Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2024

XXXXVô gia đình 3

Vô gia đình 3

Chương XXI

Tan tác

Có những ngày rỗi rãi, ngồi một mình, tôi nghĩ ngợi rồi tự nhủ:

- Minh ơi! Minh sung sướng lắm rồi! Chẳng được thế mãi đâu!

Cái tai họa nó sẽ xảy ra thế nào, tôi không đoán được. Nhưng tôi chắc chắn rằng từ phía này hay từ phía kia thế nào nó cũng đến.

Điều đó làm cho tôi buồn, nhưng cũng làm cho tôi hết sức chăm lo công việc vì tôi sợ rằng lỗi tại tôi mà tai họa xảy đến.

Lỗi không phải tại tôi, tôi đoán nhầm.

Nhưng tai họa có xảy ra, tôi đoán đúng.

Trên kia tôi đã nói rằng chủ nhân chuyên nghề trồng lan tử-la. Đó là một thứ hoa rất dễ trồng nên những thợ trồng hoa ở ngoại thành Ba-Lê đều thành công cả: cứ xem những thân cây xanh mập có hoa từ gốc đến ngọn, người ta đem vào bán ở các chợ trong thành phố vào tháng Tư và tháng Năm thì biết. Tuy nhiên có một điều rất cần thiết cho người thợ trồng hoa tử-la là phải biết chọn trồng những hoa kép vì theo mốt mới người ta không thích hoa đơn. Khốn nỗi những hạt giống đem gieo thường mọc lên những hoa kép, hoa đơn lẫn lộn nhau. Như vậy, nếu không biết chọn những cây kép và loại ngay những cây đơn ra thì phải “nuôi nợ” những cây này, có tới 50%, trong một năm trời cho đến khi chúng thò hoa đơn ra mới biết mà vứt đi thì đã muộn rồi. Vì thế người ta phải biết cách “lọc hoa”, nghĩa là biết quan sát những đặc tính hiện ra ở gân lá, ở cách lá mọc mà giữ hay nhổ những cây non đi. Công việc này không phải dễ. Vì thế rất ít người biết thuật “lọc hoa” và cũng vì thế thuật đó được giữ bí truyền trong một vài gia đình. Khi những thợ làm vườn cần chọn cây, bắt buộc họ phải nhờ đến những bạn đồng nghiệp biết nghề; lúc đó những người này được trọng đãi không khác chi những bác sĩ hay chuyên viên được thỉnh giáo.

Ông An-Thanh là một xảo thủ trong nghề lọc hoa ở Ba-Lê. Hễ đến vụ này là ông vắng nhà luôn. Chúng tôi, nhất là Yến-Chi rất buồn. Trong cuộc gặp gỡ nhau, các bạn trồng hoa không thể không dùng rượu, ít ra một chai, có khi hai chai, ba chai. Vì thế, sau khi đi thăm hai hay ba ông bạn về, chủ nhân thường mặt đỏ, tay run miệng nói líu ríu.

Không bao giờ Yến-Chi đi ngủ trước khi cha về, lắm hôm cô đợi rất khuya. Tiếng động làm tôi tỉnh thức. Ở buồng tôi, tôi nghe rõ tiếng nói chuyện:

Người cha hỏi:

- Sao con chưa đi ngủ?

Cô Yến-Chi đáp:

- Con thức để xem cha có sai bảo gì không.

- Thế ra cô Cảnh sát định dò xét tôi à?

- Nếu con không thức thì cha về nói chuyện với ai?

- Con xem, cha bước vẫn thẳng. Nhìn đây, cha có thể theo đúng hàng gạch vào buồng ngủ các em.

Tôi nghe có tiếng bước loạng choạng vào bếp rồi lại trở ra.

Người cha lại hỏi:

- Lệ-Hoa ngoan chứ?

- Vâng. Em con ngủ rồi. Cha đừng làm động em dậy.

- Cha có làm động đâu. Cha bước thẳng. Cha phải bước thẳng thắn vì các cô gái hay đổ vạ cho cha. À! Không thấy cha về ăn bữa tối, Lệ-Hoa có nói gì không?

- Không. Em cứ nhìn chỗ cha ngồi.

- A! Nó nhìn chỗ ta?

- Vâng.

- Nhiều lần? Có phải nó nhìn nhiều lần không?

- Nhìn luôn luôn.

- Thế nó nói gì?

- Đôi mắt em nói rằng cha không có ở đấy.

- Nó có hỏi cha đi đâu, con có bảo nó là cha đến nhà các ông bạn không?

- Em không hỏi gì và con cũng không nói gì vì em biết rõ cha ở đâu rồi.

- Nó biết à, biết là… Bây giờ nó ngủ kỹ rồi chứ?

- Không. Vừa mới ngủ được mươi phút vì em thức mãi để đợi cha.

- Thế con, con muốn gì?

- Con muốn em con không trông thấy lúc cha về.

Người cha im một lúc rồi lại nói:

- Yến-Chi con ơi! Con là một đứa con gái tốt. Con nghe cha nói. Ngày mai cha phải đến nhà bác Lương nhưng thế nào cũng về ăn bữa tối với các con. Cha không muốn các con phải đợi. Cha không muốn Lệ-Hoa phải đi ngủ băn khoăn.

Nhưng lời hứa đó không thực hiện. Hôm sau ông lại về khuya hơn mọi ngày vì nể bạn uống say. Ở nhà thì ông nghĩ đến Lệ-Hoa nhưng ra ngoài thì ông quên mất.

Lúc về ông lại phân trần rằng:

- Con xem, người ta thường uống cốc thứ nhất không nghĩ ngợi gì vì nể bạn, uống cốc thứ hai vì đã uống cốc thứ nhất. Người ta nhất định không uống cốc thứ ba nhưng vì đã uống hai cốc rồi thành khát. Thế rồi hơi men bốc lên đầu. Người ta chếch choáng, người ta quên hết nỗi buồn, quên cả chủ nợ, người ta thấy mọi vật đều tươi sáng và hồn người ta thấy nhẹ nhàng như bay bổng sang một thế giới thần tiên, sở dĩ người ta uống nhiều là vì thế.

Cũng may, việc uống rượu của ông rất hãn hữu. Và vụ lọc hoa cũng không lâu. Một khi vụ đó hết rồi, ông chẳng còn lý do gì để ra ngoài nữa. Mà ông cũng không đi đâu nữa. Ông không phải là người bê tha nơi tửu quán, cũng không phải là người lười biếng thích chơi.

Mùa tử-la đã hết, chúng tôi sửa soạn để trồng hoa khác, và theo phương thức của nhà trồng hoa thì không lúc nào được để vườn trống, lượt hoa này bán hết phải trồng lượt hoa khác thay vào.

Kỹ thuật của người làm vườn là phải trồng làm sao cho có hoa vừa đúng lúc những ngày lễ trọng trong năm như lễ các Thánh Phê-Rô, Ma-Ri, Lộ-Y, hoa sẽ đắt. Biết cơ man nào là người mang tên Phê-rô, Ma-ri, Lộ-y, do đó biết cơ man nào là bó hoa, chậu hoa sẽ cần thiết để chúc mừng một người bạn hay một người bà con. Ai ai cũng biết quang cảnh các phố ở Ba-Lê hôm trước ngày lễ đó: trăm thứ hoa bày rực rỡ tại các chợ, ở các cửa hàng, ở vĩa hè, ở đầu phố, không một chỗ nào là không bán hoa.

Sau mùa tử-la nhà ông An-Thanh trồng các thứ hoa khác để bán vào tháng Bảy, tháng Tám là vụ có những lễ các thánh Ma-Ri và Lộ-Y. Vì thế chúng tôi đang gây hàng ngàn gốc thúy cúc, dương hồng, hùng quế dưới các giàn kính và trong các nhà gương. Các cây hoa này phải nở đúng ngày đã định, nếu nở muộn quá thì nụ bán cho ai. Ai cũng biết rằng muốn nuôi hoa như thế thực là việc rất khó, vì người không phải là mặt trời, không phải là thời tiết mà muốn sao được vậy. Ông An-Thanh lại rất tài về nghề này; hoa của ông không bao giờ nở sớm, và cũng không bao giờ trổ muộn. Nhưng được thế, cũng lắm công phu.

Vụ hoa này của chúng tôi có nhiều hứa hẹn. Hôm ấy là ngày mồng 2 tháng Tám, các thứ hoa trong vườn đều sai nụ. Những bông thúy cúc hàm tiếu rung rinh trước gió. Dưới giàn, trong nhà kính, những cây dương hồng, hùng quế mọc tốt như bụi gai hay thành những Kim-tự-tháp nhỏ, nụ ra mơn mởn từ đầu đến chân, trông rất đẹp. Thỉnh thoảng chủ nhân lại ra ngắm nghía, xoa hai bàn tay vào nhau, ra chiều đắc ý.

Ông lại bảo các con:

- Ta được mùa hoa!

Ông mừng thầm và nhẩm tính số hoa lợi sắp thu về.

Cho được kết quả đó, chúng tôi phải làm việc luôn tay, cả ngày chủ nhật không giờ giải trí. Để đền bù công khó nhọc của mọi người, chủ nhân định tới chủ nhật mồng 5 tháng 8 này cho cả nhà đi dự bữa cơm chiều ở nhà ông bạn ở làng Ích-Cương gần đó. Con Lãnh-Nhi cũng được phép đi. Hôm đó mọi người sẽ làm việc gấp cho đến 3 hay 4 giờ. Xong việc, người ta sẽ khóa cửa đi chơi. Độ 5 hay 6 giờ tới Ích-Cương, ăn xong phải trở về ngay để khỏi ngủ muộn và có thể sáng thứ hai dậy sớm làm việc được khỏe khoắn nhẹ nhàng.

Một dịp vui sướng biết bao!

Như lời đã định, trước bốn giờ độ vài phút, chủ nhân khóa cửa ngoài.

Ông vui vẻ bảo:

- Các con lên đường!

Tôi cũng nói:

- Lãnh-Nhi! Tiến lên!

Rồi tôi cầm tay, dắt Lệ-Hoa chạy, Lãnh-Nhi theo sau và kêu những tiếng vui vẻ. Nó nhảy chung quanh chúng tôi, nó tưởng lại được đi lâu trên đường dài vì bị giam chân ở nhà mãi, nó buồn vì tôi ít thì giờ săn sóc nó, nó thèm đi với tôi lắm.

Chúng tôi ai nấy đều diêm dúa trong bộ quần áo đẹp để đi ăn cỗ. Nhiều người quay lại nhìn chúng tôi. Tôi không biết người tôi lúc đó thế nào nhưng Lệ-Hoa với cái mũ cói trắng, chiếc áo dài xanh và đôi giầy vải xám, trông rất linh động và xinh tươi, trong làng ít ai sánh kịp.

Thời giờ đi nhanh quá, tôi chẳng để ý đến. Tôi chỉ biết lúc ăn xong, An-Sinh nhìn lên trời, về phía tây có đám mây đen. Vì tiệc bày ở gốc cây mộc hương ngoài sân, nên mọi người nhận thấy có một cơn giông sắp sửa đến.

Ông An-Thanh bảo:

- Các con ơi! Mau về trại đi!

Các con đều kêu:

- Đã về kia à?

Lệ-Hoa không nói gì nhưng phụng phịu chưa muốn về.

- Gió làm vỡ kính mất. Về đi!

Ông không cần phải nói dài, chúng tôi đều biết rằng những tấm kính là tất cả tài sản của những thợ trồng hoa, vạn nhất mà vỡ thì tuyệt nghiệp.

Ông nói:

- Ta và An-Sinh, Bằng-Mai rảo chân về trước. Còn Lê-Minh cùng Yến-Chi và Lệ-Hoa đi sau.

Nói xong ông và hai con trai bước thật nhanh, chúng tôi theo sau không kịp, vừa đi vừa đợi Lệ-Hoa.

Ai nấy im lặng. Bây giờ không là lúc cười nói, chạy nhảy như lúc đi.

Trời đen dần. Trên đường gió cuốn, cát bụi bay lên từng đám lớn như mây. Đang đi mà gặp làn bụi đó, người ta phải đứng lại, quay lưng về chiều gió, lấy hai tay bưng mắt cho khỏi bụi vào; lại phải nín thở, nếu không người ta thấy mồm đầy một vị như sỏi.

Sấm động ở đằng xa rồi đến gần với những tiếng nổ chói tai.

Yến-Chi và tôi, mỗi người dắt một tay Lệ-Hoa và kéo đi. Cô lê từng bước nên chúng tôi muốn đi nhanh mà không được.

Không biết chúng tôi có về kịp cơn mưa không?

Ông An-Thanh và hai anh đã về đến nơi chưa?

Công việc của chúng tôi rất tầm thường là cốt tránh sao cho khỏi bị mưa ướt.

Còn công việc của ông An-Thanh và hai con ông rất quan trọng, là phải đóng các cửa kính ở vườn cho kịp, nếu không gió lay quật sẽ làm vỡ hết.

Mây đen kéo dầy đặc làm cho tối sầm hẳn lại. Thỉnh thoảng, gió xẻ những đám mây, người ta nhìn thấy bên trong sâu thẳm một sắc đồng. Nhất định, trong giây lát nữa những đám mây đó sẽ đổ xuống.

Sấm ù ù mỗi lúc một nhiều hơn. Rồi có những tiếng ầm ầm dữ dội đi về phía chúng tôi như tiếng thiên binh vạn mã ào ào chạy gấp để tránh mưa. Nhưng vô lý! Vì làm gì có kỵ binh kéo đến vùng này?

Thình lình mưa đá bắt đầu. Một vài hạt nhỏ tạt vào mặt chúng tôi. Rồi trong chớp mắt, một trận to đổ xuống. Chúng tôi phải chạy vào ẩn ở một cái cổng gần đó.

Đó là một trận mưa đá dữ dội nhất người ta chưa từng thấy bao giờ. Mới mưa một lúc mà đường phố đã phủ một lớp trắng ngần như về giữa mùa đông. Những viên đá to bằng quả trứng bồ câu rơi xuống lộp độp làm kính vỡ loảng xoảng. Những hột mưa đá ở mái nhà rơi xuống cùng với mảnh ngói, vữa vụn, mảnh đá đen thành từng đống trên hè.

Yến-Chi kêu:

- Còn gì là những cửa kính của nhà ta nữa?

Tôi cũng sực nghĩ đến điều đó liền nói:

- May ra ông về kịp.

- Dù có về trước cơn mưa cũng không sao đóng kịp tất cả các cửa kính hoặc che rèm. Thế là tan nát cả!

- Người ta bảo mưa đá chỉ mưa từng chỗ thôi.

- Trận mưa này gần nhà ta quá, nên khó lòng thoát được. Trời ơi! Cha tôi sẽ hết nghiệp! Cha tôi đã đặt bao nhiêu hy vọng vào tiền bán hoa. Bây giờ lấy gì để trả nợ?

Tôi không biết rõ giá các vật. Nhưng nghe thấy người ta nói rằng cứ 100 khung kính là 1500 hay 1800 phật-lăng. Nếu 5.600 tấm kính nhà tôi bị mưa đá tàn phá, thật là một thảm họa cho chúng tôi, đó là chưa kể đến nhà gương và các cây hoa bị hư nát nữa.

Tôi muốn hỏi Yến-Chi, nhưng mưa đổ ầm ầm, nói không nghe rõ. Và Yến-Chi cũng không buồn nói, cô nhìn mưa đá rơi, thất vọng như những người đứng nhìn nhà mình đang cháy.

Trận mưa đá ghê gớm đó không lâu, độ 5 hay 6 phút thôi. Nó chợt tạnh cũng như nó chợt bắt đầu. Mây kéo về phía Ba-Lê. Chúng tôi có thể rời chỗ trú được.

Ngoài đường, những hạt mưa đá tròn và lăn lạo xạo dưới chân chúng tôi như những hòn sỏi ở bãi biển và ngập tới mắt cá chân.

Lệ-Hoa không lội trong đá lạnh bằng giầy vải được, tôi phải cõng cô. Mặt cô lúc đi tươi thế; bây giờ buồn thiu, tôi thấy những giọt nước mắt lã chã trên vai tôi.

Không bao lâu chúng tôi đã về đến nhà. Cửa ngoài mở rộng. Chúng tôi vào ngay trong vườn.

Một cảnh tượng tàn phá bày ra trước mắt; khung cửa, hoa, mảnh kính, hạt đá, thành một hỗn hợp, một đống lộn xộn không ra hình thể gì. Thửa vườn ban mai tốt tươi thế, xinh đẹp thế, bây giờ thành ra những tàn vật không tên.

Chủ nhân đâu?

Chúng tôi kiếm mãi, không thấy. Sau chúng tôi vào nhà gương lớn mà không một miếng kính nào nguyên vẹn, thấy ông ngồi rũ trên một cái ghế đẩu, trong đám vụn vỡ ngổn ngang, An-Sinh và Bằng-Mai cũng đứng đó yên lặng.

Nghe tiếng chân giẫm trên đống kính vụn, ông biết chúng tôi đã về. Chúng tôi vừa bước vào, ông ngửng đầu lên bảo:

- Các con ơi! Các con khốn nạn của cha ơi!

Rồi ông ôm lấy Lệ-Hoa mà khóc, không nói thêm một câu nào.

Ông sẽ nói những gì?

Đó là một thiên tai, nhìn trước mặt, ta chỉ thấy lớn lao thôi, nhưng ta không tưởng tượng được cái hậu quả của nó ghê gớm đến thế nào!

Sau đó Yến-Chi và An-Sinh cho tôi biết rằng cách đây 10 năm, ông An-Thanh đã tậu thửa vườn này và dựng ngôi nhà chúng tôi đang ở. Chủ đất cho ông vay một món tiền lớn để sắm sửa vật liệu về nghề trồng hoa. Ông phải trả góp trong 15 năm; mỗi năm một kỳ. Từ trước đến giờ ông đã trả được 10 kỳ rồi với bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Những kỳ tiền phải trả đều đặn, nếu chậm trễ chủ đất sẽ tịch thâu luôn cả nhà, đất lẫn vật liệu và cố nhiên mất hẳn 10 kỳ tiền đã trả. Đó là một lối đầu cơ của chủ nợ thời đó nếu con nợ sòng phẳng, họ vẫn có lời, rủi cho con nợ không trả được thì nghiễm nhiên họ được lợi to. Vì thế chủ nợ chỉ mong có một ngày con nợ không trả được.

Ngày đó đã đến, nhờ trận mưa đá.

Thế rồi việc xảy ra như thế nào!

Chúng tôi không phải phấp phỏng lâu la gì. Ngày hôm sau hạn trả nợ mà ông An-Thanh không có tiền trả, có một người ăn mặc đồ đen đến, thái độ không được lịch sự lắm đưa cho chúng tôi một tờ giấy có dán tem trong có mấy chữ viết vào dòng để trống.

Đó là ông Thừa phát lại.

Rồi từ đó, ông ta lại đến luôn luôn đến nỗi quen cả tên chúng tôi. Ông ta nói:

- Chào em Lê-Minh! Chào em An-Sinh! Cô Yến-Chi vẫn mạnh đấy chứ?

Rồi ông trao tờ giấy có tem cho chúng tôi, tươi cười như nói với bạn:

- Các em chơi nhé!

- Chơi cái con mèo!

Ông An-Thanh không hay ở nhà. Ông thường ra Ba-Lê. Để làm gì? Tôi không biết, thời thường ông rất cởi mở, bây giờ ông chẳng hề hé răng. Ông đến nhờ các phòng biện sư hoặc hầu tòa.

Nói đến tòa tôi lại ghê người. Ông Vỹ-Tiên chẳng đã ra tòa và kết cục thế nào tôi đã rõ.

Về phần ông An-Thanh, kết quả còn phải đợi. Không có tiền sửa sang gây dựng lại giàn kính và nhà gương, chúng tôi phải bới đất trồng rau hoặc vài thứ hoa không cần che kính để sinh sống cho qua mùa đông và cũng để có việc làm.

Một buổi chiều kia, ông An-Thanh trở về rầu rĩ hơn ngày thường.

Ông gọi các con bảo:

- Các con ơi! Thế là hết cả!

Tôi định ra ngoài, vì tôi biết có chuyện biến gì đây và ông chỉ gọi các con ông thôi nên tôi không nên ở lại.

Nhưng một cái vẫy tay, ông giữ tôi lại, ông nói:

- Con không phải là người trong gia đình hay sao? Dù con chưa đến tuổi để nghe lời ta nói, nhưng cái biến cố xảy đến đã xúc động lòng con phần nào và làm cho con hiểu: Các con ơi! Ta sắp từ biệt các con!

Các con đều kêu trời!

Lệ-Hoa chạy vào ôm lấy cha và nức nở khóc.

- Có phải cha tự ý bỏ các con đâu! Ai lại nỡ bỏ những đứa con thảo như các con, ngoan như Lệ-Hoa?

Rồi ông ôm chặt lấy Lệ-Hoa nói tiếp:

- Vì cha không có tiền để trả nợ, người ta sẽ bán tất cả chỗ này. Nhưng cũng không đủ số tiền nợ, người ta sẽ bỏ tù cha trong 5 năm. Không trả được bằng tiền, ta phải trả bằng thân ta, bằng tự do của ta.

Chúng tôi đều khóc òa lên.

Ông nói:

- Phải. Buồn lắm. Các con ạ. Nhưng không thể cưỡng với pháp luật vì là pháp luật. Năm năm! Trong thời gian đó các con sẽ như thế nào?

Đó là điều đau khổ.

Im lặng một lúc, ông lại nói:

- Ta cũng nghĩ đến điều đó và liệu sao cho các con khỏi phải bơ vơ sau ngày cha bị bắt.

Lòng tôi nở chút hy vọng.

- Lê-Minh, con viết thư cho bà Cát-Tường, em gái ta ở làng Mộc-Văn quận Đơ-Di, trình bày cảnh huống nhà ta và mời bà đến ngay. Bà là người sáng suốt và thông thạo, có thể thu xếp mọi việc cho các con.

Thực là lần đầu tiên tôi cầm bút và viết một bức thư, bức thư đó ngán nỗi lại báo một tin buồn.

Mặc dầu việc đó còn bấp bênh nhưng cũng cho chúng tôi một tia hy vọng. Và trong hoàn cảnh của chúng tôi lúc ấy, hy vọng cũng là đã hay rồi! Còn biết làm gì hơn nữa?

Chúng tôi hy vọng. Bà Cát-Tường sắp đến. Bà là một người thạo việc, rất mừng cho những đứa trẻ thơ ngây và nhỏ dại như chúng tôi. Đối với người thạo việc, trên đời này còn có việc gì khó khăn nữa?

Nhưng than ôi! Bà không đến sớm như lòng chúng tôi mong đợi. Và những người cảnh sát Tư-pháp đã đến sớm trước bà.

Hôm ấy, ông An-Thanh cho tôi cùng đi để đến thăm một người bạn. Chúng tôi vừa ra khỏi cửa thì gặp mấy người cảnh sát kéo đến quây lấy chúng tôi. Ông An-Thanh không lẩn tránh, ông thất sắc như người bị đau. Ông nghẹn ngào xin với mấy người cảnh sát đó được trở vào hôn các con.

Một người cảnh sát có lòng nhân từ bảo:

- Ông đừng lo. Tù nợ không khổ lắm đâu. Trong ấy cũng lắm người tử tế.

Chúng tôi vào nhà, bọn cảnh sát theo sau. Tôi vội ra vườn gọi các con trai ông. Khi chúng tôi trở vào thì thấy ông đang bế Lệ-Hoa, cô bé khóc sướt mướt. Người cảnh sát nói trên ghé vào tai ông, nói nhỏ câu gì tôi không nghe rõ, nhưng thấy ông trả lời:

- Vâng, thầy nói phải đấy. Phải thế mới được.

Rồi ông vụt đứng dậy, đặt Lệ-Hoa xuống đất. Nhưng cô cứ bám chặt lấy ông không chịu buông ra.

Đoạn ông lần lượt hôn Yến-Chi, An-Sinh và Bằng-Mai.

Tôi đứng một góc, nước mắt ràn rụa. Ông gọi tôi:

- Minh, không lại hôn ta à? Con không phải là con ta hay sao?

Chúng tôi lúc bấy giờ cuống quít cả lên.

Ông nghiêm sắc mặt bảo:

- Các con ở lại. Không được nhốn nháo.

Rồi ông cầm tay Lệ-Hoa đặt vào tay Yến-Chi và ra thẳng.

Tôi toan theo ông, nhưng vừa ra đến cửa thì Yến-Chi ra hiệu cho tôi đứng lại.

Lúc đó chúng tôi như những kẻ mất hồn, ngồi tụm trong bếp, bưng mặt khóc như di. Không ai tìm được câu gì để nói. Nói gì? Chúng tôi vẫn biết rằng ngày một ngày hai thế nào cha cũng bị bắt. Chúng tôi chắc có bà Cát-Tường ở đó để bảo vệ chúng tôi. Nhưng bà Cát-Tường không ở đó.

Một giờ sau khi ông An-Thanh đi rồi, bà Cát-Tường mới đến. Bà thấy chúng tôi ở cả trong bếp và chẳng ai nói một câu gì. Người mà xưa nay vẫn bảo ban nâng đỡ chúng tôi, bây giờ cũng mất hết tinh thần rồi. Thực vậy, cô Yến-Chi ngày thường khỏe mạnh và can đảm như thế, nay thấy mềm yếu hơn chúng tôi. Cô không khuyên bảo gì nữa vì mất hết nghị lực, hết sáng kiến, hoàn toàn chìm đắm trong đau khổ, có gượng được chút nào là chỉ để dỗ Lệ-Hoa thôi. Người hoa tiêu đã rơi xuống biển rồi.

Chúng tôi, lũ trẻ con, từ nay không người bẻ lái, không ngọn hải đăng dẫn đường, không có cách gì để vào bến, và cũng không biết có một bến nào để ghé lên, chúng tôi thật bơ vơ trong biển của đời, bềnh bồng theo sóng gió, không sao có một hành động hay một ý kiến gì để giải thoát, chỉ có lo sợ và thất vọng mà thôi.

Bà Cát-Tường là một người có kinh nghiệm và sẵn ý chí. Bà từng làm vú nuôi ở Ba-Lê trong mười năm cho 5 chủ khác nhau. Bà hiểu biết những khó khăn trong đời và theo lời bà, bà biết khắc phục những trở lực đó. Sự có mặt của bà thật là một mối an ủi lớn cho chúng tôi. Chúng tôi đã tìm được chỗ bám. Chúng tôi lại đứng thẳng mình được trên đầu gối chúng tôi.

Đối với một người đàn bà, cưu mang một ổ gần 5 đứa trẻ, đứa lớn nhất chưa đến 17 tuổi và đứa bé nhất lại câm, thực là một trách nghiệm nặng nề, chính những người đảm đang nhất cũng phải lo ngại, làm gì cho những đứa trẻ bây giờ? Nuôi chúng được chăng khi mà chính người ta cũng phải ăn bữa sáng lo bữa chiều?

Một chủ cũ của bà ở Ba-Lê làm nghề Thừa phát lại. Bà đến đó để nhờ chỉ giáo. Những lời khuyên của ông này sẽ định đoạt số phận của chúng tôi. Rồi bà lại vào khám để bàn định với ông An-Thanh. Bà không hề nói gì về việc vận động và ý kiến của bà với chúng tôi. Tám hôm, sau ngày bà đến Ba-Lê, bà cho chúng tôi biết quyết định của bà. Vì chúng tôi còn bé quá không thể đi làm lấy mà nuôi nhau được. Mỗi đứa phải đến ở nhờ một người trong họ.

Lệ-Hoa ở với cô Cát-Tường ở làng Mộc-Văn.

An-Sinh ở với chú làm thợ mỏ ở Văn-Xá, thuộc Xê-Viên.

Bằng-Mai ở với ông chú khác, thợ trồng rau ở Lan-Thành.

Còn Yến-Chi ở với một người cô lấy chồng ở miền Sa-Lăng ở miền duyên hải Yến-Nam.

Tôi nghe bà phân phối và đợi đến lượt tôi.

Nhưng bà Cát-Tường cắt đặt đến Yến-Chi thì thôi không nói nữa. Tôi liền tiến lại và hỏi:

- Thưa còn tôi nữa?

- Mày à? Mày không phải người nhà.

- Tôi sẽ làm cho bà.

- Mày không phải con cháu.

- Bà hỏi An-Sinh, hỏi Bằng-Mai xem có phải tôi rất chăm làm.

- Chăm cả ăn bánh mì nữa phải không?

Hai anh đều nói:

- Phải, phải. Minh cũng là người nhà.

Lệ-Hoa lại trước mặt bà Cát-Tường, chắp tay và trỏ vào tôi, ý kêu van cho tôi cùng đi.

Bà Cát-Tường bảo:

- Cháu ơi! Cô hiểu lắm. Cháu muốn cho Minh cùng đi. Nhưng cháu nên biết ở đời lắm lúc người ta không thể làm được những điều người ta muốn. Cháu là cháu cô. Đến khi về nhà cô, chồng cô có ra bộ không bằng lòng thì cô có thể nói rằng: “Nó là cháu, nếu ta không thương nó thì ai thương nó?”. Gia đình các cô, các chú khác cũng thế. Người ta chỉ có thể rước những người họ, không ai nuôi người ngoài. Người ta bớt bánh vì con cháu chứ không ai bớt bánh cho cả mọi người.

Tôi nhận thấy tôi không thể làm gì hơn, nói gì hơn nữa. Những điều bà Cát-Tường vừa nói thực quá phải. “Tôi không phải người nhà”. Tôi không vì lẽ gì để đòi hỏi nữa, còn kêu xin tức là ăn mày, tôi không muốn thế. Dù không phải là con một nhà, tôi cũng yêu các con ông như tình ruột thịt. An-Sinh, Bằng-Mai há chẳng phải là các anh tôi sao! Yến-Chi, Lệ-Hoa há chẳng phải là chị là em tôi sao! Các anh và chị lớn yêu tôi như yêu Lệ-Hoa. Và Lệ-Hoa cũng yêu tôi như yêu các anh Bằng-Mai hay An-Sinh.

Bà Cát-Tường không hề thay đổi ý kiến một khi bà đã định làm. Bà cho chúng tôi biết trước là ngày mai chia tay nhau và bây giờ thì đi ngủ cả đi. Chúng tôi vừa vào buồng thì mọi người đã quây lấy tôi, Lệ-Hoa ôm lấy tôi mà khóc. Tôi rất cảm động, nghĩ rằng mặc dầu gia đình tan tác, anh em phải xa lìa nhau, mà họ thương tôi trước nhất, tôi há chẳng phải là người em hay sao? Tức thì một ý tưởng rọi sáng trong óc rối bời của tôi, đó là một nguồn linh cảm tự nhiên phát từ trái tim lên óc tôi. Tôi bảo các anh chị:

- Các anh chị ơi! Nếu các cô chú không nhận tôi, các anh chị cứ cho tôi là con một nhà có được không?

- Có! Có! Minh bao giờ cũng là em chúng tôi!

Lệ-Hoa không nói được, nhấn mạnh câu đó bằng cái bắt tay quá chân thành khiến tôi không cầm được nước mắt. Tôi nói:

- Tôi sẽ là em anh chị, một đứa em hết lòng. Tôi sẽ chứng minh điều đó.

Bằng-Mai hỏi:

- Thế anh định đi làm đâu?

Yến-Chi nói:

- Có một chỗ làm ở nhà ông Bích-Niên. Anh có muốn tôi hỏi giúp không?

