chỉ hai vấn đề đã nói mãi: họ làm thế nào để xuống tới đây và chúng tôi đã bị
giam trong bao lâu rồi?
Nhưng, những câu chuyện này cũng không được bàn cãi hăng hái
như trước. Có ai lên tiếng, tiếng đó không người hưởng ứng hay được trả lời bằng
một câu vắn tắt. Người ta có thể bảo đêm là ngày, bảo đen là trắng, mà cũng chẳng
ai bực tức và phản đối, chỉ nói cho xuôi:
- Được, để xem.
Chúng tôi bị chôn vùi đã hai ngày hay sáu ngày? Khi nào có
người đến cứu? Có chắc không? Tôi bắt đầu nghi ngờ.
Chẳng riêng một tôi, thỉnh thoảng một bạn tôi cũng thốt ra những
lời chán nản.
Bảy-Nhu nói:
- Có điều an ủi tôi là: nếu tôi chết ở đây, Công ty sẽ phải
trợ cấp cho vợ con tôi, không đến nỗi phải vào nhà Tế Bần.
Giáo-sư lãnh trách nhiệm đoàn trưởng, không những có bổn phận
bảo vệ chúng tôi để chống với tai họa mà còn bảo vệ chúng tôi để chống với
chúng tôi nữa. Vì thế, khi thấy ai tỏ ra chán nản, Giáo-sư liền can thiệp bằng
một câu khích lệ:
- Anh không phải ở đây lâu đâu! Thùng nước múc luôn luôn. Nước
phải xuống.
- Nước xuống ở đâu?
- Ở những lò.
- Còn các hầm?
- Cũng sẽ đến lượt. Ta phải đợi.
Cao-Dĩ nói:
- Ông Bảy-Nhu ơi! Giáo-sư nói cái gì cũng hay cả. Nếu Công ty
này mà phá sản như Công ty của Giáo-sư ngày trước, có phải vợ ông bị người ta
bóc lột hết không?
- Im mồm! Mày ngu lắm! Công ty rất giầu.
- Công ty chỉ giầu khi còn mỏ. Một khi mỏ chìm dưới nước thì
còn gì nữa? Nếu tôi ở trên đất trông thấy thế này, tôi rất thích!
- Bởi vì…?
- Các Giám đốc và Kỹ-sư kiêu hãnh lắm! Bây giờ thực là một
bài học cho họ. Nếu Kỹ-sư hôm đó cũng xuống mỏ nhỉ, thực là buồn cười! Thưa Kỹ-sư,
ngài có mang địa bàn không?
- Đồ ngu! Nếu Kỹ-sư có xuống nữa, mày cũng phải ở đây. Chúng
ta cũng thế.
- Thưa các vị, các vị có thể yên tâm được. Tôi thì khác. Ai
phơi hạt dẻ cho tôi? Lúc đó, tôi mời Kỹ-sư lên cho. Kính chào ngài Kỹ-sư!
Giáo-sư lúc nào cũng trấn tĩnh, không để lộ vẻ lo buồn. Còn
Cao-Dĩ thì chẳng biết gì. Riêng chúng tôi, ai cũng lo lắng. Hễ nói đến chuyện đợi
cứu là y như những tiếng “chết”, tiếng “bỏ rơi” lại nổi lên tự đáy lòng đưa lên
cửa miệng.
- Giáo-sư ơi! Hão lắm! Lấy thùng mà múc thì đến đời nào hết
nước?
- Tôi đã tính cho anh nghe mãi rồi thôi. Hãy gắng đợi.
- Những bài tính không cứu ta ra khỏi hầm được.
Ý nghĩ này là của Ba-Điền.
- Ai cứu được?
Giáo-sư đáp:
- Có thể lắm. Nếu Thượng-Đế thương. Người có thể cứu vớt
chúng ta.
- Chúng ta bị nạn này, chắc vì trong bọn chúng ta có những
người độc ác mà trời muốn phạt.
Bảy-Nhu nói:
- Phải đấy. Thượng-Đế muốn cho một người trong bọn ta có dịp
để chuộc lỗi, để đền tội. Có phải Ba-Điền không? Tôi không biết về phần tôi,
tôi có thể nói được rằng những ngày gần đây tôi ăn ở không được ngoan đạo lắm,
bây giờ lương tâm tôi cắn rứt, tôi dốc lòng cầu nguyện Thượng-Đế tha thứ cho
tôi.
Nói xong Bảy-Nhu quỳ xuống và tự đánh vào ngực.
Ba-Điền kêu:
- Còn tôi, tôi không dám nói rằng tôi không có tội lỗi gì
trong lương tâm, tôi xin xưng với các bạn như thế. Nhưng Thiên thần hộ mệnh, và
Thánh Giăng, thần bổn mệnh của tôi, đều soi xét cho rằng không bao giờ tôi chủ
tâm làm xằng và tôi không hề có lỗi với ai cả.
Tôi không hiểu đó có phải là cảm ứng của ngục tối, của cái chết
sắp đến, của cái đói dày vò, của ánh sáng huyền bí đang chập chờn kia gây nên
hay không, nhưng khi thấy hai người vừa công khai xưng tội, lòng tôi rung động
và cảm xúc, bất giác tôi cũng quỳ xuống cạnh Bảy-Nhu, Ba-Điền và cùng xưng tội
với họ. Thình lình sau lưng tôi có tiếng khóc, tôi quay lại, thấy Tư-Cổn lù lù
ngồi vật xuống đất. Tư-Cổn nói:
- Người tội lỗi không phải là Ba-Điền, không phải là Bảy-Nhu.
Người tội lỗi đó chính là tôi. Chính là vì tôi mà trời phạt, nhưng tôi đã biết
hối hận rồi, hối hận lắm. Đây là sự thực, xin các bạn hãy nghe cho, nếu tôi
thoát khỏi chỗ này mà về được, tôi sẽ tìm cách chuộc tội. Nếu vạn nhất tôi
không về được, xin các bạn chuộc tội cho tôi. Cách đây một năm, Duy-Quế bị 5
năm tù về tội ăn trộm chiếc đồng hồ của một người tên Vi-Đan, để ở trong buồng.
Duy-Quế bị tù oan. Chính tôi đã lấy trộm. Chiếc đồng hồ đó hiện giấu ở dưới giường
của tôi, nhắc viên gạch vuông thứ ba về phía bên trái lên thì tìm thấy.
Ba-Điền và Bảy-Nhu đồng kêu lên:
- Quẳng nó xuống nước đi! Quẳng nó xuống nước đi!
Giáo-sư vội can thiệp:
- Không được! Nếu các anh muốn quẳng Tư-Cổn xuống nước thì
xin quẳng tôi xuống trước.
Hai người kia nói:
- Nếu Giáo-sư không cho tôi đẩy nó xuống nước thì chúng tôi
xin một điều kiện: cho nó ngồi riêng ra một chỗ, không ai được nói chuyện với
nó và cũng không ai được săn sóc đến nó.
Giáo-sư nói:
- Như vậy thì được, vì nó đáng tội đó.
Sau lời tuyên án của Giáo-sư, chúng tôi, ba người An-Thiện,
Giáo-sư và tôi, ngồi xít lại với nhau, để cách một khoảng trống giữa chúng tôi
và tội nhân, hắn nằm gục trên đám than.
Trong bao nhiêu giờ, hắn nằm gục như thế, đau khổ và không cựa
cạy, thỉnh thoảng lại kêu:
- Tôi hối hận rồi!
Ba-Điền và Bảy-Nhu mắng:
- Đã muộn rồi! Bây giờ sợ chết mày mới hối hận, đồ hèn! Đáng
lẽ mày phải hối hận từ sáu tháng, từ một năm nay rồi!
Hắn vừa hổn hển vừa nhắc lại những câu trước như để trả lời:
- Tôi hối hận rồi! Tôi hối hận rồi!
Hắn phát sốt, vì thân thể hắn run run, và hai hàm răng hắn lập
cập.
Hắn kêu:
- Tôi khát lắm. Cho tôi chiếc giầy.
Nhưng chiếc giầy hết nước rồi. Tôi liền đứng dậy để lấy nước
cho hắn. Nhưng Ba-Điền trông thấy bảo tôi ngồi im và An-Thiện cũng giữ tay tôi
lại.
Ba-Điền nói:
- Người ta đã thề không săn sóc đến nó.
Tư-Cổn cứ lải nhải kêu khát mãi.
Cuối cùng hắn bò dậy tự múc nước lấy.
Ba-Điền kêu:
- Nó làm lở hết chỗ ngồi bây giờ!
Giáo-sư nói:
- Nên cho nó được tự do một chút.
Tư-Cổn đã nhìn thấy tôi tụt xuống nước đằng lưng, hắn cũng bắt
chước làm như thế. Nhưng tôi nhẹ mà hắn nặng. Tôi mềm mại mà hắn vụng về, nên
khi hắn vừa để chân xuống thì mẩu than sụt, hai tay hắn quờ quạng trong không
khí, hắn lăn tòm xuống vực sâu, nước bắn tóe lên chỗ chúng tôi ngồi. Mặt nước
khép lại và không mở ra nữa.
Tôi vội cúi ra phía trước, nhưng An-Thiện và Giáo-sư mỗi người
một bên nắm cánh tay tôi lôi lại.
Tôi rủn người và ngã vật về phía sau, khiếp sợ.
An-Thiện nói:
- Nó không phải là người lương thiện.
Ba-Điền lấy chân đá vào vách than mấy cái và nói:
- Bây giờ thì mọi việc đều tốt đẹp!
Nhưng mọi việc chưa được tốt đẹp như lòng Ba-Điền tin tưởng.
Đó không phải là lỗi các Kỹ-sư và bọn thợ đang tiến hành công cuộc giải cứu.
Người ta đã đào suốt ngày đêm không nghỉ, nhưng việc làm rất khó.
Người ta đang đào đến lớp than rất rắn mà thợ mỏ thường gọi
là “gân than”. Vả hầm đào lại hẹp chỉ vừa chỗ cho một người cuốc nên họ phải
luân phiên nhau làm việc. Xuống càng sâu, không khí càng khó thở. Người ta phải
đặt những ống bằng sắt tây để dẫn khí trời xuống. Một cái quạt tay gia sức thổi
không khí xuống… thế mà ngọn đèn chỉ cháy được ở gần miệng ống thôi. Vì những lẽ
đó, nên việc làm rất chậm. Đã 7 ngày đêm rồi mà người ta chỉ đào xuống được có
20 mét. Nếu là việc thường phải một tháng mới xong, nhưng trong trường hợp khẩn
cấp, mọi người đều hăng hái, cho nên kết quả có thể đạt sớm hơn được.
Công việc sở dĩ cứ tiến hành được là nhờ ở trí cương quyết của
Kỹ-sư, vì theo ý đại đa số việc làm đó rất vô ích. Tất cả những thợ bị chôn vùi
đều chết rồi. Chỉ nên múc hết nước bằng thùng rồi ngày một ngày hai, người ta sẽ
tìm đủ xác nạn nhân. Thế thì xuống hầm được sớm hơn hay chậm hơn một vài giờ có
quan hệ gì? Đó là ý kiến của những nhà có thẩm quyền cũng như toàn thể dân
chúng. Những cha mẹ, vợ con các nạn nhân đã để tang cả rồi. Quyết rằng không một
người nào lại sống sót được ở hầm mỏ Thụy-Khê.
Để ngoài tai những dị nghị của công chúng và những lời phê
bình của các bạn đồng nghiệp, Kỹ-sư không sờn lòng, khăng khăng cho đào đến
nơi.
Người ta thấy có ở Kỹ-sư một tính khí cương ngạnh và một lòng
tin mãnh liệt, đức tính quý báu đã giúp Kha-Luân-Bố tìm thấy Mỹ-châu.
Kỹ-sư hô hào đám thợ:
- Các bạn ơi! Còn một ngày hôm nay nữa thôi. Nếu ngày mai
không tìm thấy gì mới lạ, ta sẽ đình chỉ việc làm. Tôi chỉ yêu cầu anh em cho
các nạn nhân những điều mà tôi cũng sẽ yêu cầu cho chính anh em nếu anh em lâm
vào cảnh đó.
Lòng tin tưởng của Kỹ-sư đã thông cảm anh em thợ thuyền. Họ đồng
tâm, hiệp lực hoạt động không ngừng, nên hầm khoét mỗi ngày một sâu.