- Tôi không muốn đi làm thuê. Nếu tôi làm thuê ở Ba-Lê, tôi sẽ không bao giờ được gặp các anh chị và Lệ-Hoa nữa. Tôi sẽ lại khoác mảnh áo da cừu, tôi sẽ hạ cây đàn mà tôi đã treo ở kia, tôi sẽ đi từ Lan-Thành đến Văn-Xá, từ Văn-Xá đến Yến-Nam và từ Yến-Nam đến Mộc-Văn. Tôi sẽ lần lượt thăm hết anh chị Lệ-Hoa. Và do tôi các anh chị và Lệ-Hoa sẽ được liên lạc với nhau luôn. Tôi còn nhớ các bản “Tình-ca” và vũ khúc. Tôi sẽ mưu sinh được.

Nét mặt mọi người đều tươi hẳn lên. Và trong cơn phiền muộn, lòng tôi thấy nhẹ nhàng. Chúng tôi nói chuyện rất lâu, hết chuyện dự định, chuyện chia tay, đến chuyện tái ngộ, chuyện quá khứ, chuyện tương lai.

Đêm đã khuya, Yến-Chi giục chúng tôi đi ngủ. Nhưng suốt đêm đó chẳng ai chợp mắt được, nhất là tôi.

Sáng sớm hôm sau, Lệ-Hoa dắt tôi ra vườn, tôi hỏi cô có điều gì muốn nói.

- Cô muốn nói chuyện phải không?

Cô gật đầu.

- Cô buồn vì anh em xa cách. Cô không phải nói, tôi đã thấy rõ ở đôi mắt cô và tôi đã cảm thấy ở trong lòng tôi.

Cô ra hiệu rằng không phải vấn đề đó.

- Trong 15 ngày nữa, tôi sẽ đến Mộc-Văn thăm cô.

Cô lắc đầu.

- Cô không muốn tôi đến Mộc-Văn?

Muốn nói chuyện với cô, thường đặt những câu hỏi để cô trả lời “có” hay “không”.

Cô muốn tôi đến Mộc-Văn lắm, nhưng cô giơ tay về ba phía cho tôi hiểu rằng tôi hãy thăm hai anh và chị cô trước.

- Cô muốn tôi đi đến Văn-Xá, Yến-Nam và Lan-Thành trước?

Cô mỉm cười, sung sướng vì tôi đã hiểu ý cô.

- Tại sao cô lại không muốn tôi đến thăm cô trước?

Tay cô và mắt cô đã nói lên như sau:

- Để cho anh biết tin tức chị Yến, anh An và anh Bằng trước, rồi khi về Mộc-Văn, anh sẽ kể lại cho tôi nghe những điều anh trông thấy và những lời các anh chị đã gửi anh.

Cô Lệ-Hoa đáng thương!

Bốn anh chị sẽ phải khởi hành hồi 8 giờ. Bà Cát-Tường đã thuê một chiếc xe ngựa đưa các con ông An-Thanh vào khám để từ biệt ông, rồi ra ga, mỗi người một gói lên tàu về các nơi đã định.

Lúc đó 7 giờ.

Đến lượt cô Yến-Chi đưa tôi ra vườn:

- Chúng ta sắp xa cách nhau, tôi muốn lưu cho anh một kỷ niệm. Đây là cái hộp khâu trong đó có đủ kim, chỉ và kéo mà trước kia người cha đỡ đầu đã cho tôi. Anh cầm lấy. Đi đường, anh sẽ cần đến các thứ này để đính cúc hoặc vá áo. Tôi sẽ không có đấy để giúp anh. Khi cầm đến cái kéo, anh sẽ nhớ đến chúng tôi.

Trong khi Yến-Chi nói chuyện với tôi, An-Sinh cũng lượn quanh tôi. Khi cô trở vào, tôi đang cảm động không nói được câu nào thì An-Sinh lại gần tôi bảo tôi:

- Tôi có 2 đồng 5 xu. Tôi biếu anh một đồng, anh nhận thì tôi thích lắm.

Trong bọn năm người chúng tôi, An-Sinh là người quý tiền hơn cả. Chúng tôi thường chế riễu anh luôn. Anh góp nhặt từng xu một. Khi đổi được đồng 10 xu hay đồng 20 xu mới thì luôn tay đem ra ngắm nghía cái mặt lóng lánh của nó hay rê lên để nghe tiếng kêu leng keng thì lấy làm thú lắm.

Đồng tiền biếu bất ngờ làm cho tôi vô cùng cảm xúc. Tôi không muốn lấy nhưng anh nài tôi và bỏ vào tay tôi đồng tiền sáng loáng và đẹp quá. Do đó, tôi nhận thấy anh quý tôi hơn tiền, vật mà anh thích nhất trên đời.

Bằng-Mai cũng không quên tôi. Anh cũng muốn lưu cho tôi một kỷ niệm. Anh không có gì cả, chỉ có một con dao, anh đem đổi cho tôi lấy một xu vì người ta thường kiêng cho nhau dao: “lưỡi dao hay cắt tình thân”.

Giờ phút đi nhanh chóng. Chỉ còn 15 phút nữa, rồi 5 phút nữa, chúng tôi sẽ xa nhau. Lệ-Hoa không nhớ tôi hay sao?

Giữa lúc xe ngựa lạch cạch đến cửa, Lệ-Hoa ở buồng bà Cát-Tường ra, gọi tôi theo cô ra vườn.

Bà Cát-Tường gọi giật lại:

- Lệ-Hoa!

Nhưng cô không trả lời, cứ ra thẳng vườn.

Trong vườn còn sót một gốc hồng giống Băng-Gan ở góc giậu. Lệ-Hoa bẻ lấy một cành có hai nụ hàm tiếu, cô chia cho tôi một nhánh.

Ôi! Lời nói ở miệng không hùng hồn bằng lời nói ở mắt. Tiếng nói không nồng nàn, đằm thắm bằng khóe mắt!

Bà Cát-Tường gọi gấp:

- Lệ-Hoa! Lệ-Hoa!

Đồ đạc xếp cả lên xe ngựa rồi.

Tôi vác đàn và gọi Lãnh-Nhi. Lãnh-Nhi trông thấy nhạc khí và bộ áo của tôi năm xưa, nó nhảy nhót vui mừng. Chắc nó biết rằng nó sắp được chạy nhảy tự do trên đường cái, sung sướng hơn là bị giam hãm ở xó vườn. Lúc phân kỳ đã đến. Bà Cát-Tường muốn làm vắn tắt. Bà gọi Yến-Chi, An-Sinh, Bằng-Mai lên xe và bảo tôi đỡ Lệ-Hoa lên lòng bà.

Rồi thấy tôi đứng ngây ra, bà đẩy nhẹ tôi ra và đóng cửa xe lại.

Tôi kêu với theo:

- Các anh hôn cha cho tôi với, vì…

Tôi nghẹn ngào không nói được.

Bà Cát-Tường giục người đánh xe:

- Đi đi!

Xe bắt đầu chuyển bánh.

Qua làn nước mắt, tôi thấy Lệ-Hoa nghiêng đầu ra cửa xe và thò tay vẫy tôi. Rồi xe chạy nhanh, đến chỗ ngoẹo, tôi chỉ còn thấy một đám cát bụi bay mù.

Thôi thế là hết!

Hai tay tì trên cây đàn, dưới chân con Lãnh-Nhi nằm đợi, tôi đứng đó rất lâu nhìn đám bụi tan dần.

Một người hàng xóm giữ việc nhận nhà và khóa cửa cho chủ nợ, lên tiếng gọi làm tôi giật mình và trở về thực tại.

Ông ta nói:

- Em có muốn ở lại đây không?

- Không. Tôi đi.

- Đi đâu bây giờ?

- Thẳng đằng trước mặt tôi.

Có lẽ ông còn chút từ tâm nên giơ tay và bảo tôi:

- Nếu em muốn ở, ta sẽ nuôi em nhưng không có tiền vì em còn bé quá. Rồi sau sẽ hay.

Tôi cám ơn ông ta và chối từ.

- Cái đó tùy ý. Ta thương em nên bảo thế thôi. Chúc em lên đường may mắn.

Rồi ông trở vào.

Xe đã đi xa rồi. Nhà đã khóa rồi. Tôi đeo đàn lên vai. Các tác động quen thuộc đó làm cho Lãnh-Nhi chú ý. Nó đứng dậy, ngửa mặt nhìn tôi.

- Đi đi, Lãnh-Nhi.

Nó hiểu, nhảy lên trước và kêu “gâu gâu”.

Tôi ngoái nhìn lần cuối cùng ngôi nhà mà ở đấy tôi đã nương náu hai năm trời, ở đấy tôi vẫn tưởng sống suốt đời, bây giờ bước ra không khỏi ngậm ngùi.

Mặt trời đã lên cao. Trời trong sáng không một vẩn mây. Khí trời ấm áp khác hẳn với đêm tuyết giá năm xưa tôi đã ngã gục ở cửa vườn kia. Hai năm trời chỉ là một độ nghỉ. Nghỉ xong, tôi phải lên đường.

Độ nghỉ đó đã mát mẻ biết bao!

Nó đã cho tôi sức khỏe, và điều đáng quý hơn sức khỏe ở thân thể tôi là tình hữu ái đang chứa chan ở trong trái tim tôi.

Tôi không cô quạnh ở trên đời nữa.

Đời tôi chỉ có một mục đích: giúp đỡ và làm vui lòng những người yêu tôi và tôi yêu.

Tôi bắt đầu bước vào cuộc sống mới. Tôi nhớ lại thầy tôi, tôi tự nhủ:

- Tiến lên!

Phần II - Chương XXII

tiến lên

Tiến lên!

Thế giới mở rộng trước mắt tôi. Tôi có thể đi về phương bắc hay phương nam. Sang phương đông hay phương tây. Tùy sở thích của tôi.

Tôi vừa là một đứa trẻ con, vừa lại là ông thầy của tôi.

Than ôi! Chính vì tình cảnh đó mà tôi lại buồn cho tôi.

Biết bao đứa trẻ thầm ước rằng: “A! Giá mà ta có thể muốn làm gì thì làm, giá mà ta được tự do, giá mà ta là thầy của ta” và chúng mong được có cái ngày sung sướng đó để tự do… nghịch ngợm.

Tôi lại khác. Tôi nghĩ thầm: “A! Giá mà ta có được một người nào ở bên cạnh để khuyên bảo ta, để điều khiển ta!”

Giữa những đứa trẻ đó và tôi, lòng ao ước cách nhau một vực một trời!

Nếu những đứa trẻ đó nghịch ngợm, sau lưng chúng đã sẵn có người giơ tay ra đỡ khi chúng sảy chân hay dắt chúng dậy khi chúng ngã. Còn tôi, tôi chả có ai cả. Nếu tôi sảy chân, tôi cứ ngã đau. Và nếu không què gẫy, tôi cứ việc tự mình lóp ngóp dậy. Khá nhiều kinh nghiệm cho tôi biết rằng tôi rất có thể què gẫy. Mặc dầu tôi ít tuổi, tôi bị biến cố thử thách đã nhiều nên biết thận trọng và suy nghĩ hơn những đứa trẻ bằng tuổi tôi. Đó là một lợi thế mà tôi đã phải trả bằng giá rất đắt.

Trước khi bước chân vào con đường vô định, tôi muốn đến thăm người mà trong mấy năm nay coi tôi như con. Nếu bà Cát-Tường đã không cho tôi vào để từ giã ân nhân của tôi, một mình tôi, tôi cũng có thể đến hôn ông được.

Tôi vẫn thấy người ta nói nhà tù nợ ở phố Mã-Liên. Phố này tôi biết lắm, đến nơi tôi sẽ hỏi thăm. Bà Cát-Tường cùng các con ông có thể vào chào ông được, tất tôi cũng xin phép vào được. Tôi cũng là người nhà, là con ông chứ có kém đâu!

Tôi không dám đi qua các phố ở Ba-Lê với con chó thả rong. Nếu Cảnh binh hỏi thì tôi sẽ trả lời làm sao? Trong mọi thứ sợ, theo kinh nghiệm bản thân của tôi thì cái sợ Cảnh binh là ghê gớm hơn cả, vì tôi chưa quên tấn kịch ở Tu-lu. Tôi lấy dây cột vào cổ con Lãnh-Nhi – việc này làm trạnh lòng tự ái của nó nhiều lắm vì nó vốn là một con vật thông minh và có giáo dục – rồi một tay cầm đầu dây, tôi tìm đến nhà khám Kích-Chi.

Ở trên đời này có những điều sầu thảm khiến ta trông thấy phải đau lòng. Không còn cái gì xấu hơn và buồn hơn là cái cửa nhà giam.

Đến nơi, tôi đứng dừng lại, không dám bước vào, tôi sợ người ta sẽ giam tôi, sợ cái cửa oan nghiệt kia hé cho tôi vào để không bao giờ mở ra nữa.

Tôi chỉ tưởng tượng là vào nhà lao thì khó ra, chứ có biết đâu là rất khó vào.

Nhưng tôi không đến nỗi bị ngăn bị đuổi, cuối cùng tôi cũng được phép vào. Người ta cho tôi vào phòng nói chuyện. Phòng này không có rào sắt như tôi tưởng. Một lát sau thì ông An-Thanh ra, không phải đeo xiềng xích gì.

Ông nói:

- Minh ơi! Ta đợi con mãi. Ta có trách bà Cát-Tường sao không cho con cùng đến với các con ta.

Từ sáng đến giờ tôi buồn quá. Câu nói đó làm cho tôi phấn khởi.

Tôi nói:

- Bà Cát-Tường không muốn cho con về với bà.

- Không được, con ạ! Ở đời lắm khi người ta không thể làm những điều mà người ta muốn. Ta chắc con có thể tự túc được. Ông Suy-Ô, làm ở đập sông Niên thực đấy, nhưng người ta không tuyển thợ làm vườn. Các con ta bảo con muốn trở lại nghề cũ. Vậy con đã quên cái đêm suýt chết rét ở cửa nhà ta rồi sao?

- Không. Con nhớ lắm!

- Thuở ấy, con không sống một mình, con có thầy con bên cạnh. Bây giờ trơ trọi, tuổi lại còn non, con muốn phiêu lưu trên đường cái thực nguy hiểm lắm!

- Con còn có Lãnh-Nhi!

Nghe thấy nhắc đến tên nó, Lãnh-Nhi ăng ẳng mấy tiếng như để trả lời: “Có tôi đây. Nếu cần đến, tôi sẵn sàng!”

- Vẫn biết Lãnh-Nhi là một con chó có nghĩa, nhưng nó chỉ là một con chó. Vậy con làm thế nào mà kiếm ăn được?

- Con sẽ đi hát và con Lãnh-Nhi sẽ diễn trò.

- Một mình Lãnh-Nhi thì diễn trò sao nổi?

- Con sẽ dạy nó nhảy múa làm xiếc. Nó sẽ vui lòng luyện tập. Phải không Lãnh-Nhi?

Lãnh-Nhi đứng dậy, để một chân vào ngực.

- Nếu con biết nghĩ xa, con nên đi làm thuê, vì con đã biết nghề rồi, còn hơn đi giang hồ, đó là một nghề của những kẻ lười biếng.

- Con không phải là một kẻ lười, chắc cha đã rõ. Không bao giờ con phàn nàn là lắm việc, là vất vả. Với cha, con có thể ở mãi được, làm mãi được. Nhưng ở với người khác, con không muốn.

Tôi nói mấy câu sau với một giọng cương quyết, nên ông nhìn tôi một lúc không nói gì.

Sau ông bảo tôi:

- Con có kể lại cho ta hay rằng thầy con, ông Vỹ-Tiên, ngày trước có tính khẳng khái lắm. Nay ta nhận thấy ở con cũng có tính đó. Con không muốn làm tôi tớ người khác. Thôi, cái đó tùy con. Những lời ta khuyên con đây cũng như những việc ta đã làm cho con; là cốt mong cho con hay. Nhưng bây giờ con tự chủ rồi, vì con không có cha mẹ, không có thầy và ta đây cũng không đỡ đầu cho con được nữa. Một kẻ khốn nạn như ta bây giờ không có quyền ra lệnh nữa.

Những điều ông An-Thanh vừa nói làm cho lòng tôi thêm bối rối.

Phải, một mình lang thang trên đường cái, long đong biết bao! Tôi đã cảm thấy thế và nhìn thấy thế. Khi người ta đã sống một đời du mục như tôi, khi người ta đã trải qua những đêm như đêm tuyết giá bị chó sói đến bắt những con vật nuôi của mình, như đêm lặn lội vào lò đá, khi người ta đã bị đói cào ruột, rét cắt da như tôi đã từng chịu đau khổ, khi người ta đã bị xua đuổi hết làng này đến làng khác, không kiếm được một đồng xu nhỏ như hồi ông Vỹ-Tiên nằm ở nhà lao, người ta mới thấm thía hết cái nguy hiểm và cái khổ cực của đời sống không nhà, một đời sống mà ngày mai không vững chắc, và chính ngày hiện tại cũng bấp bênh.

Nếu tôi từ bỏ cái đời sống gieo neo này, tôi chỉ còn có một cách là làm theo lời ông An-Thanh vừa khuyên bảo: đi ở cho người ta. Nhưng tôi không thể nào bỏ cái đời tự do, cái đời lữ hành đó mà không lỗi hẹn với Yến-Chi, An-Sinh và Bằng-Mai, nghĩa là bỏ rơi các người thân yêu đó. Thực ra Yến-Chi, An-Sinh và Bằng-Mai có thể không cần đến sự giúp đỡ của tôi vì họ có thể viết thư cho nhau được. Nhưng Lệ-Hoa không biết viết, cả bà Cát-Tường cũng không. Lệ-Hoa sẽ bặt tin mọi người, nếu tôi bỏ cô. Cô sẽ nghĩ gì về tôi? Chắc cô chỉ nghĩ có một điều: tôi không yêu mến cô nữa. Chính cô đối với tôi có một tình hữu ái rất chân thành. Tôi không thể làm thế được.

Tôi liền nói:

- Con sẽ thông tin tức các anh chị cho cha.

- Các con ta đã nói đến. Không muốn con phải vất vả vì gia đình ta, nên ta khuyên con bỏ nghề diễn trò. Người ta không nên nghĩ đến mình, trước khi nghĩ đến những người khác.

- Thưa cha, chính thế. Cha đã thương mà chỉ cho con điều hơn lẽ thiệt. Nếu con sợ những nỗi nguy hiểm dọc đường mà cha vừa vạch ra, con bỏ lời đã ước hẹn, như thế là con chỉ nghĩ đến phần con. Con không nghĩ đến gia đình cha, không nghĩ đến Lệ-Hoa.

Ông lại nhìn tôi một lúc thật lâu hơn rồi thình lình, ông cầm lấy hai tay tôi:

- Con ơi! Ta phải hôn con về câu nói đó. Con thực là đứa trẻ hào khí. Người ta không phải cứ lớn mới có tính khí đó.

Tôi liền ôm lấy ông.

Ông nói:

- Con ơi! Ta chỉ nói thêm một câu nữa: Cầu trời phù hộ con!

Rồi cả hai ngồi im lặng trên ghế dài. Thì giờ đi vùn vụt. Đã đến lúc phải rời nhau.

Chợt, ông thò tay vào túi và móc ra một cái đồng hồ quít bằng bạc có dây da để đeo vào khuy.

- Trong khi ly biệt, ta không thể không cho con một chút gì làm kỷ niệm. Đây, ta có chiếc đồng hồ cho con. Nó không đáng mấy – nếu nó đắt thì ta phải đã bán tự lâu rồi – mà chạy cũng không đúng. Đôi khi phải vặn lại kim. Nhưng đó là tất cả cái mà ta còn lại hiện giờ. Vì thế ta mới cho con.

Ông vừa nói vừa đặt cái đồng hồ vào tay tôi. Thấy tôi ngần ngại không dám lấy món quà quý đó, ông nói thêm giọng buồn rầu:

- Con nhớ rằng ở đây không cần xem giờ. Sao mà thì giờ đi chậm thế, ta phải đếm từng giờ thì đến buồn mà chết. Thôi! Vĩnh biệt con! Con hôn ta lần nữa đi! Con thực là đứa trẻ can đảm. Con cố giữ lấy nết đó.

Xong tôi thấy ông cầm tay tôi đưa ra cửa. Rồi chúng tôi làm gì, nói gì tôi cũng không biết nữa vì lúc đó tôi quá xúc động.

Khi ra đến phố rồi, tôi như ngây như dại, đứng mãi ở trước cửa nhà lao; không biết nên đi sang bên phải hay bên trái. Có lẽ tôi sẽ đứng đó đến tối nếu tay tôi không mân mê trong túi thấy một vật tròn và rắn. Tôi sờ mãi và sực nhớ ra: cái đồng hồ!

Lập tức, buồn, lo, sợ tiêu tán hết. Một đứa trẻ bao giờ chả thích đồng hồ? Ôi! Sung sướng quá! Tôi đã có đồng hồ, một cái đồng hồ của riêng tôi, trong túi tôi. Tôi sẽ biết giờ giấc. Rồi tôi kéo ra xem mấy giờ? Đúng 12 giờ. 12 giờ hay 14 giờ, hay 10 giờ, cái đó cũng chẳng ích gì cho tôi. Nhưng tôi thấy thích quá vì đúng 12 giờ. Tại sao thế? Tôi cũng không biết lý do, nhưng sự thực là như thế. A! 12 giờ? Đã 12 giờ? Tôi biết rằng lúc đó là 12 giờ, đồng hồ của tôi đã bảo tôi biết. Tôi tưởng tượng cái đồng hồ là một người bạn tâm sự.

- Bạn đồng hồ ơi! Mấy giờ rồi?

- 12 giờ rồi, bạn Minh ạ.

- Đến trưa rồi à? Vậy tôi phải làm việc này hay việc nọ phải không?

- Đúng lắm.

- Nếu không có anh, tôi quên mất.

- Tôi sẽ ở luôn bên cạnh để nhắc anh.

Thế là bây giờ tôi có hai người bạn đường để trò truyện: bạn Lãnh-Nhi và bạn đồng hồ.

Đồng hồ! Hai tiếng nghe êm ái biết bao? Đã lâu tôi mơ ước có một cái đồng hồ. Nhưng tôi nghĩ rằng không đời nào tôi có cái may mắn đó. Thế mà bây giờ trong túi tôi lại có đồng hồ đang kêu tích tắc. Ông An-Thanh bảo nó chạy không được tốt, cần phải vặn kim luôn. Nếu vặn không xong, tôi sẽ mở hẳn ra. Có lẽ thú lắm. Tôi trông thấy máy móc bên trong và xem nó chạy thế nào? Tôi có thể săn sóc và làm cho nó chạy đều.

Tôi mải nói chuyện với đồng hồ, quên bẵng con Lãnh-Nhi. Chợt nó kéo ống quần tôi và kêu ăng ẳng, làm cho tôi hết mơ màng trong giấc mộng.

Lãnh-Nhi? Muốn gì?

Nó nhìn tôi. Tôi không hiểu ý nó muốn gì, thì nó đứng lên bằng hai chân sau, lấy một chân trước vỗ vào túi tôi đang đựng chiếc đồng hồ.

A! Nó muốn xem đồng hồ để báo cho các khán quan biết rằng mấy giờ như ngày còn ông Vỹ-Tiên.

Tôi liền giơ đồng hồ ra cho nó coi, nó nhìn một lúc lâu như để nhớ lại. Xong nó ve vẩy đuôi và cắn 12 tiếng. Nó vẫn xem được giờ, chưa quên. Hay lắm, chúng tôi có thể kiếm ăn với cái đồng hồ này. Thêm một trò hay nữa mà tôi không ngờ đến.

Chúng tôi lúc đó ở cửa nhà lao. Những khách qua đường quay nhìn chúng tôi. Cũng có người đứng hẳn lại để xem.

Nếu tôi dám, tôi đã diễn trò ngay ở đó. Nhưng không bao giờ cảnh sát lại để yên, vả lại lúc đó là 12 giờ, chính là lúc phải lên đường.

Tiến lên!

Tôi nhìn lần cuối cùng, tôi vĩnh biệt cái nhà lao kia mà vị ân nhân của tôi đã bị cầm giữ ở đó. Rồi chúng tôi đi.

Cái vật liệu cần thiết nhất cho đời giang hồ của chúng tôi là bản đồ nước Pháp. Tôi biết ở bến tàu có bán, nên tôi ra nơi đó để mua.

Khi qua công trường Các-Xuyên, nhìn thấy chiếc đồng hồ lớn của một tòa lâu đài, tôi nghĩ thử đem đồng hồ của tôi ra so xem sao. Đồng hồ của tôi lúc đó 12 giờ rưỡi. Đồng hồ rồi tòa lâu đài kia chỉ 1 giờ. Trong hai chiếc đồng hồ, chiếc nào chạy đúng hơn? Tôi định vặn kim đồng hồ lên, nhưng một ý nghĩ làm tôi dừng lại: không có cái gì chứng minh là đồng hồ tôi có lỗi và biết đâu cái đồng hồ lớn kia lại không sai? Thế rồi tôi lại bỏ đồng hồ của tôi vào túi và tự nhủ: giờ của ta còn sớm.

Việc mua bản đồ hơi lâu. Tôi muốn có một cái có vải bồi ở phía sau gấp lại được và giá không quá 2 phật-lăng – món tiền lớn đối với tôi – sau cùng tôi chọn được một cái đã cũ nhưng còn lành và chỉ phải trả có 13 xu thôi.

Bây giờ tôi có thể rời khỏi Ba-Lê được và tôi muốn ra cho nhanh.

Tôi có hai đường đi: một đường về Fonainebleau, một đường đi Orléans. Cả hai nơi chẳng nơi nào quan trọng cho tôi cả. Cái ngẫu nhiên đưa tôi về phía Fonainebleau.

Tôi vào phố Lục-Sinh, phố này gợi cho tôi bao nhiêu chuyện cũ. Phú-Lợi, Mã-Tư, Cát-Độ, nồi khóa vung, roi da và sau cùng là ông Vỹ-Tiên, thầy tôi, thà chịu chết đói còn hơn gán tôi vào tay kẻ hung ác ở phố Lục-Sinh. Khi đến nhà thờ Thánh Mê-Đa, tôi trông thấy một đứa trẻ dựa lưng vào tường trông giống Mã-Tư: cũng cái đầu to, cũng đôi mắt ướt, cũng cái miệng tươi, cũng cái vẻ hiền lành và chịu đựng, nhưng có điều lạ là không lớn được chút nào.

Tôi lại gần để nhìn kỹ xem. Không còn nghi ngờ gì nữa. Chính là Mã-Tư. Mã-Tư cũng nhận ra tôi, nét mặt xanh xao, sáng hẳn lên với một nụ cười. Mã-Tư hỏi:

- Anh đấy à? Có phải có lần anh đã đến nhà Phú-Lợi với một ông cụ già râu bạc. Ngày đó tôi đau đầu quá rồi phải đi nhà thương.

- Phú-Lợi vẫn là chủ anh?

Anh nhìn chung quanh rồi nói nhỏ:

- Phú-Lợi đã ngồi tù. Hắn bị bắt vì đánh chết một đứa trẻ tên là Lan.

Nghe nói Phú-Lợi phải vào nhà lao, tôi sung sướng quá. Trước kia, tôi yên trí nhà lao chỉ là một nơi đáng ghê sợ, bây giờ tôi mới biết nhà lao là có ích.

Tôi hỏi:

- Còn những đứa trẻ khác đâu?

- Tôi không biết vì khi Phú-Lợi bị bắt, tôi không có đấy. Khi tôi ở nhà thương ra, Phú-Lợi nhận thấy tôi là một đứa trẻ yếu chịu đòn và ốm luôn nên tìm cách đẩy tôi đi. Hắn đem tôi đến gánh xiệc Gia-Sơn cho thuê một hạn 2 năm, và lấy tiền trước. Anh có biết gánh xiệc ấy không? Không à? Đó là gánh xiệc không to lắm, nhưng cũng là một gánh xiệc. Họ cần một đứa trẻ làm trò dẻo xương nên Phú-Lợi cho tôi làm ở đó. Đến hôm thứ hai vừa rồi, hết hạn, họ đuổi tôi ra vì đầu tôi bây giờ to quá không lọt vào cái hòm. Tôi vừa ở Dị-Nho là nơi gánh xiệc ở đó, đến đây tìm Phú-Lợi. Nhưng tôi chẳng thấy ai cả, mà nhà thì khóa kín. Một người hàng xóm bảo tôi những lời như tôi vừa kể lại với anh, Phú-Lợi bị tù rồi! Thành ra bây giờ tôi bơ vơ, không biết đi đâu và cũng không biết làm gì.

- Sao anh không trở lại Dị-Nho?

- Khi tôi đi bộ về đây thì gánh xiệc ở Dị-Nho cũng dọn đi Ru-Ăng. Tôi theo đến Ru-Ăng sao được? Vì đường thì xa mà tôi chẳng có đồng nào. Từ trưa hôm qua đến giờ, tôi chưa được miếng bánh nào vào bụng.

Tôi không giàu có gì. Nhưng lúc đó trong túi tôi cũng có chút ít không đến nỗi để Mã-Tư phải chết đói. Ngày tôi lang thang ở Tu-lu, cũng đói như Mã-Tư bây giờ, giá mà ai cho tôi được một mẩu bánh thì ơn ấy phải nghĩ đến đời đời.

Tôi bảo anh:

- Anh hãy đứng đây.

Rồi tôi chạy đến hàng bánh ở đầu phố. Lúc tôi trở về, tôi đưa cho anh một ổ bánh, anh vồ lấy ăn ngấu nghiến.

Anh ăn xong, tôi hỏi:

- Bây giờ anh định làm gì?

- Tôi không biết.

- Phải làm một việc chớ?

- Tôi đang định bán cái đàn vi-ô-lông này thì gặp anh. Nếu vạn nhất phải bán nó thì tôi buồn lắm anh ạ, vì nó là nguồn vui và nguồn an ủi của tôi. Những khi tôi phiền muộn, tôi tìm chỗ vắng người, tôi dạo một vài bài để nghe chơi. Lúc đó tôi thấy trời đất đẹp quá, đẹp hơn trong giấc mộng.

- Thế sao anh không đi đánh đàn trong các phố?

- Tôi đã thử đánh, nhưng chẳng ai cho tiền cả.

Tôi đã biết rõ lắm, biết rõ cái cảnh gảy đàn sái tay mà chẳng ai thèm móc túi.

Mã-Tư hỏi tôi:

- Thế anh? Anh làm gì bây giờ?

Cái tính cao ngạo của tôi phát luôn ra câu trả lời:

- Ông bầu đoàn diễn trò.

Sự thực, tôi cũng có đoàn, đoàn của tôi có con Lãnh-Nhi. Nhưng sự thực đó gần như sai.

Mã-Tư nói:

- Ô! Nếu anh vui lòng?

- Gì?

- Cho tôi nhập đoàn của anh.

Lúc đó, tôi chỉ vào con Lãnh-Nhi và nói thực:

- Anh trông, đoàn của tôi đó.

- Không hề chi, anh ạ! Hai chúng ta cũng đủ. Tôi xin anh. Anh bỏ tôi một mình, tôi sẽ làm ăn gì được! Tôi sẽ chết đói.

Chết đói! Hai tiếng đó đối với người khác, có lẽ họ không hiểu là gì. Nhưng hai tiếng đó đã vang dội trong lòng tôi vì chính tôi đã hiểu nghĩa hai tiếng đó.