Về mặt khác, Kỹ-sư cho chống lại đường hầm ở nhà Đèn sụp đổ
nhiều chỗ, cố tìm mọi cách để khám phá xem dưới hầm còn có ai sống sót.
Ngày thứ bảy, một người thợ cuốc vừa thay phiên xuống đào,
nghe thấy tiếng lịch kịch nhè nhẹ như có người nện khẽ đâu đây. Đáng lẽ bỏ cuốc
xuống, nhưng người thợ đó cứ giơ cuốc lên rồi áp tai vào sườn than. Song còn ngờ
ngợ, người này gọi một người bạn nữa xuống để cùng nghe. Cả hai người đều im lặng
lắng tai nghe: một lúc sau có những tiếng đập xa xa đều đều, đến tai họ.
Tin này lập tức bay lên bờ. Người ta nửa tin, nửa ngờ. Kỹ-sư
được tin liền xuống xem hư thực.
Thì ra Kỹ-sư đã làm một việc hữu lý. Ở đó có những người sống
sót mà lòng tin của Kỹ-sư sắp cứu ra được. Nhiều người theo Kỹ-sư xuống chỗ
đào, Kỹ-sư rẽ đám thợ ra, dán tai vào sườn hầm. Nhưng vừa run run vừa cảm động,
Kỹ-sư chẳng nghe thấy gì.
Kỹ-sư thất vọng nói:
- Tôi không nghe thấy gì cả.
Một người thợ nói:
- Đó là tiếng ma mỏ làm ra. Nó muốn trêu ta, nó gõ để đánh lừa
ta.
Nhưng hai người thợ đầu tiên nhất quyết rằng họ không nhầm và
những tiếng gõ kia đã đáp lại tiếng gõ của họ. Đó là lời những người kinh nghiệm
ở mỏ nói ra nên cũng có một phần uy tín.
Kỹ-sư liền mời tất cả những người tùy tùng lên bờ, chỉ để hai
người thợ cuốc ở lại.
Lúc đó hai người lấy cuốc gõ mấy tiếng rất mạnh và cách khoảng
đều nhau, rồi ba người đều nín thở áp tai nghe. Đợi một lúc, cả ba người đều nhận
một rung động sâu xa trong trái tim họ. Đó là những tiếng nhẹ yếu nhưng dồn dập
và nhịp nhàng đã trả lời họ.
Kỹ-sư bảo hai người thợ mỏ:
- Các bạn gõ lại rất thong thả xem có phải đó là âm hưởng những
tiếng của ta không?
Hai người thợ cuốc lại gõ thì lại nghe thấy những tiếng nhỏ
và nhịp nhàng như trước nghĩa là những tiếng kêu gọi của những người bị vùi lấp.
Không còn nghi ngờ gì nữa: có những người còn sống sót thực
và người ta phải xúc tiến việc cấp cứu.
Lập tức tin này lan khắp thành phố như một cái ngòi dẫn thuốc
nổ và lôi cuốn đến mỏ Thụy-Khê, một đám dân chúng đông hơn và xúc động hơn ngày
đầu xảy ra nạn lụt. Vợ con, cha mẹ và thân thích những nạn nhân kéo đến, hy vọng
và hồi hộp trong bộ quần áo tang. Họ xôn xao:
“Sống sót được bao nhiêu người? Dễ thường nhiều lắm! Có cả chồng
bác, có cả con tôi nữa, chẳng sai!”
Người ta muốn chạy đến hôn Kỹ-sư. Nhưng thản nhiên trước tiếng
hoan hô cũng như trước lời la ó, Kỹ-sư chỉ nghĩ đến việc cấp cứu. Để ngăn những
người đến xem cũng như thân nhân các người bị nạn, Kỹ-sư phải nhờ lính ở đồn ra
giữ trật tự cho thợ có chỗ làm việc.
Những tiếng kêu cứu nhỏ quá không biết đích từ phía nào đưa đến,
người ta đoán chỉ ở trong ba cái hốc của hầm cũ là nơi thợ có thể lánh nạn được.
Như vậy đào một lỗ xuống chưa đủ, phải đào thêm hai lối nữa để tới những cái hốc
nói trên. Khi lối nào đào đến chỗ nghe rõ hơn thì người ta bỏ hai lối kia và tập
trung lực lượng vào một lối cần thiết. Công việc tiến hành hăng hái hơn trước.
Các Công ty bên cạnh cũng cho những thợ tinh nhuệ đến giúp sức. Người ta hy vọng
vào lối đang đào, đồng thời người ta cũng hy vọng vào lối xuống cũ ở cửa Nhà
Đèn vì nước ở các lò đã rút nhiều.
Ở dưới hốc, khi chúng tôi nghe thấy tiếng gõ của Kỹ-sư chúng
tôi cuống quít như lúc mới nghe thấy tiếng thùng múc nước ở cửa lò:
- Sống rồi!
Tiếng reo vui vẻ đó đều vuột ra ở miệng mọi người. Chúng tôi
tưởng người ta sắp đến dắt chúng tôi lên. Nhưng đợi mãi, cũng như việc múc nước,
hy vọng biến dần thành thất vọng.
Những tiếng cuốc kình kịch nghe còn xa, có lẽ còn cách chúng
tôi đến hai ba mươi mét. Phải mất bao nhiêu thì giờ để xuyên qua khối than đó?
Chúng tôi ước lượng, mỗi người một cách: một tháng, một tuần lễ, sáu ngày. Đợi
thế nào được những một tháng? Những một tuần lễ? Những sáu ngày? Bọn chúng tôi,
ai còn đủ hơi sức trong sáu ngày nữa? Chúng tôi đã nhịn đói trong bao nhiêu
ngày rồi?
Chỉ có Giáo-sư là còn nhuệ khí, nhưng rồi cũng thấy kém dần.
Chúng tôi tha hồ uống nước, nhưng chúng tôi đói lắm, không chịu được nữa, đã thử
ăn những mẩu gỗ thối vẩn trên mặt nước.
Cao-Dĩ đói háu hơn chúng tôi đã xẻo cổ giầy và nhai những miếng
da dai nhách.
Nhìn cái đói đốt ruột đã đưa người ta đến chỗ nào, tôi đâm ra
lo sợ. Tôi nhớ lại những chuyện đắm tàu mà ông Vỹ-Tiên đã kể lại cho tôi nghe
vì ông đã từng đi bể nhiều cũng như đi trên đất. Trong các chuyện đó, có một
chuyện làm cho tôi phải nghĩ đến ngay lúc cái đói bắt đầu. Đó là chuyện mấy người
thủy thủ đắm tàu, lạc vào một hoang đảo toàn cát không có một thứ gì để ăn, sau
đói quá phải giết một đứa thủy thủ nhỏ để ăn thịt. Khi nghe thấy những bạn tôi
kêu đói, tôi tự hỏi không biết tôi có phải chịu như số phận đứa bé kia không?
Đành rằng Giáo-sư và An-Thiện là những người bảo vệ cho tôi rồi, nhưng còn
Ba-Điền, Bảy-Nhu và Cao-Dĩ, nhất là Cao-Dĩ có những răng dài và trắng đã mài sắc
bằng những miếng da, vẫn làm cho tôi ngờ vực.
Có lẽ, sự sợ hãi đó hơi thừa, nhưng ở trong tình trạng chúng
tôi, người ta khó mà không rối trí và sinh ra lẩn thẩn.
Điều làm tăng nỗi khiếp sợ của chúng tôi là cái tối dày đặc.
Những đèn của chúng tôi lần lượt hết dầu. Khi chỉ còn hai chiếc, Giáo-sư bắt tắt
đi để khi nào cần thiết mới thắp. Vì thế chúng tôi hoàn toàn ở trong ngục tối.
Thiếu ánh sáng, không những kinh hồn, lại còn nguy hiểm nữa
vì nếu lỡ ai cử động vụng về là có thể lăn xuống nước dễ như chơi.
Mỗi bậc chứa ba người, không đến nỗi chật lắm: An-Thiện,
Giáo-sư mỗi người một đầu, còn tôi ở giữa.
Có lúc tôi đang thiu thỉu ngủ, tôi chợt nghe thấy Giáo-sư nói
một mình như người ngủ mê.
Tôi thức dậy và lắng tai nghe.
Giáo-sư nói:
- A! Có mây! Không còn gì đẹp hơn mây nữa! Có người không
thích mây. Nhưng ta rất yêu mây. À mà lại có gió nữa, ta cũng thích gió.
Giáo-sư mê chăng? Tôi lay cánh tay Giáo-sư, nhưng Giáo-sư vẫn
nói:
- Tráng cho tôi một đĩa sáu trứng, đừng làm tám. Làm hai đĩa
khi trở về, tôi sẽ ăn.
- Chú An-Thiện ơi! Chú có nghe thấy gì không?
- Có. Giáo-sư đang nói mê.
- Nhưng không. Giáo-sư vẫn thức.
- Ông ấy nói nhảm. Con cam đoan rằng Giáo-sư vẫn thức.
- Giáo-sư ơi!
- Ông An-Thiện ơi! Mời ông đến ăn súp với tôi. Tôi báo trước
là có gió to đấy.
An-Thiện nói:
- Ông này mất trí khôn. Đói và sốt sinh ra thế.
Bảy-Nhu nói:
- Không phải. Ông ấy chết rồi! Đó là hồn ông ấy về đấy. Các bạn
đã thấy là ông ấy đã không ở đây nữa rồi chứ? Giáo-sư ơi! Gió ở đâu? Có phải là
gió Bắc không?
Ba-Điền nói:
- Không có gió Bắc.
Mấy người này mất trí khôn cả rồi hay sao? Họ sắp điên à? Rất
có thể họ sẽ đánh nhau, giết nhau. Làm thế nào bây giờ?
- Giáo-sư ơi! Giáo-sư uống rượu không?
- Cảm ơn. Khi ăn trứng, tôi sẽ uống.
Trong thời gian khá lâu, cả ba người cùng nói lảm nhảm với
nhau và không trả lời nhau. Trong những câu nói rời rạc đó, tôi nghe lộn đi lộn
lại những tiếng “ăn, đi chơi, gió, trời”.
Tôi chợt có ý nghĩ thắp đèn lên. Đèn và diêm để bên cạnh
Giáo-sư. Tôi sờ tay cầm lấy. Ánh sáng vừa chiếu ra, mọi người đều im, không nói
nữa.
Một lúc sau, họ chợt thức dậy, hỏi:
- Cái gì thế?
An-Thiện đáp:
- Các bạn vừa nói mê.
- Ai thế?
- Cả ba người: Giáo-sư, Ba-Điền và Bảy-Nhu. Các bạn nói các bạn
đi chơi ở ngoài trời và có gió.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại đập vào tường để báo hiệu cho bên
ngoài biết chúng tôi vẫn còn sống. Chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng cuốc vẫn bổ
vào than đều đều. Nhưng còn xa lắm.
Nhờ ánh đèn, tôi cầm giầy xuống lấy nước và nhận thấy mực nước
đã hạ xuống một vài phân.
- Nước xuống.
- Lạy Chúa!
Lại một lần nữa chúng tôi phấn khởi vì hy vọng. Mọi người muốn
để đèn để xem nước xuống, nhưng Giáo-sư phản đối. Tôi tưởng có chuyện sắp cãi
nhau, nhưng bất cứ một đề nghị gì, Giáo-sư cũng có những lý do chính đáng nên
ai cũng phải nghe.
Giáo-sư nói:
- Chúng ta còn cần đèn. Nếu bây giờ ta dùng đèn vào việc vô
ích, đến lúc cần kíp mà hết cả dầu thì làm thế nào? Vả lại ngồi mà nhìn nước xuống
tí một thì có sốt ruột mà chết không? Vì nước không thể nào một lúc rút hết
ngay được. Thế nào ta cũng sống. Các bạn yên lòng. Chúng ta còn 13 que diêm.
Khi nào các bạn cần đến thì có lửa ngay.
Đèn được tắt đi ngay. Chúng tôi đã uống nước nhiều nên không
mê sảng nữa. Rồi chưa nằm yên lặng không biết bao nhiêu ngày nữa, đời sống chỉ
thoi thóp nương tựa vào những tiếng cuốc đào than và những tiếng thùng múc nước.