Mã-Tư nói:

- Tôi biết làm việc. Trước hết tôi biết hát, biết kéo vĩ-cầm rồi tôi biết uốn mình, biết nhảy dây, biết lộn vòng. Nếu anh muốn thử tài, tôi sẽ diễn anh xem. Tôi sẽ theo lệnh anh. Tôi không cần lương, được ăn là đủ rồi. Nếu tôi làm hỏng, anh cứ việc đánh tôi. Tôi cam kết với anh như thế. Nhưng có điều tôi xin anh là đừng đánh vào đầu tôi vì trước kia bị Phú-Lợi làm hại, bây giờ hơi động đến là đau.

Nghe Mã-Tư nói thế, tôi không cầm được hai hàng nước mắt. Tôi nỡ nào từ chối anh được.

Tôi nói:

- Nhưng đi với tôi, chắc gì anh đã khỏi chết đói hơn đi một mình?

Anh nói:

- Không. Chúng ta hai người, không bao giờ chết đói được. Chúng ta giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta đùm bọc lẫn nhau. Kẻ có cho người không có, như anh vừa làm ban nãy.

Câu đó làm tôi quyết định, bởi vì tôi có, tôi phải giúp anh.

Tôi nói:

- Tôi xin vui lòng.

Lập tức anh cầm tay tôi mà hôn. Tôi cảm động quá, nước mắt ở đâu ràn rụa ra.

Tôi nói:

- Đi với tôi, anh không phải là người đầy tớ mà là bạn tôi.

Tôi đeo đàn lên vai và nói:

- Tiến lên! Chúng ta tiến lên!

Mười lăm phút sau, chúng tôi ra khỏi Ba-Lê.

Gió đông bắc của tháng ba đã thổi khô đường, đất rắn dễ đi.

Khí trời dịu dàng. Mặt trời chói lọi trên nền trời xanh, không một vẩn mây. Khí hậu êm ái này so với ngày mưa tuyết tôi vào Ba-Lê thật khác nhau một vực một trời.

Hai bên lề đường, cỏ mọc xanh rờn, thỉnh thoảng lại điểm những bông cúc, bông dâu chớm nở và hướng về phía mặt trời. Góc vườn, bên đường, những nụ đinh hương đỏ chói trong đám lá xanh non. Một làn gió nhẹ thổi qua, những cánh hoa vàng trên nóc tường lác đác rơi xuống đầu chúng tôi.

Trong các vườn, trong bụi, trên cây, đâu đâu cũng nghe thấy tiếng chim hót vui tai. Những con chim én bay là là mặt đất bắt sâu.

Cuộc hành trình của chúng tôi khởi đầu thấy vui, nên chúng tôi bước dài không mệt. Con Lãnh-Nhi được tháo dây, chạy loăng quăng, thấy xe qua cũng sủa, gặp đống đá cũng sủa, sủa lung tung và chẳng có nghĩa gì, nếu không phải là vì thích mà sủa cũng như người ta cao hứng mà hát.

Mã-Tư đi bên cạnh tôi không nói gì, có lẽ anh đang tư lự. Tôi không muốn nói để làm phiền anh, vả lại chính tôi cũng đang nghĩ. Ta định đi đâu bây giờ?

Thực ra tôi cũng chẳng biết chúng tôi đi đâu. Tôi chẳng biết gì cả. Tôi nhớ ra rằng tôi đã hứa với Lệ-Hoa là đi thăm anh chị trước, nhưng tôi không hứa với các anh chị là đến thăm ai trước. Vậy tôi có thể đến Xê-Viên, Sa-Lăng hoặc Lan-Thành trước, tùy ý tôi.

Vì tôi ra phía nam thành Ba-Lê, nên không thể lộn lại để thăm Bằng-Mai được. Vậy tôi chỉ còn chọn xem đến thăm An-Sinh hay Yến-Chi trước mà thôi. Cái linh tính nó đưa tôi về phía nam hơn phía bắc là lòng nhớ mẹ tôi, bà Bảo-Liên.

Đã lâu tôi không nhắc đến bà, xin quý độc giả đừng cho tôi là một kẻ bạc nghĩa đã quên bà.

Cũng xin đừng cho tôi là kẻ bạc nghĩa đã quên bà vì không hề viết một lá thư thăm bà trong bao nhiêu năm xa cách. Đã bao nhiêu lần tôi viết thư “Con nhớ mẹ lắm, con yêu mẹ suốt đời con!” Nhưng một là bà không biết chữ, hai là tôi sợ ông Bảo-Liên, chồng bà, nên tôi không dám viết. Nếu Bảo-Liên xem thư, biết địa chỉ của tôi, ông ta sẽ tìm bắt tôi và bán cho một Vỹ-Tiên không phải là Vỹ-Tiên thì nguy hại biết bao! Chắc chắn là ông ta có quyền và có thể làm thế được. Chính vì lẽ đó mà tôi thà chịu mẹ tôi trách là đứa con tệ bạc còn hơn là để rơi vào tay Bảo-Liên, ông ta có thể bán tôi hoặc bắt tôi làm nô lệ cho ông ta. Tôi thà chết – chết đói – còn hơn là khinh thị mà làm điều mạo hiểm đó.

Nhưng nếu tôi không dám viết thư cho bà, một khi tôi được rộng cẳng, tôi có thể tìm cách về thăm bà được. Vì thế từ khi tôi nhận Mã-Tư vào đoàn của tôi, tôi đã nghĩ, việc thăm bà có thể thực hiện được. Tôi cho Mã-Tư đi trước. Tôi lánh mặt một chỗ, Mã-Tư sẽ vào nhà bà dò la tin tức. Nếu Bảo-Liên đi vắng, tôi sẽ về ngôi nhà cũ để gặp mẹ tôi. Nếu Bảo-Liên vẫn ở làng, Mã-Tư sẽ mời bà đến một chỗ nào đó để tôi được gặp mặt cho bõ những ngày thương nhớ.

Đó là cái chương trình tôi vừa đi vừa dự định. Tôi đăm đăm suy nghĩ vì thực hiện được không dễ.

Thực vậy, tôi không phải chỉ có việc thăm bà Bảo-Liên mà thôi. Tôi còn phải xem trên đường đi của chúng tôi có những làng nào, tỉnh nào khả dĩ kiếm được tiền.

Muốn thế, tốt hơn hết là hỏi ở bản đồ.

Lúc đó, chúng tôi đang đi trong cánh đồng. Chúng tôi liền bảo nhau ngồi nghỉ trên một đống đá để trò chuyện không sợ ai phiền nhiễu.

Tôi mở túi lấy bản đồ trải trên bãi cỏ. Tôi loay hoay ngắm nghía và tìm phương hướng mãi. Sau cùng tôi theo cách ông Vỹ-Tiên, ấn định một hành trình. Hành trình này phải qua bảy thành thị nhỏ.

Như vậy chúng tôi có thể đến làng Tả-Văn-Ông và có nhiều hy vọng không đến nỗi chết đói ở dọc đường.

Mã-Tư trỏ vào bản đồ bảo tôi:

- Anh xem cái gì thế?

Tôi bảo anh biết đó là một bức bản đồ và dùng để làm gì. Tôi cắt nghĩa cho anh nghe gần giống như những lời ông Vỹ-Tiên đã dạy tôi bài địa lý đầu tiên.

Anh giương mắt nhìn tôi, chăm chú nghe. Anh hỏi:

- Thế thì phải biết đọc.

- Chính thế. Anh không biết đọc à?

- Không.

- Anh có muốn học không?

- Tôi muốn lắm!

- Tôi sẽ dạy anh.

Trong bản đồ, người ta có thể tìm thấy con đường Dị-Nho về Ba-Lê không?

- Có chứ, dễ tìm lắm.

Tôi liền chỉ cho anh: tôi lấy tay đưa từ điểm Dị-Nho đến Ba-Lê. Anh không tin và hỏi:

- Sao tôi đi bộ thấy đường dài lắm kia mà?

Tôi liền cắt nghĩa hết sức – hết sức có nghĩa là lúng túng – cho anh biết người ta rút ngắn những con đường để vẽ trên bản đồ như thế nào. Tai anh để ý nghe, nhưng óc anh không tin lắm về khoa học của tôi.

Lúc đó túi hành lý bỏ ngỏ, tôi chợt nghĩ nên kiểm điểm lại đồ đạc và cũng để khoe với Mã-Tư. Tôi lấy ra và trải cả trên cỏ.

Tôi có ba sơ-mi bằng vải gai, ba đôi bí-tất, năm mùi soa còn mới và một đôi giầy cũ. Mã-Tư choáng mắt.

Tôi hỏi Mã-Tư:

- Của anh có những gì?

- Tôi có chiếc vĩ cầm này và những quần áo tôi đang mặc.

- Vậy thì chúng ta phải chia cho đều vì chúng ta là anh em bạn. Phần anh hai sơ-mi, hai đôi bí-tất và ba mùi soa. Cũng phải chia ra cho đều việc vác túi, mỗi người đeo một giờ, thay đổi nhau cho được công bằng.

Mã-Tư không muốn nhận phần chia thứ nhất. Nhưng tôi theo lối ông Vỹ-Tiên ra lệnh và không cho anh chống lại, nên anh đành chịu nhận. Cả cái hộp khâu của Yến-Chi, cái hộp con của tôi đựng bông hồng của Lệ-Hoa cũng bày ra trên chiếc sơ-mi. Mã-Tư muốn xem hộp con, tôi không cho và bỏ luôn vào túi.

Tôi bảo anh:

- Nếu anh muốn làm cho tôi vui lòng, anh không được mở hộp đó vì là một vật kỷ niệm.

- Anh yên tâm, không bao giờ tôi đụng đến.

Từ khi tôi khoác áo da cừu và đeo đàn, có một điều làm tôi câu thúc: đó là cái quần của tôi. Tôi thấy một người nghệ sĩ không bao giờ mặc quần dài. Trình diễn trước công chúng, phải là quần ngắn, phải là những đôi bí-tất đến đầu gối, chung quanh quấn chéo vải màu. Quần dài là quần của người làm vườn. Bây giờ tôi là một nghệ sĩ kia mà!

Khi người ta có một ý kiến mà người ta lại làm chủ thì ý kiến đó được thi hành ngay, không chậm trễ. Tôi mở hộp khâu Yến-Chi và lấy kéo.

Tôi bảo Mã-Tư:

- Trong khi tôi chữa quần, anh thử dạo một bản vĩ-cầm cho vui.

- Tôi cũng nghĩ thế.

Rồi Mã-Tư lấy đàn ra kéo.

Tôi ướm quần đến đầu gối rồi bắt đầu cắt. Cái quần của tôi hãy còn tốt, may bằng dạ xám như cái gi-lê và áo vét của tôi. Ngày trước ông An-Thanh mua về cho tôi, tôi đã mừng quá. Bây giờ cắt cụt hai ống đi, tôi nghĩ không phải là tôi hủy hoại, mà trái lại làm cho nó đẹp hơn, tiện lợi hơn!

Đầu tiên, tôi vừa cắt vừa nghe đàn, sau tôi ngừng kéo và lắng tai nghe: Mã-Tư đàn vĩ-cầm không kém Vỹ-Tiên!

Tôi vỗ tay và nói:

- Ai dạy anh chơi vĩ-cầm thế?

- Không ai dạy cả. Hay tất cả mọi người, mỗi người bảo tôi một tí, rồi tôi tự luyện lấy.

- Ai dạy anh nhạc?

- Tôi không biết. Tôi nghe người ta đánh thế nào thì đánh thế.

- Tôi, tôi sẽ dạy anh.

- Anh biết tất cả?

- Phải, vì tôi là đoàn trưởng.

Người ta không phải là nghệ sĩ nếu không có một chút tự ái. Tôi muốn trổ tài cho Mã-Tư biết tôi cũng là một tay âm nhạc khá. Tôi lấy cây thụ cầm ra gảy và hát bài Tình-ca “tủ” của tôi. Và theo lệ thường của con nhà nhạc sĩ, Mã-Tư lại trả tôi lại những lời khen ngợi mà tôi vừa tặng anh bằng những tiếng vỗ tay hoan hỉ. Mã-Tư có tài, tôi cũng có tài. Chúng tôi xứng đáng là đôi bạn nghệ sĩ giang hồ.

Nhưng chúng tôi không thể cứ ngồi đó mà khen tặng lẫn nhau. Sau khi đàn hát cho tai chúng tôi rồi, chúng tôi phải nghĩ đàn hát cho dạ dầy, cho lưng chúng tôi nữa chứ! Tôi buộc túi lại, đến lượt Mã-Tư vác.

Chúng tôi tiến trên đường cát bụi. Tôi nghĩ lát nữa gặp làng nào ở cạnh đường là phải dừng lại diễn trò, “bước đầu của đoàn Lê-Minh”.

Mã-Tư bảo tôi:

- Anh dạy tôi câu hát của anh để tôi cùng hát và đánh vĩ-cầm theo: thế sẽ hay hơn.

Như thế, nhất định hay và chỉ có những khán quan trái tim sắt đá mới không ném tiền.

Chúng tôi đã tránh được những trái tim sắt đá đó. Chúng tôi vào một làng kia, đang tìm chỗ để diễn thì đi qua một cửa trại. Trong sân có đông người ăn mặc như ngày đại hội, đàn ông thì gài hoa ở khuy áo, đàn bà thì giắt hoa ở dây lưng. Cánh hoa lẫn với tơ lụa trông rất rực rỡ. Không cần phải là người thông minh, ai cũng biết ngay đó là một đám cưới.

Tôi đoán họ đang cần âm nhạc để khiêu vũ. Tôi tiến vào trong sân, Mã-Tư và Lãnh-Nhi theo sau. Gặp một thanh niên, tôi ngả mũ và cúi chào – cái chào lịch sự của ông Vỹ-Tiên – tôi xin vào giúp vui.

Người thanh niên đó mặt đỏ như quả bồ-quân, cổ áo cứng cọ vào tai, vẻ bình tĩnh.

Chàng không trả lời, quay cả người vào phía trong vì cái áo mới bằng dạ len bóng loáng bó vào thân làm khó cử động, cho hai ngón tay vào mồm làm còi, huýt một tiếng dài làm cho Lãnh-Nhi phải khiếp sợ.

Chàng nói theo:

- Này! Các vị đang ao ước âm nhạc. Đây, các nhạc sĩ đã đến!

Tiếng đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ rộn lên:

- Tốt lắm! Tốt lắm! Âm nhạc tốt lắm.

- Sửa soạn khiêu vũ bộ tư!

Trong vài phút, những bọn kỵ binh đã ra tua tủa cả sân. Gà, vịt sợ chạy tán loạn.

Tôi lo quá, hỏi nhỏ Mã-Tư bằng tiếng Ý:

- Anh đánh được vũ khúc bộ tư?

- Được.

Tôi cũng biết bản đó. Chúng tôi thoát nguy.

Người ta kéo ở nhà kho ra một chiếc xe chở hàng, lấy giá gác tay xe cho vững rồi bảo chúng tôi lên ngồi. Tuy chúng tôi chưa hòa tấu với nhau bao giờ, nhưng buổi đó cũng khá. Thực ra, chúng tôi được cái may là gảy đàn cạnh những tai dễ dãi và không tinh tế lắm.

Chợt một ông mặt đỏ gay, hỏi chúng tôi:

- Có anh nào biết thổi “kèn” không?

Mã-Tư đáp:

- Có, nhưng chúng tôi không có kèn.

- Tôi bảo kiếm cho anh một cái, vĩ cầm hay thực, nhưng không được mạnh mẽ.

Tôi hỏi lại Mã-Tư bằng tiếng Ý:

- Anh biết thổi “kèn” thật chứ?

- Cả kèn lớn, kèn con, cả sáo và tất cả các thứ.

Mã-Tư thật là một tài tử hiếm có.

Lát sau, kèn đưa đến, chúng tôi hòa tấu đủ các điệu khiêu vũ nhất là điệu nhảy bộ tư.

Chúng tôi cử nhạc như thế cho đến khuya không được nghỉ tay lúc nào. Tôi còn gượng được, nhưng Mã-Tư giữ phần vai chính, phần vì sức yếu nên thấy mệt nhoài. Thỉnh thoảng tôi thấy anh lợt đi như bị quặn đau. Tuy nhiên anh vẫn gò cổ ra thổi. May sao, ngoài tôi ra còn có một người khác nhận thấy tình trạng ấy: đó là cô dâu. Cô kêu lên:

- Thôi! Thằng bé hết hơi rồi! Bây giờ thù lao cho nhạc sĩ đi chứ!

Tôi liền nhảy xuống xe và nói:

- Nếu quý vị muốn, tôi xin phép cho thủ quỹ chúng tôi đi lãnh.

Tôi ném cái mũ tôi cho Lãnh-Nhi. Nó lấy mồm bắt lấy, rồi đứng bằng hai chân sau, đặt tay vào ngực chào khán quan. Tiếng vỗ tay vang dậy cả sân. Điều thích thú hơn tiếng vỗ tay là những đồng tiền trắng rơi vào trong mũ. Cô dâu xinh đẹp cho cuối cùng, cô ném vào trong mũ một đồng 5 phật-lăng. Món tiền lớn thay! Thế cũng chưa hết. Người ta mời chúng tôi vào bếp, dọn cỗ cho chúng tôi ăn và cho chúng tôi ngủ trong vựa lúa.

Tôi bảo Mã-Tư:

- Tôi phải chịu ơn anh. Một mình tôi không thành phường nhạc.

Với số tiền 28 phật-lăng trong túi, chúng tôi sung sướng như ông hoàng. Khi đến tỉnh Cốt-Bây, tôi có thể mua sắm một vài thứ cần thiết.

Trước hết tôi mua một cái kèn ở hàng bán đồ sắt cũ hết 3 phật-lăng. Với giá đó, cái kèn không mới, không đẹp, nhưng đem về đánh chuốt cũng tạm dùng được. Rồi tôi mua những giải lụa đỏ để chằng bí-tất và một cái túi dết cũ của quân nhân cho Mã-Tư dùng, vì vác luôn một vật nhẹ trên vai còn hơn thỉnh thoảng lại phải đeo một túi nặng. Chia đồ đạc sang hai túi, chúng tôi sẽ được nhẹ nhàng.

Ở tỉnh Cốt-Bây ra, chúng tôi ai nấy đều trang bị đầy đủ. Trừ tiền mua sắm rồi, chúng tôi còn trong quỹ 30 phật-lăng vì những buổi trình diễn của chúng tôi đều đạt được kết quả mong muốn. Cũng là nhờ có chương trình đổi mới luôn để có thể trình diễn lâu một chỗ, khách xem không chán. Hơn nữa, chúng tôi rất hợp ý nhau, thân yêu nhau như tình anh em.

Có lúc Mã-Tư đắc ý cười và bảo tôi:

- Một đoàn trưởng không hay cốp đầu đoàn viên như anh thực tử tế quá!

- Anh thích chứ?

- Còn phải nói. Từ ngày tôi bỏ làng ra đi, đến bây giờ được ở với anh, tôi mới không mơ ước nhà thương nữa.

Ở trong một hoàn cảnh thịnh vượng, lòng tôi sinh ra tham vọng. Chúng tôi đang đi về tỉnh Mộng-Tác để tìm đường về nhà bà Bảo-Liên. Về làng để thăm bà, cũng là một cử chỉ để tỏ lòng biết ơn bà. Nhưng sự biết ơn đó nhỏ mọn và rẻ tiền quá. Nếu tôi có vật gì đem về nữa thì hơn. Bây giờ tôi làm ăn khá rồi, bắt buộc tôi phải có quà. Quà gì bây giờ?

Tôi không phải nghĩ lâu. Tôi biết có một thứ quà làm cho bà sung sướng nhất không những trong hiện thời mà còn trong lúc tuổi già nữa; đó là một con bò cái, để thay cho con Hồng-Ti khốn nạn.

Bà Bảo-Liên sẽ vui sướng nếu tôi có thể biếu bà một con bò! Và tôi cũng vui sướng biết nhường nào!

Trước khi về làng Văn-Ông, tôi sẽ mua một con bò, Mã-Tư sẽ dắt bò vào sân nhà bà. Tất nhiên ông Bảo-Liên không có mặt ở đó. Mã-Tư nói:

“Thưa bà, có một con bò đem đến để biếu bà. Bà đáp: Một con bò à? Có lẽ anh nhầm nhà chăng? (và bà thở dài) – Không thưa bà, có phải chính bà là Bảo-Liên ở Văn-Ông không? Chính ông Hoàng bảo tôi dắt con bò này đến để biếu bà. – Ông Hoàng nào?” Lúc đó tôi ở chỗ nấp chạy ra ôm lấy bà, chắc bà phải mừng mà khóc. Sau đó bà sẽ làm bánh tráng, bánh sữa cho ba người cùng ăn, không có ông Bảo-Liên ở đó như ngày lễ “tuần thánh” năm xưa, ông ăn mất cả bơ của tôi. Giấc mộng đó đẹp làm sao! Nhưng muốn thực hiện giấc mộng đó, tôi phải mua một con bò. Không biết giá bao nhiêu một con? Chắc là đắt, đắt lắm?

Con bò mơ ước đó không cần to lắm, lớn lắm. Trước hết vì bò to giá đắt, sau vì bò to sẽ ăn mất nhiều, tôi không muốn cái quà của tôi lại thành cái nạn cho bà. Điều cốt yếu là bây giờ tôi phải biết giá bò, một con bò như ý tôi định mua.

Việc này không khó. Ngày nào, trên đường cái hay ở quán trọ, tôi chả gặp những người chăn bò hay những người lái ngựa, tôi hỏi họ thì biết. Chiều hôm đó, tôi gặp một anh chăn bò trông có vẻ khá, tôi liền hỏi giá, anh ta cười chế nhạo tôi. Rồi anh ta ngả lưng ra ghế, lấy nắm tay đập xuống bàn, gọi người chủ quán hỏi rằng:

- Ông có biết anh bé con đi hát này hỏi gì tôi không? Giá bao nhiêu một con bò? Con bò không to, không lớn và là một con bò. Có cần nó phải thông thái nữa không?

Nói xong, anh ta cười ngặt nghẹo. Nhưng tôi không lấy làm tức và nói:

- Phải là con bò sữa tốt mà ăn ít.

- Có cần nó chịu để dắt dây đi trên đường trường như con chó của anh không?

Sau khi trêu tôi chán và mở hết trí hài hước, anh ta nói chuyện đứng đắn và bàn tính giúp cả tôi nữa.

Chính anh, anh có một con bò cái hiền lành, rất nhiều sữa, thứ sữa thơm như kem và nó ăn rất ít hoặc không cho ăn cũng được. Nếu tôi xỉa trả trên bàn 15 bích-tôn hay 50 đồng ê-quy, tôi sẽ dắt bò luôn.

Lúc đầu tôi khó làm cho anh ta rỉ răng bao nhiêu thì bây giờ tôi khó làm cho anh ta im miệng đi bấy nhiêu vì anh ta cứ thao thao bất tuyệt.

Sau cùng chúng tôi được đi ngủ. Lên giường tôi cứ tơ tưởng về câu chuyện vừa được nghe. 15 bích-tôn hay 50 đồng ê-quy nghĩa là 150 phật-lăng một con bò. Tôi bao giờ có được món tiền đó?

Không biết tôi có thể kiếm được không. Chắc là không. Nhưng nếu vận may trong buổi đầu còn theo mãi chúng tôi, thì góp nhặt từng xu may ra tôi cũng có thể để ra 150 đồng phật-lăng đó. Muốn thế phải mất nhiều thì giờ. Một ý nghĩ nảy ra trong óc tôi. Đáng lẽ về thẳng Văn-Ông, chúng tôi hãy trở đi Văn-Xá trước rồi sẽ trở về Văn-Ông sau. Lúc đó, trong túi tôi có đủ 150 đồng phật-lăng rồi, chúng tôi sẽ có thể diễn trò thần thoại “Con bò cái của ông Hoàng” và kết quả chắc là hay lắm.

Sáng hôm sau, tôi ngỏ ý kiến cùng Mã-Tư, anh rất tán thành và bảo tôi:

- Chúng ta đi Văn-Xá. Đấy có nhiều mỏ lạ lắm. Tôi vẫn muốn đi xem.

Chương XXIII

thành phố đen

Con đường từ Mộng-Trang đến Văn-Xá ở về phía nam dẫy núi Xê-Viên, thoai thoải về biển Địa-Trung-Hải. Nếu đi thẳng đường thì chỉ mất 5, 6 trăm cây số. Nhưng chúng tôi phải đi quanh co vào các làng lớn hay các thị trấn diễn trò nên tính ra có tới trên ngàn cây số. Chúng tôi phải đi ròng rã ngót ba tháng trời mới tới nơi. Khi gần đến Văn-Xá đếm tiền lại, chúng tôi rất sung sướng vì đã không uổng phí thì giờ; trong túi đã dành được 128 phật-lăng. Như vậy chỉ còn thiếu 22 phật-lăng nữa là mua được bò biếu bà Bảo-Liên.

Mã-Tư cũng vui như tôi. Anh không kém hứng thú vì đã chung sức gây nên món tiền đó. Thực vậy, phần công anh rất lớn, nếu không có anh, không có cái kèn của anh, riêng tôi và Lãnh-Nhi không khi nào kiếm được 128 phật-lăng như thế.

Còn từ Văn-Xá đến Tả-Văn-Ông, kiếm thêm 22 phật-lăng nữa cũng không khó.

Một trăm năm về trước, Văn-Xá là sào huyệt của bọn Tân-giáo khởi loạn sau khi sắc lệnh Nantes bị bãi, địa thế hiểm trở, dân cư nghèo nàn. Đến năm 1750, một thân sĩ có tuổi, say mê nghiên cứu về khoáng vật học, đã tìm ra mỏ than đá Văn-Xá. Từ đó Văn-Xá nổi tiếng là một miền lắm than, đủ sức cung cấp cho Nam-phần nước Pháp và có cơ cạnh tranh với than nước Anh trên thị trường Địa-Trung-Hải.

Khi thân sĩ khởi công đào bới, công chúng đều chê cười, nhạo báng. Đào sâu tới 150 mét, chẳng thấy gì, người ta cho ông là điên và vận động để giam nhốt ông lại. Gia sản ông phải chăng sẽ bị vùi sâu trong những hố đào vô nghĩa. Văn-Xá có mỏ sắt mà người ta còn chưa tìm thấy, huống chi là than thì có đến đời chết cũng chẳng bới đâu ra. Thân sĩ giả điếc, chui xuống hầm, ăn ngủ ở đó không thò lên nữa để tránh nghe những la ó của nhân dân. Có chăng ông chỉ chịu sự ngờ vực của bọn thợ ở cạnh ông thôi. Mỗi một nhát cuốc, bọn thợ lại so vai lên. Nhưng kích thích bởi lòng tin tưởng sắt đá của chủ nhân, bọn thợ cố bổ thêm nhát nữa, nhát mới nữa rồi cứ thế giếng một ngày một sâu, cho tới 200 mét, bọn thợ reo mừng, họ đã bập vào một lớp than! Vị thân sĩ già kia không phải là người điên nữa. Ông là một người có đặc tài. Chỉ hôm trước hôm sau, ông đã biến thành một vĩ nhân!

Ngày mà chúng tôi đến, Văn-Xá là một thành phố có 12 ngàn dân, một thành phố có tương lai sáng lạn về kỹ nghệ và cũng như mỏ A-Lai, mỏ Bách-Xa là nguồn hy vọng của Nam phần nước Pháp.

Cái đã gây và sẽ gây nền thịnh vượng cho miền Văn-Xá này đều nằm ở dưới mặt đất chứ không ở trên mặt. Thực vậy, ở trên mặt đất cảnh tượng trông buồn làm sao! Toàn thị là những bãi hoang lương. Trừ một vài cây dẻ, cây đậu, cây ô-liu còm cõi, ngoài ra không có cây to. Đất không trồng trọt được, đâu đâu cũng thấy đá xám hay đá trắng. Một vài chỗ lớp đất hơi sâu và thấm nước nẩy lên cây cỏ um tùm làm cho cảnh hoang vu bớt phần khô khốc.

Vì núi non trơ trụi không cây cỏ, nên mùa mưa đến, nước chảy trên sườn núi xuống như chảy trên vỉa hè. Những dòng suối ngày thường cạn khô, lúc mưa nước chảy cuồn cuộn và đầy sát bờ các sông con trong thung lũng, nhiều khi nước tràn cả ra ngoài sinh ra ngập lụt: chỉ trong vài phút người ta thấy mực nước ở lòng sông lên tới ba, bốn, năm mét, có khi cao hơn nữa.

Thành phố Văn-Xá nằm ngang trên một con sông con tên gọi Đinh-Giang, có hai dòng suối đổ vào là Thụy-Khê và An-Khê. Thành phố gồ ghề và không được đẹp đẽ lắm; suốt ngày những goòng chở quặng sắt và than đá lăn rầm rập trên đường rầy giữa thành phố không lúc nào ngớt, tung lên những bụi đỏ, bụi đen tối mù. Trời mưa, những bụi đó đọng thành bùn nhão và sâu như bãi lầy. Trái lại, những ngày nắng ráo, gió cuốn những bụi đó bay lầm trên thành phố. Nhà cửa, cái nào cũng đen thủi từ đầu xuống đến chân; đen vì bùn, bụi trát từ chân lên đến mái; đen vì khói từ các lò, tỏa từ ống khói xuống tới mặt đường. Trước mặt một màu tối đen: đất đen, trời đen, cả đến nước sông cũng đen. Những người đi đường còn đen hơn cảnh vật chung quanh; ngựa đen, xe đen, lá cây cũng đen. Người ta có thể nói được rằng, một đám mây mồ hóng đã đổ xuống thành phố hôm nào hay một trận lụt hắc ín đã có lần dâng lên tới nóc mọi nhà. Phố sá không làm ra để cho xe ngựa hay khách bộ hành đi, mà cốt để cho xe hỏa và các toa của mỏ. Trên mặt đất chỗ nào cũng thấy đường sắt với bánh xe quay: trên đầu, nào cầu treo, nào dây kéo, nào trục truyền chạy ầm ầm điếc tai. Những nhà máy lớn mà chúng tôi đi ở ngoài tường thấy rung chuyển tới chân móng. Nếu người ta nhìn qua cửa sổ hay cửa lớn, sẽ thấy gang nấu trong lò chảy ra như những dòng bạc; những búa, chày nện xuống, tàn lửa tóe ra như mưa; chỗ nào cũng thấy những cần pít-tông lên xuống đều đặn như cán bể thợ rèn. Không có lâu đài, không có vườn hoa, không có tượng đồng ở công trường. Chỗ nào cũng giống chỗ nào: những công thự đều làm theo một kiểu là hình khối vuông: Tòa án, nhà thương, trường học, nhà thờ, những khối vuông có trổ hoặc ít nhiều cửa tùy theo nhu cầu.

Khi chúng tôi tới gần Văn-Xá thì đồng hồ đã chỉ ba giờ chiều. Mặt trời sáng chói trên nền trời xanh. Nhưng chúng tôi càng gần tới tỉnh thì trời càng tối dần. Ở khoảng giữa trời và đất có một lớp mây khói nặng nề đùn lên từ những ngọn ống khói cao. Đã hơn một giờ, chúng tôi nghe thấy những tiếng ầm ầm như sóng biển đang lên, đó là tiếng máy quạt, tiếng búa, tiếng chày.

Tôi biết chú anh An-Sinh là thợ mỏ tỉnh Văn-Xá, ở lò Thụy-Khê và chỉ biết có thế thôi. Ông ta ở ngay trong tỉnh hay ở ngoại ô, tôi không biết. Khi vào tỉnh tôi hỏi dò đường đến lò Thụy-Khê thì người ta trỏ tôi sang tả ngạn sông Đinh-Giang, rồi đến một thung lũng, đấy là mỏ Thụy-Khê; lấy tên con suối chảy qua đó.

Cảnh tượng thành phố đã buồn, cảnh tượng thung lũng lại tẻ ngắt. Một vòng đồi trọc không cây, không có bao quanh như một hàng rào bằng đá xám liên lu, thỉnh thoảng chen vào một lườn đất đỏ. Ở lối vào thung lũng có dựng những nhà xây, những kho chứa, những chuồng ngựa, những văn phòng, những ống khói của nhà máy chạy bằng hơi nước, và chung quanh ngổn ngang những đống than, đống đá.

Khi chúng tôi đi đến gần sở mỏ, có một người đàn bà vẻ lơ láo, tóc xõa ngang lưng, tay kéo một đứa trẻ, đến trước mặt chúng tôi và đứng dừng lại.

Bà ta hỏi:

- Con đường mát ở đâu? Em làm ơn chỉ giúp.

Tôi đứng sững người kinh ngạc.

Bà ta nói tiếp:

- Con đường có cây, có bóng râm, bên cạnh có suối reo, có chim hót ấy mà!

Rồi bà ta huýt một điệu sáo vui vui.

Bà ta thấy tôi không trả lời và có lẽ không biết tôi kinh ngạc, lại nói:

- Em không biết con đường ấy à? Đáng tiếc. Vậy nó hãy còn xa? Ở tay phải hay tay trái? Em hãy bảo ta. Ta kiếm mãi không thấy.

Bà ta nói liến láu, một tay khoa lên, một tay xoa đầu đứa con trai.

- Ta hỏi em con đường ấy vì ta chắc gặp Mạc-Lư ở đó. Em có biết Mạc-Lư không? Không à? Mạc-Lư là cha đứa con ta. Khi anh bị khí nổ trong lò than đốt bỏng, anh chạy ra con đường đó cho dịu vết thương. Anh biết con đường đó, ta không biết. Vì thế đã sáu tháng nay ta tìm anh không thấy. Sáu tháng rồi, dài quá, dài quá, cho những người yêu nhau. Sáu tháng, sáu tháng rồi, trời ơi!

Bà ta quay vào sở mỏ, vẻ mặt căm thù, xỉa tay vào những ống đang nhả từng cuộn khói lên trời và thét lên:

- Việc làm dưới đất! Việc làm dưới âm phủ! Ngươi hãy trả Mạc-Lư cho ta! Trả chồng ta đây!

Rồi bà ta quay ra bảo tôi:

- Em không phải là người ở đây phải không? Trông áo da cừu kia ta biết em ở xa mới đến. Em thử vào nghĩa địa kia xem. Em đếm một, hai, ba, một hai, ba đếm đi! Tất cả những người nằm đó đều chết vì mỏ cả.

Rồi bà ta kéo con lại, ôm chặt vào cánh tay, nhìn lũ ống khói và nói:

- Còn thằng Thạch, con ta đây, ta quyết không khi nào để ngươi bắt được đâu… Nước ngọt, nước mắt! Con đường đó ở đâu?... À thế mày không biết à? Mày cũng như những đứa khác cứ nhe răng cười à? Sao mày lại bắt ta đứng đây? Mạc-Lư đang chờ ta!

Xong bà ta ngoắt mình lại, vừa đi vừa huýt sáo một cách tự nhiên.

Tôi hiểu ngay đó là một người đàn bà hóa điên vì chồng mới chết bởi một tai nạn ở mỏ.

Dưới bầu trời u ám, trong khung cảnh buồn thiu, việc gặp người đàn bà điên vì đau khổ này, ở ngay cửa mỏ làm cho chúng tôi chán ngán vô cùng.

Người ta chỉ lối cho chúng tôi đến nhà ông An-Thiện, chú cậu An-Sinh. Ông ở gần mỏ, trong một phố ngoằn ngèo và dốc đi từ sườn đồi ra phía bờ sông. Đến nơi, tôi hỏi một bà đứng tựa lưng vào cửa đang nói chuyện với một bà hàng xóm cũng đứng tựa lưng vào cửa bên cạnh, bà ta cho tôi biết là tan tầm sáu giờ ông mới về.

Bà hỏi:

- Em muốn hỏi ông ấy việc gì?

- Tôi đến thăm anh An-Sinh.

Bà liền nhìn tôi từ đầu xuống chân rồi lại nhìn Lãnh-Nhi, bà hỏi:

- Em là Lê-Minh phải không? An-Sinh thường nhắc đến em và có ý đợi em.

Và bà ta trỏ Mã-Tư:

- Còn em này là ai?

- Thưa bà, bạn tôi.

Đó là thím cậu An-Sinh, tôi tưởng thế nào bà cũng mời chúng tôi vào nhà nghỉ vì chân chúng tôi lấm láp và mặt chúng tôi cháy nắng đã quá biểu lộ vẻ mệt nhọc của chúng tôi. Nhưng bà tôi không mời gọi gì cả. Bà chỉ nhắc lại rằng 6 giờ An-Sinh mới về, khác nào như đuổi chúng tôi. Người ta đã không mời thì chúng tôi cũng chẳng xin. Tôi cảm ơn bà ta rồi kéo nhau ra phố tìm hàng bánh mì, vì chúng tôi đã đói bụng, ăn từ sáng đến giờ rồi còn gì. Nghĩ sự tiếp đãi của bà thím kia làm tôi xấu hổ vì tôi thấy Mã-Tư như có ý nghĩ ngợi. Vượt hơn ngàn cây số đến đây chả hóa ra vô ích lắm sao?

Hình như Mã-Tư có một ý tưởng không được tốt đẹp về các bạn của tôi. Mã-Tư sẽ không tin tôi nữa. Tôi cố giữ sao cho anh khỏi vì thế mà bỏ lòng thiện cảm đối với Lệ-Hoa.

Thái độ nhạt nhẽo của thím cậu An-Sinh làm cho tôi không muốn trở lại nữa. Chúng tôi định trước sáu giờ sẽ đến đợi An-Sinh ở cửa mỏ.

Sở mỏ Thụy-Khê gồm có ba lò: lò Thánh Duy Liên, lò Thánh An-phong, lò Thánh Phan-Cát. Theo tục của dân mỏ, khởi đào ngày nào thì xem lịch lấy tên thánh ngày đó đặt tên lò, một là đã làm lễ động thổ, hai là để nhớ ngày hưng công. Những lò đó là lò kéo than, lò thông khí và lò rút nước chứ không phải là chỗ để thợ lên xuống. Muốn lên, xuống, người ta đã có một đường hầm riêng, đi từ nhà chứa đèn xuống đến tầng khai than thứ nhất rồi ở đó lại chia ra làm nhiều lối thông với các phần khác. Đi đường riêng như thế lợi được hai điều. Trước hết người ta không sợ đứt dây hoặc thùng vất vào thành lò mà quẳng người xuống một cái hố sâu hơn hai ba trăm mét. Người ta còn tránh cho thợ những sự di chuyển bằng máy quá nhanh đang ở đáy hầm nóng thình lình lên chỗ lạnh dễ mắc chứng sưng màng phổi hoặc bệnh phế viêm.

Tôi đứng đợi ở cửa hầm với Mã-Tư và Lãnh-Nhi. Sáu giờ điểm xong độ vài phút, nhìn xuống hầm sâu thẳm và tối mò, tôi thấy những điểm sáng lắc lư và lớn dần ra. Đó là những thợ mỏ làm việc xong, xách đèn lên mặt đất. Họ đi thong thả, bước nặng nề hình như bị nhức gối. Tại sao họ đều như thế? Về sau tôi mới biết vì chính tôi có dịp xuống tầng hầm cuối cùng bằng thang. Mặt họ lọ lem như trát mồ hóng, quần áo và mũ dính đầy than hay những vẩy bùn còn ướt. Khi qua nhà đèn, người nào cũng treo đèn của mình vào một cái đinh.

Tôi nhìn ngang nhìn ngửa chẳng thấy An-Sinh đâu. Chợt có người chạy đến ôm lấy cổ tôi, tôi mới biết là anh. Anh đen từ chân lên đến đầu khác hẳn với anh bạn ngày nào chạy tung tăng trong vườn, áo sơ-mi cụt tay và cổ bẻ trông rõ làn da trắng mịn, nên khó mà nhận ra.

Cậu quay lại nói với một người đàn ông trạc độ 40 tuổi đi bên cạnh cậu, khuôn mặt tươi tỉnh và hiền lành giống hệt cha cậu, điều này không khiến tôi lấy làm lạ vì hai ông chính là anh em ruột:

- Thưa chú, đây là anh Minh.

Tôi hiểu đó là ông An-Thiện.

Ông nói:

- Chúng ta đợi em đã lâu.

- Đường từ Ba-Lê về đây xa lắm.

Ông cười và nói:

- Mà chân em thì ngắn, phải không?

- Vâng, chính thế.

Lãnh-Nhi được gặp An-Sinh cũng mừng lắm, cắn tay áo anh mà lôi.

Tôi giới thiệu Mã-Tư với ông An-Thiện: anh là một người bạn tốt, một đoàn viên của tôi, tôi quen biết đã lâu, vừa mới gặp lại anh, thổi kèn rất giỏi.

Ông nói:

- Còn Lãnh-Nhi kia, phải không? Mai là chủ nhật, lúc nào rỗi, hai anh sẽ diễn trò cho chúng tôi coi. An-Sinh khoe rằng con chó này khôn như người, có khi hơn người.

Tôi chán bà thím bao nhiêu thì tôi lại ưa ông chú bấy nhiêu. Ông thực xứng đáng là em ông An-Thanh.

- Hai cậu cứ nói chuyện với nhau đi, chắc là lắm chuyện lắm, để tôi tiếp chuyện bạn nghệ sĩ có tài về môn thổi kèn này.

Chuyện chúng tôi kể đến một tuần không hết. An-Sinh hỏi tôi về cuộc hành trình, tôi hỏi anh về đời sống mới. Hai người chỉ kịp hỏi nhau và kịp trả lời nhau. Chúng tôi đi chậm lại. Những đám thợ đi sau vượt qua chúng tôi đi thành hàng dài chật cả phố. Người nào trông cũng đầy bụi đen như bụi ở mặt đường. Khi gần về đến nhà, ông An-Thiện bảo chúng tôi:

- Mời các anh về ăn súp với tôi.

Lời mời đó làm tôi rất vui, vì trong khi đi đường, tôi cứ băn khoăn, lúc tới cửa có nên vào không, vẻ lãnh đạm của bà thím đã làm tôi mất cả nhuệ khí.

Đến nhà, ông giới thiệu với bà vợ:

- Đây là em Minh và người bạn nhỏ.

- Tôi đã biết vì các em đã đến ban nãy.

- Thế thì hay lắm. Tối nay cho các em ăn súp.

Tôi rất sung sướng được ngồi ăn và nói chuyện với anh An-Sinh tối nay và thật ra tôi cũng rất sung sướng sẽ được ăn súp. Từ ngày rời Ba-Lê, chúng tôi ăn đường, ăn chợ, khi ăn bánh nóng, khi bánh khô, không bao giờ ăn ra bữa, và được ngồi ghế với đĩa súp trên bàn. Với số tiền kiếm được, chúng tôi rất có thể vào tiệm ăn uống đàng hoàng nhưng chúng tôi phải tiết kiệm mua bò cho ông Hoàng. Mã-Tư cũng là người tốt, rất sung sướng khi nghĩ đến việc tậu bò.

Tiếc thay, tối hôm đó, cái món ăn ao ước ấy chỉ là vật vô hình. Tôi ngồi vào bàn, đợi mãi không thấy súp dọn ra. Ở đây, công ty Mỏ đã mở những hãng lớn bán đủ thứ thực phẩm, với giá vốn cho thợ thuyền. Cái lợi thực hiển nhiên. Người thợ mua được thức ngon, mà giá hạ, tiền không phải trả ngay, sẽ tính trừ vào kỳ lương. Do đó, họ không phải mua sỉ ở các hiệu buôn nhỏ, chém rất nặng và tránh được công nợ.

Tuy nhiên, tất cả những việc hay, có cái lợi thì cũng có cái hại. Ở Văn-Xá, các bà vợ công nhân có cái tập quán ăn không ngồi rồi trong khi chồng làm lụng vất vả ở dưới hầm than. Họ sang nhà này nhà nọ lấy cà-phê và bánh ngọt về ăn uống với nhau, họ ngồi lê đôi mách, đến khi chồng đi làm về, họ không kịp nấu súp. Lúc đó, họ chạy ra hãng lấy dồi, lấy thịt về ăn. Không phải nhà nào cũng thế, nhưng kiểu này rất nhiều.

Cũng vì bà thím áp dụng kiểu này nên bữa đó, chúng tôi không có súp. Bà có tật lười biếng, bép xép, lắm mồm. Mãi sau tôi mới biết trong sổ mua chịu hàng của bà chỉ độc có hai khoản: khoản cà-phê, sô-cô-la và khoản ba-tê và xúc-xích. Ông chú là người dễ tính, thích yên tĩnh. Ông chịu ăn mãi xúc-xích và không kêu ca gì. Đôi khi ông nói rất nhẹ nhàng.

Ông cầm cốc rượu bảo:

- Tôi không thành người nghiện rượu vì tôi có đức tính. Chiều mai cố làm súp ăn.

- Thì giờ đâu?

- Thì giờ ở trên mặt đất ngắn hơn thì giờ ở dưới hầm hay sao?

- Ai vá cho? Ông vận hại quần áo quá!

Lúc đó, ông nhìn vào quần áo ông, lem luốc những than và sờn rách nhiều chỗ. Ông nói:

- Chỉ vì ta ăn mặc sang quá ông Hoàng.

Bữa ăn chấm dứt rất chóng.

Ông chú bảo tôi:

- Con! Con ngủ với An-Sinh.

Rồi quay ra Mã-Tư:

- Còn con, con cùng ta xuống bếp, dọn ổ cỏ nằm rất tốt.

An-Sinh và tôi, chúng tôi cùng nhau qua một đêm trắng để chuyện trò.

Ông An-Thiện làm thợ cuốc nghĩa là ông có công việc dùng cuốc để vạc những khối than mỏ. An-Sinh giữ chân đẩy goòng trên đường sắt ở dưới hầm. Khi than đã chất đầy, An-Sinh phải đẩy ra đến cửa lò, đến đó, người ta móc dây cáp vào và cho máy trục kéo lên mặt đất.

Tuy mới làm thợ mỏ, An-Sinh đã yêu nghề và thích mỏ. Anh cho mỏ Thụy-Khê là một mỏ đẹp nhất và lạ nhất. Anh khéo kể lại, ai nghe cũng lấy làm thú.

Muốn xuống mỏ, trước hết phải qua một đường hầm khoét trong đá. Đi độ 10 phút đến một cái bệ có nhiều bậc dốc, chân bệ nối với một cái thang dài bằng gỗ, chân thang này lại có một cái bệ nhiều bậc, cũng nối với một cái thang gỗ nữa, thì đến tầng hầm thứ nhất, cách mặt đất 50 mét. Muốn xuống tầng hai, sâu 90 mét và tới tầng ba sâu 200 mét, người ta cũng phải qua một hệ thống thang như trên.

Tầng ba này là chỗ làm việc của An-Sinh. Như vậy, muốn tới công trường của anh, anh phải đi gấp ba lần đường hơn người lên tháp chuông nhà thờ Đức Bà ở Ba-Lê.

Không những thế, cầu thang tháp chuông nhà thờ sáng sủa và có những bậc đều đặn, lên xuống dễ. Cái thang xuống hầm không thế. Những bậc phải đẽo theo lườn đá nên có bậc cao, có bậc thấp, có chỗ rộng, có chỗ hẹp rất khó đi. Ngoài ánh sáng ngọn đèn xách ở tay không còn ánh sáng nào khác. Lối đi lúc nào cũng ướt vì nước trên trần thấm xuống, rỏ từng giọt, đôi khi rơi vào mặt lạnh toát.

Xuống sâu 200 mét cũng khá dài, nhưng chưa hết. Người thợ còn phải theo những đường khác để đến chỗ làm việc. Tất cả đường hầm và các chi nhánh ở mỏ Thụy-Khê tổng cộng lại có tới từ 35 đến 40 cây số. Dĩ nhiên là một người không phải đi khắp 40 cây số đó. Chỉ đi một đoạn cũng đủ mệt rồi. Nhất là những chỗ phải lội. Nước ở hai bên khe đá rỉ ra, chảy vào giữa đường thành suối, đến cửa lò đã có máy bơm lên mặt đất.

Đường nào được đào trong đá thì vững vàng như những tụy đạo (hầm) xe lửa. Những đường phải xuyên qua những chỗ đất dễ lở phải có gỗ đỡ trần và chăn vách. Mặc dầu người ta đã dùng rất nhiều khúc gỗ thông để chống đỡ cho đất khỏi sụp, nhưng nhiều chỗ sức ép của đất nặng quá làm oằn cả gỗ khiến cho những lối đi thu hẹp lại hoặc sụt xuống chỉ còn khe để lách hoặc bò.

Những trần và vách gỗ đâm ra những nấm, những rêu xốp và trắng như bông. Gỗ lên men, xông ra một mùi hăng hắc. Trên những nấm, những rêu, những cây không tên, người ta thấy những thứ ruồi, nhện và bướm, hình thù khác hẳn với những con cùng giống ở trên mặt đất. Có rất nhiều chuột chạy nhanh như biến và những con dơi hai chân bám chặt lấy trần, đầu lộn xuống đất.

Những đường hầm giao nhau, nhiều chỗ như những ngã tư ở thành phố Ba-Lê. Cũng có những khoảng rộng đẹp như ở các đại lộ, cũng có khoảng thấp và hẹp như trong các ngõ hẻm. Tuy nhiên cái thành phố ở dưới đất này không được soi sáng bằng những thành phố trên đất về ban đêm, vì không có những cột đèn lồng hoặc ánh đèn gaz, chỉ có những đèn tay lí tí của thợ mỏ.

Trong hầm, dù thiếu ánh sáng nhưng những tiếng động đã nói lên rằng đấy không phải là xứ của người chết. Ở công trường sở than người ta nghe thấy tiếng thuốc nổ ù ù và ngửi thấy mùi khét, mùi khói do luồng hơi đưa đến. Trong đường hầm, tiếng goòng chạy ầm ầm. Trong lò sâu, những tiếng thùng than kéo lên, cọ vào đường dây kêu ken két. Cuối cùng là những tiếng ình ình của các máy bơm nước ở tầng thứ hai.

Chỗ đáng chú ý nhất là ở các ngánh, nghĩa là những đường đục theo sườn mạch than. Ở đó thợ mỏ phải cởi trần, nằm nghiêng mình hay quỳ gối để cuốc than. Những than này được đưa xuống nền để xếp lên goòng đẩy ra cửa lò kéo than.

Đó là cảnh tượng những ngày làm việc trong mỏ. Tuy nhiên một đôi khi cũng xảy ra tai nạn. Hai tuần trước sau khi An-Sinh đến Văn-Xá, anh đã mục kích một tai nạn mà suýt nữa anh cũng bị hại: khí ghi-du nổ! Ghi-du là một thứ khí cháy được, có rất nhiều ở dưới hầm than, hễ gặp lửa là nổ bùng ra. Không gì ghê gớm bằng nạn hơi nổ đó; nó đốt hết, làm tan vỡ hết bất cứ thứ gì ở trên luồng nó đi. Người ta có thể ví nó như kho súng phát nổ. Chỉ một ngọn đèn bỏ ngỏ hay một que diêm cháy đưa đến chỗ có khí ghi-du, lập tức tất cả khu hầm đó, khí cháy bùng và nổ như tiếng bom. Nó phá mọi thứ trong mỏ và làm tung cả những mái lò nữa. Một đôi khi, nhiệt độ cao quá, đốt cháy than thành xỉ.

Sáu tuần lễ trước đây, nạn nổ đó đã giết chết 10 người. Vợ một nạn nhân thương chồng quá hóa điên. Đó là người đàn bà mà tôi đã gặp, bà ta dắt con đi tìm con đường mát.

Người ta đã dùng mọi cách để đề phòng tai nạn đó. Việc cấm thợ thuyền hút thuốc là quan trọng. Các viên kỹ sư đi tuần thường bắt họ hà hơi vào mặt mình để kiểm xem ai đã trái lệnh. Rồi đến việc dùng đèn Đa-Vy, một thứ đèn do nhà Bác học nước Anh tên là Đa-Vy phát minh ra. Đèn này có cái chóp kín đan bằng sợi kim loại rất sít, ngọn lửa không thể bốc ra được. Như vậy dù có đem đến chỗ có khí ghi-du, khí cháy lọt vào chỉ nổ bên trong đèn thôi, không lan ra ngoài được vì lưới kim loại đã làm nguội phần nào sức nóng của lửa nổ phát ra. Đèn tắt, người ta biết ngay chỗ đó có ghi-du, phải quạt mạnh cho thông khí đi.

Những điều An-Sinh kể lại khích tính hiếu kỳ của tôi đã có sẵn từ khi mới đến Văn-Xá, tôi chỉ ước ao được xuống mỏ xem. Hôm sau tôi ngỏ ý đó cho ông An-Thiện biết, ông bảo không được vì chỉ có ai làm ở mỏ mới được phép xuống thôi.

Rồi ông lại cười và bảo tôi:

- Nếu con muốn làm thợ mỏ, rất dễ. Lúc đó tha hồ mà xem. Vả chăng nghề làm mỏ không phải là mạt nghệ. Nếu con sợ mưa nắng, việc này rất thích hợp với con. Dù sao, cũng còn hơn đi hát rong. Con sẽ ở với An-Sinh, ý con thế nào? Mã-Tư cũng sẽ có việc làm, mà không phải là việc thổi kèn đâu!

Không phải là vì mỏ mà tôi tìm đến đây. Tôi còn có một phận sự khác, một mục đích khác, cần cho tôi hơn là suốt ngày chỉ có việc đẩy goòng than ở tầng nhì hay tầng ba của mỏ Thụy-Khê.

Tôi đành bỏ sự ao ước của tôi. Mai mốt tôi đi. Tôi đành biết mỏ Thụy-Khê qua câu chuyện của An-Sinh kể lại và những điều ông An-Thiện đã bảo tôi. Nhưng do một trường hợp xảy ra rất ngẫu nhiên, tôi lại được đóng vai một người thợ mỏ và do đó mắc một tai nạn ghê gớm ở dưới hầm.

Chương XXIV

phu đẩy goòng

Nghề làm mỏ không phải là một nghề làm hại sức khỏe. Trừ một vài bệnh sinh bởi thiếu khí trời và thiếu ánh sáng lâu ngày làm cho người xanh xao, người thợ mỏ vẫn được lành mạnh như người nông phu ở trên đồng ruộng. Người thợ mỏ còn hơn người làm ruộng ở chỗ không phải bị dầm mưa dãi gió hay bị nắng cháy da, rét cắt ruột. Tuy nhiên, người thợ mỏ thường gặp nhiều nguy hiểm như đất sụt, khí nổ, hầm lụt cùng những tai nạn do việc làm vụng về, bất cẩn gây nên.

Trước hôm tôi định từ giã Văn-Xá, chiều hôm đó, An-Sinh đi làm về, bàn tay phải bị sưng vù và một ngón tay bị giập. Anh đã vô ý để một khối than đè phải.

Thầy thuốc của Công Ty đã đến ngay chỗ làm và băng bó cho anh. Bệnh tình không nặng lắm, tay anh sẽ lành, ngón tay cũng thế, nhưng anh cần phải nghỉ ngơi.

Ông An-Thiện có tính gặp sao chịu vậy, không buồn rầu mà cũng không bực tức. Duy có điều làm cho ông nóng ruột là thiếu An-Sinh việc làm của ông bị ngăn trở. Khi ông thấy nói An-Sinh phải nghỉ vài hôm, ông kêu trời! Ai làm thay cho An-Sinh bây giờ? Không có ai cả. Nếu phải có người thay vĩnh viễn thì tìm được, chứ cần người làm giúp một vài ngày thì không kiếm đâu ra.

Ông chạy khắp nơi để mượn người nhưng lại về không. Ông đứng ngồi không yên. Nếu không tìm được ai thay An-Sinh thì bắt buộc ông cũng phải nghỉ. Ông mà nghỉ nữa thiệt cho quỹ gia đình đã chẳng dồi dào.

Đứng trước cảnh tình đó, trước nghĩ âu cũng là một dịp để đền ơn biệt đãi mà ông đã dành cho tôi, tôi liền hỏi ông:

- Việc đẩy goòng có khó lắm không?

- Không gì dễ hơn. Chỉ có việc đẩy cái xe cho nó chạy trên đường sắt.

- Xe có nặng lắm không?

- Không nặng lắm vì An-Sinh có thể đẩy được.

- Con làm được không?

Ông cười lớn rồi nghiêm trang bảo tôi:

- Nếu con vui lòng. Con có thể làm được.

- Con rất vui lòng vì có thể giúp ích cho ông.

- Con là đứa trẻ có tâm địa tốt. Được rồi. Sáng mai con sẽ cùng ta vào mỏ. Con giúp việc cho ta thực đấy, nhưng may ra cũng có ích cho con. Con sẽ làm quen với nghề và thích nghề, còn hơn là nay đây mai đó, thất thểu trên đường; ở mỏ lại không phải sợ chó sói.

Khi tôi tạm thay An-Sinh xuống mỏ thì Mã-Tư sẽ làm gì? Không lẽ để anh ngồi nhà ăn hại ông An-Thiện, tôi hỏi anh có thể hàng ngày cùng Lãnh-Nhi đi quanh phố diễn trò không, anh ưng thuận ngay. Anh vui vẻ nói:

- Tôi rất sung sướng được đi kiếm tiền một mình, thêm vào để mua bò.

Đã ba tháng nay chúng tôi chung sống với nhau, anh được ở nơi thoáng khí. Mã-Tư trông không giống nữa, đứa trẻ còm cõi, buồn rầu mà tôi gặp ở cửa nhà Thờ Thánh Mê-Đa hôm nào, và càng không giống nữa, cái quái thai ốm yếu mà tôi trông thấy lần thứ nhất ở bếp nhà Phú-Lợi, vừa ngồi canh nồi súp, vừa ôm cái đầu bị thương. Mã-Tư bây giờ hết đau đầu, hết buồn bã, hết còm gầy. Nếu cái vựa cỏ ở phố Lục-Sinh đã làm cho anh hao mòn; thì ánh sáng và khí trời nơi khoáng đãng đã đem lại lành mạnh và vui tươi cho anh.

Trên đường trường, khí sắc anh lúc nào cũng vui vẻ, nhìn mọi vật bằng con mắt lạc quan, gặp cái gì cũng đùa, điều nhỏ mọn cũng đắc ý, khôi hài, cười cợt luôn. Đã bao lần tôi mệt mỏi, tôi lo buồn, nếu không có anh ở bên cạnh thì tôi đã trở nên thế nào?

Tính nết của chúng tôi không giống nhau, có lẽ vì khí chất, vì bản lãnh của mỗi người mà có lẽ cũng vì dòng giống, vì chủng tộc nữa.

Anh là người Ý. Anh lúc nào cũng hòa nhã, vô tâm, cần cù làm những việc khó không nóng nảy và phát khùng, khác xa với người nước tôi hay có tính phản kháng và chống đối lại.

Chắc quý độc giả muốn hỏi tôi:

- Thế em là người nước nào? Em cũng có quê hương, xứ sở à?

Tôi sẽ xin trả lời sau vì hiện giờ tôi chưa biết. Và tôi chỉ muốn nói rằng Mã-Tư và tôi, hai người không giống nhau. Tuy nhiên chúng tôi rất bằng lòng nhau, cả những khi tôi dạy anh “nốt” nhạc hay học chữ. Về âm nhạc, anh học rất dễ dàng, nhưng về tập đọc, thì khó khăn quá, lắm lúc tôi không giữ được bình tĩnh và khoan dung như các nhà giáo huấn. Nhưng chẳng bao giờ xảy ra sự xích mích cả. Mặc dầu nhiều lần tôi tỏ ra bất công, Mã-Tư không hề oán giận tôi.

Chúng tôi đã ấn định rằng ngày mai tôi đi làm mỏ, Mã-Tư sẽ đi diễn trò để kiếm tiền thêm. Tôi cũng cắt nghĩa cho Lãnh-Nhi nghe, nó hiểu ý và ve vẩy đuôi.

Sáng hôm sau, người ta cho tôi mặc quần áo An-Sinh. Sau khi dặn dò Mã-Tư và Lãnh-Nhi lần nữa, tôi theo ông An-Thiện vào mỏ.

Ông trao cho tôi cái đèn và bảo:

- Phải cẩn thận! Con theo bước chân ta, khi xuống thang, phải nắm chắc bậc sau thì mới buông bậc trước ra.

Chúng tôi xuống hầm, ông đi trước, tôi theo sau. Ông dặn tiếp:

- Nếu trượt chân ở trên bậc đá, phải cố níu lại đứng để lăn đi vì đáy hầm sâu lắm đấy.

Tôi không cần phải nghe câu nói đó mới hồi hợp, vì từ lúc bước chân vào hang tối, tôi đã rờn rợn rồi. Tự nhiên, tôi chùn bước ngay và quay lại phía sau, nhưng chúng tôi đã vào quá sâu rồi. Ánh sáng cửa hầm xa trông tròn tròn và trăng trắng khác như mặt trăng hiện trên nền trời đen tối và không sao. Tôi hơi xấu hổ về cái cử chỉ nhút nhát đó và tôi mạnh dạn theo sau ông An-Thiện.

Chợt ông bảo tôi:

- Đến bậc đá rồi.

Chúng tôi đứng trước một cái lỗ đen ngòm, sâu thăm thẳm, tôi trông thấy những đốm sáng lung lay, trước còn to, sau tiến xa và nhỏ dần đi, đó là ánh đèn của những người thợ đã xuống trước chúng tôi. Tiếng họ nói chuyện nghe rầm rì không rõ. Một luồng khí nóng đưa lên, tạt vào mặt chúng tôi, tôi ngửi thấy một mùi hăng hắc như là mùi ê-te và ét-săng trộn với nhau.

Đi hết bậc đá đến thang gỗ, hết thang gỗ lại đến bậc đá. Ông An-Thiện bảo tôi:

- Chúng ta đến tầng thứ nhất rồi.

Tôi nhìn thấy một đường hầm, khung tò vò, hai bên tường thẳng và xây gạch. Khung vòm cao hơn đầu người, nhưng cũng có chỗ phải cúi mình mới đi qua được hoặc vì vòm tụt xuống, hoặc vì đất đùn lên.

Ông An-Thiện nói:

- Đó là sức đẩy ép của đất. Vì thân núi chỗ nào cũng đục rỗng, đất tìm những chỗ trống tràn vào, khi nào đất nặng quá, nó đè bẹp đường hầm.

Trên mặt đất có những đường sắt xe hỏa và suốt dọc đường hầm có một dòng suối con.

Ông bảo tôi:

- Suối này do nước thấm vào sinh ra, hợp với những suối khác thành một dòng lớn chảy ra giếng cửa lò. Tính ra có tới một ngàn hay ngàn hai mét nước mà máy bơm mỗi ngày phải đưa lên mặt đất và trả về sông Đinh-Giang. Nếu máy đó ngừng hoạt động thì mỏ sẽ đầy nước ngay. Nói tóm lại, hiện giờ chúng ta đang đứng ở gầm sông Đinh-Giang.

Tự nhiên tôi chực quay lại, ông cười to và bảo:

- Đáy sông còn cách đây hơn 50 mét. Sợ gì nó dội vào đầu.