Tiếng cuốc dần dần to. Mực nước mỗi ngày một thấp. Người ta
đang đến gần chúng tôi. Nhưng không biết có kịp không? Nếu công cuộc giải cứu
chúng tôi mỗi lúc một tăng lên thì trái lại, sức khỏe của chúng tôi mỗi lúc một
suy tàn đi: thể xác yếu, tinh thần cũng yếu. Từ ngày mắc nạn đến giờ, các bạn
tôi không được ăn một mẩu bánh nào vào ruột. Một điều ghê gớm hơn nữa là cái
không khí tù hãm mà chúng tôi thở mỗi ngày một độc. May sao, nhờ nước rút dần,
áp lực không khí bớt đi. Nếu cứ bị bế tắc như những ngày đầu thì chúng tôi đã
chết ngạt hết rồi. Do đó, chúng tôi còn sống dai dẳng đến ngày nay cũng là nhờ
các cách cấp cứu mau lẹ từ lúc đầu.
Tiếng cuốc và tiếng thùng chuyển động rất đều như cái quả lắc
đồng hồ. Mỗi khi tiếng đó ngừng lại là chúng tôi sốt người lên. Người ta định bỏ
chúng tôi hay sao? Người ta đã gặp những khó khăn gì?
Chợt có tiếng cuốc ngừng rồi có một tiếng động lớn nổi lên ù
ù dữ dội và liên tiếp.
Cao-Dĩ kêu lên:
- Chết rồi! Nước lại xuống mỏ rồi!
Giáo-sư cải chính:
- Không phải nước.
- Thế là cái gì?
- Ta không biết, nhưng nhất quyết không phải nước.
Mọi khi, gặp việc gì xảy ra, Giáo-sư thường viện chứng và suy
luận rất hữu lý, khiến chúng tôi được yên tâm. Lần này, Giáo-sư lại thú nhận rằng
không biết nguyên do tiếng động kia – mãi sau này chúng tôi mới biết đó là tiếng
quạt máy lùa không khí xuống cho thợ đào làm việc – nên chúng tôi rất hoảng và
ngờ rằng sắp lại bị lụt.
- Thắp đèn lên!
- Thắp làm gì, vô ích.
- Thắp lên! Thắp lên!
Vì nhiều người gào quá nên Giáo-sư phải cho thắp đèn. Ánh
sáng cho họ biết rằng nước không lên mà đang xuống.
Giáo-sư nói:
- Các bạn nhìn xem.
- Nước sắp lên! Lần này phải chết!
- Thế thì chết ngay còn hơn. Tôi không sao chịu được nữa!
- Giáo-sư ơi! Cho tôi xin cái đèn, để tôi viết lại cho vợ con
vài chữ.
- Viết giúp tôi với!
- Viết giúp tôi nữa!
Chính Bảy-Nhu là người đã đòi đèn và viết thư để lại cho vợ
con. Trong túi Bảy-Nhu có một mảnh giấy và cái bút chì. Hắn sửa soạn để viết.
- Đây tôi muốn viết thế này: Chúng tôi An-Thiện, Ba-Điền,
Giáo-sư, Cao-Dĩ và Lê-Minh bị cầm tù trong hang, chúng tôi đang hấp hối:
“Tôi, Bảy-Nhu, cầu nguyện Chúa phù hộ cho vợ góa và con côi của
tôi. Giờ phút cuối cùng, tôi chúc cho vợ con tôi được phúc lành”.
Còn ông An-Thiện?
“An-Thiện đem tất cả của cải đồ đạc cho cháu An-Sinh”.
“Ba-Điền cầu mong vợ con được nương tựa vào Chúa, vào Thánh-Mẫu
và Công ty”.
- Còn Giáo-sư?
Giáo-sư thở dài:
- Ta chẳng có gì cả. Chẳng có ai khóc sau khi ta chết.
- Còn Cao-Dĩ?
Cao-Dĩ nói:
- Tôi à? Tôi dặn người ta bán những hạt dẻ của tôi đi, không
phải rang nữa.
- Giấy của ta không phải dùng để viết nhảm.
- Không phải nhảm!
- Thế mày không có ai để thương à? Không có mẹ à?
“Mẹ tôi sẽ hưởng của cải của tôi”.
- Còn Lê-Minh?
“Tôi, Lê-Minh, còn có cây đàn và con chó, xin cho cả Mã-Tư.
Tôi hôn An-Sinh, nhờ An-Sinh hôn Lệ-Hoa và hoàn lại cô giúp bông hồng héo hiện
để ở trong túi áo tôi”.
- Chúng ta ký cả vào giấy này.
Ba-Điền nói:
- Cho tôi gạch chữ “thập chéo” vào thay chữ ký.
Bảy-Nhu nói:
- Bây giờ, tờ di chúc của ta đã ký xong rồi, tôi yêu cầu các
bạn cho tôi được chết yên ổn, đừng nói với tôi nữa. Vĩnh quyết các bạn!
Nói xong, Bảy-Nhu đứng dậy lại chỗ chúng tôi hôn cả ba người
xong về chỗ hôn Ba-Điền và Cao-Dĩ rồi vun đám than vụn làm gối, đặt đầu lên, nằm
thẳng cẳng và không nhúc nhích nữa.
Thư tuyệt mệnh kia và ý chán đời của Bảy-Nhu đã làm cho lòng
can đảm của chúng tôi mềm đi.
Tuy nhiên, tiếng cuốc đã nghe rõ nhiều, người ta sắp tới chỗ
chúng tôi.
Giáo-sư liền cắt nghĩa và làm cho chúng tôi phấn khởi đôi
chút.
- Nếu họ đến gần thì ta đã nghe thấy tiếng họ kêu. Đằng này,
chúng ta không nghe thấy gì mà họ cũng chẳng nghe thấy ta. Giáo-sư nghĩ thế
nào?
- Rất có thể họ chỉ còn cách xa ta vài mét mà vẫn không nghe
được tiếng chúng ta, đó là tùy theo chất của tảng than.
- Hay cũng tùy theo quãng dài ngắn nữa.
Trong khi đó, nước vẫn xuống đều. Chẳng bao lâu chúng tôi có
đủ chứng cớ là nước không chấm mái hầm nữa. Chúng tôi nghe tiếng sột soạt ở
chân vách và những tiếng than vụn rơi xuống nước.