- Nếu có lỗ dò thì sao?

- Phải, có thể lắm. Cũng có những mỏ phải đề phòng nạn lụt, nhưng ở đây thì không. Ở đây chỉ có khí nổ và đất sụt, nhưng ít khi xảy ra.

Lát sau đến công trường, ông An-Thiện chỉ dẫn việc làm cho tôi. Khi toa than của chúng tôi đầy, ông đẩy cùng tôi và dạy cách đẩy ra cửa lò, cùng cách rẽ sang đường tránh khi gặp những toa khác tiến đến.

Tôi có thể nói được đó không phải là một nghề khó khăn. Chỉ trong một, hai giờ, nếu tôi không thạo lắm thì tôi cũng tạm được. Phàm làm nghề gì cũng phải khéo tay và có tập quán thì mới đạt được. Tôi thiếu hai yếu tố đó, phải dùng sức cố gắng để thay vào, nên việc làm ít mà mệt thì nhiều. May sao cái đời sống cần lao trong mấy năm nay và nhất là cuộc lữ hành trong ba tháng vừa qua đã luyện cho tôi tính nhẫn nại nên tôi đã khắc phục được mệt nhọc và không phàn nàn gì. Ông chú khen tôi là một đứa trẻ đủ điều kiện thành một người thợ mỏ tốt.

Nhưng, tôi muốn xuống hầm mà tôi không muốn ở đó vì tôi có tính hiếu kỳ chứ tôi không có chí hướng.

Muốn sống dưới hầm phải có nhiều đặc tính mà tôi không có. Phải có tính ưa yên lặng, thích vắng vẻ và tĩnh tâm. Phải quen sống những giờ, những ngày dài đằng đẵng với khối óc thu hẹp lại, không trao đổi một lời nào, không giải trí một phút nào. Mà tôi thì quen sống cái đời khoáng đãng, suốt ngày chỉ có đi với hát, không sở trường về cái phương diện nói trên, nên cảm thấy buồn lắm. Buồn thực! Suốt ngày đẩy xe trong hang tối, ngoài ánh sáng le lói của chiếc đèn tay, không còn ánh sáng nào khác, ngoài những tiếng bánh xe lăn, tiếng lội nước bì bõm, thỉnh thoảng lại nghe mìn nổ trong vắng lặng làm cho âm khí nặng nề thêm.

Riêng việc xuống hầm, lên hầm cũng đã vất vả, không kể phải làm ở đó suốt 12 tiếng đồng hồ. Buổi ăn trưa ở mỏ, buổi tối mới được về nhà.

Cạnh công trường của ông An-Thiện, tôi có một người bạn đẩy xe, đáng lẽ là một đứa trẻ như tôi, lại là một ông râu bạc; khi tôi nói râu bạc, xin quý độc giả hiểu cho rằng: bộ râu chỉ trắng trong ngày chủ nhật vì được tẩy rửa, còn từ thứ hai đến thứ bảy nó cứ xám dần thành sắc đen. Ông già năm nay hơn 60 tuổi. Ngày còn trẻ, ông làm nghề thợ mộc cho một sở mỏ, chuyên việc đóng gỗ chống hầm. Một hôm đất sụp, ba ngón tay ông bị kẹp nát, vì thế phải bỏ nghề. Công ty mỏ đó cho ông một khoản lương dưỡng cấp vì ông đã can đảm cứu ba người bạn mà bị què. Ông lĩnh tiền cấp dưỡng được ba năm thì Công ty đó bị vỡ nợ. Ông thành ra túng thiếu, phải xin vào làm chân đẩy goòng ở sở Thụy-Khê. Người ta quen gọi ông là “Giáo-sư”, tức là thầy học trường làng vì ông biết nhiều hơn các thợ mỏ, có khi hơn cả những thầy mỏ và nhất là vì ông thích nói và rất tự hào về kiến thức của ông.

Tôi được quen ông trong bữa ăn trưa. Ông cũng tỏ ý mến tôi. Tôi là một đứa trẻ hay hỏi, ông là một người hay nói. Chúng tôi rất tương đắc. Trong hầm người ta có tính ít nói, thấy chúng tôi nói nhiều người ta gọi chúng tôi là kẻ đa ngôn.

Những chuyện An-Sinh đã nói cho tôi nghe chưa thỏa mãn tính hiếu kỳ của tôi. Và những câu ông An-Thiện trả lời tôi cũng vẫn còn mờ nghĩa. Đại khái tôi hỏi ông:

- Than đá là gì?

Ông trả lời:

- Là một thứ than rắn như đá.

Ông Vỹ-Tiên ngày trước đã dạy tôi: phàm biết cái gì thì phải biết cho đến nơi đến chốn. Vì thế tôi lại đem câu hỏi trên hỏi Giáo-sư, thì Giáo-sư lại trả lời khác hẳn.

Giáo-sư nói:

- Than đá chỉ là một thứ than củi. Than củi là do những cây người ta đốn về, đắp lò và hầm âm ỉ cho thành than. Than đá cũng là cây, nhưng những cây ở rừng thuở xưa sập xuống và do sức tạo hóa biến ra than, ta muốn nói những rừng cháy, những núi lửa, những động đất thiên nhiên.

Thấy tôi nhìn ông bằng đôi mắt ngạc nhiên, ông nói:

- Bây giờ ta không có thì giờ nói dài vì còn phải đẩy xe. Đến mai, chủ nhật, con đến nhà ta, ta sẽ cắt nghĩa kỹ cho con nghe. Ta có đủ những mảnh than và mảnh đá, nó giúp con hiểu kỹ bằng mắt những điều con nghe thấy bằng tai. Họ trêu và gọi ta là “Giáo-sư” nhưng con sẽ biết Giáo-sư cũng có ích phần nào. Cuộc sống của con người ta không hoàn toàn chỉ ở trong tay người ta mà còn ở trong đầu óc nữa. Khi ta còn nhỏ, ta cũng có tính tò mò như con. Ta sống trong mỏ, ta muốn hiểu tất cả những sự vật ta trông thấy hàng ngày. Ta hỏi các kỹ sư và ta đọc sách. Sau ngày bị nạn ta phải nghỉ việc, ta dùng thì giờ để học. Khi người ta có mắt để nhìn, khi người ta có kính để đeo trên mắt để xem sách mãi mãi rồi người ta cũng phải biết. Bây giờ ta không có thì giờ đọc sách, không có tiền mua sách, nhưng ta vẫn còn có mắt, vẫn chú ý học hỏi.

- Ngày mai, con sẽ đến chơi, ta rất sung sướng dạy con biết quan sát chung quanh con. Người ta không biết rằng một lời nói rơi vào cái tai lương hảo có thể bắt rễ nẩy mầm. Chính vì ta được dẫn đường cho nhà Đại bác học Bồng-Nha (Brongniart) trong mỏ than Bét-Xe (Bességes) và được nghe ông giảng giải nhiều điều hay, cho nên bây giờ ta biết nhiều hơn các bạn đồng nghiệp của ta đôi chút. Thôi! Để đến mai, con ạ.

Hôm sau, tôi xin phép ông An-Thiện để tới thăm Giáo-sư.

Ông An-Thiện cười và bảo tôi:

- A! Con đã tìm được người để nói chuyện. Con cứ đi vì lòng con muốn. Con có thể biết được nhiều cái hay lắm đấy. Nhưng có điều con nên nhớ là nếu nhờ Giáo-sư, con biết thêm chút gì, con đừng vì thế mà kiêu hãnh. Chính Giáo-sư, nếu Giáo-sư không mắc tật đó, thì đã là một người hoàn toàn.

Giáo-sư không ở trong thành phố như phần đông những người thợ khác. Ông ở một xóm nghèo ngoài thành phố. Nơi này, sườn núi có nhiều hang hốc. Người ta cho ông thuê lại một căn lều, trong đó ông kê một chiếc giường vào chỗ cao ráo hơn hết. Nói là cao ráo, nhưng cao ráo tương đối trong căn lều thôi, vì dưới bốn chân giường đều có nấm mọc. Tuy nhiên, đối với một người thợ mỏ quen dẫm chân dưới bùn, dưới nước, quen chịu những giọt nước lạnh rỏ trên lưng, điều đó không lấy gì làm quản ngại. Sở dĩ ông thích ở khu này là vì gần hang núi, tiện việc sưu tầm của ông và tha hồ trữ những mảnh than, mảnh đá còn mang những dấu tích và những vật hóa thạch.

Rồi tôi đến nhà Giáo-sư. Ông vui vẻ chạy ra đón và nói:

- Ta đã bảo dầm ít hạt dẻ để thết con, vì nếu thanh niên, có tai, có mắt, thanh niên cũng còn có dạ dầy nữa chứ! Cái phương tiện hay nhất để tỏ tình thân ái không gì hơn là làm thỏa mãn được ba điều đó một lúc.

Hạt dẻ dầm nghĩa là hạt dẻ rang lên rồi ngâm vào rượu vang trắng để ăn, đó là một món ăn rất thú vị của người dân miền Xê-Viên.

Giáo-sư nói tiếp:

- Sau tiệc hạt dẻ, chúng ta sẽ nói chuyện và ta cho con xem những bộ sưu tập của ta.

Ông nhấn mạnh hai tiếng “sưu tập” bằng một giọng tự mãn, giọng nói đó đã chứng minh lời diễu cợt của bạn bè. Bộ sưu tập của ông thật súc tích, bày la liệt khắp nhà: những vật nhỏ thì xếp trên giá, trên bàn; vật lớn thì xếp dưới đất. Đã hai mươi năm nay, ông góp nhặt tất cả những thứ lạ ông tìm thấy trong khi làm việc. Những mỏ miền này có rất nhiều thảo vật hóa đá, cho nên những mẫu Giáo-sư kiếm được rất quý đối với các nhà địa chất học và thiên nhiên học.

Vì tôi muốn chóng được hỏi và được nghe, nên tiệc ăn hạt dẻ chấm dứt rất nhanh.

Ông nói:

- Vì con muốn biết thế nào là than đá, ta cắt nghĩa qua cho con nghe. Ta nói một vài điều sơ lược để con có đủ ý thức xem những vật liệu sưu tập của ta, nó sẽ giúp con hiểu hơn về ta. Vì tuy người ta có gọi ta là Giáo-sư thực, nhưng ta nào phải là nhà bác vật, cái gì cũng biết.

- Trái đất mà chúng ta đang ở bây giờ không phải là từ xưa đến nay vẫn thế. Nó đã chịu bao sự biến thiên mà người ta gọi là sự chu chuyển của địa cầu. Đã có thời, nước ta mọc đầy những thứ thảo mộc mà bây giờ chỉ xứ nóng mới có. Thế rồi một trận biến thiên xảy đến, lớp thảo mộc đó bị thay thế bằng một lớp khác, rồi lớp khác lại phải nhường chỗ cho một lớp khác nữa. Hết lớp này đến lớp khác, cứ luân lưu như thế trong khoảng hàng nghìn, hàng vạn, triệu năm không biết chừng. Những lớp cây đó chồng chất lại, đè ép lên nhau, biến đổi dần mà thành những lớp than. Nếu con không tin, lát nữa ta cho con xem những mảnh than và rất nhiều mảnh đá ngầm ở dưới hầm. Những miếng than, hoặc đá đó còn giữ nguyên những di tích cành lá như người ta ép những bông hoa trong tập bách-thảo vậy.

- Như trên đã nói, than đá phát sinh ra bởi sự chồng chất của cây cỏ ở dưới đất: nó chỉ là gỗ biến nát và bị lèn nén lại. Chắc con muốn hỏi: sự chồng chất của cây cối đó xảy ra như thế nào? Điều này thực khó trả lời. Thiết tưởng cả đến những nhà bác học cũng không sao cắt nghĩa dứt khoát được vì các vị đó cũng bất đồng ý kiến về sự phát sinh của than đá. Có những vị cho rằng: tất cả những cây cối đó bị nước cuốn đi thành những bè lớn chảy ra biển rồi bị hải lưu làm cho lắng xuống đáy sâu. Những vị khác lại nói rằng: những lớp than đá sinh ra bởi sự sụt đọng âm thầm của cây cối, hết lớp này đến lớp khác lần lượt bị chôn vùi ngay chỗ chúng mọc. Về điểm này các nhà bác học đó đã làm các con tính khiến ta phải chóng mặt. Các vị đó tính rằng mỗi mẫu tây rừng rú nếu chặt hết và đặt nằm trên đất, chất gỗ tản ra cho đều thì chiều dầy chỉ đo được 8 ly. Lớp mỏng đó nếu biến ra than thì chỉ còn có 2 ly. Nay có những lớp than đá nằm ở dưới đất dày 20 đến 30 mét, vậy phải mất bao nhiêu thì giờ để cho những lớp đó biến thành than? Con phải biết một cánh rừng không thể mọc lên trong một ngày được. Ít nhất trong 100 năm mới thành. Như vậy muốn có một lớp than dày 10 mét, phải có 5.000 cánh rừng mọc một chỗ, kế tiếp nhau sụt xuống đất và phải đợi trong thời gian là 500.000 năm. Đó là một con số làm cho ta kinh ngạc, phải không? Tuy vậy, con số đó cũng chưa hẳn là đúng, vì những cây cối đó không thể lớp này chết đi, lớp khác mọc ngay lên đều đặn như thế được. Muốn cho một lớp cây mới mọc lên chỗ lớp cây cũ, cần phải có một thời kỳ biến thái để cho lớp cây này thối nát hoặc đổi thể mới đủ nuôi lớp cây mới. Tất nhiên, con nhận thấy 500.000 năm cũng chưa đủ, còn phải nhiều năm nữa. Độ bao nhiêu? Ta cũng không ước đoán được, vì ta không phải là nhà chuyên môn để nghiên cứu vấn đề đó.

- Điều cốt yếu là ta muốn con có một ý thức về than đá, để có thể xem và hiểu những tài liệu của ta. Bây giờ ta chỉ dẫn con xem.

Cuộc triển lãm kéo dài đến tối, và mỗi miếng đá, mỗi dấu cây, Giáo-sư lại giảng thuyết một hồi dài. Nhờ đó mà tôi hiểu được tất cả những điều trước kia làm cho tôi thắc mắc.

 

Chương XXV

lụt mỏ

Sáng hôm sau, chúng tôi lại gặp nhau trong mỏ.

Ông An-Thiện hỏi Giáo-sư:

- Thế nào? Giáo-sư đã gặp học trò, vừa ý chứ?

- Vừa ý lắm. Nó có tai. Tôi mong nó sẽ có mắt.

An-Thiện nói thêm:

- Trong khi chờ đợi, tôi mong nó có cánh tay.

Rồi ông An-Thiện đưa tôi vào một góc giúp ông bẩy tảng than ra, vì những người đẩy xe vẫn có bổn phận giúp người cuốc than.

Xong tôi đẩy than ra lò Thánh An-Phong. Đến chuyến thứ ba, tôi chợt nghe thấy về phía cửa lò có tiếng ầm ầm dữ dội, mà tôi chưa từng nghe thấy ở hầm bao giờ. Có phải là đất sụt hay hầm đổ chăng? Tôi lắng nghe. Tiếng động đó lan ra mọi phía. Thế là nghĩa gì? Tôi khiếp quá định leo lên thang, nhưng người ta thường cười tôi nhát, sợ xấu hổ, tôi không chạy. Có lẽ là tiếng mìn nổ, tiếng goòng rơi xuống lò hay là tiếng đất người ta đổ xuống để lấp những chỗ trũng chứ gì.

Chợt một đoàn chuột chạy qua chân tôi như một đạo kỵ quân thất trận rút lui. Rồi tôi nghe như có tiếng nước vỗ vào vách hầm. Chỗ tôi đứng vẫn khô ráo nên không hiểu tiếng đó là tiếng gì. Sau tôi cho đèn sát xuống đất để nhìn. Quả nhiên có nước. Nước chảy từ phía cửa lò ngược lại đường hầm. Những tiếng ầm ầm liên tiếp là tiếng thác nước ở trên cao đổ xuống mỏ. Bỏ xe trên đường sắt, tôi chạy về công trường.

- Chú Thiện ơi! Nước vào mỏ.

- Nói bậy.

- Sông Đinh-Giang có lỗ rò. Chúng ta chạy đi thôi!

- Để ta làm việc.

- Chú hãy nghe con.

Giọng nói tôi run run làm cho ông An-Thiện phải dừng tay cuốc để nghe. Tiếng ào ào mỗi lúc một to, một dữ. Không còn nghi ngờ gì nữa. Nước chảy vào hầm thật.

Ông kêu lên:

- Ta rút đi cho nhanh! “Nước vào mỏ rồi”!

“Nước vào mỏ rồi”! Mọi người kêu inh ỏi.

Ông An-Thiện vội vớ lấy đèn. Đó là cử chỉ thứ nhất của người thợ mỏ khi gặp biến. Ông hoảng hốt bước trượt chân luôn.

Chúng tôi đi được vài bước thì gặp Giáo-sư ở đâu đến hỏi chúng tôi:

- Tiếng gì ầm ầm thế?

An-Thiện đáp:

- Nước vào mỏ rồi!

Tôi nói theo:

- Đinh-Giang có lỗ rò.

- Chỉ nói bậy.

Giáo-sư bảo tôi:

- Con chạy đi!

Mực nước lên rất nhanh, lúc đi nước chấm đầu gối chúng tôi, vì thế chúng tôi bước rất chậm.

Giáo-sư cùng chạy với chúng tôi. Cả ba khi đi qua các công trường đều kêu to:

- Chạy đi! Nước vào mỏ rồi!

Nước dâng lên cuồn cuộn. May sao chúng tôi đã gần đến chân thang. Nếu còn ở xa thì không bao giờ bước tới kịp.

Giáo-sư đến chân thang trước bảo chúng tôi:

- Lên trước đi! Tôi nhiều tuổi hơn và thư tâm hơn.

Không phải là lúc trình bày lễ phép; An-Thiện lên luôn, tôi theo sau rồi đến Giáo-sư. Một lát sau có mấy người thợ nữa cũng leo lên. Chưa bao giờ chúng tôi vượt 40 mét đường từ tầng hai lên tầng nhất một cách mau lẹ như thế. Nhưng khi lên đến bậc chót, một luồng nước giội vào đầu chúng tôi và làm ngụp cả đèn. Đó là một cái thác!

An-Thiện bảo tôi:

- Bám cho chặt!

Ba chúng tôi đều bám riết vào bậc thang để đứng ghì lại. Mấy người lên sau chúng tôi đều bị nước lôi đi cả. Nếu chúng tôi còn cách 10 bậc nữa thì cũng bị cuốn đi như họ vì lúc đó nước đổ xuống như vỡ đê. Chúng tôi lên được tầng nhất rồi, nhưng chưa phải là thoát thân vì còn 50 mét nữa mới ra đến cửa hang, mà tầng này cũng có nước, lối đi tối mò vì tắt lửa cả.

Giáo-sư giọng nói bình tĩnh:

- Chúng ta chết đến nơi rồi! Minh ơi, con cầu nguyện đi!

Ngay lúc đó có bảy, tám ngọn đèn tiến đến phía chúng tôi. Lúc đó, nước lên đến quá đầu gối, không phải cúi mình, bàn tay chúng tôi sờ thấy nước. Không phải là một đám nước yên lặng. Đó là một luồng nước cuồn cuộn chảy, gặp bất cứ cái gì cũng lôi đi và làm quay những khúc gỗ trên mặt nước như những chiếc lông.

Những người xách đèn đến chỗ tôi định tìm cầu thang gần đó để lên, nhưng nước chảy mạnh như thế lại có nhiều củi gỗ lao theo thì tiến làm sao được.

Những người thợ đó nhắc lại đúng câu Giáo-sư vừa bảo chúng tôi:

- Chúng ta chết đến nơi rồi!

Rồi họ lại chỗ chúng tôi.

Giáo-sư kêu to:

- Lại cả chỗ này, phải đấy. Ta tìm hầm cũ để lánh nạn.

Hầm cũ là một phần của mỏ đã bỏ hoang từ lâu mà chẳng ai để chân đến bao giờ. Duy có Giáo-sư thường kỳ cục tìm đến để thu lượm tài liệu, mới biết mà thôi.

Giáo-sư nói:

- Đi lộn cả lại. Cho tôi cái đèn để tôi dẫn đường.

Thời thường, khi Giáo-sư nói gì thì người ta bưng miệng cười hay so vai và quay mặt đi. Những người khỏe nhất vẫn tự phụ về sức lực của mình, năm phút trước đây họ còn nhạo báng Giáo-sư, bây giờ cũng cúi đầu nghe theo cả. Tự nhiên, mọi chiếc đèn đều giơ ra cho Giáo-sư. Ông cầm một chiếc, còn một tay dắt tôi. Ông dẫn đầu. Chúng tôi quay lại, theo chiều nước chảy, nên đi được nhanh.

Tôi không biết phải đi đến chỗ nào, nhưng lòng tôi có chút hy vọng. Đi được một lúc, không biết là mất mấy phút hay mấy giây vì lúc đó cũng chẳng ai để ý đến thời gian. Giáo-sư đứng lại.

Giáo-sư nói lớn:

- Chúng ta không đủ thì giờ đến hầm cũ. Nước lên nhanh quá!

Thực vậy, nước đuổi chúng tôi dữ quá, từ đầu gối lên đến thắt lưng đã lên đến ngực rồi.

Giáo-sư nói tiếp:

- Chúng ta đành lên hốc đá kia vậy.

- Rồi đi đâu?

- Hốc đá không có lối đi đâu nữa.

Lên hốc đá chẳng khác chi chui vào đáy túi. Nhưng chúng tôi không còn thì giờ để chờ đợi, lựa chọn: lập tức phải lên hốc đá để được sống thêm vài phút với cái hy vọng may ra thoát nạn, nếu cứ đi thì chỉ trong vài giây nữa nhất định bị nước chôn vùi. Do Giáo-sư dẫn đầu, chúng tôi leo lên hốc. Hai người trong bọn chúng tôi không nghe, cứ đi thẳng. Những người đó không bao giờ chúng tôi trông thấy lần thứ hai nữa.

Được dừng bước, chúng tôi nghe thấy những tiếng lục ục bên tai mà từ trước mải đi không để ý đến: tiếng đất sụt, tiếng sóng cuộn, tiếng nước đổ, tiếng vách gẫy, những tiếng nổ do không khí bị đè ép mà tung ra. Đó là những tiếng động hãi hùng phát ra trong toàn mỏ làm cho chúng tôi táng đảm kinh hồn.

- Đại-Hồng-Thủy!

- Ngày tận thế!

- Hỡi Thượng-Đế! Cứu vớt chúng con!

Từ lúc lên hốc đá rồi, Giáo-sư không nói gì nữa, vì linh hồn Giáo-sư còn cao hơn những lời phàn nàn vô ích.

Giáo-sư bảo:

- Các bạn ơi! Không nên để cho thân thể quá mệt nhọc. Nếu chúng ta cứ ghì chân, bám tay mãi thế này, chúng ta không khỏi kiệt lực. Chúng ta phải khoét sâu chỗ đứng cho vững. Những diệp thạch này cũng dễ đào.

Lời khuyên rất hay nhưng khó thực hành, vì không ai mang cuốc. Ai cũng có đèn, ngoài ra trong tay không còn khí cụ nào khả dĩ đào bới được.

Giáo-sư nói tiếp:

- Chúng ta lấy móc đèn treo mà đào!

Thế rồi mọi người đều dùng móc đèn của mình khoét sâu chỗ đất để chân. Chân hốc nghiêng và trơn, việc đào rất khó. Nhưng ai nấy đều hiểu rằng nếu chỗ đứng không vững, lỡ sẩy chân thì mất mạng nên hăng hái làm việc. Chỉ trong mươi phút, chúng tôi đã có một chỗ đứng vững vàng.

Làm xong, mọi người đều thấy nhẹ mình. Lúc đó mới nhận mặt nhau. Chúng tôi có tất cả 7 người: Giáo-sư, ông An-Thiện và tôi, ba người thợ cuốc là Ba-Điền, Tư-Cổn, Bảy-Nhu và người đẩy xe là Cao-Dĩ. Còn những người thợ khác đều mất tích cả.

Trong mỏ vẫn nghe thấy tiếng động ầm ầm. Không có danh từ gì để gọi đúng những tiếng động hãi hùng đó, tiếng đại bác hợp với tiếng sấm cũng không to bằng.

Thất đảm, chúng tôi đứng nhìn nhau, như để tìm trong mắt người bạn những lời giải thích mà mình không biết.

Một người nói:

- Đó là một trận Đại-Hồng-Thủy.

- Là ngày tận thế.

- Nạn động đất.

- Thần Mỏ ra oai.

- Nước tích ở các hầm cũ đổ xuống.

- Một lỗ rò ở đáy sông.

Giả thuyết cuối cùng này là của tôi. Tôi bảo thủ ý kiến của tôi. Giáo-sư không nói gì. Ông nhìn từng người một, so vai lên như người đang ở ngoài trời, dưới bóng cây dâu vừa bàn cãi vừa ăn một củ hành.

Khi đã nghe ý kiến của từng người, Giáo-sư phát biểu sau cùng:

- Chắc chắn là một nạn lụt.

- Sinh ra bởi động đất.

- Do Thần Mỏ báo thù.

- Từ các hầm cũ đổ xuống.

- Bởi lỗ rò của sông Đinh-Giang.

Mọi người nhái lại ý kiến trước của mình.

Giáo-sư nhắc lại:

- Đó là thủy tai.

Nhiều tiếng cất lên để hỏi:

- Rồi sau thế nào? Nước ở đâu đến?

- Tôi không biết, nhưng bảo là do Thần Mỏ thì xuẩn quá, cho là tự các hầm cũ thì chỉ tầng thứ ba bị lụt thôi, nhưng đây lụt cả tầng nhì tầng nhất. Các bạn phải biết, nước chỉ chảy xuống, không bao giờ chảy ngược lên cao.

- Lỗ rò?

- Không bao giờ lại có một lỗ rò tự nhiên như thế.

- Động đất?

- Tôi không biết.

- Không biết thì nói làm gì!

- Tôi biết đó là nạn lụt, đó cũng là một điều đáng kể rồi nước lụt từ trên chảy xuống đây.

- Cái đó ai chả biết, nước đã chảy theo chân ta là gì!

Từ lúc mọi người được yên vị ở một chỗ khô ráo và nước không lên nữa, hình như họ không cần đến Giáo-sư nữa.

- Ông đừng lên mặt thông thái nữa, ông chẳng biết gì hơn chúng tôi.

Trí quá cảm trước nguy hiểm đã cho ông một uy quyền, nhưng bây giờ uy quyền đã mất rồi. Ông im lặng không nói gì.

Chúng tôi lúc đó đều nói thật to để át tiếng động của mỏ, nhưng vô ích, chẳng nghe rõ câu gì ra câu gì.

Giáo-sư bảo tôi:

- Con thử nói đi!

- Ông bảo nói gì bây giờ?

- Nói gì cũng được, cần nói lên thôi.

Tôi nói vài câu.

- Được. Nói nhỏ hơn một chút. Ừ, như thế vừa rồi.

Ba-Điền nói:

- Giáo-sư ơi! Điên rồi sao?

- Sợ quá hóa rồ rồi à?

- Ông tin rằng ông chết à?

- Tôi tin rằng nước sẽ không bao giờ lên tới đây, tôi tin rằng nếu ta có chết, ta cũng không đến nỗi chết đuối.

- Thế nghĩa là gì? Giáo-sư?

- Nhìn ngọn đèn của anh xem.

- Nó đang cháy.

- Nó cháy như thường không?

- Không. Ngọn to hơn và ngắn hơn.

- Vậy có khí nổ không?

Giáo-sư đáp:

- Không. Cứ yên tâm. Khí nổ không có, cũng như nước không tài nào dâng lên được nữa.

- Đừng giở trò phù thủy.

- Ta không giở trò phù thủy. Nhưng các anh nên biết rằng chúng ta hiện đang bị úp trong cái chuông đầy không khí. Chính bầu không khí bị ép đó ngăn nước không lên được. Cái hốc kín mít này khác nào như cái chuông của thợ lặn. Nước đã dồn tất không khí ở hầm vào cái hốc này, bây giờ nó ấn xuống không cho nước lên nữa.

Nghe Giáo-sư cắt nghĩa, bảo chúng tôi đang ở một thứ chuông thợ lặn, đầy không khí, nước không vào được, mọi người đều lẩm bẩm không tin.

- Chỉ nói khoác! Nước chả mạnh bằng mấy không khí ấy?

- Mạnh khi nào ở ngoài thôi. Khi anh úp cái cốc không vào chậu nước đầy: hỏi rằng nước có ngập lên tới đáy cốc không? Có một chỗ trống. Vậy thì chỗ trống đó là không khí đấy. Ở hốc này cũng thế. Chúng ta đang ở đáy cốc đấy. Nước không bao giờ lên chỗ chúng ta được.

Ông An-Thiện nói:

- Tôi hiểu rồi. Giáo-sư nói phải đấy. Tôi nhận thấy các bạn thường chế diễu Giáo-sư là nhầm. Giáo-sư đã biết nhiều điều mà chúng ta mù tịt.

Cao-Dĩ nói:

- Thế thì chúng ta được cứu sống.

- Cứu sống? Tôi không tin thế. Nhưng nhất định rằng chúng ta không bị chết đuối. Cái đã cứu ta là hốc kín, khí trời không ra được. Nhưng ngán thay! Cái đã cứu ta đồng thời nó cũng hại ta. Không khí không ra được vì bị hãm, chúng ta cũng thế, bị giam và không ra được.

- Ra được khi nước rút…

- Rút hay không? Tôi không biết. Muốn biết điều đó cần phải rõ nước từ đâu đến mới được. Ngồi ở đây thì nói đúng sao được?

- Ông vừa nói là nạn lụt?

- Phải, chính là nạn lụt. Nhưng nước đó tự đâu mà ra? Do nước sông Đinh-Giang tràn qua bờ chảy vào cửa lò? Hay bởi mưa bão? Hay nước nguồn chảy xuống chăng? Hay là nạn động đất? Phải là người ở ngoài nhìn thấy mới nói được. Chúng ta ở đây thì rõ làm sao được?

- Có khi cả thành phố và nước cuốn rồi!

- Rất có thể……

Một lúc im lặng và hãi hùng.

Tiếng nước chảy đã hết, thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng nổ ình ình làm rung cả đất.

Giáo-sư nói:

- Mỏ ngập đầy rồi, nước không chảy vào nữa.

Ba-Điền thất vọng kêu:

- Không biết thằng Phi nhà tôi thế nào?

Phi là con trai Ba-Điền cũng làm thợ cuốc như cha nhưng ở tầng thứ ba. Từ nãy đến giờ mải chiến đấu với cái chết cho bản thân không có thì giờ nghĩ đến con, nay thấy Giáo-sư nói “mỏ ngập đầy rồi”, Ba-Điền mới nhớ ra, Ba-Điền gào lên:

- Phi ơi! Phi! Phi ơi!

Không tiếng đáp lại. Tiếng gọi của người cha không ra khỏi hốc đá.

Giáo-sư nói:

- Biết đâu nó chẳng tìm được mỏm đất như ta. Một trăm rưỡi người chết chìm dưới nước là điều quá ghê gớm! Thượng-Đế không muốn thế đâu!

Giáo-sư nói câu đó bằng một giọng không được vững chắc. Sáng nay ít nhất cũng có 150 người thợ xuống hầm. Có được bao nhiêu người lên thoát hoặc tìm được chỗ lánh nạn như chúng tôi? Bạn bè, bà con chúng tôi chết hết rồi chăng? Nghĩ đến điều đó, chẳng ai dám nói một câu nào.

Nhưng tình trạng chúng tôi lúc bấy giờ không để cho lòng chúng tôi thương xót người khác.

Sau một lúc im lặng, Bảy-Nhu cất tiếng:

- Về phần chúng ta, chúng ta phải làm thế nào bây giờ?

- Anh muốn làm gì?

Giáo-sư nói:

- Chỉ còn cách chờ đợi thôi.

- Chờ đợi cái gì?

- Phải chờ đợi. Mặt đất cách ta tới 4, 50 mét, anh có thể khoét bằng móc treo đèn không?

- Thế thì chết đói mất.

- Điều nguy hiểm không ở chỗ đó.

- Thế Giáo-sư bảo nguy hiểm nhất ở chỗ nào? Giáo-sư làm chúng tôi lo quá!

- Cái đói, ta có thể chống lại được. Tôi đã được đọc chuyện những người thợ mỏ như chúng ta bị lụt, họ có thể nấp trong mỏ trong 24 ngày không ăn uống gì mà vẫn còn sống. Chuyện đó xảy ra đã lâu rồi. Những cái gì đã có ngày trước thì ngày nay cũng có thể có được. Như vậy, ta không sợ chết đói.

- Ông đã bảo rằng nước không tài nào lên được nữa, thế thì còn sợ gì?

- Các bạn có thấy nặng đầu ù tai không? Có dễ thở không? Tôi không.

- Tôi, nhức đầu.

- Tôi, chóng mặt.

- Tôi, thái dương nhoi nhói.

- Tôi như dại.

- Đó là điều nguy hiểm nhất đấy. Chúng ta có thể sống trong bầu không khí này bao lâu nữa? Tôi không biết vì không phải là nhà khoa học. Chúng ta có 40 mét đất dầy ở trên đầu, và ba mươi nhăm hay 40 mét nước sâu ở dưới chân chúng ta: thế nghĩa là bầu không khí này bị một áp lực nặng gấp 4 hay 5 lần áp lực thường. Chúng ta sống thế nào được trong cái khối không khí nén ép này? Đó là điều mà chúng ta phải lo ngại và có lẽ đồng thời chúng ta cũng rút được một vài kinh nghiệm, một bài học quá đắt.

Tôi không có một quan niệm gì về không khí ép. Vì thế, nghe Giáo-sư nói, tôi hết hồn. Những bạn tôi cũng tỏ ra kinh hãi và họ cũng không biết gì hơn tôi. Cái không biết sinh ra lo lắng.

Tuy biết chúng tôi ở trong một tình thế tuyệt vọng, Giáo-sư vẫn cố gắng tổ chức mọi cách để bảo vệ lấy vận mệnh chúng tôi chỉ còn như treo đầu sợi tóc.

Giáo-sư bảo chúng tôi:

- Bây giờ ta phải chọn chỗ ngồi cho khỏi lăn xuống vực sâu.

- Đã có những lỗ để đứng rồi.

- Liệu anh có thể đứng mãi như thế này không?

- Ông tưởng rằng chúng ta phải ở đây lâu?

- Nào ai biết được.

- Người ta sẽ đến cứu ta.

- Chắc chắn có. Nhưng muốn cứu được chúng ta, người ta cũng phải đợi đến lúc có thể làm được mới làm. Từ lúc người ta tìm cách cứu đến lúc người ta bắt tay vào việc cũng phải mất bao nhiêu thì giờ. Chỉ có người ở trên đất mới biết khoảng thời gian đó. Còn chúng ta ở dưới này chỉ có cách xếp đặt làm sao cho bớt khổ trong khi chờ đợi. Vì, nếu không may, ai trợt chân thì có phải thiệt đời không.

- Chúng ta buộc vào nhau.

- Dây đâu?

- Nắm lấy tay nhau cũng được.

- Nắm được mãi à? Theo ý tôi, tốt hơn hết là phải đào những bậc như bậc thềm. Chúng ta có bảy người, hai bậc cũng đủ: bốn người ngồi bậc trên, ba người ngồi bậc dưới.

- Đào bằng gì bây giờ?

- Cuốc đâu?

- Chỗ đất cát dùng móc đèn, chỗ rắn dùng dao.

- Đào đến đời nào cho xong!

- Anh Ba-Điền ơi! Đừng nói thế! Trong tình cảnh này người ta không tiếc gì, cốt sao cho sống. Nếu một người trong chúng ta lỡ ngủ quên đi, có phải người đó tự gieo mình xuống nước không?

Lòng can đảm và trí cương nghị đã cho Giáo-sư một uy quyền mỗi lúc một mạnh khiến chúng tôi phải khuất phục. Tự nhiên, chúng tôi thấy cái sức mạnh tinh thần của Giáo-sư đang chiến đấu với tai họa, tựa vào sức đó, chúng tôi mới vững lòng chờ đợi cứu cấp. Chúng tôi bảo nhau làm việc. Phải làm cho được hai bậc đó nếu không hoàn hảo thì cũng phải đủ ngồi để khỏi lăn xuống vực sâu ở dưới chân chúng tôi. Bốn ngọn đèn vẫn cháy, đủ ánh sáng cho chúng tôi làm.

Giáo-sư bảo:

- Nên tìm chỗ dễ đào thì hơn.

An-Thiện bảo các bạn:

- Các anh em! Hãy nghe tôi. Tôi có một ý kiến. Chúng ta ở đây người nào cũng rối trí cả, duy có Giáo-sư là người rất trấn tĩnh và sáng suốt, lại có lòng nhân nữa. Giáo-sư trước kia cũng là thợ cuốc như chúng ta, nhưng lịch duyệt hơn chúng ta nhiều. Tôi đề nghị bầu Giáo-sư là người đồn trưởng chỉ huy chúng ta làm việc. Các bạn nghĩ sao?

Cao-Dĩ, một kẻ dốt nát và cục súc chỉ quen việc đẩy goòng liền cãi:

- Giáo-sư! Sao lại bầu Giáo-sư mà không bầu tôi? Nếu cần một người đẩy xe chỉ huy thì tôi đây cũng là người đẩy xe như Giáo-sư chứ có kém gì đâu?

- Anh ngu lắm. Có phải người ta cần phu đẩy xe đâu! Chúng ta cần một “người” mà trong bọn chúng ta đây, chỉ có Giáo-sư là “người” hơn cả.

- Hôm qua, ông không nói thế.

- Hôm qua tôi cũng ngu như anh. Tôi cũng nhạo báng Giáo-sư như các bạn khác, không biết Giáo-sư giỏi hơn chúng ta. Nay tôi mới rõ, tôi đề nghị bầu Giáo-sư là vì thế. Vậy thưa Giáo-sư, Giáo-sư sai tôi làm gì bây giờ? Cánh tay tôi khỏe lắm, Giáo-sư đã rõ. Còn các bạn, thế nào?

- Xin vâng lời Giáo-sư.

- Sẽ vâng lời mãi mãi.

Giáo-sư nói:

- Các bạn muốn cho tôi làm đồn trưởng. Tôi xin vâng. Nhưng có một điều kiện là tôi bảo gì thì phải làm. Chúng ta còn phải ở đây lâu, nhiều ngày. Tôi không biết rồi sau ra sao. Chúng ta ở đây chẳng khác chi những người sống sót trên một cái bè giữa biển khơi. Có phần đau khổ hơn vì ngồi trên bè ít ra người ta cũng được thoáng khí và trông thấy trời. Người ta thở được và nhìn được. Dù xảy ra đến thế nào, đã bầu tôi làm trưởng đồn, các bạn phải triệt để nghe tôi.

Mọi người đồng thanh đáp:

- Chúng tôi xin nghe lời.

- Những điều các bạn tin là phải thì nghe đã đành. Nhưng có những điều mà các bạn không tin là phải thì sao?

- Chúng tôi rất tin cậy ở Giáo-sư.

- Giáo-sư ơi! Mọi người đều biết Giáo-sư là người bụng dạ tốt.

- Là người can đảm.

- Là người biết nhiều.

- Xin Giáo-sư đừng nghĩ đến những lời diễu cợt xưa.

Tôi còn nhỏ dại chưa hiểu việc đời mấy, nên rất lấy làm lạ rằng sao những kẻ trước đây vài giờ không ngớt lời nhạo báng Giáo-sư, bây giờ lại ca tụng Giáo-sư nhiều thế và sao những cơ hội đã làm cho người thay đổi ý kiến và cảm tình chóng thế?

Giáo-sư nói:

- Các bạn đã “thề” như thế?

Chúng tôi đều đáp:

- Xin “thề”!

Thế rồi chúng tôi bắt đầu làm việc. Ai cũng có dao trong túi cả, toàn dao tốt, cán bền, lưỡi sắc.

Giáo-sư nói:

- Ba người đục bậc, ba người khỏe. Còn những người yếu như Lê-Minh, Cao-Dĩ, Ba-Điền và tôi, chúng tôi san bằng mặt đất.

Bảy-Nhu, một người to lớn, sức lực, ngắt lời:

- Không. Giáo-sư không phải mó tay, vì Giáo-sư không khỏe lắm vả lại Giáo-sư là “Kỹ sư” rồi. Những Kỹ sư không phải làm việc lao lực.

Mọi người đều đồng ý với Bảy-Nhu và nói rằng Giáo-sư bây giờ là “Kỹ sư” thì được miễn lao dịch. Ai nấy đều cảm thấy sự chỉ huy của Giáo-sư rất cần thiết và nhiệt thành đến nỗi, nếu có thể được thì cũng đặt Giáo-sư vào một cái ổ bông để tránh mọi tai nạn cho Giáo-sư không quản ngại gì, vì Giáo-sư bây giờ là người Hoa tiêu trong chiếc thuyền ngộ nạn của chúng tôi.

Nếu chúng tôi có dụng cụ thì việc làm rất dễ. Nhưng làm bằng dao thì khó và lâu. Chúng tôi phải đào thành hai bậc trong sườn đá diệp thạch. Những bậc này phải rộng để có thể chứa được một hàng bốn người, một hàng ba người.

Chúng tôi phân công. Mỗi bậc do ba người phụ trách, hai người dũi đá, một người gạt những mảnh con vứt đi, “Kỹ sư” tay xách đèn đi từ “công trường” nọ đến “công trường” kia. Trong khi đào, người ta tìm được mấy thanh gỗ bị vùi dưới cát. Những thanh gỗ đó rất có ích, dùng để đóng vỉa cho đá khỏi lở. Suốt ba tiếng đồng hồ làm việc không nghỉ, chúng tôi đào xong hai bậc và có thể tạm ngồi được.

“Kỹ sư” ra lệnh:

- Bây giờ các bạn hãy nghỉ tay. Rồi sau có thì giờ ta hãy làm rộng thêm để có thể nằm được. Ta không nên làm thái quá. Hãy dành sức cho lúc cần đến.

Rồi người ta chia nhau ngồi. Giáo-sư, An-Thiện, Cao-Dĩ và tôi ngồi bậc dưới. Ba người thợ cuốc ngồi bậc cao.

Mọi người yên vị xong; Giáo-sư nói:

- Ta phải dành đèn. Tắt cả đi, chỉ để một ngọn đèn thôi.

Mọi người sắp sửa thi hành thì Giáo-sư vội ra hiệu ngừng lại và bảo:

- Xin các bạn một phút. Một luồng gió có thể làm tắt đèn của ta: điều này không chắc lắm. Nhưng ta vẫn cứ phải đề phòng cái “không thể có”. Có ai mang diêm không?

Mặc dầu có lệnh cấm bật lửa trong hầm, nhưng hầu hết các thợ đều có diêm trong túi cả. Vì thế, lúc đó không có Kỹ sư của Công ty ở đây kiểm soát xem ai trái lệnh, nên Giáo-sư vừa hỏi “Có ai mang diêm?” thì bốn tiếng trả lời: “tôi có”.

Giáo-sư nói:

- Tôi cũng có nhưng diêm bị ướt cả.

Đó cũng là trường hợp chung cho tất cả mọi người, vì ai cũng bỏ diêm trong túi quần và ai cũng lội nước đến ngực, đến vai.

Cao-Dĩ là người hiểu chậm và cũng nói chậm, trả lời sau rốt.

- Tôi cũng có diêm.

- Ướt?

- Không rõ vì tôi để trên mũ.

- Vậy đưa mũ tôi xem.

Đáng lẽ phải trao cho Giáo-sư cái mũ bằng da rái cá to như cái khăn của người Thổ-Nhĩ-Kỳ đội ngày phiên chợ, Cao-Dĩ đưa ra một bao diêm. Nhờ cái vị trí đóng trên cao trong khi chúng tôi lội nước nên những que diêm không bị dìm.

Giáo-sư ra lệnh:

- Bây giờ tắt đèn đi.

Thế rồi chỉ còn một ngọn lửa nhỏ le lói trong hang, khi tỏ khi mờ.

Chương XXVI

trong hốc đá

Trong mỏ im lặng, tuyệt nhiên không có một tiếng động nào tới chỗ chúng tôi. Dưới chân chúng tôi, nước đứng yên không một gợn sóng, không một tiếng rì rào. Mỏ đầy nước, đúng như lời Giáo-sư đã nói. Nước sau khi chiếm hết các hầm từ nền lên đến mái, đã giam chúng tôi vào trong xó này, kín hơn là một nhà lao vây tường đá. Cái tĩnh mịch của cõi chết này làm cho chúng tôi ghê sợ, hãi hùng hơn là những tiếng động, tiếng nổ lúc ban đầu. Chúng tôi ở trong mỏ rồi, bị chôn sống rồi! Ba, bốn mươi mét đất dầy đè nặng lên trái tim chúng tôi.

Công việc làm quên đi, ngồi rồi sinh lo nghĩ. Chúng tôi thẫn thờ như người mất vía, ai nấy đều lo cho số phận mình.

Chợt tôi thấy có giọt nước nóng rỏ trên tay tôi. Thì ra anh Cao-Dĩ đã khóc thầm.

Ngay lúc đó, có những tiếng thở dài đưa ra ở bậc trên và tiếng lẩm lẩm:

- Phi, con ơi! Phi!

Ba-Điền đang nhớ đến con.

Không khí nặng nề, khó thở. Tôi thấy tức ngực và ù tai.

Hoặc giả Giáo-sư ít lo buồn, hoặc giả Giáo-sư muốn xua đuổi cái lo buồn và làm cho chúng tôi quên đi, Giáo-sư phá tan làn yên lặng.

Giáo-sư nói:

- Bây giờ, nên xem ai có mang thức ăn.

An-Thiện hỏi:

- Giáo-sư tin rằng ta bị giam ở đây còn lâu?

- Không. Nhưng phải đề phòng. Ai có mang theo bánh mì?

Không ai trả lời.

Tôi nói:

- Tôi, tôi có mang một chiếc ở trong túi.

- Túi nào?

- Túi quần.

- Thế thì bánh của con thành cháo rồi. Nhưng cứ lấy ra xem.

Tôi móc tìm chiếc bánh lấy ra. Sáng ngày chiếc bánh vàng và giòn thế, mà bây giờ nhão như bánh đúc. Tôi thất vọng định vứt đi thì Giáo-sư kéo vội tay tôi lại và bảo:

- Hãy giữ lấy để ăn bữa tối, dù nó nát rồi, con cũng sẽ thấy ngon.

Tôi không tin lắm nên cũng chẳng để ý. Mãi về sau này, tôi nhớ lại những lời đó mới biết lúc này Giáo-sư vẫn sáng suốt, nhìn rõ tình cảnh chúng tôi và nếu không phải là phòng xa, từ cái nhỏ nhặt, những thống khổ có thể xảy ra cho chúng tôi thì ít ta Giáo-sư cũng tỏ ra không quá tin là cuộc cấp cứu sẽ dễ dàng.

Giáo-sư hỏi thêm:

- Không còn ai có bánh mì nữa à?

Không một tiếng trả lời.

Giáo-sư than:

- Thế thì buồn lắm!

Tư-Cổn hỏi:

- Giáo-sư đói à?

- Tôi không hỏi bánh cho tôi, mà hỏi cho Lê-Minh và Cao-Dĩ: bánh sẽ dành cho hai kẻ đó.

Bảy-Nhu nói:

- Sao lại không chia đều cho mọi người? Chúng ta bình đẳng trước cái đói.

- Nếu vậy, giá có bánh, thì chúng ta lại bực thêm. Anh đã hứa theo lời tôi. Nhưng bây giờ tôi thấy anh chỉ theo lời sau khi bàn cãi và nhận ra rằng tôi nói là phải.

- Anh ấy sẽ vâng lời.

- Nghĩa là sẽ có một trận khẩu chiến! Tôi không muốn có cuộc khẩu chiến đó. Muốn thế, tôi xin cắt nghĩa cho các bạn nghe tại sao phần bánh phải dành cho Lê-Minh và Cao-Dĩ. Không phải tôi đặt ra lệ đó. Chính là pháp luật. Nếu tôi không nhầm thì Pháp luật đã định rằng: khi nhiều người cùng mắc nạn thì những người già nhất từ 60 tuổi phải coi như là sống đã lâu rồi, câu đó có nghĩa là Lê-Minh và Cao-Dĩ còn ít tuổi được cứu chết trước Ba-Điền và Bảy-Nhu.

- Thế thì Giáo-sư quá 60 tuổi rồi!

- Phải, tôi, tôi không kể đến. Vả chăng tôi không phải là hạng người tham ăn.

Cao-Dĩ nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Như vậy, nếu tôi có bánh mì thì tôi sẽ được ăn cả?

- Không. Phải chia cho Lê-Minh nữa!

- Nếu tôi không muốn cho.

- Người ta sẽ cứ lấy: em đã “thề” rồi mà!

Cao-Dĩ yên lặng một lúc lâu rồi bỗng móc ở mũ ra một tấm bánh.

- Đây, bánh của tôi đây.

- Mũ của Cao-Dĩ là cái kho vô tận chăng?

Giáo-sư bảo:

- Đưa mũ đây ta xem.

Cao-Dĩ cố giữ mũ lại, nhưng người ta giật lấy và đưa cho Giáo-sư, Giáo-sư gọi lấy đèn và nhìn những vật nhét ở lườn mũ. Lúc đó, mặc dầu chúng tôi đang ở trong cảnh buồn, nhưng cũng được một phút giải trí.

Giáo-sư lần lượt lấy ra: một cái tẩu, một hộp thuốc lá, một cái chìa khóa, một miếng dồi, một hộp đào khoét thành sáo, mấy cái que đánh chuyền bằng xương cừu; ba trái bồ đào, một củ hành. Không phải là cái mũ, đó là tủ đồ ăn, cái kho thập vật.

- Bánh và dồi sẽ để cho em và Lê-Minh ăn chiều nay.

Cao-Dĩ nói, giọng buồn rầu.

- Nhưng tôi đói lắm. Tôi đói ngay bây giờ.

- Chiều nay, em sẽ đói hơn.

- Chán quá, trong cái kho thập vật của em bé này không có đồng hồ. Chúng ta không biết giờ! Đồng hồ tôi cũng chết rồi!

Chiếc đồng hồ ông An-Thanh cho tôi cũng bị ngấm nước rồi!

Ý tưởng về đồng hồ đã đưa chúng tôi về thực cảnh. Mấy giờ rồi? Chúng tôi ở trong hốc này đã bao lâu rồi? Người ta hỏi nhau, nhưng mỗi người một ý. Người này bảo đúng trưa. Người khác bảo 6 giờ tối. Theo giờ trên thì chúng tôi bị giam độ 5 giờ. Theo giờ dưới thì những 11 giờ, thành ra họ cãi nhau, không biết ai nói đúng.

Một lúc lâu, chuyện vãn, chúng tôi ngồi im, ai nấy đều trầm lự.

Các bạn tôi đang nghĩ gì, tôi không biết. Về phần tôi, tôi thấy buồn quá. Mặc dầu Giáo-sư vẫn quả quyết, tôi không tin rằng mai mốt sẽ thoát nạn. Tôi sợ nước, sợ bóng tối, sợ chết. Sự im lặng làm tôi ghê người. Vòm hang mỗi ngày mỗi đè trĩu trên đầu tôi.

Thế là không bao giờ tôi lại được trông thấy Lệ-Hoa, Yến-Chi, An-Sinh, và Bằng-Mai. Ai sẽ thay tôi làm liên lạc? Tôi cũng không được nhìn thấy bà Mỹ-Lưu, cậu An-Tuyên, bạn Mã-Tư và con Lãnh-Nhi nữa! Không biết rồi đây Lệ-Hoa có hiểu rằng tôi chết vì cô không? Còn bà Bảo-Liên, mẹ nuôi tôi nữa! Bao giờ lại gặp để trả ơn bà? Lòng tôi ngổn ngang những nỗi lo lắng, đau thương.

Tôi nhìn các bạn tôi, người nào cũng ủ rũ như tôi. Tuy nhiên, họ quen đời sống ở mỏ, thiếu ánh sáng, thiếu khí trời, thiếu tự do, đất lúc nào cũng đè trĩu trên vai nên về thể xác họ có phần bớt đau khổ hơn tôi.

Chợt trong khoảng yên lặng, tiếng An-Thiện đưa lên:

- Theo ý tôi, dễ thường người ta chưa bắt đầu vào việc cứu ta?

- Tại sao anh lại nghĩ như thế?

- Tôi không nghe thấy tiếng động gì cả.

- Cả thành phố bị sụt vì động đất rồi!

- Hoặc ở trên ấy người ta tưởng chúng ta chết hết cả rồi nên không nghĩ đến việc cứu cấp nữa.

- Thế nghĩa là người ta bỏ rơi chúng ta?

Giáo-sư nói:

- Sao lại cả tin lời bạn anh thế? Không được buộc tội cho họ. Anh nên biết rằng: một khi xẩy ra một tai nạn, thợ mỏ không bao giờ bỏ nhau. Mười người, một trăm người thà chịu chết còn hơn là bỏ một người mà không cứu. Anh có biết điều đó không?

- Chính thế.

- Nếu chính thế, sao anh lại bảo người ta bỏ anh?

- Vì chúng tôi không nghe thấy gì.

- Chúng ta không nghe thấy gì, thật đấy. Nhưng ở đây liệu ta có thể nghe được không? Ai thính tai? Chứ tôi thì kém. Nếu khi chúng ta có thể nghe được và thấy rằng người ta không làm việc, thì ta có thể nói quyết rằng người ta bỏ chúng ta không? Chúng ta có biết nguyên do cái tai họa đó ở đâu ra không? Nếu là một cuộc động đất thì người ta còn phải cứu những người còn sống sót trong thành phố chứ. Nếu là một trận lụt như tôi đã đoán, thì người ta xem tình trạng các lò đã. Những lò có thể lở hầm. Hầm nhà đèn cũng có thể sụt được. Cần phải có thì giờ mới tổ chức cuộc cấp cứu được. Tôi không nói rằng chúng ta được cứu thoát. Nhưng tôi nói rằng người ta sẽ làm việc để cứu chúng ta.

Giọng nói cương quyết của Giáo-sư khiến những người hoài nghi hay những người nhút nhát cũng phải yên trí.

Tuy nhiên, Bảy-Nhu vẫn chưa chịu, hỏi:

- Nếu người ta tưởng chúng ta chết cả rồi thì sao?

- Người ta vẫn tiến hành. Nếu sợ người ta tưởng chúng ta chết rồi thì chúng ta tìm cách tỏ cho người ta biết là chúng ta vẫn còn sống. Chúng ta nên đập mạnh vào vách đá, vì tiếng động có thể truyền qua đất được. Nếu người ta nghe thấy, người ta sẽ làm gấp và tiếng động của ta sẽ chỉ lối cho họ tìm.

Bảy-Nhu, chân đi đôi bốt to tướng, đá mạnh vào vách cồm cộp như kiểu những người thợ mỏ thường gọi nhau. Tiếng gõ đó và nhất là lòng mong đợi làm cho chúng tôi tỉnh táo đôi chút. Người ta có nghe thấy không? Người ta có trả lời chúng tôi không?

An-Thiện nói:

- Giáo-sư ơi! Nếu người ta nghe biết chúng ta, thì người ta sẽ làm thế nào để cứu chúng ta?

- Chỉ có hai cách. Tôi tin rằng các Kỹ sư trên ấy thế nào cũng phải dùng đến: một mặt đào những hố sâu cho tới chỗ chúng ta, và một mặt múc hết nước trong hầm đi.

- Đào hố ư?

- Múc nước ư?

Giáo-sư không để ý đến những câu hỏi đó và nói tiếp:

- Chúng ta ở cách mặt đất 40 mét, phải không? Mỗi ngày đào được 6 hay 8 mét thì phải 7 hay 8 ngày mới đến chỗ chúng ta.

- Người ta không thể đào mỗi ngày 6 mét được.

- Lúc thường thì không, nhưng cấp cứu người ta có thể gắng làm được.

- Giáo-sư ơi! Sống làm sao được trong 8 ngày? Nhịn ăn 8 ngày?

- Thế còn nước thì tát thế nào?

- Còn nước, ta không biết. Phải biết hiện giờ trong mỏ có bao nhiêu mét khối nước, 200.000m3 hay 300.000m3 thì mới tính được. Tuy nhiên, muốn đến chỗ ta, người ta không cần múc hết nước trong hầm, vì chúng ta ở tầng thứ nhất. Người ta có thể múc nước ở ba lò trong một lúc. Một lò lúc bằng hai cái thùng chở than. Như thế, mỗi lần múc 6 thùng, mỗi thùng đựng được 25 héc-tô-lít hay 2.500 lít nước, vị chi là 150 héc-tô-lít hay 15.000 lít đổ ra ngoài. Như vậy, lợi thì giờ hơn là đào hố. Các bạn nghĩ có phải không?

Mọi người bàn cãi về hai phương pháp giải cứu nói trên. Tôi nghe ra thì nếu người ta dùng cả hai phương tiện đó, không gặp ngăn trở, ít nhất chúng tôi cũng phải nằm dưới mả 8 ngày.

Tám ngày! Giáo-sư có kể chuyện một bọn thợ mỏ bị vùi dưới mỏ 24 ngày không chết. Nhưng đó là một câu chuyện cổ tích. Còn chúng tôi đây mới là câu chuyện thật. Không biết sau 8 ngày chúng tôi có được lên mặt đất không?

Óc tôi cứ bề bộn về ý nghĩ đó không biết mất bao nhiêu thì giờ.

Chợt Cao-Dĩ kêu:

- A! Các ông thử nghe xem!

Cao-Dĩ vốn đần độn như một con vật, nhưng lại có cái năng khiếu của loài vật phát triển hơn chúng tôi: hắn nghe rất tinh.

- Cái gì thế?

- Có tiếng gì ở dưới nước.

- Em làm rơi hòn đá chứ gì?

- Không. Có tiếng lờ mờ.

Chúng tôi lắng nghe. Tôi rất thính tai nhưng chỉ nghe trên đời thôi. Ở dưới đất tôi chẳng nghe thấy gì. Các bạn tôi quen nghe tiếng động trong mỏ, tỏ vẻ sung sướng và mừng rỡ hơn tôi.

Giáo-sư nói:

- Phải, có cái gì động xuống nước.

- Cái gì thế?

- Tôi không biết.

- Nước chảy xuống chăng?

- Không, tiếng động đó không liên tục, nghe ình ịch, cách khoảng rất đều.

- Nghe ình ịch và rất đều à? Các bạn ơi! Chúng ta sống rồi! Đó là những thùng múc nước đấy!

- Thùng múc nước!

Như bị điện giật, chúng tôi cùng nói thế và cùng đứng dậy một loạt.

Chúng tôi không còn ở sâu 40 mét nữa. Không khí không đặc nữa. Tiếng ù trong tai cũng mất. Chúng tôi thở dễ dàng. Trái tim chúng tôi lại nhảy đều trong ngực!

Cao-Dĩ nắm tay tôi và bóp mạnh.

Anh bảo tôi:

- Anh là người tốt.

- Không phải. Chính anh.

- Tôi nói rằng anh là người tốt.

- Nhưng chính anh đã nghe thấy tiếng thùng nước đều tiên.

Anh hết sức đổ cho tôi là người tốt. Anh chếch choáng như người say rượu. Mà thực ra tất cả mọi người trong chúng tôi đều say sưa về hy vọng. Nhưng cái hy vọng đó làm gì đã được thành tựu sớm thế?

Trước khi lại được nhìn thấy tia nắng ấm của mặt trời, trước khi lại được nghe thấy tiếng gió rì rào trong đám lá xanh, chúng tôi còn phải ở trong ngục tối qua những ngày dằng dặc và sầu bi, chịu tất cả những thống khổ, lúc nào cũng nghĩ không biết có còn sống được để trông thấy ánh sáng trên đời và nghe thấy cái âm thanh êm ái kia không?

Bây giờ, để độc giả biết rõ cái tai họa ghê gớm xảy ra ở mỏ Thụy-Khê, tôi xin kể lại nạn đó đã diễn ra như thế nào và những phương tiện các Kỹ sư đã dùng để cứu chúng tôi.

Sáng hôm ấy, thứ hai, khi chúng tôi xuống mỏ, bầu trời u ám và có dấu hiệu báo trước là sắp có cơn dông. Đến bảy giờ, dông tố nổi lên và mưa như trút nước. Những đám mây đen và thấp kéo vào thung lũng ngoắt ngéo của sông Đinh-Giang, rồi bị vướng hãm trong vòng đồi. Mây không lên cao được, có bao nhiêu nước trút hết xuống thung lũng. Không phải mưa rào nữa, là một cái thác, là một Đại-Hồng-Thủy. Chỉ trong mấy phút, nước sông Đinh-Giang và các phụ lưu sông ấy đều lên to. Điều này rất dễ hiểu, vì đất toàn đá và dốc nước không những không ngấm đi đâu được, lại chảy rất nhanh vào sông. Thình lình nước sông đầy lên đến bờ. Mà các suối An-Khê và Thụy-Khê cũng đầy tràn cả.

Bị nước lũ ở sông Đinh-Giang dồn lại, dòng Thụy-Khê không còn chỗ thoát, tràn lan ra khắp vùng mỏ rất nhanh chóng. Những thợ giữ việc rửa quặng nghỉ ngay nên không bị nguy hiểm gì cả.

Không phải lần thứ nhất mà miền Thụy-Khê bị lụt, người ta yên trí như mọi khi các cửa lò đã khơi cao, không sợ nước mưa chảy xuống, nên người ta chỉ để ý đến việc thu gọn những đống gỗ đã xẻ sẵn dùng vào việc ghép đường hầm. Đang lúc Kỹ sư đốc thúc việc này bỗng thấy nước xoáy xuống một cái vực sâu mà nó vừa đào. Vực sâu này ở ngay chỗ mạch than nổi gần mặt đất.

Không phải nghĩ ngợi gì, Kỹ sư hiểu ngay: nước đã phá đất và chảy xuống hầm. Mực nước ở ngoài rút dần đi, khắp mỏ sắp bị ngập, thợ thuyền sắp chết hết.

Kỹ sư chạy đến lò Thánh Duy-Liên ra lệnh cho người ta thả Kỹ sư xuống lò. Khi sắp bước chân vào thùng, Kỹ sư nghe thấy một tiếng động kinh khủng ở dưới hầm mỏ: đó là tiếng thác đổ.

Những thợ chung quanh giữ Kỹ sư lại và nói:

- Kỹ sư đừng xuống nữa!

Nhưng Kỹ sư dứt ra, móc ở túi gi-lê ra một chiếc đồng hồ quả quít đưa cho một người đứng gần đó và bảo:

- Anh cầm lấy và đưa cho con gái tôi nếu tôi không trở lại nữa.