Chúng tôi thắp đèn lên và trông thấy mấy con chuột đang chạy
men vách. Lũ chuột đó có lẽ cũng như chúng tôi tìm được chỗ ẩn ở một hốc đá,
bây giờ nước xuống bò đi để kiếm ăn. Chúng sở dĩ sang chỗ chúng tôi được là vì
nước không đầy đến mái hầm nữa.
Mấy con chuột hiện ra trong hang chúng tôi chẳng khác chi con
bồ câu xuất hiện trên thuyền của Giáo Trưởng Nô-E ngày xưa: đó là điềm hết nạn
đại-hồng-thủy.
Giáo-sư nhún vai lên và nói:
- Anh Bảy-Nhu ơi! Hãy can đảm lên! Cố lên! Anh ạ.
Rồi Giáo-sư cắt nghĩa: những con chuột đó báo trước rằng
chúng ta sắp được giải phóng.
Nhưng Bảy-Nhu không tin:
- Nếu lại gặp hy vọng để rồi thất vọng như mọi lần thì tôi
xin thôi. Tôi vui lòng đợi chết. Tôi cầu vĩnh phúc cho linh hồn tôi.
Tôi muốn xuống thấp để xem mực nước đã rút đến đâu. Hiện đã
thấy một khoảng trống lớn giữa mặt nước và mái hầm.
Cao-Dĩ bảo tôi:
- Anh bắt chuột để chúng ta ăn đi!
- Bắt làm sao được, nó chạy nhanh như thế kia!
Nhìn mặt nước tôi nảy một ý tưởng.
Tôi hỏi Giáo-sư:
- Giáo-sư ơi! Nếu chuột chạy trong hầm được thì ta cũng có thể
đi qua được. Con muốn bơi ra chỗ cầu thang. Con sẽ kêu cứu. Người ta sẽ xuống
rước ta, như thế thì nhanh hơn là đợi lối đào.
- Ta cấm con không được làm thế.
- Con bơi lội dễ dàng như người ta đi trên đất bằng và lặn dưới
nước như lươn.
- Gặp khí độc thì sao?
- Chuột chạy qua được thì không khí cũng không đến nỗi xấu lắm.
Ba-Điền nói:
- Anh cứ đi. Tôi cho anh cái đồng hồ của tôi.
Giáo-sư hỏi An-Thiện:
- Ý kiến ông thế nào?
- Nếu có thể tìm đến cầu thang được thì tùy ý nó. Tôi không
có quyền ngăn cản.
- Lỡ nó chết đuối thì sao?
- May ra nó thoát nạn còn hơn là ngồi đợi chết ở đây!
Giáo-sư suy nghĩ một lúc rồi cầm tay tôi, bảo:
- Con có lòng tốt, con ạ. Tùy ý con. Ta cho là một việc không
thể làm được. Nhưng không phải là lần thứ nhất mà người ta thấy “cái không thể
làm được đã làm được”. Con hôn chúng ta đi!
Tôi cảm động, đứng lên hôn Giáo-sư và chú An-Thiện. Xong tôi
bỏ quần áo và xuống nước.
Trước khi bơi ra, tôi ngoảnh lại bảo mọi người:
- Các ông gọi luôn luôn nhá! Tiếng gọi đó sẽ chỉ đường cho
tôi đi.
Khoảng trống ở dưới mái thế nào? Có đủ chỗ để cử động không.
Đó là vấn đề cần thiết. Bơi thử một vài sải, tôi thấy tôi có thể tiến được,
nhưng phải bơi thong thả để khỏi đụng đầu: con đường mạo hiểm này có thể đi được
nhưng không biết là đến chỗ sống hay chỗ chết?
Tôi quay đầu lại nhìn thấy ánh đèn xuống mặt nước đen. Ở đó
tôi yên trí có ngọn hải đăng rồi!
Giáo-sư gọi to:
- Có đi được không?
- Có.
Rồi tôi bơi rất cẩn thận.
Từ chỗ chúng tôi ra đến cầu thang, điều khó nhất là phải biết
lối đi, vì gần đó có một ngã tư có thể làm tôi lạc đường được; vì đen tối quá
chẳng nhìn thấy gì. Mái và vách hầm không đủ chỉ lối cho tôi bơi, tôi phải nhờ
đến đường sắt ở mặt đất, đó là cách chắc chắn nhất. Cứ theo đường sắt là ra đến
cầu thang.
Thỉnh thoảng tôi lại đạp chân xuống đường sắt rồi lại ngoi
lên. Đường sắt vẫn ở dưới chân tôi, tôi không lạc. Tiếng người nghe yếu dần, tiếng
thùng thấy mạnh hơn. Tôi đã đi được nhiều. Tôi sắp nhìn thấy ánh sáng và nhờ
tôi, các bạn tôi sẽ thoát nạn: lòng tôi khấp khởi mừng thầm.
Một lát sau, tôi sờ chân không thấy đường sắt đâu cả. Tôi lặn
xuống lấy tay mò, nhưng vô ích: Chẳng thấy gì. Tôi lạc lối chăng?
Tôi im lặng một lúc để suy nghĩ và nhận định. Tiếng các bạn
tôi thoang thoảng rất khó nghe.
Tôi hít một hơi dài để trữ khí trời, rồi hụp xuống lần nữa.
Nhưng kết quả cũng không hơn gì lần trước: không thấy đường sắt.
Tôi đã đi nhầm sang hầm khác mà không biết chăng, tôi lộn lại.
Nhưng nguy quá! Bạn tôi không gọi nữa hay có gọi mà tôi không
nghe thấy gì?
Tôi choáng người lo sợ quá, không biết bây giờ đi về lối nào?
Có lẽ tôi phải chết trong bóng hắc ám này, dưới cái vòm nặng nề này, giữa làn
nước giá lạnh này chăng? Nhưng chợt tiếng gọi lại đưa ra, vì thế tôi mới biết
đường về.
Lộn về được mười hai sải, tôi lặn xuống và lại thấy đường sắt.
Thì ra chỗ này là ngã tư, đường sắt bị nước cuốn đi thành ra tôi mất tay dẫn đạo.
Trong tình trạng này, dự định của tôi không sao thực hiện được.
Tôi đành lộn trở lại vậy.
Đã quen quãng đường này rồi, biết rằng không nguy hiểm. Nên
tôi bơi về rất nhanh, những tiếng gọi luôn luôn chỉ dẫn cho tôi.