Rồi Kỹ sư ra lệnh cho người kéo trục:

- Thả cho tôi xuống! Mau!

Thùng từ từ xuống, Kỹ sư ngửa lên và bảo thêm người giữ đồng hồ rằng:

- Anh bảo giúp rằng tôi hôn nó.

Thùng xuống đáy lò, Kỹ sư gọi to, năm người thợ mỏ chạy ra, Kỹ sư bảo vào cả thùng. Trong khi thùng kéo những người này lên, Kỹ sư lại cố sức gọi to hơn nhưng vô ích vì tiếng nước chảy và tiếng đất sụt át đi.

Lúc đó, nước đã vào hầm, Kỹ sư trông phía trước mặt thấp thoáng có mấy ngọn đèn, Kỹ sư lội nước đến đầu gối, tới chỗ đó và dắt được ba người ra. Thùng lại thả xuống, Kỹ sư cho ba người ngồi vào rồi lại toan chạy đến chỗ xa xa có ánh sáng. Nhưng những người vừa được Kỹ sư cứu, lôi tuột Kỹ-sư vào thùng và ra hiệu kéo lên. Vừa khéo! Thùng vừa nhắc lên thì nước chiếm đầy hầm.

Cách cứu bằng thùng không được nữa rồi. Phải tìm cách khác! Cách nào? Chung quanh Kỹ-sư, hầu như chẳng còn ai nữa. Một trăm rưỡi người thợ đã xuống hầm vì sáng nay một trăm rưỡi cái đèn đã được phân phát. Thế mà chỉ có 30 cái đèn đem về trả cho nhà đèn thôi. Như vậy còn 120 người bị giữ ở dưới mỏ. Họ còn sống? Hay họ chết? Họ có tìm được chỗ lánh không? Những câu hỏi đó làm loạn óc Kỹ-sư đang lo lắng hãi hùng.

Trong lúc Kỹ-sư đang lo cho số phận một trăm hai mươi mạng người mắc nạn thì đây: đất và đá bắn tung lên, nhà cửa rung chuyển như động đất. Hiện tượng đó, Kỹ-sư đã đoán ngay ra. Đó là khí ghi-du và không khí bị nước dồn ép vào những hốc kín và ở dưới một lớp đất mỏng nên tức hơi nổ tung vỏ đất ra, khác nào như cái thành nồi súp-de bị nổ. Mỏ đầy nước rồi! Cái thảm họa đã bày ra trước mắt.

Tin dữ này đã bay khắp vùng Văn-Xá rất chóng. Tứ phía người ta kéo đến mỏ Thụy-Khê: thợ thuyền, những người tò mò, và nhất là những vợ, những con các nạn nhân. Họ đến tìm và hỏi. Những người có trách nhiệm không biết trả lời thế nào, họ càng bực tức và đau đớn. Người ta dấu sự thực. Đó là lỗi ở Kỹ-sư. Giết chết Kỹ-sư đi! Giết chết nó đi! Họ định tràn vào phá văn phòng Kỹ-sư. Lúc đó Kỹ-sư đang cúi xuống bản đồ, chẳng nghe thấy gì, đang tìm xem những chỗ nào thợ mỏ may ta đã trú ẩn được và phải cứu họ bằng cách gì?

May sao, những Kỹ-sư và thợ thuyền các mỏ gần đấy cũng chạy đến, người ta đã ngăn giữ được đám người toan bạo động và giải thích cho họ nghe. Nhưng giải thích thế nào cho ổn? Một trăm hai mươi con người thiếu mặt! Bây giờ họ ở đâu?

- Cha tôi đâu?

- Chồng tôi đâu?

- Trả con tôi đây!

Tiếng hỏi chen tiếng khóc. Người ta biết trả lời thế nào cho những người con, những người vợ và những người mẹ khốn nạn ấy?

Các Kỹ-sư họp bàn và đã trả lời vắn tắt:

- Để chúng tôi tìm. Chúng tôi liều làm thử.

Thế rồi công cuộc cấp cứu bắt đầu.

Liệu có thể tìm được một người sống sót trong đám 120 người đó chăng?

Phần không chắc thì nhiều mà phần hy vọng thì ít. Nhưng có cần chi? Cứ việc tiến!

Công cuộc cấp cứu tổ chức đúng như lời Giáo-sư phỏng đoán. Những thùng múc nước được đặt ở ba lò và người ta làm ngày làm đêm cho đến giọt nước cuối cùng được trả vào sông Đinh-Giang.

Đồng thời, người ta bắt đầu đào những đường hầm. Đào ngả nào? Từ chỗ nào? Người ta cũng không biết rõ. Đào phỏng chừng và cứ việc đào.

Ý kiến bất đồng xảy ra giữa những Kỹ-sư về việc đào hầm thế nào cho đúng chỗ các nạn nhân sống sót. Nhưng Kỹ-sư mỏ Thụy-Khê quả quyết rằng thợ của Kỹ-sư có thể trốn lên các hầm cũ, chỗ đó nước không tới được và nhất định đào một đường thẳng xuống chỗ đó dù không tìm thấy một người nào.

Con “đường hang chuột” này đào hết sức hẹp lòng để khỏi mất nhiều công và nhiều thì giờ. Vì thế chỉ dùng một người thợ cuốc xuống đào, than vụn cuốc ra lần lượt được kéo lên bằng một cái rổ có dây thòng xuống. Người thợ này mệt, người thợ khác xuống thay ngay.

Cứ luôn tay như thế, ngày cũng như đêm, người ta làm không nghỉ, không ngừng, ở cả hai nơi: múc nước và đào hang.

Thì giờ đã dài cho những người làm việc bên trên thì lại càng dài cho chúng tôi ở dưới đất không biết bao nhiêu. Chúng tôi bị giam cầm và phải bó tay đành chịu chờ người đến cứu vớt mà thôi. Tiếng thùng múc nước xa vẳng bên tai không làm cho chúng tôi mừng cuống như lúc ban đầu nữa. Biết rằng chúng tôi không bị bỏ rơi, người ta đi tìm chúng tôi, chúng tôi hy vọng thực, nhưng nghĩ không biết đến bao giờ nước mới múc hết, nên chúng tôi buồn nản quá.

Cái thống khổ về tinh thần bây giờ lại liên kết cái thống khổ về vật chất. Ngồi gò bó mãi trên cái bậc hẹp, thân thể chúng tôi tê dại và đầu óc chúng tôi thấy nhức nhối, nặng nề.

Trong bọn chúng tôi duy có Cao-Dĩ là người không chịu đựng được hơn cả.

Thỉnh thoảng Cao-Dĩ lại kêu:

- Giáo-sư ơi! Tôi đói lắm! Xin Giáo-sư miếng bánh!

Sau cùng, Giáo-sư phải lấy ở cái mũ da rái cá ra một mẩu bánh và phân phát cho Cao-Dĩ với tôi.

Cao-Dĩ ăn xong lại kêu:

- Còn đói lắm.

- Phải ăn dè sẻn cho được lâu.

Còn những bạn khác nếu được tí bánh thì sung sướng lắm đấy, nhưng họ đã thề và quyết giữ lời thề.

Tư-Cổn nói:

- Nếu tôi không được ăn, thì tôi vẫn được phép uống nước chứ?

- Về khoản này, tha hồ. Nước có rất nhiều, muốn uống bao nhiêu thì uống.

- Múc ở hầm lên.

Ba-Điền muốn lội xuống, nhưng Giáo-sư không cho phép:

- Anh sẽ làm lở vỉa bậc. Lê-Minh người nhẹ và khéo hơn, xuống lấy nước cho chúng ta.

- Bằng cái gì?

- Bằng chiếc giầy ống của ta.

Người ta liền trao cho tôi một chiếc ủng, tôi sửa soạn tụt xuống nước. Giáo-sư nói:

- Khoan đã. Đưa tay cho ta giữ.

Giáo-sư đừng ngại. Con biết bơi.

- Cứ để ta giữ tay cho chắc.

Khi Giáo-sư vừa bước ra, hoặc vì chân bị tê cóng, hoặc vì bước hụt hay vì đất lở, Giáo-sư lộn nhào xuống nước. Chiếc đèn Giáo-sư xách ở tay cũng theo Giáo-sư xuống vực sâu.

Tự nhiên tối mò, mọi người đều kêu lên. May sao lúc đó tôi đã tụt được xuống nước. Ngày tôi theo ông Vỹ-Tiên, tôi tập bơi, lặn rất khá, cử động dưới nước cũng dễ dàng như ở trên cạn. Nhưng ở trong cái vũng tối như mực này thì biết xoay xở làm sao?

Tôi không nghĩ đến nỗi khó khăn này khi tôi tụt xuống, tôi chỉ nghĩ đến cái chết của Giáo-sư mà tự nhiên tôi lội xuống như thiên tính của giống chó Tân-Địa (hay cứu người chết đuối). Tìm Giáo-sư ở chỗ nào? Quờ tay ra phía nào? Lặn thế nào? Tôi đang bối rối bỗng một bàn tay co rúm bám lấy vai tôi và kéo tôi chìm xuống. Tôi đạp mạnh một cái ngoi lên mặt nước, bàn tay kia vẫn bíu cánh tay tôi.

- Giáo-sư nắm chặt lấy tay tôi và ngửa đầu lên. Không sợ!

Không sợ! Nhưng biết bơi vào phía nào? Tôi vụt có một ý nghĩ, tôi kêu:

- Các bạn ơi! Nói lên!

- Lê-Minh ở đâu!

Tôi nhận ra tiếng An-Thiện. Tôi bơi về phía tay trái.

- Thắp đèn lên!

Lập tức, một ngọn lửa bật lên. Tôi chỉ có việc bơi một sải là tới bờ. Một tay tôi bám vào một mẩu than, một tay tôi kéo ông vào. Ông đã uống nước nhiều, nhưng còn tỉnh.

An-Thiện và Cao-Dĩ cúi xuống giơ tay đón chúng tôi. Còn Ba-Điền cầm đèn soi. An-Thiện và Cao-Dĩ mỗi người cầm một tay kéo Giáo-sư mà tôi thì đẩy bên dưới. Khi Giáo-sư đã lên được rồi, tôi mới bắt đầu leo lên. Lúc đó Giáo-sư đã tỉnh hẳn.

Giáo-sư gọi tôi:

- Minh ơi! Lại đây cho ta hôn. Con đã cứu sống ta.

- Chính Giáo-sư đã cứu sống tất cả chúng tôi.

Cao-Dĩ vốn ít tình cảm và chỉ nghĩ đến mình, nói:

- Rút lại chỉ có mình tôi bị thiệt mất chiếc giầy mà không được ngụm nước nào!

- Để tôi xuống tìm giầy anh.

Nhưng mọi người đều nắm tôi lại.

Giáo-sư nói:

- Ta cấm con không được xuống tìm.

- Vậy, cho tôi xin chiếc khác để lấy nước.

Tư-Cổn nói:

- Tôi không khát nữa.

- Nhưng để uống mừng sức khỏe Giáo-sư?

Rồi tôi xuống nước lần thứ hai, rất thong thả và cẩn thận hơn lần trước.

Tuy thoát chết đuối, nhưng Giáo-sư và tôi tới khó chịu vì ướt át từ chân đến đầu. Lúc mới chúng tôi không nghĩ đến đều đó, nhưng bây giờ quần áo ẩm làm chúng tôi thấy lạnh.

Giáo-sư nói:

- Nên nhường cho Lê-Minh một cái áo cánh.

Không ai trả lời cả vì lời kêu gọi kia không chỉ định ai và bắt buộc ai.

- Không ai trả lời?

Cao-Dĩ nói:

- Tôi cũng rét.

- Thế chúng tôi bị ướt, chúng tôi nóng hơn hay sao?

- Còn các bạn khác nữa cũng không bị ngã.

Giáo-sư nói:

- Nếu vậy, phải rút thăm xem ai phải nhường áo. Về phần tôi, tôi không cần đến. Nhưng tôi kêu gọi sự đồng đều.

Vì tất cả bọn chúng tôi cũng đã lội đến thắt lưng, tôi đến cổ, nên việc đổi áo cũng không có lợi gì. Tuy nhiên Giáo-sư bảo thủ ý kiến và sau khi rút thăm, tôi được mặc áo của Tư-Cổn. May sao, Tư-Cổn có đôi chân cao bằng đầu tôi, nên chiếc áo còn khô nguyên.

Được chiếc áo ấm, tôi bắt đầu dễ chịu.

Cái nạn bất kỳ vừa rồi đã làm cho chúng tôi xáo động trong một thời gian. Sau đó im lặng lại hoàn im lặng. Ai cũng lo cái chết. Có lẽ mọi người lo hơn tôi nên cứ tỉnh thức trong cơn âu sầu, còn tôi, tôi ngủ lúc nào không biết.

Chỗ tôi nằm cheo leo, dễ lăn lắm. Thấy thế, Giáo-sư đưa cánh tay ôm lấy đầu tôi, không khít lắm, đủ giữ cho tôi khỏi ngã. Tôi ngả đầu trên đùi Giáo-sư như đứa trẻ gối trong lòng mẹ. Thực là một người có trí sáng suốt và nhân từ. Khi tôi cựa mình, Giáo-sư thay chiều cho cánh tay khỏi tê rồi lại ngồi im. Giáo-sư nói nhỏ:

- Con ơi! Ngủ đi. Không sợ ngã. Đã có ta giữ. Ngủ đi, con!

Rồi tôi lại ngủ, yên trí đã có người bảo vệ cho tôi.

Thì giờ đi chậm nhưng vẫn đi và tiếng thùng múc nước vẫn đều đều.

Chương XXVII

cuộc cứu vớt

Mỗi ngày, chúng tôi thấy bực dọc quá với các bậc hẹp của chúng tôi. Chúng tôi đồng ý khơi rộng bậc ra và mỗi người lại phải bắt tay vào việc. Chúng tôi lại dùng dao moi than và vứt xuống nước. Vì đã có chỗ đứng vững để xoay xở, nên việc làm không khó nhọc lắm. Không bao lâu chúng tôi khoét rộng được cái nhà giam của chúng tôi. Dễ chịu biết bao nhiêu khi chúng tôi được nằm dài và được duỗi thẳng chân không phải ngồi co, tê cả đùi như trước.

Chiếc bánh của Cao-Dĩ dù chia dè sẻn thế nào rồi cũng phải hết. Mẩu bánh cuối cùng đã phân phát cho chúng tôi kịp thời, vì khi Giáo-sư đem cho chúng tôi, con mắt mọi người thợ cuốc cứ nhìn trừng trừng, tôi nhận thấy nếu còn bánh phát lần nữa, thế nào họ cũng không để yên, họ sẽ đòi ăn và cứ lấy phần.

Chúng tôi dần dần chẳng buồn nói chuyện nữa. Lúc mới bị nạn nói nhiều bao nhiêu thì bây giờ im lặng bấy nhiêu. Có nhắc đến chăng thì cũng chỉ hai vấn đề đã nói mãi: họ làm thế nào để xuống tới đây và chúng tôi đã bị giam trong bao lâu rồi?

Nhưng, những câu chuyện này cũng không được bàn cãi hăng hái như trước. Có ai lên tiếng, tiếng đó không người hưởng ứng hay được trả lời bằng một câu vắn tắt. Người ta có thể bảo đêm là ngày, bảo đen là trắng, mà cũng chẳng ai bực tức và phản đối, chỉ nói cho xuôi:

- Được, để xem.

Chúng tôi bị chôn vùi đã hai ngày hay sáu ngày? Khi nào có người đến cứu? Có chắc không? Tôi bắt đầu nghi ngờ.

Chẳng riêng một tôi, thỉnh thoảng một bạn tôi cũng thốt ra những lời chán nản.

Bảy-Nhu nói:

- Có điều an ủi tôi là: nếu tôi chết ở đây, Công ty sẽ phải trợ cấp cho vợ con tôi, không đến nỗi phải vào nhà Tế Bần.

Giáo-sư lãnh trách nhiệm đoàn trưởng, không những có bổn phận bảo vệ chúng tôi để chống với tai họa mà còn bảo vệ chúng tôi để chống với chúng tôi nữa. Vì thế, khi thấy ai tỏ ra chán nản, Giáo-sư liền can thiệp bằng một câu khích lệ:

- Anh không phải ở đây lâu đâu! Thùng nước múc luôn luôn. Nước phải xuống.

- Nước xuống ở đâu?

- Ở những lò.

- Còn các hầm?

- Cũng sẽ đến lượt. Ta phải đợi.

Cao-Dĩ nói:

- Ông Bảy-Nhu ơi! Giáo-sư nói cái gì cũng hay cả. Nếu Công ty này mà phá sản như Công ty của Giáo-sư ngày trước, có phải vợ ông bị người ta bóc lột hết không?

- Im mồm! Mày ngu lắm! Công ty rất giầu.

- Công ty chỉ giầu khi còn mỏ. Một khi mỏ chìm dưới nước thì còn gì nữa? Nếu tôi ở trên đất trông thấy thế này, tôi rất thích!

- Bởi vì…?

- Các Giám đốc và Kỹ-sư kiêu hãnh lắm! Bây giờ thực là một bài học cho họ. Nếu Kỹ-sư hôm đó cũng xuống mỏ nhỉ, thực là buồn cười! Thưa Kỹ-sư, ngài có mang địa bàn không?

- Đồ ngu! Nếu Kỹ-sư có xuống nữa, mày cũng phải ở đây. Chúng ta cũng thế.

- Thưa các vị, các vị có thể yên tâm được. Tôi thì khác. Ai phơi hạt dẻ cho tôi? Lúc đó, tôi mời Kỹ-sư lên cho. Kính chào ngài Kỹ-sư!

Giáo-sư lúc nào cũng trấn tĩnh, không để lộ vẻ lo buồn. Còn Cao-Dĩ thì chẳng biết gì. Riêng chúng tôi, ai cũng lo lắng. Hễ nói đến chuyện đợi cứu là y như những tiếng “chết”, tiếng “bỏ rơi” lại nổi lên tự đáy lòng đưa lên cửa miệng.

- Giáo-sư ơi! Hão lắm! Lấy thùng mà múc thì đến đời nào hết nước?

- Tôi đã tính cho anh nghe mãi rồi thôi. Hãy gắng đợi.

- Những bài tính không cứu ta ra khỏi hầm được.

Ý nghĩ này là của Ba-Điền.

- Ai cứu được?

Giáo-sư đáp:

- Có thể lắm. Nếu Thượng-Đế thương. Người có thể cứu vớt chúng ta.

- Chúng ta bị nạn này, chắc vì trong bọn chúng ta có những người độc ác mà trời muốn phạt.

Bảy-Nhu nói:

- Phải đấy. Thượng-Đế muốn cho một người trong bọn ta có dịp để chuộc lỗi, để đền tội. Có phải Ba-Điền không? Tôi không biết về phần tôi, tôi có thể nói được rằng những ngày gần đây tôi ăn ở không được ngoan đạo lắm, bây giờ lương tâm tôi cắn rứt, tôi dốc lòng cầu nguyện Thượng-Đế tha thứ cho tôi.

Nói xong Bảy-Nhu quỳ xuống và tự đánh vào ngực.

Ba-Điền kêu:

- Còn tôi, tôi không dám nói rằng tôi không có tội lỗi gì trong lương tâm, tôi xin xưng với các bạn như thế. Nhưng Thiên thần hộ mệnh, và Thánh Giăng, thần bổn mệnh của tôi, đều soi xét cho rằng không bao giờ tôi chủ tâm làm xằng và tôi không hề có lỗi với ai cả.

Tôi không hiểu đó có phải là cảm ứng của ngục tối, của cái chết sắp đến, của cái đói dày vò, của ánh sáng huyền bí đang chập chờn kia gây nên hay không, nhưng khi thấy hai người vừa công khai xưng tội, lòng tôi rung động và cảm xúc, bất giác tôi cũng quỳ xuống cạnh Bảy-Nhu, Ba-Điền và cùng xưng tội với họ. Thình lình sau lưng tôi có tiếng khóc, tôi quay lại, thấy Tư-Cổn lù lù ngồi vật xuống đất. Tư-Cổn nói:

- Người tội lỗi không phải là Ba-Điền, không phải là Bảy-Nhu. Người tội lỗi đó chính là tôi. Chính là vì tôi mà trời phạt, nhưng tôi đã biết hối hận rồi, hối hận lắm. Đây là sự thực, xin các bạn hãy nghe cho, nếu tôi thoát khỏi chỗ này mà về được, tôi sẽ tìm cách chuộc tội. Nếu vạn nhất tôi không về được, xin các bạn chuộc tội cho tôi. Cách đây một năm, Duy-Quế bị 5 năm tù về tội ăn trộm chiếc đồng hồ của một người tên Vi-Đan, để ở trong buồng. Duy-Quế bị tù oan. Chính tôi đã lấy trộm. Chiếc đồng hồ đó hiện giấu ở dưới giường của tôi, nhắc viên gạch vuông thứ ba về phía bên trái lên thì tìm thấy.

Ba-Điền và Bảy-Nhu đồng kêu lên:

- Quẳng nó xuống nước đi! Quẳng nó xuống nước đi!

Giáo-sư vội can thiệp:

- Không được! Nếu các anh muốn quẳng Tư-Cổn xuống nước thì xin quẳng tôi xuống trước.

Hai người kia nói:

- Nếu Giáo-sư không cho tôi đẩy nó xuống nước thì chúng tôi xin một điều kiện: cho nó ngồi riêng ra một chỗ, không ai được nói chuyện với nó và cũng không ai được săn sóc đến nó.

Giáo-sư nói:

- Như vậy thì được, vì nó đáng tội đó.

Sau lời tuyên án của Giáo-sư, chúng tôi, ba người An-Thiện, Giáo-sư và tôi, ngồi xít lại với nhau, để cách một khoảng trống giữa chúng tôi và tội nhân, hắn nằm gục trên đám than.

Trong bao nhiêu giờ, hắn nằm gục như thế, đau khổ và không cựa cạy, thỉnh thoảng lại kêu:

- Tôi hối hận rồi!

Ba-Điền và Bảy-Nhu mắng:

- Đã muộn rồi! Bây giờ sợ chết mày mới hối hận, đồ hèn! Đáng lẽ mày phải hối hận từ sáu tháng, từ một năm nay rồi!

Hắn vừa hổn hển vừa nhắc lại những câu trước như để trả lời:

- Tôi hối hận rồi! Tôi hối hận rồi!

Hắn phát sốt, vì thân thể hắn run run, và hai hàm răng hắn lập cập.

Hắn kêu:

- Tôi khát lắm. Cho tôi chiếc giầy.

Nhưng chiếc giầy hết nước rồi. Tôi liền đứng dậy để lấy nước cho hắn. Nhưng Ba-Điền trông thấy bảo tôi ngồi im và An-Thiện cũng giữ tay tôi lại.

Ba-Điền nói:

- Người ta đã thề không săn sóc đến nó.

Tư-Cổn cứ lải nhải kêu khát mãi.

Cuối cùng hắn bò dậy tự múc nước lấy.

Ba-Điền kêu:

- Nó làm lở hết chỗ ngồi bây giờ!

Giáo-sư nói:

- Nên cho nó được tự do một chút.

Tư-Cổn đã nhìn thấy tôi tụt xuống nước đằng lưng, hắn cũng bắt chước làm như thế. Nhưng tôi nhẹ mà hắn nặng. Tôi mềm mại mà hắn vụng về, nên khi hắn vừa để chân xuống thì mẩu than sụt, hai tay hắn quờ quạng trong không khí, hắn lăn tòm xuống vực sâu, nước bắn tóe lên chỗ chúng tôi ngồi. Mặt nước khép lại và không mở ra nữa.

Tôi vội cúi ra phía trước, nhưng An-Thiện và Giáo-sư mỗi người một bên nắm cánh tay tôi lôi lại.

Tôi rủn người và ngã vật về phía sau, khiếp sợ.

An-Thiện nói:

- Nó không phải là người lương thiện.

Ba-Điền lấy chân đá vào vách than mấy cái và nói:

- Bây giờ thì mọi việc đều tốt đẹp!

Nhưng mọi việc chưa được tốt đẹp như lòng Ba-Điền tin tưởng. Đó không phải là lỗi các Kỹ-sư và bọn thợ đang tiến hành công cuộc giải cứu. Người ta đã đào suốt ngày đêm không nghỉ, nhưng việc làm rất khó.

Người ta đang đào đến lớp than rất rắn mà thợ mỏ thường gọi là “gân than”. Vả hầm đào lại hẹp chỉ vừa chỗ cho một người cuốc nên họ phải luân phiên nhau làm việc. Xuống càng sâu, không khí càng khó thở. Người ta phải đặt những ống bằng sắt tây để dẫn khí trời xuống. Một cái quạt tay gia sức thổi không khí xuống… thế mà ngọn đèn chỉ cháy được ở gần miệng ống thôi. Vì những lẽ đó, nên việc làm rất chậm. Đã 7 ngày đêm rồi mà người ta chỉ đào xuống được có 20 mét. Nếu là việc thường phải một tháng mới xong, nhưng trong trường hợp khẩn cấp, mọi người đều hăng hái, cho nên kết quả có thể đạt sớm hơn được.

Công việc sở dĩ cứ tiến hành được là nhờ ở trí cương quyết của Kỹ-sư, vì theo ý đại đa số việc làm đó rất vô ích. Tất cả những thợ bị chôn vùi đều chết rồi. Chỉ nên múc hết nước bằng thùng rồi ngày một ngày hai, người ta sẽ tìm đủ xác nạn nhân. Thế thì xuống hầm được sớm hơn hay chậm hơn một vài giờ có quan hệ gì? Đó là ý kiến của những nhà có thẩm quyền cũng như toàn thể dân chúng. Những cha mẹ, vợ con các nạn nhân đã để tang cả rồi. Quyết rằng không một người nào lại sống sót được ở hầm mỏ Thụy-Khê.

Để ngoài tai những dị nghị của công chúng và những lời phê bình của các bạn đồng nghiệp, Kỹ-sư không sờn lòng, khăng khăng cho đào đến nơi.

Người ta thấy có ở Kỹ-sư một tính khí cương ngạnh và một lòng tin mãnh liệt, đức tính quý báu đã giúp Kha-Luân-Bố tìm thấy Mỹ-châu.

Kỹ-sư hô hào đám thợ:

- Các bạn ơi! Còn một ngày hôm nay nữa thôi. Nếu ngày mai không tìm thấy gì mới lạ, ta sẽ đình chỉ việc làm. Tôi chỉ yêu cầu anh em cho các nạn nhân những điều mà tôi cũng sẽ yêu cầu cho chính anh em nếu anh em lâm vào cảnh đó.

Lòng tin tưởng của Kỹ-sư đã thông cảm anh em thợ thuyền. Họ đồng tâm, hiệp lực hoạt động không ngừng, nên hầm khoét mỗi ngày một sâu.

Về mặt khác, Kỹ-sư cho chống lại đường hầm ở nhà Đèn sụp đổ nhiều chỗ, cố tìm mọi cách để khám phá xem dưới hầm còn có ai sống sót.

Ngày thứ bảy, một người thợ cuốc vừa thay phiên xuống đào, nghe thấy tiếng lịch kịch nhè nhẹ như có người nện khẽ đâu đây. Đáng lẽ bỏ cuốc xuống, nhưng người thợ đó cứ giơ cuốc lên rồi áp tai vào sườn than. Song còn ngờ ngợ, người này gọi một người bạn nữa xuống để cùng nghe. Cả hai người đều im lặng lắng tai nghe: một lúc sau có những tiếng đập xa xa đều đều, đến tai họ.

Tin này lập tức bay lên bờ. Người ta nửa tin, nửa ngờ. Kỹ-sư được tin liền xuống xem hư thực.

Thì ra Kỹ-sư đã làm một việc hữu lý. Ở đó có những người sống sót mà lòng tin của Kỹ-sư sắp cứu ra được. Nhiều người theo Kỹ-sư xuống chỗ đào, Kỹ-sư rẽ đám thợ ra, dán tai vào sườn hầm. Nhưng vừa run run vừa cảm động, Kỹ-sư chẳng nghe thấy gì.

Kỹ-sư thất vọng nói:

- Tôi không nghe thấy gì cả.

Một người thợ nói:

- Đó là tiếng ma mỏ làm ra. Nó muốn trêu ta, nó gõ để đánh lừa ta.

Nhưng hai người thợ đầu tiên nhất quyết rằng họ không nhầm và những tiếng gõ kia đã đáp lại tiếng gõ của họ. Đó là lời những người kinh nghiệm ở mỏ nói ra nên cũng có một phần uy tín.

Kỹ-sư liền mời tất cả những người tùy tùng lên bờ, chỉ để hai người thợ cuốc ở lại.

Lúc đó hai người lấy cuốc gõ mấy tiếng rất mạnh và cách khoảng đều nhau, rồi ba người đều nín thở áp tai nghe. Đợi một lúc, cả ba người đều nhận một rung động sâu xa trong trái tim họ. Đó là những tiếng nhẹ yếu nhưng dồn dập và nhịp nhàng đã trả lời họ.

Kỹ-sư bảo hai người thợ mỏ:

- Các bạn gõ lại rất thong thả xem có phải đó là âm hưởng những tiếng của ta không?

Hai người thợ cuốc lại gõ thì lại nghe thấy những tiếng nhỏ và nhịp nhàng như trước nghĩa là những tiếng kêu gọi của những người bị vùi lấp.

Không còn nghi ngờ gì nữa: có những người còn sống sót thực và người ta phải xúc tiến việc cấp cứu.

Lập tức tin này lan khắp thành phố như một cái ngòi dẫn thuốc nổ và lôi cuốn đến mỏ Thụy-Khê, một đám dân chúng đông hơn và xúc động hơn ngày đầu xảy ra nạn lụt. Vợ con, cha mẹ và thân thích những nạn nhân kéo đến, hy vọng và hồi hộp trong bộ quần áo tang. Họ xôn xao:

“Sống sót được bao nhiêu người? Dễ thường nhiều lắm! Có cả chồng bác, có cả con tôi nữa, chẳng sai!”

Người ta muốn chạy đến hôn Kỹ-sư. Nhưng thản nhiên trước tiếng hoan hô cũng như trước lời la ó, Kỹ-sư chỉ nghĩ đến việc cấp cứu. Để ngăn những người đến xem cũng như thân nhân các người bị nạn, Kỹ-sư phải nhờ lính ở đồn ra giữ trật tự cho thợ có chỗ làm việc.

Những tiếng kêu cứu nhỏ quá không biết đích từ phía nào đưa đến, người ta đoán chỉ ở trong ba cái hốc của hầm cũ là nơi thợ có thể lánh nạn được. Như vậy đào một lỗ xuống chưa đủ, phải đào thêm hai lối nữa để tới những cái hốc nói trên. Khi lối nào đào đến chỗ nghe rõ hơn thì người ta bỏ hai lối kia và tập trung lực lượng vào một lối cần thiết. Công việc tiến hành hăng hái hơn trước. Các Công ty bên cạnh cũng cho những thợ tinh nhuệ đến giúp sức. Người ta hy vọng vào lối đang đào, đồng thời người ta cũng hy vọng vào lối xuống cũ ở cửa Nhà Đèn vì nước ở các lò đã rút nhiều.

Ở dưới hốc, khi chúng tôi nghe thấy tiếng gõ của Kỹ-sư chúng tôi cuống quít như lúc mới nghe thấy tiếng thùng múc nước ở cửa lò:

- Sống rồi!

Tiếng reo vui vẻ đó đều vuột ra ở miệng mọi người. Chúng tôi tưởng người ta sắp đến dắt chúng tôi lên. Nhưng đợi mãi, cũng như việc múc nước, hy vọng biến dần thành thất vọng.

Những tiếng cuốc kình kịch nghe còn xa, có lẽ còn cách chúng tôi đến hai ba mươi mét. Phải mất bao nhiêu thì giờ để xuyên qua khối than đó? Chúng tôi ước lượng, mỗi người một cách: một tháng, một tuần lễ, sáu ngày. Đợi thế nào được những một tháng? Những một tuần lễ? Những sáu ngày? Bọn chúng tôi, ai còn đủ hơi sức trong sáu ngày nữa? Chúng tôi đã nhịn đói trong bao nhiêu ngày rồi?

Chỉ có Giáo-sư là còn nhuệ khí, nhưng rồi cũng thấy kém dần. Chúng tôi tha hồ uống nước, nhưng chúng tôi đói lắm, không chịu được nữa, đã thử ăn những mẩu gỗ thối vẩn trên mặt nước.

Cao-Dĩ đói háu hơn chúng tôi đã xẻo cổ giầy và nhai những miếng da dai nhách.

Nhìn cái đói đốt ruột đã đưa người ta đến chỗ nào, tôi đâm ra lo sợ. Tôi nhớ lại những chuyện đắm tàu mà ông Vỹ-Tiên đã kể lại cho tôi nghe vì ông đã từng đi bể nhiều cũng như đi trên đất. Trong các chuyện đó, có một chuyện làm cho tôi phải nghĩ đến ngay lúc cái đói bắt đầu. Đó là chuyện mấy người thủy thủ đắm tàu, lạc vào một hoang đảo toàn cát không có một thứ gì để ăn, sau đói quá phải giết một đứa thủy thủ nhỏ để ăn thịt. Khi nghe thấy những bạn tôi kêu đói, tôi tự hỏi không biết tôi có phải chịu như số phận đứa bé kia không? Đành rằng Giáo-sư và An-Thiện là những người bảo vệ cho tôi rồi, nhưng còn Ba-Điền, Bảy-Nhu và Cao-Dĩ, nhất là Cao-Dĩ có những răng dài và trắng đã mài sắc bằng những miếng da, vẫn làm cho tôi ngờ vực.

Có lẽ, sự sợ hãi đó hơi thừa, nhưng ở trong tình trạng chúng tôi, người ta khó mà không rối trí và sinh ra lẩn thẩn.

Điều làm tăng nỗi khiếp sợ của chúng tôi là cái tối dày đặc. Những đèn của chúng tôi lần lượt hết dầu. Khi chỉ còn hai chiếc, Giáo-sư bắt tắt đi để khi nào cần thiết mới thắp. Vì thế chúng tôi hoàn toàn ở trong ngục tối.

Thiếu ánh sáng, không những kinh hồn, lại còn nguy hiểm nữa vì nếu lỡ ai cử động vụng về là có thể lăn xuống nước dễ như chơi.

Mỗi bậc chứa ba người, không đến nỗi chật lắm: An-Thiện, Giáo-sư mỗi người một đầu, còn tôi ở giữa.

Có lúc tôi đang thiu thỉu ngủ, tôi chợt nghe thấy Giáo-sư nói một mình như người ngủ mê.

Tôi thức dậy và lắng tai nghe.

Giáo-sư nói:

- A! Có mây! Không còn gì đẹp hơn mây nữa! Có người không thích mây. Nhưng ta rất yêu mây. À mà lại có gió nữa, ta cũng thích gió.

Giáo-sư mê chăng? Tôi lay cánh tay Giáo-sư, nhưng Giáo-sư vẫn nói:

- Tráng cho tôi một đĩa sáu trứng, đừng làm tám. Làm hai đĩa khi trở về, tôi sẽ ăn.

- Chú An-Thiện ơi! Chú có nghe thấy gì không?

- Có. Giáo-sư đang nói mê.

- Nhưng không. Giáo-sư vẫn thức.

- Ông ấy nói nhảm. Con cam đoan rằng Giáo-sư vẫn thức.

- Giáo-sư ơi!

- Ông An-Thiện ơi! Mời ông đến ăn súp với tôi. Tôi báo trước là có gió to đấy.

An-Thiện nói:

- Ông này mất trí khôn. Đói và sốt sinh ra thế.

Bảy-Nhu nói:

- Không phải. Ông ấy chết rồi! Đó là hồn ông ấy về đấy. Các bạn đã thấy là ông ấy đã không ở đây nữa rồi chứ? Giáo-sư ơi! Gió ở đâu? Có phải là gió Bắc không?

Ba-Điền nói:

- Không có gió Bắc.

Mấy người này mất trí khôn cả rồi hay sao? Họ sắp điên à? Rất có thể họ sẽ đánh nhau, giết nhau. Làm thế nào bây giờ?

- Giáo-sư ơi! Giáo-sư uống rượu không?

- Cảm ơn. Khi ăn trứng, tôi sẽ uống.

Trong thời gian khá lâu, cả ba người cùng nói lảm nhảm với nhau và không trả lời nhau. Trong những câu nói rời rạc đó, tôi nghe lộn đi lộn lại những tiếng “ăn, đi chơi, gió, trời”.

Tôi chợt có ý nghĩ thắp đèn lên. Đèn và diêm để bên cạnh Giáo-sư. Tôi sờ tay cầm lấy. Ánh sáng vừa chiếu ra, mọi người đều im, không nói nữa.

Một lúc sau, họ chợt thức dậy, hỏi:

- Cái gì thế?

An-Thiện đáp:

- Các bạn vừa nói mê.

- Ai thế?

- Cả ba người: Giáo-sư, Ba-Điền và Bảy-Nhu. Các bạn nói các bạn đi chơi ở ngoài trời và có gió.

Thỉnh thoảng chúng tôi lại đập vào tường để báo hiệu cho bên ngoài biết chúng tôi vẫn còn sống. Chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng cuốc vẫn bổ vào than đều đều. Nhưng còn xa lắm.

Nhờ ánh đèn, tôi cầm giầy xuống lấy nước và nhận thấy mực nước đã hạ xuống một vài phân.

- Nước xuống.

- Lạy Chúa!

Lại một lần nữa chúng tôi phấn khởi vì hy vọng. Mọi người muốn để đèn để xem nước xuống, nhưng Giáo-sư phản đối. Tôi tưởng có chuyện sắp cãi nhau, nhưng bất cứ một đề nghị gì, Giáo-sư cũng có những lý do chính đáng nên ai cũng phải nghe.

Giáo-sư nói:

- Chúng ta còn cần đèn. Nếu bây giờ ta dùng đèn vào việc vô ích, đến lúc cần kíp mà hết cả dầu thì làm thế nào? Vả lại ngồi mà nhìn nước xuống tí một thì có sốt ruột mà chết không? Vì nước không thể nào một lúc rút hết ngay được. Thế nào ta cũng sống. Các bạn yên lòng. Chúng ta còn 13 que diêm. Khi nào các bạn cần đến thì có lửa ngay.

Đèn được tắt đi ngay. Chúng tôi đã uống nước nhiều nên không mê sảng nữa. Rồi chưa nằm yên lặng không biết bao nhiêu ngày nữa, đời sống chỉ thoi thóp nương tựa vào những tiếng cuốc đào than và những tiếng thùng múc nước.

Tiếng cuốc dần dần to. Mực nước mỗi ngày một thấp. Người ta đang đến gần chúng tôi. Nhưng không biết có kịp không? Nếu công cuộc giải cứu chúng tôi mỗi lúc một tăng lên thì trái lại, sức khỏe của chúng tôi mỗi lúc một suy tàn đi: thể xác yếu, tinh thần cũng yếu. Từ ngày mắc nạn đến giờ, các bạn tôi không được ăn một mẩu bánh nào vào ruột. Một điều ghê gớm hơn nữa là cái không khí tù hãm mà chúng tôi thở mỗi ngày một độc. May sao, nhờ nước rút dần, áp lực không khí bớt đi. Nếu cứ bị bế tắc như những ngày đầu thì chúng tôi đã chết ngạt hết rồi. Do đó, chúng tôi còn sống dai dẳng đến ngày nay cũng là nhờ các cách cấp cứu mau lẹ từ lúc đầu.

Tiếng cuốc và tiếng thùng chuyển động rất đều như cái quả lắc đồng hồ. Mỗi khi tiếng đó ngừng lại là chúng tôi sốt người lên. Người ta định bỏ chúng tôi hay sao? Người ta đã gặp những khó khăn gì?

Chợt có tiếng cuốc ngừng rồi có một tiếng động lớn nổi lên ù ù dữ dội và liên tiếp.

Cao-Dĩ kêu lên:

- Chết rồi! Nước lại xuống mỏ rồi!

Giáo-sư cải chính:

- Không phải nước.

- Thế là cái gì?

- Ta không biết, nhưng nhất quyết không phải nước.

Mọi khi, gặp việc gì xảy ra, Giáo-sư thường viện chứng và suy luận rất hữu lý, khiến chúng tôi được yên tâm. Lần này, Giáo-sư lại thú nhận rằng không biết nguyên do tiếng động kia – mãi sau này chúng tôi mới biết đó là tiếng quạt máy lùa không khí xuống cho thợ đào làm việc – nên chúng tôi rất hoảng và ngờ rằng sắp lại bị lụt.

- Thắp đèn lên!

- Thắp làm gì, vô ích.

- Thắp lên! Thắp lên!

Vì nhiều người gào quá nên Giáo-sư phải cho thắp đèn. Ánh sáng cho họ biết rằng nước không lên mà đang xuống.

Giáo-sư nói:

- Các bạn nhìn xem.

- Nước sắp lên! Lần này phải chết!

- Thế thì chết ngay còn hơn. Tôi không sao chịu được nữa!

- Giáo-sư ơi! Cho tôi xin cái đèn, để tôi viết lại cho vợ con vài chữ.

- Viết giúp tôi với!

- Viết giúp tôi nữa!

Chính Bảy-Nhu là người đã đòi đèn và viết thư để lại cho vợ con. Trong túi Bảy-Nhu có một mảnh giấy và cái bút chì. Hắn sửa soạn để viết.

- Đây tôi muốn viết thế này: Chúng tôi An-Thiện, Ba-Điền, Giáo-sư, Cao-Dĩ và Lê-Minh bị cầm tù trong hang, chúng tôi đang hấp hối:

“Tôi, Bảy-Nhu, cầu nguyện Chúa phù hộ cho vợ góa và con côi của tôi. Giờ phút cuối cùng, tôi chúc cho vợ con tôi được phúc lành”.

Còn ông An-Thiện?

“An-Thiện đem tất cả của cải đồ đạc cho cháu An-Sinh”.

“Ba-Điền cầu mong vợ con được nương tựa vào Chúa, vào Thánh-Mẫu và Công ty”.

- Còn Giáo-sư?

Giáo-sư thở dài:

- Ta chẳng có gì cả. Chẳng có ai khóc sau khi ta chết.

- Còn Cao-Dĩ?

Cao-Dĩ nói:

- Tôi à? Tôi dặn người ta bán những hạt dẻ của tôi đi, không phải rang nữa.

- Giấy của ta không phải dùng để viết nhảm.

- Không phải nhảm!

- Thế mày không có ai để thương à? Không có mẹ à?

“Mẹ tôi sẽ hưởng của cải của tôi”.

- Còn Lê-Minh?

“Tôi, Lê-Minh, còn có cây đàn và con chó, xin cho cả Mã-Tư. Tôi hôn An-Sinh, nhờ An-Sinh hôn Lệ-Hoa và hoàn lại cô giúp bông hồng héo hiện để ở trong túi áo tôi”.

- Chúng ta ký cả vào giấy này.

Ba-Điền nói:

- Cho tôi gạch chữ “thập chéo” vào thay chữ ký.

Bảy-Nhu nói:

- Bây giờ, tờ di chúc của ta đã ký xong rồi, tôi yêu cầu các bạn cho tôi được chết yên ổn, đừng nói với tôi nữa. Vĩnh quyết các bạn!

Nói xong, Bảy-Nhu đứng dậy lại chỗ chúng tôi hôn cả ba người xong về chỗ hôn Ba-Điền và Cao-Dĩ rồi vun đám than vụn làm gối, đặt đầu lên, nằm thẳng cẳng và không nhúc nhích nữa.

Thư tuyệt mệnh kia và ý chán đời của Bảy-Nhu đã làm cho lòng can đảm của chúng tôi mềm đi.

Tuy nhiên, tiếng cuốc đã nghe rõ nhiều, người ta sắp tới chỗ chúng tôi.

Giáo-sư liền cắt nghĩa và làm cho chúng tôi phấn khởi đôi chút.

- Nếu họ đến gần thì ta đã nghe thấy tiếng họ kêu. Đằng này, chúng ta không nghe thấy gì mà họ cũng chẳng nghe thấy ta. Giáo-sư nghĩ thế nào?

- Rất có thể họ chỉ còn cách xa ta vài mét mà vẫn không nghe được tiếng chúng ta, đó là tùy theo chất của tảng than.

- Hay cũng tùy theo quãng dài ngắn nữa.

Trong khi đó, nước vẫn xuống đều. Chẳng bao lâu chúng tôi có đủ chứng cớ là nước không chấm mái hầm nữa. Chúng tôi nghe tiếng sột soạt ở chân vách và những tiếng than vụn rơi xuống nước.

Chúng tôi thắp đèn lên và trông thấy mấy con chuột đang chạy men vách. Lũ chuột đó có lẽ cũng như chúng tôi tìm được chỗ ẩn ở một hốc đá, bây giờ nước xuống bò đi để kiếm ăn. Chúng sở dĩ sang chỗ chúng tôi được là vì nước không đầy đến mái hầm nữa.

Mấy con chuột hiện ra trong hang chúng tôi chẳng khác chi con bồ câu xuất hiện trên thuyền của Giáo Trưởng Nô-E ngày xưa: đó là điềm hết nạn đại-hồng-thủy.

Giáo-sư nhún vai lên và nói:

- Anh Bảy-Nhu ơi! Hãy can đảm lên! Cố lên! Anh ạ.

Rồi Giáo-sư cắt nghĩa: những con chuột đó báo trước rằng chúng ta sắp được giải phóng.

Nhưng Bảy-Nhu không tin:

- Nếu lại gặp hy vọng để rồi thất vọng như mọi lần thì tôi xin thôi. Tôi vui lòng đợi chết. Tôi cầu vĩnh phúc cho linh hồn tôi.

Tôi muốn xuống thấp để xem mực nước đã rút đến đâu. Hiện đã thấy một khoảng trống lớn giữa mặt nước và mái hầm.

Cao-Dĩ bảo tôi:

- Anh bắt chuột để chúng ta ăn đi!

- Bắt làm sao được, nó chạy nhanh như thế kia!

Nhìn mặt nước tôi nảy một ý tưởng.

Tôi hỏi Giáo-sư:

- Giáo-sư ơi! Nếu chuột chạy trong hầm được thì ta cũng có thể đi qua được. Con muốn bơi ra chỗ cầu thang. Con sẽ kêu cứu. Người ta sẽ xuống rước ta, như thế thì nhanh hơn là đợi lối đào.

- Ta cấm con không được làm thế.

- Con bơi lội dễ dàng như người ta đi trên đất bằng và lặn dưới nước như lươn.

- Gặp khí độc thì sao?

- Chuột chạy qua được thì không khí cũng không đến nỗi xấu lắm.

Ba-Điền nói:

- Anh cứ đi. Tôi cho anh cái đồng hồ của tôi.

Giáo-sư hỏi An-Thiện:

- Ý kiến ông thế nào?

- Nếu có thể tìm đến cầu thang được thì tùy ý nó. Tôi không có quyền ngăn cản.

- Lỡ nó chết đuối thì sao?

- May ra nó thoát nạn còn hơn là ngồi đợi chết ở đây!

Giáo-sư suy nghĩ một lúc rồi cầm tay tôi, bảo:

- Con có lòng tốt, con ạ. Tùy ý con. Ta cho là một việc không thể làm được. Nhưng không phải là lần thứ nhất mà người ta thấy “cái không thể làm được đã làm được”. Con hôn chúng ta đi!

Tôi cảm động, đứng lên hôn Giáo-sư và chú An-Thiện. Xong tôi bỏ quần áo và xuống nước.

Trước khi bơi ra, tôi ngoảnh lại bảo mọi người:

- Các ông gọi luôn luôn nhá! Tiếng gọi đó sẽ chỉ đường cho tôi đi.

Khoảng trống ở dưới mái thế nào? Có đủ chỗ để cử động không. Đó là vấn đề cần thiết. Bơi thử một vài sải, tôi thấy tôi có thể tiến được, nhưng phải bơi thong thả để khỏi đụng đầu: con đường mạo hiểm này có thể đi được nhưng không biết là đến chỗ sống hay chỗ chết?

Tôi quay đầu lại nhìn thấy ánh đèn xuống mặt nước đen. Ở đó tôi yên trí có ngọn hải đăng rồi!

Giáo-sư gọi to:

- Có đi được không?

- Có.

Rồi tôi bơi rất cẩn thận.

Từ chỗ chúng tôi ra đến cầu thang, điều khó nhất là phải biết lối đi, vì gần đó có một ngã tư có thể làm tôi lạc đường được; vì đen tối quá chẳng nhìn thấy gì. Mái và vách hầm không đủ chỉ lối cho tôi bơi, tôi phải nhờ đến đường sắt ở mặt đất, đó là cách chắc chắn nhất. Cứ theo đường sắt là ra đến cầu thang.

Thỉnh thoảng tôi lại đạp chân xuống đường sắt rồi lại ngoi lên. Đường sắt vẫn ở dưới chân tôi, tôi không lạc. Tiếng người nghe yếu dần, tiếng thùng thấy mạnh hơn. Tôi đã đi được nhiều. Tôi sắp nhìn thấy ánh sáng và nhờ tôi, các bạn tôi sẽ thoát nạn: lòng tôi khấp khởi mừng thầm.

Một lát sau, tôi sờ chân không thấy đường sắt đâu cả. Tôi lặn xuống lấy tay mò, nhưng vô ích: Chẳng thấy gì. Tôi lạc lối chăng?

Tôi im lặng một lúc để suy nghĩ và nhận định. Tiếng các bạn tôi thoang thoảng rất khó nghe.

Tôi hít một hơi dài để trữ khí trời, rồi hụp xuống lần nữa. Nhưng kết quả cũng không hơn gì lần trước: không thấy đường sắt.

Tôi đã đi nhầm sang hầm khác mà không biết chăng, tôi lộn lại.

Nhưng nguy quá! Bạn tôi không gọi nữa hay có gọi mà tôi không nghe thấy gì?

Tôi choáng người lo sợ quá, không biết bây giờ đi về lối nào? Có lẽ tôi phải chết trong bóng hắc ám này, dưới cái vòm nặng nề này, giữa làn nước giá lạnh này chăng? Nhưng chợt tiếng gọi lại đưa ra, vì thế tôi mới biết đường về.

Lộn về được mười hai sải, tôi lặn xuống và lại thấy đường sắt. Thì ra chỗ này là ngã tư, đường sắt bị nước cuốn đi thành ra tôi mất tay dẫn đạo.

Trong tình trạng này, dự định của tôi không sao thực hiện được. Tôi đành lộn trở lại vậy.

Đã quen quãng đường này rồi, biết rằng không nguy hiểm. Nên tôi bơi về rất nhanh, những tiếng gọi luôn luôn chỉ dẫn cho tôi.

Tôi càng tới gần, tiếng gọi nghe càng rõ mà có phần hăng hái hơn trước, hình như các bạn tôi đã hồi sức lại. Tôi về đến cửa hang và kêu lên.

Giáo-sư bảo tôi:

- Lên đi! Lên đi!

Tôi đáp:

- Con không tìm thấy lối ra.

- Không cần nữa. Lối đào đã đến nơi rồi. Họ đã nghe thấy tiếng ta mà ta cũng nghe thấy tiếng họ. Hai bên sắp có thể nói chuyện với nhau.

Tôi vội leo lên bậc và để tai nghe. Thực vậy, tiếng cuốc nghe rất mạnh, tiếng người nghe còn nhỏ nhưng đã rõ. Hết cơn mừng, tôi cảm thấy rét run. Vì không có quần áo ấm cho tôi mặc thêm, người ta lấy than vụn vun vào người tôi đến cổ để thay chăn. Than giữ hơi nóng cho tôi, nên tôi chóng lại sức. Tôi kể lại cho mọi người nghe tôi bơi thế nào và tìm đường sắt ra làm sao.

- Em dám lặn à?

- Lặn lắm chứ! Tiếc rằng không tìm thấy đường sắt.

Nhưng đúng như lời Giáo-sư đã nói, bây giờ việc đó không cần lắm, vì nếu chúng ta không ra được bằng đường hầm thì chúng ta cũng sẽ ra được bằng lối đào.

Tiếng thợ nói đã nghe rõ. Chúng tôi đang mong họ nghe thấy tiếng chúng tôi, bỗng có ba tiếng hỏi rất thong thả lọt vào chỗ chúng tôi:

- Bao nhiêu người?

Trong bọn chúng tôi có An-Thiện là tiếng to và rõ hơn cả, An-Thiện được cử để trả lời:

- Sáu!

Ở ngoài thấy im lặng. Có lẽ người ta đã đinh ninh một con số lớn.

An-Thiện nói tiếp:

- Mau lên! Chúng tôi sắp chết rồi!

- Tên các anh là gì?

- Bảy-Nhu, Ba-Điền, Giáo-sư, Cao-Dĩ, Lê-Minh và An-Thiện.

Trong cuộc cấp cứu chúng tôi, giờ phút này là giờ phút hồi hộp nhất và cảm động nhất cho những người ở trên Mỏ. Khi họ biết Kỹ-sư sắp có thể thông tin với chúng tôi, thì những thân nhân các người bị nạn đều chạy đến. Quân lính trong đồn phải khó nhọc mới giữ nổi họ khỏi tràn lấn đến cửa hầm.

Khi Kỹ-sư thông báo chỉ có 6 người sống sót thì một sự vô cùng đau đớn hiện lên trên nét mặt mọi người. Tuy nhiên, họ còn một chút hy vọng mong manh là may ra người họ mong đợi sẽ ở trong số đó. Nhưng đến khi Kỹ-sư đưa ra 6 tên của chúng tôi thì than ôi! Nỗi đau sót như muốn vạch trời kêu lên, những dòng lệ tuôn rơi như suối. Trong số một trăm hai mươi người mẹ, người vợ đứng đó, chỉ có bốn người là may mắn thấy chồng, thấy con; còn bao nhiêu người phải ngậm ngùi đau đớn. Chỉ có bốn gia đình được may mắn vì Giáo-sư và tôi không có thân nhân. Về phần chúng tôi, trong lúc gần đất xa trời này cũng nghĩ thương cho những người xấu số.

An-Thiện hỏi:

- Cứu được nhiều không?

Không thấy trả lời.

Ba-Điền hỏi:

- Hỏi hộ thằng Phi nhà tôi thế nào?

An-Thiện lại hỏi nhưng cũng như câu trước, chẳng ai trả lời.

- Có lẽ họ không nghe thấy.

- Hay không muốn trả lời đấy thôi.

Có một điều tôi vẫn thắc mắc, tôi giục An-Thiện:

- Hỏi xem ta ở đây đã bao nhiêu ngày.

Câu này được trả lời:

- Mười bốn ngày.

Thế mà chúng tôi chỉ tưởng có năm hay sáu ngày là cùng.

- Các bạn không phải ở dưới đấy lâu nữa. Hãy can đảm lên. Đừng nói nữa làm cho chậm việc. Độ vài giờ nữa thôi.

Mấy giờ này tôi tưởng là những giờ dài nhất từ khi giam cầm và cũng là giờ đau khổ nhất. Một nhát cuốc hình như là đến nơi, nhưng hết nhát ấy lại đến nhát khác. Hết nhát khác lại đến nhát khác nữa, và vô tận.

Có tiếng hỏi:

- Có đói lắm không?

- Lả rồi!

- Có thể đợi được nữa không? Nếu các bạn yếu quá thì chúng tôi tạm xăm một lỗ để giong cháo hoặc sữa xuống, như vậy lâu ra. Nếu các bạn cố đợi được, các bạn sẽ chóng được tự do.

- Chúng tôi đợi vậy. Xin làm mau lên!

Thùng múc nước vẫn không ngừng. Nước xuống đều.

Giáo-sư nhắc:

- Bảo họ rằng nước xuống nhiều.

- Chúng tôi biết rồi. Hoặc bằng lối đào, hoặc bằng đường hầm, người ta sẽ đến cứu các anh… không lâu.

Tiếng cuốc thấy yếu đi. Chắc hẳn người ta đang dò chỗ để chọc thủng xuống. Chúng tôi đã tả rõ vị trí của chúng tôi, người ta sợ than đất sụt xuống đầu chúng tôi, có thể đè chết, gây thương tích, hoặc hất chúng tôi xuống nước, nên phải dè dặt.

Theo lời Giáo-sư, chúng tôi còn phải sợ nạn khí trời nổ tung. Một khi lỗ đã chọc thủng, khí bị nén ép ở trong hốc phụt mạnh lên như phát súng đại bác và làm đổ vỡ tất cả. Vì thế ở trong, chúng tôi phải thận trọng cũng như những thợ ở ngoài.

Cuốc bổ chan chát làm cho nóc hang rung động, những mảnh than vụn rào rào rơi xuống nước. Có một điều rất lạ là càng gần đến lúc được cứu, thì khí lực chúng tôi càng suy. Tôi không ngồi vững được nữa, nằm chũi trong đống than vụn, yếu quá không nhắc nỗi cánh tay. Tôi run cầm cập mặc dầu lúc đó không rét.

Sau cùng, mấy miếng than to rơi xuống. Một lỗ sổ hé trên đầu hang. Chúng tôi lóa mắt bởi những ánh đèn. Nhưng ngay lập tức, chúng tôi lại tối mò như cũ. Một luồng gió, một đợt gió rất mạnh, một vòi rồng ầm ầm nổi lên cuốn tất cả những thứ vụn vặt ra ngoài.

Giáo-sư nói:

- Đừng sợ! Đó là những luồng gió mạnh. Người ta sẽ thắp lại đèn và đưa xuống. Ta hãy đợi một chút.

Ôi! Đợi! Vẫn còn phải đợi!

Nhưng ngay lúc đó có tiếng xôn xao ở mặt nước dưới hầm. Tôi ngoảnh lại, nhìn thấy một đám ánh sáng đang tiến đến, trên mặt nước sóng vỗ bập bềnh.

Người ta kêu:

- Can đảm lên! Can đảm lên!

Và trong khi người ta do lối đào đưa xuống tay cho những người nằm ở bậc trên thì do đường hầm người ta cũng vừa tới chỗ ba chúng tôi.

Kỹ-sư đi đầu, leo lên trước tiên, ẵm tôi xuống. Thực là kịp thời vì lúc đó sức tôi đã kiệt, không nói được nữa.

Tuy nhiên, tôi vẫn biết có người đang ẵm tôi. Rồi người ta quấn khăn cho tôi và đưa tôi lên cửa hầm. Tôi vẫn nhắm mắt, thấy chói quá, tôi phải mở ra. Ban ngày rồi! Tôi ra ngoài trời rồi!

Ngay lúc đó, một vật trăng trắng ném vào tôi. Đó là con Lãnh-Nhi nhảy vọt lên cánh tay Kỹ-sư và liếm vào mặt tôi. Đồng thời, tôi thấy có người cầm tay phải tôi và hôn.

Một tiếng nhỏ phát ra:

- Lê-Minh

Đó là anh Mã-Tư.

Tôi nhìn chung quanh tôi. Một đám người đông đặc đứng hai bên lối đi như hai hàng rào kín. Họ đứng nín thít vì đã có lệnh không được kêu gọi làm xúc động chúng tôi, nhưng những dáng điệu của họ, những con mắt của họ đã nói nhiều thay cho họ.

Ở hàng thứ nhất, tôi thoáng nhìn thấy những áo lễ trắng và những chỉ vàng lóng lánh dưới ánh mặt trời. Đó là những vị linh mục ở Văn-Xá đến tận cửa Mỏ để cầu nguyện cho chúng tôi. Khi chúng tôi đi qua, các vị quỳ cả xuống, mặt đất không lầm lội nữa, vì trong mười bốn hôm đã khô ráo như thường.

Có đến hai mươi cánh tay đưa ra để đỡ lấy tôi, nhưng Kỹ-sư không muốn nhường lại: sung sướng và tự hào, Kỹ-sư cứ ẵm tôi về đến văn phòng, ở đó người ta đã sửa soạn tươm tất chỗ nghỉ cho chúng tôi.

Hai hôm sau, tôi cùng Mã-Tư và Lãnh-Nhi đi chơi phố. Mọi người thấy chúng tôi đều dừng lại nhìn.

Có nhiều người đến bắt tay chúng tôi, với những đôi mắt rưng rưng lệ.

Có nhiều người quay mặt đi.

Những người này để tang và chua xót, họ tự hỏi rằng tại sao một đứa trẻ không cha không mẹ lại còn sống, mà những người cha, cột trụ trong gia đình, những người con yêu dấu lại bị vùi sâu trong Mỏ.

Có nhiều người làm phiền chúng tôi, định kéo chúng tôi về nhà ăn cơm hoặc mời chúng tôi vào hàng uống cà-phê.

Họ bảo:

- Em kể lại chuyện bị chôn sống cho ta hay.

Tôi cảm ơn và từ chối tất cả, vì không tiện kể chuyện mình cho người ngoài nghe. Hơn nữa, lẽ nào lại để người ta mua chuyện của mình bằng một bữa ăn hay một ly cà-phê. Vả lại, tôi thích nghe chuyện hơn là kể chuyện. Tôi nghe An-Sinh, tôi nghe Mã-Tư nói lại những chuyện đã xảy ra ở trên mặt đất trong thời gian tôi ở dưới Mỏ cho tôi nghe.

An-Sinh nói:

- Khi tôi tưởng anh chết thì lòng tôi đau xót quá như gẫy một cánh tay vì tôi tưởng thế nào anh cũng chết.

Mã-Tư nói:

- Tôi không bao giờ tin rằng anh chết. Tôi không biết anh sẽ còn sống mà ra khỏi Mỏ hay người ta sẽ cứu được anh kịp thời, nhưng tôi tin rằng anh không thể nào chết đuối được. Công việc cứu nạn làm đến nơi đến chốn thì thế nào cũng tìm thấy anh. Có lúc An-Sinh thất vọng và khóc anh, tôi hăng hái bảo An-Sinh: “Anh không chết nhưng có lẽ đang đợi chết”. Rồi tôi đi hỏi mọi người: “Người ta có thể sống bao lâu không ăn uống gì? Bao giờ thì múc hết nước? Bao giờ thì đào đến nóc hầm?”. Chẳng ai trả lời tôi vừa lòng cả. Khi người ta hỏi tên, Kỹ-sư đọc tên Cao-Dĩ rồi đến Lê-Minh, tôi nằm lăn ra đất và khóc nức nở. Lúc đó người ta xéo cả lên lưng tôi, nhưng tôi coi như không vì tôi sung sướng quá.

Tôi, tôi cũng sung sướng thấy anh Mã-Tư tin tôi, đã không muốn tưởng rằng tôi có thể chết được.

Hector Malot

Hà Mai Anh dịch

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXKhông gia đình 2

Không gia đình 2 Chương 9 Một thành phố đen Chúng tôi lại lên đường, không đói không mệt với hai mươi tám phrăng trong túi nhờ sự đón ti...