Tôi càng tới gần, tiếng gọi nghe càng rõ mà có phần hăng hái
hơn trước, hình như các bạn tôi đã hồi sức lại. Tôi về đến cửa hang và kêu lên.
Giáo-sư bảo tôi:
- Lên đi! Lên đi!
Tôi đáp:
- Con không tìm thấy lối ra.
- Không cần nữa. Lối đào đã đến nơi rồi. Họ đã nghe thấy tiếng
ta mà ta cũng nghe thấy tiếng họ. Hai bên sắp có thể nói chuyện với nhau.
Tôi vội leo lên bậc và để tai nghe. Thực vậy, tiếng cuốc nghe
rất mạnh, tiếng người nghe còn nhỏ nhưng đã rõ. Hết cơn mừng, tôi cảm thấy rét
run. Vì không có quần áo ấm cho tôi mặc thêm, người ta lấy than vụn vun vào người
tôi đến cổ để thay chăn. Than giữ hơi nóng cho tôi, nên tôi chóng lại sức. Tôi
kể lại cho mọi người nghe tôi bơi thế nào và tìm đường sắt ra làm sao.
- Em dám lặn à?
- Lặn lắm chứ! Tiếc rằng không tìm thấy đường sắt.
Nhưng đúng như lời Giáo-sư đã nói, bây giờ việc đó không cần
lắm, vì nếu chúng ta không ra được bằng đường hầm thì chúng ta cũng sẽ ra được
bằng lối đào.
Tiếng thợ nói đã nghe rõ. Chúng tôi đang mong họ nghe thấy tiếng
chúng tôi, bỗng có ba tiếng hỏi rất thong thả lọt vào chỗ chúng tôi:
- Bao nhiêu người?
Trong bọn chúng tôi có An-Thiện là tiếng to và rõ hơn cả,
An-Thiện được cử để trả lời:
- Sáu!
Ở ngoài thấy im lặng. Có lẽ người ta đã đinh ninh một con số
lớn.
An-Thiện nói tiếp:
- Mau lên! Chúng tôi sắp chết rồi!
- Tên các anh là gì?
- Bảy-Nhu, Ba-Điền, Giáo-sư, Cao-Dĩ, Lê-Minh và An-Thiện.
Trong cuộc cấp cứu chúng tôi, giờ phút này là giờ phút hồi hộp
nhất và cảm động nhất cho những người ở trên Mỏ. Khi họ biết Kỹ-sư sắp có thể
thông tin với chúng tôi, thì những thân nhân các người bị nạn đều chạy đến.
Quân lính trong đồn phải khó nhọc mới giữ nổi họ khỏi tràn lấn đến cửa hầm.
Khi Kỹ-sư thông báo chỉ có 6 người sống sót thì một sự vô
cùng đau đớn hiện lên trên nét mặt mọi người. Tuy nhiên, họ còn một chút hy vọng
mong manh là may ra người họ mong đợi sẽ ở trong số đó. Nhưng đến khi Kỹ-sư đưa
ra 6 tên của chúng tôi thì than ôi! Nỗi đau sót như muốn vạch trời kêu lên, những
dòng lệ tuôn rơi như suối. Trong số một trăm hai mươi người mẹ, người vợ đứng
đó, chỉ có bốn người là may mắn thấy chồng, thấy con; còn bao nhiêu người phải
ngậm ngùi đau đớn. Chỉ có bốn gia đình được may mắn vì Giáo-sư và tôi không có
thân nhân. Về phần chúng tôi, trong lúc gần đất xa trời này cũng nghĩ thương
cho những người xấu số.
An-Thiện hỏi:
- Cứu được nhiều không?
Không thấy trả lời.
Ba-Điền hỏi:
- Hỏi hộ thằng Phi nhà tôi thế nào?
An-Thiện lại hỏi nhưng cũng như câu trước, chẳng ai trả lời.
- Có lẽ họ không nghe thấy.
- Hay không muốn trả lời đấy thôi.
Có một điều tôi vẫn thắc mắc, tôi giục An-Thiện:
- Hỏi xem ta ở đây đã bao nhiêu ngày.
Câu này được trả lời:
- Mười bốn ngày.
Thế mà chúng tôi chỉ tưởng có năm hay sáu ngày là cùng.
- Các bạn không phải ở dưới đấy lâu nữa. Hãy can đảm lên. Đừng
nói nữa làm cho chậm việc. Độ vài giờ nữa thôi.
Mấy giờ này tôi tưởng là những giờ dài nhất từ khi giam cầm
và cũng là giờ đau khổ nhất. Một nhát cuốc hình như là đến nơi, nhưng hết nhát ấy
lại đến nhát khác. Hết nhát khác lại đến nhát khác nữa, và vô tận.
Có tiếng hỏi:
- Có đói lắm không?
- Lả rồi!
- Có thể đợi được nữa không? Nếu các bạn yếu quá thì chúng
tôi tạm xăm một lỗ để giong cháo hoặc sữa xuống, như vậy lâu ra. Nếu các bạn cố
đợi được, các bạn sẽ chóng được tự do.
- Chúng tôi đợi vậy. Xin làm mau lên!
Thùng múc nước vẫn không ngừng. Nước xuống đều.
Giáo-sư nhắc:
- Bảo họ rằng nước xuống nhiều.
- Chúng tôi biết rồi. Hoặc bằng lối đào, hoặc bằng đường hầm,
người ta sẽ đến cứu các anh… không lâu.
Tiếng cuốc thấy yếu đi. Chắc hẳn người ta đang dò chỗ để chọc
thủng xuống. Chúng tôi đã tả rõ vị trí của chúng tôi, người ta sợ than đất sụt
xuống đầu chúng tôi, có thể đè chết, gây thương tích, hoặc hất chúng tôi xuống
nước, nên phải dè dặt.
Theo lời Giáo-sư, chúng tôi còn phải sợ nạn khí trời nổ tung.
Một khi lỗ đã chọc thủng, khí bị nén ép ở trong hốc phụt mạnh lên như phát súng
đại bác và làm đổ vỡ tất cả. Vì thế ở trong, chúng tôi phải thận trọng cũng như
những thợ ở ngoài.
Cuốc bổ chan chát làm cho nóc hang rung động, những mảnh than
vụn rào rào rơi xuống nước. Có một điều rất lạ là càng gần đến lúc được cứu,
thì khí lực chúng tôi càng suy. Tôi không ngồi vững được nữa, nằm chũi trong đống
than vụn, yếu quá không nhắc nỗi cánh tay. Tôi run cầm cập mặc dầu lúc đó không
rét.
Sau cùng, mấy miếng than to rơi xuống. Một lỗ sổ hé trên đầu
hang. Chúng tôi lóa mắt bởi những ánh đèn. Nhưng ngay lập tức, chúng tôi lại tối
mò như cũ. Một luồng gió, một đợt gió rất mạnh, một vòi rồng ầm ầm nổi lên cuốn
tất cả những thứ vụn vặt ra ngoài.
Giáo-sư nói:
- Đừng sợ! Đó là những luồng gió mạnh. Người ta sẽ thắp lại
đèn và đưa xuống. Ta hãy đợi một chút.
Ôi! Đợi! Vẫn còn phải đợi!
Nhưng ngay lúc đó có tiếng xôn xao ở mặt nước dưới hầm. Tôi
ngoảnh lại, nhìn thấy một đám ánh sáng đang tiến đến, trên mặt nước sóng vỗ bập
bềnh.
Người ta kêu:
- Can đảm lên! Can đảm lên!
Và trong khi người ta do lối đào đưa xuống tay cho những người
nằm ở bậc trên thì do đường hầm người ta cũng vừa tới chỗ ba chúng tôi.
Kỹ-sư đi đầu, leo lên trước tiên, ẵm tôi xuống. Thực là kịp
thời vì lúc đó sức tôi đã kiệt, không nói được nữa.
Tuy nhiên, tôi vẫn biết có người đang ẵm tôi. Rồi người ta quấn
khăn cho tôi và đưa tôi lên cửa hầm. Tôi vẫn nhắm mắt, thấy chói quá, tôi phải
mở ra. Ban ngày rồi! Tôi ra ngoài trời rồi!
Ngay lúc đó, một vật trăng trắng ném vào tôi. Đó là con
Lãnh-Nhi nhảy vọt lên cánh tay Kỹ-sư và liếm vào mặt tôi. Đồng thời, tôi thấy
có người cầm tay phải tôi và hôn.
Một tiếng nhỏ phát ra:
- Lê-Minh
Đó là anh Mã-Tư.
Tôi nhìn chung quanh tôi. Một đám người đông đặc đứng hai bên
lối đi như hai hàng rào kín. Họ đứng nín thít vì đã có lệnh không được kêu gọi
làm xúc động chúng tôi, nhưng những dáng điệu của họ, những con mắt của họ đã
nói nhiều thay cho họ.
Ở hàng thứ nhất, tôi thoáng nhìn thấy những áo lễ trắng và những
chỉ vàng lóng lánh dưới ánh mặt trời. Đó là những vị linh mục ở Văn-Xá đến tận
cửa Mỏ để cầu nguyện cho chúng tôi. Khi chúng tôi đi qua, các vị quỳ cả xuống,
mặt đất không lầm lội nữa, vì trong mười bốn hôm đã khô ráo như thường.
Có đến hai mươi cánh tay đưa ra để đỡ lấy tôi, nhưng Kỹ-sư
không muốn nhường lại: sung sướng và tự hào, Kỹ-sư cứ ẵm tôi về đến văn phòng, ở
đó người ta đã sửa soạn tươm tất chỗ nghỉ cho chúng tôi.
Hai hôm sau, tôi cùng Mã-Tư và Lãnh-Nhi đi chơi phố. Mọi người
thấy chúng tôi đều dừng lại nhìn.
Có nhiều người đến bắt tay chúng tôi, với những đôi mắt rưng
rưng lệ.
Có nhiều người quay mặt đi.
Những người này để tang và chua xót, họ tự hỏi rằng tại sao một
đứa trẻ không cha không mẹ lại còn sống, mà những người cha, cột trụ trong gia
đình, những người con yêu dấu lại bị vùi sâu trong Mỏ.
Có nhiều người làm phiền chúng tôi, định kéo chúng tôi về nhà
ăn cơm hoặc mời chúng tôi vào hàng uống cà-phê.
Họ bảo:
- Em kể lại chuyện bị chôn sống cho ta hay.
Tôi cảm ơn và từ chối tất cả, vì không tiện kể chuyện mình
cho người ngoài nghe. Hơn nữa, lẽ nào lại để người ta mua chuyện của mình bằng
một bữa ăn hay một ly cà-phê. Vả lại, tôi thích nghe chuyện hơn là kể chuyện.
Tôi nghe An-Sinh, tôi nghe Mã-Tư nói lại những chuyện đã xảy ra ở trên mặt đất
trong thời gian tôi ở dưới Mỏ cho tôi nghe.
An-Sinh nói:
- Khi tôi tưởng anh chết thì lòng tôi đau xót quá như gẫy một
cánh tay vì tôi tưởng thế nào anh cũng chết.
Mã-Tư nói:
- Tôi không bao giờ tin rằng anh chết. Tôi không biết anh sẽ
còn sống mà ra khỏi Mỏ hay người ta sẽ cứu được anh kịp thời, nhưng tôi tin rằng
anh không thể nào chết đuối được. Công việc cứu nạn làm đến nơi đến chốn thì thế
nào cũng tìm thấy anh. Có lúc An-Sinh thất vọng và khóc anh, tôi hăng hái bảo
An-Sinh: “Anh không chết nhưng có lẽ đang đợi chết”. Rồi tôi đi hỏi mọi người:
“Người ta có thể sống bao lâu không ăn uống gì? Bao giờ thì múc hết nước? Bao
giờ thì đào đến nóc hầm?”. Chẳng ai trả lời tôi vừa lòng cả. Khi người ta hỏi
tên, Kỹ-sư đọc tên Cao-Dĩ rồi đến Lê-Minh, tôi nằm lăn ra đất và khóc nức nở.
Lúc đó người ta xéo cả lên lưng tôi, nhưng tôi coi như không vì tôi sung sướng
quá.
Tôi, tôi cũng sung sướng thấy anh Mã-Tư tin tôi, đã không muốn
tưởng rằng tôi có thể chết được.
Hector Malot
Hà Mai Anh dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét