Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024

Xứ Trầm Hương 2

Xứ Trầm Hương 2

Phần Thứ Ba - Thắng Cảnh Cổ Tích
Để giúp cho khách du lịch đến Khánh Hòa biết qua những nơi nào đến viếng, người địa phương có bài hát rằng:
Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang,
Muốn tìm dấu cũ thì sang Tháp Bà.
Muốn trông trời biển bao la,
Con thuyền nho nhỏ bơi ra Hòn Chồng.
Muốn xem cá lạ biển đông,
Xuống tòa Hải Học trong vùng Trường Tây.
Muốn vui cùng nước cùng mây,
Mây trùm Suối Ngổ, nước đầy Suối Tiên.
Ba Hồ lắm thú thiên nhiên,
Qua Sơn là chốn thần tiên đi về.
Lòng mong nương bóng Bồ đề,
Lên chùa Hải Đức gần kề Nha Trang.
Những nơi kể trong bài hát là những nơi chân người nhàn du thường lui tới. Sự thật, thắng cảnh của Khánh Hòa không phải chỉ có thế mà thôi. Những cảnh núi non sông suối, đâu đâu cũng đều cso những đặc điểm, những kỳ thú đối với những người có đôi mắt mỹ thuật, có tấm lòng rảnh lợi danh.
Nhưng dù lòng rảnh lợi danh đi nữa, cũng ít người có đủ thì giờ để đi xem khắp non nước Khánh Hòa. Cho nên phần đông đành theo lời hướng dẫn trên mà đi viếng cảnh, kẻ theo thứ tự trong bài hát mà đi, người tùy theo chỗ thuận tiện, tùy theo phương tiện. Song trước khi đi xa, không mấy ai không tìm hưởng những cái đẹp cái thú ở ngay trước mặt: Nha Trang.
I. NHA TRANG
Tại sao lại gọi là Nha Trang? Có người bảo rằng: Xưa kia nơi đây chỉ toàn nhà tranh vách đất. Riêng tòa nhà của Bác Sỹ Yersin bằng gạch ngói đồ sộ và quét vôi trắng. Người ngoại quốc đi ngang qua biển Cù Huân, trong thấy đất liền, hỏi là xứ gì. Người thông ngôn thoáng thấy nhà Bác Sỹ Yersin trăng trắng bèn đáp « Nhà Trắng ». Người ngoại quốc mới ghi vào địa đồ, nhưng vì chữ Âu Châu không có dấu, nên ghi là « Nha Trang ». Đó là câu chuyện hài hước bày đặt ra để nhạo những ông thông dịch viên ít học. Chớ tên Nha Trang đã có từ khi nước Việt Nam chưa sản xuất những ông thông dịch viên mà xưa kia gọi là Thông Ngôn, và trước khi người Âu Châu sang Á Đông tìm thuộc địa.
Nha Trang do chữ Chàm Ea Tran hay Yjatran mà ra 1. Trong các sách viết trước thời Pháp thuộc, đã dùng đến. Như trong tập « Phương Đình Dư địa Chí » của Nguyễn Siêu đời Tự Đức, nói về tỉnh Khánh Hòa, ghi rõ rằng: « Năm Quý Sửu đại quân lấy lại Bình Khang doanh, tiến đánh thành Qui Nhơn, lúc ban sư đắp thành đất ở thủ sở Nha Trang gọi là thành Diên Khánh, núi sông thực là thiên hiểm, tục gọi là Nha Trang thành ». 2
Như thế, Nha Trang dùng gọi thành Diên Khánh từ thời Gia Long và mới dùng gọi tỉnh lỵ từ ngày Pháp đặt nền đô hộ ở Trung Việt. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí của Cao xuân Dục soạn triều Duy Tân cũng có nói đến Nha Trang. Song không phải tên thành phố mà tên một nguồn của con sông Cù Giang: Nguồn Nha Trang 3. Như thế nhất định Nha Trang không phải do Nhà Trắng mà ra vậy.
Nha Trang không phải là một thành phố thương mãi, mà là một thành phố du lịch, một thành phố thừa lương. Cho nên muốn thưởng thức cảnh thú của Nha Trang phải tìm nơi thiên nhiên chớ đừng tìm nơi nhân xảo. Thành phố Nha Trang thời Pháp thuộc chỉ bằng một phần ba thành phố hiện thời. Phố xá và gia cư của người Việt người Tàu chen chúc từ ga xe lửa đến Chợ Đầm (tức chợ cũ Nha Trang). Còn người Pháp ở dọc theo bờ biển, từ tòa Sứ (tức tòa Hành Chánh hiện nay) cho đến Đại Khách Sạn (Grand Hôtel).
Vùng Mả Vòng chưa có nhà cửa. Truyền rằng xưa kia là vùng cổ mộ nằm trong một vòng thành xây bằng đá núi, hình nguyệt mãn, cao đến rún. Trông đã xưa lắm nhưng vẫn còn nguyên vẹn dưới nhiều lớp rêu xanh. Đi lại đi qua, người ta tránh ra một phía. Đến khi người Pháp mở đường Quốc Lộ số 1, mới dời mộ đi nơi khác và phá hủy vòng thành. Nơi nầy rất nhiều ma. Sau khi mả đã dời rồi mà người ở quanh vùng vẫn thường thấy bóng ma thấp thoáng, và những đêm trăng mờ gió lạnh lại còn nghe tiếng than khóc não nùng. Cho nên khi mặt trời đã chìm tây thì ít người dám lai vãng.
Vùng Phước Hải cũng là vùng hoang vắng.Nhà cửa thưa thớt. Một phần lớn diện tích là rừng hoàng mai. Mùa xuân hoa nở ánh cả vùng. Nhưng không có người đến chặt về cắm bình hoặc thưởng cảnh. Vì cọp ở Đồng Bò thường ra để kiếm mồi. Vịnh Nha Trang, nhà Nho Thuần Phu Trần khắc Thành có câu: 4
Mả Vòng đêm vắng ma trêu nguyệt,
Phước Hải rừng xuân cọp thưởng mai.
Tuy là ngụ ý châm biếm nhân vật đương thời, câu thơ vẫn cho chúng ta thấy rõ quang cảnh Nha Trang thời người chưa đông đất còn trống. Trong bài Tặng Biệt của một nhà chí sỹ làm vào khoảng Thành Thái Duy Tân (1889-1916) có câu:
Đại Lãnh văn viên cô nguyệt hạ,
大嶺閒猿孤月下
Nha Trang đả hổ loạn vân gian.
芽莊打虎亂雲間
Nghĩa là:
Đại Lãnh nghe vượn, lạnh lẽo bóng trăng soi,
Nha Trang bắn hùm, rộn ràng tầng mây thẳm.
Câu nầy chứng minh rằng chuyện cọp ra Rừng Mai Phước Hải là chuyện thật vậy.
Bên cạnh rừng mai, còn có rừng dương liễu. Rừng có hai cánh, một trải trên vùng hỏa xa hiện thời, một giăng từ sàn tàu bay hiện thời cho đến Chụt. Cũng như Rừng Mai Phước Hải, rừng dương liễu là một giai cảnh của Nha Trang. Rừng mai phơi vàng, rừng dương buông lục. Nhưng rừng mai chỉ đẹp về mùa xuân. Còn rừng dương bốn mùa đều đẹp. Một bên do trời sanh và không có người chăm sóc. Một bên do người trồng và được sở kiểm lâm trong coi. Cho nên khi rừng mai đã bị phá để lấy củi hoặc lấy đất, thì rừng dương liễu vẫn còn tươi tốt cho đến ngày nổi chiến tranh. Nhưng, hiện nay cả hai chỉ lưu lại hình bóng mơ màng trong những vần thơ thời Tiền Chiến:
Biển Én sóng vờn trăng thúy liễu, 5
Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai.
Nước non vẫn thắm mày dương liễn,
Mưa nắng riêng gầy vóc lão mai. 6
Và trải bao nhiêu gió sương, tình vẫn còn đượm đà trong bài:
« NHA THÀNH MAI LIỄU »
Mấy xuân mai liễu sum vầy,
Liễu mai còn đó xuân nầy vắng ai!
Đeo sầu gầy gọ vóc mai,
Nhớ thương tóc liễu biếng cài mái xanh.
Gió hương thổi khắp Nha Thành,
Chiêm bao lẩn quẩn bên mành trăng soi!
Lượng xuân chẳng lẽ hẹp hòi,
Để cho mai liễu thiệt thòi tuổi xuân!
(Trường Xuyên)
Rừng mai có trước rừng dương liễu đã lâu đời. Nhưng đến khi có người biết đến chân giá trị thì rừng mai chỉ còn lưa thưa vài ba gốc, lại ở trong nơi xa xôi hẻo lánh không tiện đường tới lui. Bởi vậy nên tiếng không được nổi bằng rừng dương liễu nằm ngay bên đường quan lộ, ngày ngày không ngớt kẻ lại qua.
Cùng Rừng Dương Liễu làm Nha Trang nổi danh là « Vùng cát trắng dương xanh » trong toàn quốc:
Về vùng cát trắng dương xanh,
Cho đây gởi gắm tâm tỉnh chút nao?
Từ phen biển dậy ba đào,
Non xa ngắm bóng trăng sao ngại ngùng.
(Nhắn bạn Nha thành T.X.)
Đó là bãi biển Nha Trang vậy. Bãi biển Nha Trang, theo lời du khách đã ra Bắc vào Nam, thì là một bãi biển đẹp nhất trong toàn quốc. Bãi biển vừa rộng vừa dài. Hình giống một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra xóm Cồn, mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng. Cát vừa trắng vừa mịn như đường cát trắng Đồng Xuân ở Phú Yên. Rờ vào nghe mát rợi. Cho nên có bài hát rằng:
Bãi biển Nha Trang: mịn màng trắng trẻo,
Đường trong leo lẻo, Gió mát thanh thanh.
Đêm đêm thờ thẫn một mình,
Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây.
Tự bản thân, bãi biển trong đã đa tình đã quyến rũ, huống hồ còn được nhiều cảnh vật bên ngoài điểm xuyết thêm: Những khóm dừa xanh đứng ngay hàng, làm tàn che nắng ban trưa, che sương ban tối… Những bồn hoa tư mùa xanh tốt, những biệt thự có vườn tược bao quanh, những rừng dương liễu linh động nhưng yên lành, chạy dọc theo con đường Duy Tân ven biển ; những cảnh nhân tạo trong thiên nhiên ở phía Đông Nam: ngọn Cảnh Long với những lâu đài ẩn hiện trong cây đá ; những ngọn núi ở tận ngoài xa xôi nhưng trông như gần gũi, trùm bóng lên dãy núi Cù Lao thâm thấp ở phía Đông Bắc và lác đác nơi sườn màu ngói đỏ mà vách trắng của dãy Nhà Dòng Phan Xi Cô (Fancico), nhà dòng La San. Và ngay trước mặt ở phía Đông, những hòn lao xanh, hòn to hòn nhỏ, hình thù khác nhau sắc thái khác nhau, nổi trên mặt sóng xanh, dựa vào lưng trời xanh, man mác bát ngát… Khung cảnh ấy làm nổi bật bãi cát trắng trẻo, mịn màng… làm cho bãi cát đã có duyên càng thêm duyên, đã có sắc càng thêm sắc, giá trị gia tăng bội phần. Một nhà thơ ví bãi biển Nha Trang với một giai nhân dòng cự tộc. Giá trị chẳng những ở tư đức tư dung, mà còn ở nơi gia đình, nơi họ hàng bên nội bên ngoại.
Và vẻ đẹp của bãi biển Nha Trang, giá trị của bãi biển Nha Trang mỗi lúc mỗi khác:
- Buổi sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng, trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ ảnh hưởng, cũng trở nên huy hoàng lộng lẫy.
- Buổi trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây cối núi non là những người đứng canh giữ.
- Buổi chiều, tất cả biển trời cây đá đều trở thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm màn bạch sa mỏng và sưa.
Còn bãi biển là một tố nữ trần thân nằm im lìm ngắm cảnh giàu sang của trời tặng. Ban đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân. Và ánh đèn câu ngoài khơi lại làm giàu thêm cho cảnh. Nếu trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương. Nếu trời không trăng, thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích bảo hoàng bảo, một nửa trải dưới nền một nửa phất trên trần, trong một đền thờ của người Ấn. Ngắm cảnh giàu sang lúc ban đêm không phải là bãi biển như lúc ban ngày, mà chính là du khách, du khách ưa thích cảnh giàu sang mà không bao giờ muốn chiếm hữu.
Ngoài cảnh đẹp thiên hình vạn trạng của thiên nhiên, bãi biển Nha Trang còn có gió mát. Bãi biển nào lại không có gió mát? Đúng vậy. Nhưng gió Nha Trang có một khí mát đặc biệt, một khí mát dịu dịu, êm êm… một khí mát « trung hòa » của ngà voi, của đá cẩm thạch, khác với khí mát của Vũng Tàu, của Qui Nhơn, của Sầm Sơn, của Hạ Long… nơi nào cũng có phần « quá khích » hoặc nhiều hoặc ít, chú không mấy nơi « theo đúng thuyết Trung Hòa của Đông Phương ». Thú vị nhất là gió buổi trưa mùa hạ. Nằm dưới bóng soan nở đỏ, hoặc dưới bóng dừa buông xanh, nhìn ra biển khơi, du khách có cảm giác đương nằm dưới gốc cây đa, cây sanh ở thôn quê, nhìn ra đồng lúa mới chín tới, bên trên vàng ánh, bên dưới xanh um, và ngọn nồm thổi qua, sóng chao vàng xanh lẫn lộn. Trong khí mát lại dường như có chất bổ. Người đương mệt mỏi, ra ngồi nơi bãi trong giây lát thì tâm thần liền thấy dễ chịu ngay. Cho nên người ở bốn phương thường lấy Nha Trang làm nơi dưỡng bệnh.
Nhưng quang cảnh ấy, phong thú ấy, là quang cảnh phong thú ngày xưa, ngày mà « vùng trời đất chưa nổi cơn gió bụi ». Chớ hiện nay, những bồn hoa không còn tốt tươi, những rừng dương đã bị đốn trụi. Và trên bãi biển, mấy chục quán « bar » đã chiếm hết những « yếu điểm », đã làm thương tổn vẻ đẹp thiên nhiên bằng những kiến trúc phản nghệ thuật, đã làm ô uế cát trắng nước trong bằng những đồ thừa thãi, đồ cặn bã của thú ăn chơi.
Dù yêu phong cảnh đến đâu cũng không ai dám ra nằm lăng trên bãi cát để « ôm gió nước vào lòng », hoặc để tưởng mình đương nằm dính lưng vào lưng trời, nhìn xuống biển khơi xem đèn câu lấp lánh. Một đôi khi quên cảnh trước mặt, dấn bước đi lang thang, thì hoặc ít hoặc nhiều, thế nào chân cũng dậm phải ruột gan của đám người lấy huỳnh kim làm lý tưởng. Bãi biển Nha Trang hiện thời thật chẳng khác một cô xuân nữ bị cưỡng bách vào thanh lâu, mà những quán « ẩm thực » kia là những mụt phong tình mọc trên tấm thân ngà ngọc. Mong một ngày nào đó Long Vương sai sóng thần lên quét sạch những xú uế, để cho bãi Nha Trang lấy lại quang cảnh và phong thú của nghìn xưa. Ngày đó chắc không lâu. Vì điềm thái hòa đã ứng lên những mụt tường vân ngoài biển.
Cuộc Đất của Nha Trang, theo các nhà Phong Thủy Tức Thầy Địa, là một đại cuộc: Tứ thủy triều qui, tứ thú tụ.
Tứ thủy triều qui là bốn mặt có nước bao bọc: Hai phái Nam và Bắc của con sông Nha Trang, phái chảy vào Cửa Bé, phái chảy xuống Cửa Lớn, ôm choàng lấy cuộc đất, mà phía Đông là biển khơi.
Tứ thú tụ là mượn bốn hòn núi tượng hình bốn con thú tụ họp lại để giữ gìn anh khí:
- Núi Cảnh Long ở Chụt là con Rồng. Vì núi chạy dài từ Cửa Bé ra Cầu Đá dọc theo mé biển và đến Cầu Đá núi lại chạy thẳng ra biển, nên gọi là « Thanh long hý thủy » nghĩa là rồng xanh giỡn nước. 7
- Hòn Sanh Trung ở Hà Ra là Con Voi. Vì núi đứng cạnh đầm Xương Huân, nên gọi là « Bạch Tượng quyện hồ » nghĩa là Voi trắng cuốn hồ. 8
- Hòn Trại Thủy là Con Giơi. Vì trước núi, tại « đầu giơi » có một bàu nước hình tròn như nguyệt 9 nên gọi là « Ngọc Bức hàm hoàn », nghĩa là Giơi Ngọc ngậm vòng.
- Hòn Hoa Sơn, tục gọi là Núi Một, ở Nha Trang Tây, đường Phước Hải, là con Rùa. Vì trên núi có ngọn cổ tháp, nên gọi là « Kim Qui đới tháp », nghĩa là Rùa Vàng đội tháp. Cuộc đất phát đại phú đại quí.
Nhưng rồi phái Nam sông Nha Trang bị lấp, cổ con thanh long và kim qui bị cắt, long mạch bị tổn thương. Long mạch mới bị tổn thương chớ chưa đứt hẳn, nên nhân dân sở tại dù không phát đại phú đại quí, nhưng vẫn sung túc phong lưu, và trải bao phen khói lửa dậy nơi nơi, Nha Trang vẫn được yên ổn hơn đâu hết. Bốn « Con thú » của cuộc đất cũng là bốn thắng cảnh của Nha Trang. Ba cảnh Thanh Long, Bạch Tượng, Ngọc Bức chúng ta đã thưởng thức khi đi dạo núi sông.
Ở đây xin nói riêng về cảnh Kim Qui. Kim Qui hiện nay đã biến dạng hẳn. Con đường Phước Hải đã chia khúc đầu và khúc mình con rùa ra làm hai. Khúc đầu bị đào phá không còn ra dáng ra hình gì cả. Còn khúc mình thì đã đẽo thành một con dấu hình thuẫn úp sấp. Trên đầu rùa còn một cổ tháp. Trên mình rùa đứng sừng sững ngôi nhà thờ Nha Trang.
Đời Lê cảnh Hưng (1740-1786) núi Hoa Sơn còn hình Kim Qui, một thiền sư pháp danh Phật Ấn đến cất một am tranh tu khổ hạnh. Năm Bính Ngọ (1786) thiết hoá đàn trà tỳ 10. Đệ tử thâu xá lợi lập Liên hoa tháp. 11
Ngọc cổ tháp trên « đầu rùa » là tháp của thiền sư. Khi người Pháp chiếm cứ Nha Trang, trên núi Hoa Sơn chỉ còn trơ trọi ngọn cổ tháp. Và nơi « cổ rùa » chỉ có một con đường nhỏ để vô ra. Mãi sau người cầm quyền mới đào sâu phá bằng để làm con đường Phước Hải.
Nhà Thờ Nha Trang cất sau khi đã trổ con đường Phước Hải, vào khoảng 1930-1935. Người kiến lập là một nhà truyền giáo Pháp, Linh Mục Vallet. Hiện nay là nhà Thờ Chánh Tòa của địa phận Nha Trang. Kiến trúc ngôi nhà Thờ Nha Trang không giống phần đông nhà Thờ khác trong toàn quốc. Kiểu thức vừa cổ kính vừa tân kỳ. Tất cả vách, mái, nền, cột đều toàn xi măng. Và đứng chắc trên một đầu non, với « bộ áo xám tro », hình tướng trông nửa như khiêm nhường nửa như ngạo nghễ. Lại gần nhìn kỹ lại có vẻ nghiêm khắc cô cao. Nhờ những khóm trúc đào hoa nở quanh năm ở trước sân, nhất là khóm đa xanh mát đứng che Tiểu vương Cung của đức Bà Maria ở đầu bậc cấp bước lên, làm cho « nét mặt » nhà Thờ bớt phần khô khan lạnh lạt. Lầu chuông cao ngất! Lên đứng nơi gác chuông nhìn ra bốn mặt, thì vọng cảnh trùm cả toàn diện thành phố Nha Trang. Trông tới ngó lui, nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm điểm của vũ trụ. Cho nên nhà Thờ Chánh Toà Nha Trang cũng là một danh thắng của địa phương vậy.
II. THÁP BÀ, HÒN ĐÁ CHỮ
Xem xong các danh thắng trong thành phố, thì lần lượt đi thăm các nơi ngoài thành phố. Tiện đâu xem đó, không phân ranh giới thắng cảnh và cổ tích.
Trước hết nên đi xem Tháp Bà, một nơi xưa cũng thật là xưa, mà đẹp cũng thật là đẹp, một nơi tiêu biểu nhất cho thắng cảnh cổ tích của miền Cát Trắng Dương Xanh.
A) THÁP BÀ
Tức là tháp thờ Bà Thiên Y A Na, tiếng Pháp gọi là Poh Nagar. Tháp xây trên một ngọn đồi trong vùng núi Cù Lao.
Núi cao chừng vài ba chục thước, hình như một chiếc nón lá úp sấp, cây cối tươi xanh. Phía Nam giáp sông Nha Trang, phía Tây và phía Bắc giáp núi và đồng bằng, trước mặt thì làng Cù Lao (Xóm Bóng) và biển Nha Trang.
Tháp gồm có bốn ngọn. Ba ngọn nhỏ một ngọn lớn. Ngọn lớn ở phía Bắc, cao đến 23 thước. Theo nhà khảo cổ Henri Parmentier thì tháp nầy do vua Chiêm Thành là Harivarmah 1er xây vào đầu thế kỷ thứ IX. Còn các ngọn khác thì vào khoảng thế kỷ thứ VII, thứ VIII.
Trong ngọn tháp lớn nhất thờ nữ thần xứ Kaut Hara (Cù Huân) là Poh Nagar (hay Pò Ino Nogar) mà người Việt gọi là Thiên Y A Na.
Tượng nữ thần bằng đá xanh, cao lớn, ngồi xếp bằng trên một bệ cao rộng, cũng bằng đá xanh nguyên khối. Thần có 10 cánh tay. Hai tay đặt trên đầu gối, lòng bàn tay để ngửa. Còn tám tay khác thì giơ lên hình rẻ quạt và mỗi tay cầm một món binh khí, như đoản đao, dáo, ná, tên, v.v… Y phục khắc theo kiểu chúng ta thường thấy ở các tượng đá của Chiêm Thành. Nghĩa là rất đơn giản: đầu đội mão triều thiên, nhọn như mũ vũ nữ Thái Lan thân chỉ che đôi mảnh xiêm y ở hạ thân và ở ngực. Nét chạm trổ cực kỳ tinh vi vừa sắc sảo vừa dịu dàng, trông như người sống. Nhưng rất tiếc là người Việt Nam lấy sơn sơn mặt tượng, rồi vẽ mày vẽ mặt một cách vụng về, lại choàng vào thân náo cẩm bào đội lên đầu một chiếc ngọc miện, hoa hoè loè loẹt, trông như một tượng gỗ, một tượng đất do thợ tay ngang tạc nên. Về mặt mỹ thuật thì bị giảm sút. Nhưng về tinh thần dân tộc thì gia tăng, vì tượng thần đã hoàn toàn Việt Nam hoá, trông vào không còn chút dấu tích gì về Chiêm Thành.
Thiên Y A Na có một sự tích ly kỳ. Truyền rằng:
Xưa kia tại núi Đại An (tức Đại Điền hiện tại) có hai vợ chồng ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất. Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa, dồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương, ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không có con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.
Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, thiếu nữ lấy đá chất thành ba hòn giả sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đương nhớ cảnh Bồng Lai. Đã buồn thêm bực! Nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến, tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ, rủ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.
Thái Tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực. Thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nỗi không giở lên. Thái Tử bèn lấy tay nhắt thử. Chàng hết sức lạ lùng vì nhận thấy khúc gỗ nhẹ như tờ giấy! Bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.
Một đêm, dưới bóng trăng mờ, Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tư bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất một mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem suốt mấy đêm liền không hề thấy gì khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt, từ trong khúc kỳ nam bước ra. Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cùng và cho biết rõ lai lịch. Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.
Thái Tử vốn đã trưởng thành, nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường, bèn tâu cùng phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua sai bói cát hung. Trúng quẻ « đại cát », liền cử lễ thành hôn. Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngôi. Thời gian qua trong êm ấm. Nhưng một hôm, lòng quê thúc giục, Thiên Y bồng hai con nhập vào khúc kỳ nam, trở về làng cũ…
Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm. Thiên Y bèn xây đắp mồ mả cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hoá: dạy cày cấy, dạy kéo vãi dệt sợi… và đặt ra lễ nghi… Từ ấy ruộng nương mở rộng, đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phú túc phong lưu. Công khai hoá của bà chẳng những ở trong địa phương, mà các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên. Nhân dân địa phương nhớ ơn đức, xây tháp tạc tượng phụng thờ. Và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên, tổ chức lễ múa bóng dâng hoa rất long trọng.
Ở Bắc Hải, Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về, bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đến nơi thì bà đã về Bồng Đảo. Người Bắc Hải ỷ đông, hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối, bèn hành hung. Lại không giữ lễ, xúc phạm thần tượng. Nhân dân bèn thắp hương khấn vái. Liền đó gió nổi đá bay, đánh đắm đoàn thuyền của Thái Tử Bắc Hải.
Sự tích nầy, cụ Phan thanh Giản chép lại thành một bài ký và bố chánh sứ tỉnh Khánh Hoà là Nguyễn Quýnh khắc bia dựng phía sau tháp. Nhưng đó là sự tích của người Việt Nam truyền tụng.
Sự tích của người Chiêm Thành khác hẳn:
Poh Nagar là một nữ thần do ánh mây và bọt nước biển biến sanh. Bà sinh ra với một tấm thân cân đối, một khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời và chói rọi hào quang. Bà sinh ra tận ngoài biển khơi. Nước biển dâng cao đưa Bà vào bến Yjatran. Sấm trời và gió hương nổi dậy báo cho muôn loài biết tin Bà giáng thế. Liền đó những khe suối trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống mừng Bà, và núi hạ mình thấp xuống để đón rước Bà. Bà bước lên bờ. Cây cong cành xuống sát đất để tỏ lòng thần phục. Chim muông kéo nhau đến chầu hai bên đàng cái. Và hoa cỏ vươn lên để điểm hương vào bước chân Bà đi.
Đến Yjatran, Bà dùng phép hoá ra cung điện nguy nga, hoá ra trầm hương kỳ nam, các giống gỗ quí và lúa bắp. Để cúng Trời, Bà tung lên mây một hột lúa. Lúa mọc hai cánh trắng như hai mảnh bạch vân, bay ở giữa không trung. Bà lại đốt một phiến trầm hương, khói thơm toả lên cao vút, dỡ hột lúa có cánh về dâng cúng Trời.
Nơi hậu cung Bà có 97 ông chồng. Nhưng chỉ có ông Pô Yan Amo là có uy quyền và được trọng vọng hơn cả. Ba sanh được 38 nữ thần, người nào cũng xinh đẹp. Song chỉ có 3 người được bà ban cho nhiều quyền phép là là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih, nữ thần vùng Phan Rang, và Pô Bia Tikuk, nữ thần vùng Phan Thiết.
Sự tích Poh Nagar và sự tích Thiên Y A Na thật khác hẳn nhau. Sự tích của người Chiêm Thành phản ảnh chế độ mẫu hệ của người Chàm ngày trước. Sự tích của người Việt Nam biểu lộ tinh thần dân tộc rất sâu đậm và cho chúng ta thấy người xưa xem nghĩa đồng bào nặng hơn tình gia đình nhiều lắm:
- Bà Poh Nagar hay Thiên Y A Na thờ ở ngọn tháp chính, ở phía Bắc.
- Ngọn thứ hai, ở chính giữa, thờ thần Cri Cambhu. Tháp xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có tượng bằng vàng khối. Vào cuối thế kỷ thứ VIII, người Mã Lai xâm nhập xứ Kaut Hara, cướp mất tượng vàng và phá huỷ ngọn tháp. Vua Satyavarman xây tháp lại và tạc tượng đá thay tượng vàng. Tượng nhỏ, hiện còn tốt. Người Việt Nam bảo đó là đền thờ Thái Tử Bắc Hải, chồng bà Thiên Y A Na.
- Ngọn thứ ba, ở phía Nam, đứng ngay hàng cùng hai ngọn trước, thờ tượng Linga, biểu hiệu của thần Sandhaka. Người Việt Nam bảo đó là đền thờ ông Tiều, nghĩa phụ bà Thiên Y.
- Ngọn thứ tư, đứng phía sau tháp thờ bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng mà chỉ có đế thờ (có lẽ tượng bị thất lạc lúc người Ma Lai vào cướp phá). Tháp nầy thờ thần Ganeca. Người Việt Nam bảo đó là đền thờ Công Chúa Quý.
- Còn hai tháp nữa cũng ở sau lưng dãy tháp trước, không biết rõ thờ vị thần nào của Chiêm Thành, Người Việt Nam bảo đó là đền thờ bà Tiều, nghĩa mẫu của Bà Thiên Y, và hoàng tử Tri. Tháp đã bị hư nát, chỉ còn nền và một số gạch vụn. Bà Tiều đưa về thờ chung cùng ông Tiều ở tháp thứ ba. Hoàng tử đưa về thờ chung cùng Công chúa ở tháp thứ tư.
Phía trước tháp, dưới chân đồi lại có mấy hàng cột cao lớn bằng gạch. Truyền rằng đó là những cột chống vũ đài. Mỗi khi có lễ, người ta dùng ván gác lên trên cột thành một sân gỗ rộng. Vũ nữ và ca công lên ca múa trên sân gỗ. Thần trong tháp ngồi trông ra, nhân dân đứng dưới trông lên, đôi bên trông đều rõ. Nhưng đó là về thời người Chiêm Thành còn làm chủ đất đai. Từ ngày người Việt Nam thay người Chiêm Thành, thì những cuộc ca vũ tổ chức ngay ở trên sân tháp.
Bốn ngọn tháp Cù Lao, theo tên các vị thần, là đền thờ của người Chiêm theo đạo Bà La Môn. Bà Poh Nagar là một biến thân của thần Civa, một trong ba chúa tể vũ trụ của đạo Bà La Môn. Nhưng từ khi Tháp thuộc quyền sở hữu người Việt Nam các thần Bà La Môn nhường ngôi cho các vị thần Việt tịch và bà Chúa Xứ Poh Nagar hiển linh dưới danh hiệu Thiên Y A Na và nhận ân tứ của vua nước Việt. Vua Gia Long phong tặng « Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng Thượng Đẳng Thần » và cắt dân làng Cù Lao ba người sung làm từ phu. Các đời vua sau, đời nào cũng có phong tặng. Người địa phương, ngoài danh hiệu Thiên Y A Na, thường tôn xưng là « A Na Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi » và gọi tắt là bà « Chúa Ngọc ».
Sau khi xứ Kaut Hara sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, người Chàm bỏ đi hết, và tuyệt nhiên không bước chân đến tháp Poh Nagar. Gặp những người Chàm ở Phan Rang ra buôn bán ở Nha Trang, hỏi về tháp, họ đáp một cách cụt lủn « không biết » rồi ngó ngơ. Thái độ ấy chứng tỏ rằng họ không ưa nghe tên ấy. Hoặc giả vì tên tháp gợi cảnh diệt vong của giống nòi, hoặc giả họ không phải là người theo đạo Bà La Môn mà là người theo Hồi Giáo. Tháp Chàm bị người Chàm hờ hững!
Trái lại, phần đông người Khánh Hoà và một số đồng bào ở các tỉnh di cư đến, lại gởi trọn niềm tín ngưỡng nơi tháp, nhất là các bà các cô. Ngày rằm và mồng một, người đến lễ bái chật trong chật ngoài. Thời Tiền Chiến, đến ngày vía Bà (ngày 3 tháng 3 âm lịch) nhân dân địa phương tổ chức lễ cúng tế rất long trọng. Ban đêm có lệ múa bóng ở trước sân tháp.
Điệu múa bóng là điệu múa của Chiêm Thành truyền lại. Người múa toàn là con gái. Áo xiêm rực rỡ: đầu đội, người cỗ hoa tươi, kẻ đèn lồng ngũ sắc. Đèn và hoa chồng cao như ngọn tháp. Vũ nữ múa theo điệu đàn điệu trống, đoanh lộn nhịp nhàng dưới ánh đuốc ánh đèn hừng hẫy. Họ múa rất khéo và rất tài. Chẳng những đôi tay đôi chân luôn luôn cử động, vừa dẻo vừa mềm, mà đầu và thân cũng luôn luôn ngửa nghiêng uốn éo theo bước chân nhịp tay, rộn ràng đều đặn. Thế mà đèn và hoa đội trên đầu, không vịn không đỡ mà vẫn không hề lay không hề dịch, dường như có những bàn tay vô hình đỡ nâng. Cảnh tượng vô cùng ngoạn mục. Tổ chức múa Bóng do người ở xóm trước tháp phụ trách. Những vũ nữ phần nhiều là người trong xóm. Trường dạy múa cũng ở trong xóm. Cho nên xóm mệnh danh là Xóm Bóng thuộc làng Cù Lao. Lệ Múa Bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời Bảo Đại, trước đệ nhị thế chiến. Nhân đó có câu hát:
Ai về Xóm Bóng thăm nhà,
Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn chăng?
Thế thường tre lụn còn măng,
Lẽ đâu tham đó bỏ đăng cho đành.
Lệ Múa Bóng tuy bỏ nhưng ngày vía Bà vẫn tổ chức long trọng. Người đến dâng hương xin xăm chật trong chật ngoài. Nhưng không tưng bừng rộn rịp bằng đêm Giao Thừa. Đêm Giao Thừa ở Tháp Bà có thể gọi là kỳ thú. Khách du quan muốn thưởng thức thú vị cho đầy đủ thì đêm tất niên phải dưỡng sức để lúc đồng hồ điểm 12 giờ thì đi bộ sang Tháp. Phải đi bộ mới tận hưởng được những gì đáng hưởng khi trời đất bước vào xuân. Khí trời đương lạnh tự nhiên thấy ấm, một khí ấm đặc biệt, dìu dịu thưng thưng, trong trong lại mát mát. Lại phảng phất một mùi hương thanh thanh: hương trầm, hương kỳ nam từ rừng sâu đưa đến, hay hương nhang hương hoa từ trong nhà trong chùa bay ra? Tắm mình trong bầu không khí yên lặng, vừa ấm vừa mát, vừa trong vừa thơm, du khách cảm thấy tâm cũng như thân tự nhiên thanh thảnh nhẹ. Bao nhiêu hận thù, bao nhiêu phiền não đều tan sạch. Cõi lòng từ từ mở rộng để đón phút thiêng liêng mới bắt đầu. Cảnh cũng như người đều dũ sạch những bợn trần của năm cũ. Núi non trông biếc thêm, sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy đặc cả đom đóm. Có thể nói rằng đom đóm ngự trị cả nước non. Và cũng có thể bảo rằng bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối. Ánh vàng làm chúa tể thay bóng tối đêm ba mươi. Nhìn trước: ánh vàng. Ngoảnh sau: ánh vàng. Trông sang tả: ánh vàng. Ngó sang hữu: cũng ánh vàng. Từ Cầu Hà Ra qua đến Xóm Bóng, du khách có cảm giác đi ngang qua một rừng sao.
Nhưng rừng sao ở đây không đứng yên mà luôn luôn cử động. Hễ vùng nầy sáng thì vùng kia tắt, vùng nầy tắt thì vùng kia liền sáng. Cứ sáng, tắt, tắt, sáng… luân phiên, liên tục, không mau, không chậm, đều đặn, nhịp nhàng.
Quanh đồi Cù Lao và trên những lùm cây ở mé sông cạnh tháp, cũng đầy cả đom đóm. Ánh vàng cũng rực rỡ, dấp dới lung linh. Và trên tầng ánh sáng khi khuất khi hừng, bốn ngọn tháp nửa quyến cây xanh nổi bật lên nền trời cao, uy nghiêm nhưng hiền hậu.
Những ngọn đèn lồng ngũ sắc dăng trên cành cây, những ngọn huyền đăng treo trước sân tháp, chập chờn trong bóng lá, rọi vào cảnh vật, chỗ tỏ chỗ mờ, nơi thưa nơi nhặt, vui vẻ nhưng rụt rè, như cô gái quê mặc áo mới ra chào khách.

Từ dưới chân đồi lên đến sân tháp, người đông như kiến, chen chúc nhau, nối tiếp nhau. Người tuy đông, nhưng không ồn ào lộn xộn. Phần nhiều các bà các cô, dường như lắng lòng mình lại, để lúc dạo vuờn hái lộc, vào tháp xin xăm, dễ cùng thần linh giao cảm.
Trong tháp chật ních người lễ bái. Hương tỏa mịt mù làm mờ cả hàng trăm cây đèn sáp cháy cao ngọn. Những luồng khói thơm tuôn ra cửa, ra nơi lỗ trống trên đỉnh tháp, ngạt ngào trong gió và lưởng vưởng trên đầu cây cao như những làn sương mỏng. Những tiếng chuông tiếng trống trong tháp bay ra, không rền vang như tiếng trống chùa miễu, tiếng chuông nhà thờ, mà vì vách tháp dày, cửa tháp hẹp, nghe mơ hồ phảng phất như có như không.
Những người vào tháp, phần hơi nóng của đèn hương, phần hơi thở của xương thịt, không thể nào ở lâu được năm mươi phút, nếu không có lòng thành kính hộ trì. Riêng những người râm đi bẻ những cành xanh tươi quanh tháp là vui vẻ thảnh thơi. Đàn ông đàn bà, con trai con gái, ai nấy đều hớn hở tươi cười. Nhưng không một tiếng ồn, không một bước mạnh. Đi qua mặt nhau, êm đềm lặng lẽ như bóng mây qua.
Quang cảnh thật là huyền mơ! Và bầu không khí thiêng liêng bao trùm cả cảnh vật. Đứng trước cảnh có thể gọi là thần tiên ấy, con người dường như trở nên thuần hậu, khoan hòa. Cho nên từ trước đến nay, chưa hề xảy ra những chuyện không tốt không lành mà những nơi đông người thường hay có. Và vì lòng người đã dẹp bớt được tham sân si để hòa mình với cảnh, nên lá xăm, nắm lộc buổi đầu năm rất linh nghiệm. Do đó lòng tín ngưỡng bà Thiên Y A Na gia tăng. Và việc « đi tháp Bà » đêm giao thừa đã thành một cái lệ. Thời Tiền Chiến đã đông, thời Hậu Chiến còn đông gấp bội.
Riêng tiếc, hiện nay xe ô tô, mô tô quá nhiều, nên trên con đường từ Nha Trang sang Xóm Bóng không được yên tịnh như trước. Thời Tiền Chiến, những người giàu có qua tháp chỉ dùng xe tay hoặc xe đạp. Cho nên lòng người có thể giữ được thanh tịnh ngay trong lúc xuống đường. Và cũng rất tiếc lúc nầy đom đóm không sanh sản được nhiều. Không biết vì thời tiết thay đổi, hay vì bột DTT, thuốc diệt trừ sốt rét… đã làm cho giống vật có thứ lửa không nóng, có tấm lòng cẩm tú kia bị tiêu diệt lần lần? Tuy vậy tiếng ồn ào của xe cộ chỉ làm rộn một khoảng đường đi, chớ không thể phá nổi cảnh thanh tịnh của đêm khuya, vẻ u huyền chung quanh tháp. Và những ánh đèn nê-ông trong sương mờ, trên mặt sóng sòng sóng biển, lung linh phiếu diếu, cũng tạo nên cảnh sắc đầy mộng đầy thơ.
Cho nên, nay cũng như xưa cảnh giao thừa ở Tháp Bà vẫn đông đúc. Những người không thích hái lộc, không thích xin xăm, cũng vui vẻ đến tháp để thưởng thức cảnh trời đất vừa đổi mới. Sanh ý của kiền khôn dường như phát xuất nơi đây. Dường như chỉ nơi đây mới thấy rõ vẻ trinh nguyên của tạo hóa, mới thấy rõ sắc tướng của giao thừa.
B) HÒN ĐÁ CHỮ
Nhưng cảnh thú của giao thừa nơi tháp Bà chỉ dành riêng cho những người ở gần tháp, và những người ở gần tháp mỗi năm chỉ được hưởng có một lần. Chung cho mọi người, và lúc nào cũng thưởng thức được, là bản thân của tháp và phong cảnh chung quanh.
Cách xây tháp Poh Nagar, không khác các tháp khác ở Bình Định, Phan Rang. Cách bài trí cũng tương tợ. Nơi tháp thờ thần Poh Nagar, ngoài thần tượng trong tháp ra, nơi khung cửa bằng đá xanh nguyên khối ở trước tháp, một bức tượng chạm nổi rất linh động. Đó là tượng thần Civa, thần bốn tay, một chân đạp trên đầu một con thú dị hình, một chân đương nhảy múa giữa hai nhạc công thổi địch. Hình chạm, nhưng nhìn vào, chúng ta có cảm giác là mềm dẻo như người vũ nữ bằng da thịt. Những hình tượng nơi các tháp khác nét đẽo gọt chạm trổ có phần thô phác chớ không được tinh vi bằng hình tượng nơi tháp thờ Poh Nagar.
Nhìn qua cách thức xây tháp, nét chạm khắc các tượng đá, chúng ta có thể đoán biết được trình độ nghệ thuật của Chiêm Thành. Còn phong cảnh quanh tháp, ngoài cảnh đẹp của biển khơi, của sông dài, của những ngọn núi ngọn đồi lúp xúp. Còn những cụm đá ở nơi cửa sông Cù trông cũng rất vui mắt.
Có hai cụm nằm gần nhau. Chu vi chừng 100 thước vuông, và cao từ mặt nước trở lên chừng vài ba thước. Trên một tảng đá to lớn nhất có một ngôi miếu nhỏ đứng cạnh một cây gòn khẳn khiu. Trông như một hòn non bộ ở giữa một bể cạn trong vườn cảnh. Đó là Hòn Đá Chữ gọi tắt là Hòn Chữ. Gọi như thế là vì trên đá có chữ, một lối chữ hình như những con nòng nọc nối đuôi nhau, cổ nhân gọi là Khoa Đẩu tự. Lối chữ nầy giống như lối trùng văn khắc ở các nơi bia, nơi cửa tháp Thiên Y. Có lẽ là một lối chữ cổ Chiêm Thành, người Chàm đọc không được, người Ấn Độ đọc không được, đến những người thông thạo cổ tự thế giới, như các nhà khảo cổ Âu Mỹ đã từng đến Nha Trang, đọc cũng không được. Những chữ ấy chắc là của vua quan Chiêm Thành ngày xưa đã khắc với một mục đích gì đó, chớ không phải của du khách cao hứng chơi ngông. Nhưng vì không đọc được nên không biết ý nghĩa như sao. Dấu chữ bị sóng gió mài mòn. Hiện chỉ còn trông lờ mờ trên một vài tảng.
Nguyên lai của mấy cụm đá có nhiều thuyết: Kẻ thì bảo là « trời sanh ». Các nhà khảo cổ ngờ rằng từ trên tháp Thiên Y A Na lăn xuống. Nhưng người địa phương tin rằng đó là những tảng đá đã đánh đắm những chiếc thuyền của bộ hạ Thái Tử Bắc Hải. Người xưa đã chạm chữ vào để làm bia cho những kẻ ỷ thế cậy mạnh biết mà sửa mình. Cảnh trí trông cũng khả ái lắm.
Đứng trên đá nhìn ra bốn mặt, thì phía Đông nước xanh lẫn mây trắng, hữu hạn nhưng vô cùng ; phía Tây con sông Nha Trang như tấm lụa giợn thủy ba, chạy dài ở giữa hai bờ non xanh bãi lục, với cầu Xóm Bóng « vắc vẻo qua sông » ; phía Bắc núi non bàn khúc, màu xanh điểm màu đỏ màu trắng của những dãy nhà Dòng, của những ngọn tháp Bà, của nhà cửa làng Cù Lao, và cầu Bến Cá với những ghe thuyền đông đúc ; phía Nam thành phố Nha Trang ẩn hiện trong bóng cây xanh. Quang cảnh ấy, tuy đã trông thấy khi đứng trên Tháp Bà nhìn xuống. Nhưng vị trí thay đổi, cảnh sắc cũng thay đổi rất nhiều. Một giai nhân trông ở sau lưng đâu có giống khi trông ở trước mặt hay khi trông ở bên hữu bên tả. Và nếu đứng trên Tháp Bà nhìn xuống, người giàu tưởng tượng có thể tưởng mình đương đứng tại Ba Lăng mà nhìn cảnh Động Đình: Hòn Chữ biến thành cảnh « thần tiên bất khả tiếp » có trăm ngàn cung điện bằng vàng, muôn vàn Ngọc nữ ẩn náu, và khách vãng cảnh khoan khoái để mặc cho « tâm tùy hồ thủy cọng du du ». 12
Thời thái bình, khách văn chương thường tổ chức những cuộc ngâm vịnh nơi Hòn Chữ, và họ cũng thường mượn Hòn Chữ để gởi gắm tâm tình:
I.
Ai về Xóm Bóng, Hà Ra,
Đi ngang Hòn Chữ cho ta nhắn lời:
Nhắn ai nuôi chí vá trời,
Lòng trung tạc đá muôn đời còn bia.
II.
Anh đứng Nha Trang,
Trông sang Xóm Bóng,
Sáng trăng lờ mờ lượn sóng lăn tăn.
Gần nhau chưa kịp nói năng,
Bây giờ sông cách biển ngăn ngại ngùng!
Biển sâu con cá vẫy vùng,
Sông sau khôn dễ mượn lòng đưa thư!
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bể tư,
Biển Nha Trang cạn nước,
Anh mới từ duyên em.
III HANG ÔNG BƯỞI, HANG ÔNG GIÀ
A) HANG ÔNG BƯỞI
Từ Tháp Bà theo mé sông, chân núi đi lên chừng một cây số, hoặc từ cầu xe lửa Ngọc Hội đi xuống chừng bốn năm trăm thước, du khách trông thấy bên bắc ngạn sông Nha Trang, sát chân núi, dưới bóng cây, một cụm đá xanh hòn hòn to lớn chồng chất lên nhau, đồ sộ vững vàng, chắn ngang con đường lên xuống. Trong cụm đá có một hang đá tục gọi là:
Tại sao có tên như thế? Tại vì buổi đầu nhà Nguyễn Trung Hưng, có một nhà sư đến tu nơi hang, quê quán nơi đâu, danh tánh là gì, không một ai biết rõ. Nhân thấy quanh năm chỉ ăn bưởi thay cơm, nên gọi là Ông Bưởi. Truyền rằng:
Ông Bưởi đến hang với một con hổ mun và một con vượn trắng. Cách tu hành khác hẳn các sư sãi nơi chùa chiền. Không kệ không kinh, không mõ chuông, không tràng hạt, mai chiều ngồi im lìm trên đá tham thiền. Con vượn đứng hầu bên cạnh, con hổ nằm canh trước miệng hang. Mỗi ngày nhà sư chỉ thọ trai vào đúng ngọ. Thức ăn là một tép bưởi do con vượn cúng dường. Thường thường ít ra khỏi hang. Thỉnh thoảng có vân du thì cỡi hổ mà đi, nhẹ nhàng như mây gió. Ban đêm trong hang tỏa sáng, xa trông trong mát như ánh trăng. Người thì cho rằng Ông Bưởi tu hành đắc đạo, nên thân phát hào quang. Nhiều người lại quả quyết rằng hào quang kia là do bộ nút bằng dạ minh châu nơi áo cà sa của ông Bưởi phát hiện. Ai cũng cho mình đúng song sợ cọp, không ai dám đến tìm sự thật ở nơi hang.
Nghe đồn ông Bưởi có dạ minh châu, một bọn côn đồ quyết tâm chiếm đoạt. Một hôm chúng rình thấy hổ và vượn vào rừng hái trái, bèn kéo nhau vào hang. Hang đá trống không và thân ông Bưởi chỉ choàng một tấm vải nâu không đường may cũng không khuy nút. Thấy ông Bưởi ngồi như một pho tượng, gọi không đáp hỏi không thưa, một tên lấy tay thọc lét. Nhưng tay vừa để vào nách thì vội thụt ra ngay, vì lạnh rợn mình như rờ vào thây người chết. Tên thứ hai lấy chân đạp mạnh: thân nhà sư vẫn ngồi trơ. Cả bọn xúm nhau xô, nhưng rán đã hết sức, vẫn không xê dịch được mảy may. Một tên nổi khùng, rút dao găm đâm mạnh vào bắp vế. Lưỡi dao lút quá nửa, nhưng ông Bưởi dường không biết không hay. Chúng vừa muốn giở thêm trò, nhưng con dao găm vụt bắn ra, cắm sâu vào vách đá. Đồng thời một vòi máu nóng từ nơi vết thương phun mạnh vào mặt bọn bất lương. Chúng thất đảm xô lấn nhau chạy mất. Từ ấy không ai dám đến gần hang.
Ông Bưởi ở tu nơi hang ngót chín mười năm trời. Những khi dân trong hạt bị cơ cẩn hoặc bị bệnh thiên thời, ông Bưởi thường đem gạo, thuốc đặt nơi ngã ba đường để cứu trợ. Vì vậy nhân dân địa phương xem ông Bưởi như vị Phật sống. Nhưng vì không dám đến gần, nên nhiều người buổi mai buổi chiều, đốt hương vọng về hang mà đảnh lễ. Quan cai trị nghi rằng ông Bưởi có tà thuật. Lại thấy đồng bào mỗi ngày mỗi thêm sùng bái, sợ lâu sanh biến, nên ra lệnh trục xuất khỏi địa phương. Nhưng lệnh không được thi hành, quan liền kéo quân đến vây bắt. Quân lính vừa đến gần miệng hang, thì hổ gầm như sóng dậy, vượn hú lên nghe rợn mình, không ai có gan bước tới. Một tên lại già thiết kế: Dùng hỏa công. Thế là củi chất quanh hang. Rồi lửa bừng cháy rật rật. Ai cũng tưởng ông Bưởi cùng vượn, hổ phải chết thui. Kẻ gian ác lấy làm thỏa lòng. Người lương thiện sụt sùi khóc. Không ngờ ngọn lửa đương lên cao ngất, bỗng rẽ làm hai: ông Bưởi cỡi hổ, dắt vượn, từ trong hang ung dung đi ra, rồi vụt chạy thẳng lên núi. Mây bay gió cuốn, chỉ trong khoảnh khắc đi mất tăm. Không ai biết ông Bưởi đi đâu. Và từ ấy hang bỏ vắng.
Hang ông Bưởi – cũng thường gọi là động ông Bưởi, hay chùa ông Bưởi – Không vĩ đại, cũng không kỳ mỹ, như động Hương Tích, động Huyền Không. Hang chỉ cao rộng vừa một người đi thẳng lưng, và chạy dài chừng mười lăm hai mươi bước. Nền có phần bằng thẳng, nhưng vách hô hê hốc hỉu, chỗ lõm chỗ lồi, chớ không trơn liền cũng không ngay ngắn. Và mái là một tảng đá rộng lớn phẳng phiu, nằm ngang trên vách đá. Miệng hang trở về hướng đông. Lòng hang mát mẻ và sáng sủa, vì cửa hang rộng và đầu hang phía Tây có kẽ hở có thể lách mình ra vô. Cảnh tuy không lấy gì làm đẹp mắt, song nếu đến hang nhằm trưa mùa hạ và chơi cho đến chiều tối, thì hưởng được nhiều thú vị thanh tao. Ở ngoài thì trời nắng chang chang, mà trong hang không hề có một chút nóng. Lúc nào cũng có hơi gió biển thổi lồng, nhưng chỉ hiu hiu vừa đủ mát. Tứ bề im lặng, không một tiếng khuyển, không một bóng người. Tiếng chim trên non, từ xa đưa lại, trong nơi thanh vắng, giọng nghe cao vút và trong veo. Thỉnh thoảng mùi hoa rừng bay theo gió, có đó rồi liền không. Rồi khi mặt trời đã về non, leo lên nóc hang mà thưởng cảnh. Nóc hang, đúng hơn nên gọi là mái hang, là một sân đá vừa bằng vừa rộng, giống như sân thượng một nhà lầu. Trước mặt, sông Nha Trang như con bạch long uốn khúc ; và cồn dừa bãi cỏ nối liền những đám cây với nhà cửa ẩn hiện, thành một bức tranh màu xanh mở rộng điểm thêm những nét xám nét đỏ rung rinh vì những làn khói nhẹ bay qua. Và cửa biển Nha Trang ở phía Đông phản chiếu ánh trời hôm, sáng trưng như một hồ thủy ngân vĩ đại.
Khi trời đã nhá nhem tối, sóc và kỳ nhông kéo ra từng bầy. Nhiều con lớn bằng cổ vế. Trông thấy bóng người, ban đầu sợ chạy trốn, nhưng rồi thấy người không có ác ý, chúng kéo nhau trở lại, ra sân đá nhảy giỡn tự nhiên. Nếu trời có trăng thì có thể ở chơi cho đến khuya để thưởng thức cảnh « yên lung hàn thủy nguyệt lung sa » trong thơ Đường thể hiện. Năm Kỷ Mão (1939), vào khoảng thượng tuần tháng 5, một nhà thơ đến viếng hang ông Bưởi có để lại một luật rằng:
Vách đá cheo leo chắn bợn trần,
Tình riêng với cảnh với giai nhân.
Gió lồng cửa động không trời hạ,
Trăng vẽ mày ai sắc nét xuân.
Đạo hạnh xưa thầy riêng một cõi,
Phong lưu nay tớ vẹn mười phân.
Nhắn cùng anh chị yêu non nước,
Đây của mình đây chớ ngại ngần.
Gần đây, không biết vì mến danh ông Bưởi hay muốn mượn danh ông Bưởi để quyến rũ thập phương, một am thờ Phật dựng trước cửa hang, khiến cảnh thiên nhiên bị giảm sắc đi nhiều lắm! Do đó Trường Xuyên có mấy vần cảm tác:
Mây qua ráng lại chẳng ngăn ngừa,
Mượn cửa am rào nẻo đón đưa!
Sắc gấm dẫu lồng thơ vách đá,
Bụi đời e nhiễm gió ban trưa.
Thăm thầy viếng cảnh chi thêm bận,
Trách nắng than sương nghĩ cũng thừa!
Đành gởi nhớ thương chương ký ức,
Nghìn sau khỏi nhạt mối tình xưa.
B) HANG ÔNG GIÀ
Cách hang Ông Bưởi chừng 7, 8 cây số về phía Bắc, tại ấp Lương Sơn, quận Vĩnh Xương, còn một hang đá nữa, phong cảnh cũng đáng yêu. Đó là:
Hang nằm phía Nam Bãi Miếu trên gành đá Bàn Than. Hang ăn sâu vào gành. Miệng rộng chừng 5, 6 thước. Từ ngoài vào trong dài trên dưới 10 thước. Một nửa ngập dưới nước. Xuồng có thể vào ra dễ dàng. Nơi vách cuối hang có một hóc nhỏ, sâu chừng hai thước. Rong rêu mọc tua tủa. Đứng ngoài miệng hang trông vào, giống hình một ông già râu dài đứng bên cạnh một đứa cháu gái bỏ tóc xõa. Hang do đó mà mệnh danh. Cảnh trong hang trông đã kỳ. Cảnh ngoài hang nhìn cũng rất thú. Hang ngó xuống vịnh Nha Phu. Phía Bắc có núi Phước Hà, phía Nam có núi Rù Rỳ, làm hai cánh cửa che gió. Mặt nước bị thu hẹp không làm cho mắt chơi vơi giữa cảnh mênh mông bát ngát của thương hải.
Gành Bàn Than, đá mọc lởm chởm, chỗ thấp chỗ cao, nơi lồi nơi thũng, chạy từ Lương Sơn đến Rù Rỳ. Chân, sóng vãi trắng. Đầu, cây rải xanh. Bãi Miếu, cát trắng phau và nhỏ mịn, trải dài ở phía Bắc gành Bàn Than. Sóng biển không to, lúc nào cũng thưng thưng chầm chậm. Gành và bãi nhờ Hang mà được khách du quan ghé mắt. Nhưng nếu không gành không bãi thì Hang không đủ sức cầm chân khách được lâu. Cho nên phải có ba mới đủ bộ vậy.
C) HÒN CHỒNG
Từ hang Ông Già trở vô Cù Lao trở lại để viếng cảnh.
Ở Nha Trang, muốn đến Hòn Chồng thì có hai đường. Hoặc đến Xóm Bóng mướn con thuyền nho nhỏ bơi ra hướng Bắc, để khai vị thú trời biển bao la. Hoặc theo đường Quốc Lộ số 1 đi ra khỏi Tháp Bà chừng một cây số rưỡi, rồi quẹo xuống ngõ trẽ qua xóm dừa nước ngọt bóng xanh. Chỉ trong giây lát là đến Hòn Chồng. Hòn Chồng có hai khóm: Một nằm ngoài biển ; Một nằm trong cát, sát chân đồi thôn Cù Lao.
Khóm nằm dưới biển trông có bề thế. Đá một màu xam xám, lớp chìm dưới nước, lớp nổi lên mặt sóng, lớp nằm giăng hàng, lớp chồng lên nhau và nhiều hòn to dềnh dàng nằm đè lên trên hòn bé bỏng, nhưng không hề sụn không hề lay. Từ trong bờ đá chạy lúp xúp ra ngoài khơi, rồi đột khởi lên một tảng đá vừa cao vừa rộng, trông như một cái gò, dáng bằng bằng. Trên tảng đá nầy lại có một hòn đá to lớn như một cái nhà, nằm chênh vênh nơi mỏm cao nhất. Hình đá hơi tròn tròn, nhưng chỗ lồi chỗ lõm, và nơi mặt ngó vào bờ, có dấu một bàn tay to tướng in sâu vào đá với năm đầu ngón tay vấu lại. Người ta bảo đó là dấu bàn tay ông Khổng Lồ 13. Khóm nầy là Hòn Chồng Đực, gọi tắt là Hòn Chồng.
Còn khóm kia là Hòn Chồng Cái, thường gọi là Hòn Vợ. Đá nơi Hòn Chồng Cái cũng lớn chồng lên nhau, lớp nằm giăng hàng như cảnh Hòn Chồng Đực. Nhưng nơi Hòn Chồng Đực, đá thường bị sóng cọ mài nên phần nhiều trơn liền tròn trịa. Còn đá nơi Hòn Chồng Cái rất nhiều góc cạnh, và phần nhiều hình khối, hình lăng trụ. Đá nơi Hòn Chồng Đực thường thường chồng lên nhau. Đá nơi Hòn Chồng Cái lại nằm khăng khít nhau một cách âu yếm. Trên khóm Hòn Chồng Cái, có hai tảng đá hình khối chữ nhật đứng song song, và trên đầu đội hai hòn đá nhỏ hình khối vuông. Đứng xa trông giống hai người đàn bà mặc áo dài, ngồi nhìn ra biển. Cảnh tượng trông vừa cổ vừa kỳ. Khách phong tao thường lấy đây làm nơi ngâm vịnh. Dưới triều Duy Tân (1907-1916), chí sỹ Trần Cao Vân vào Khánh Hòa tìm đồng chí, ghé chơi Hòn Chồng có đề một luật rằng:
Đất nắn trời nung khéo định đôi,
Hòn Chồng Đực Cái phối hai ngôi.
Ông xây nên đống cây trồi mụt,
Bà đúc ra khuôn đá mọc chồi.
Mây núi rủ giăng màn tịnh túc,
Nước khe hầu rót chén giao bôi.
Non thề giai lão trơ trơ đó,
Gió chẳng lung lay sóng chẳng đồi.
Trong quyển Một Tấm Lòng ra đời năm 1939, cũng có một bài rằng:
Trời mây biển nước cảnh mênh mông,
Chân núi dô ra đá mấy chồng.
Khắn khít thớt em nương thớt chị,
Vững vàng hòn cháu đỡ hòn ông.
Sóng xô đẩy mãi bền gan sắt,
Rêu buộc ràng thêm chặt giải đồng.
Gặp gỡ đá đây ta hỏi đá:
Vá trời bao thuở mới nên công.
Thuần Phu Trần khắc Thành họa vận:
Kìa đèo Đại Lãnh đảnh Cù Mông,
Cảnh thú khôn so cảnh Đá Chồng.
Biển bọc chân non hình bán đảo,
Chữ đề mặt đá nét thi ông.
Nước mây bốn phía xem như vẽ,
Sóng gió nghìn thu vững tựa đồng.
Những khách thừa lương thanh thỏa dạ,
Hóa công xưa khéo tạc nên công.
Và gần đây một nữ giáo viên hưu trí, bà Tùng Trang, mượn cảnh Hòn Chồng để tả tình cảnh éo le của mình 14, rất ý nhị, rằng:
Cắt cớ cho rồi đấng hóa công!
Sinh non Bà lại có non Ông.
Xem qua những tưởng hai hòn núi,
Hỏi lại thì ra cặp vợ chồng.
Nước rẽ khối tình trơ tráo mặt,
Sóng trêu gan đá dửng dưng lòng.
Tháng ngày đối diện cùng nhau đó,
Gang tấc mà ra cách mấy trùng!
Cảnh Hòn Chồng, dưới mắt mỗi nhà thơ, nhuộm một sắc thái riêng biệt. Nhưng các nhà thơ đều nói chung cả Hòn Chồng Đực, Hòn Chồng Cái. Tác giả Một Tấm Lòng thì mượn tình ông cháu, nghĩa chị em, để nói. Trần cao Vân và Tùng Trang mượn cảnh vợ chồng để nói.
Nếu đứng trên phương diện vợ chồng, thì thử hỏi: Trên khóm Hòn Chồng Cái có hai Bà. Vậy cả hai là Vợ của Hòn Chồng Đực, hay chỉ một trong hai bà là vợ mà thôi? Nếu chỉ có một bà là vợ, thì cảnh Hòn Chồng là cảnh Thi Sách và hai Bà Trưng. Nếu cả hai là vợ, thì đó là cảnh của Nga Hoàng Nữ Anh và vua Thuấn. Hỏi người Tàu thì nhất định bảo là người đời Ngũ Đế. Hỏi người Việt thì tất nhiên đáp là người đất Mê Linh. Hỏi đá đá làm thinh. Cho nên Cổ bàn Nhân ở Bình Định, vào viếng Hòn Chồng sau ngày chiến tranh Việt Pháp đình chỉ, có bài thơ ngũ ngôn:
Non nước đúc Hòn Chồng,
Hai Bà đối một Ông.
Khói mây đầu nhuốm bạc,
Mưa nắng má phai hồng.
Hồn nghĩa Mê Linh tạc?
Giọt tình Tương Thủy đông?
Vá trời tài hẳn có,
Lấp bể chí nuôi không?
Khắn khít tình em chị,
Lơ là nghĩa vợ chồng!
Chuyện đời thôi để đó,
Chung gánh gánh non sông.
Những bài thơ trên tuy mượn cảnh để ký thác tâm chí song vẫn nêu rõ những đặc điểm của Hòn Chồng trên thực tại khách quan. Nhưng có nhiều du khách đã thất vọng khi đến Hòn Chồng. Như cụ Xuân Sanh tục gọi là « Thầy Đồ Nghệ », thời Pháp thuộc, là một Cụ Đồ đã than:
Ngó lại ngó qua hai đống đá,
Leo lên leo xuống hư đôi giày!
Cụ Đồ nói đúng sự thật một trăm phần trăm. Bởi Hòn Chồng chỉ toàn đá là đá. Và leo đá mà mang giày thì tài gì không hư. Nhưng đó là tại người chớ không phải tại cảnh. Không cảnh nào không đẹp. Nếu trong tâm hồn người đối cảnh có sẵn chất đẹp, thì vẻ đẹp của cảnh sáp nhập vào tâm hồn rồi hiển hiện ra trước mắt. Bằng tâm hồn chứa đựng toàn hình ảnh lợi danh, thì hình ảnh không mấy đẹp kia che khuất hết vẻ đẹp của cảnh. Nhà Phật bảo « vạn pháp do tâm tạo » là vậy đó. Cho nên muốn thưởng thức cảnh thú Hòn Chồng, tưởng nên mang theo một ít « tâm hồn nghệ sĩ ».
IV. CÁC SUỐI GẦN HÒN CHỒNG
A) SUỐI TIÊN
Có tình bà con với Hòn Chồng, nếu không phải về « huyết thống » thì về « huyền thoại ». Đó là:
Phát nguyên tại vùng Hòn Bà quận Cam Lâm. Suối Tiên chạy quanh co trong các thung lũng, tràn lên đá, luồn trong đá, khi ẩn khi hiện, khi ào ào như mưa đổ, khi róc rách, khi lặng lờ… Và sau khi vượt qua những nơi cây đá gập ghềnh, suối xuống đồng bằng, đem nước tưới đồng phì nhiêu thôn Xuân Phú. Tên tục là Suối Bà Nên.
Từ Nha Trang theo đường Quốc Lộ số 1 đi vào độ 19 cây số thì có con đường liên hương chạy lên hướng Tây. Theo con đường ấy đi chừng bốn năm cây số nữa thì đến Suối Tiên. Nơi du khách dừng chân ở mút đoạn đường, có một dãy đá chắn ngang dòng suối, tạo thành một đập đá thiên nhiên. Nước suối một nửa chảy vẹt sang phía Bắc vào ruộng, một nửa tràn lên những tảng đá thấp chảy về hướng đông, rót vào Suối Dầu để cùng ra Sông Cái. Dưới chân đập đá thiên nhiên, một vùng nước xói thành lòng chảo, sâu và rộng, tục gọi là: HỒ TIÊN
Gọi là Hồ Tiên, vì truyền rằng xưa kia tiên thường đến tắm mát. Nước hồ trông thấy đáy, và đáy hồ cát trắng phau phau. Đến mùa nóng nực mà đến nơi đây thì thật vô cùng thích thú. Chỉ nhìn chất trong của nước hồ, chất trắng của cát hồ và thở khí mát của nước hồ bốc lên, cũng đã thấy khinh khoái trong người, chớ chưa đợi đẵm mình vào nước. Dù xưa kia không có tiên đến tắm, mà có đặc điểm chưa tắm đã mát như thế, thì cũng đã đáng gọi là Hồ Tiên. Nhưng Hồ Tiên mới là cốc rượu khai vị hiến cho khách đến du ngoạn cảnh Suối Tiên.
Không nên triền miên nơi hồ. Hãy theo bờ suối đi ngược lên. Bờ Suối toàn đá. Đá muôn hình vạn trạng nhưng toàn một sắc xám đen. Cây cối lại mọc chen trong đá. Nhiều cây cổ thụ, thân hình khúc khuỷu, đứng nghiêng mình soi vào lòng suối, bóng xanh chờn vờn theo sóng xanh. Trong lòng suối, nhiều nơi đá nằm ngổn ngang, lớp chìm xuống nước, lớp nổi lên không. Nước chảy lâu ngày mặt đá trông nhẵn thín.
Trên một tảng đá rộng lớn và bằng bặng, nửa nằm dưới nước nửa nằm trên bờ, có dấu chữ điền chữ khẩu, nét đá mờ rêu, và nằm lăn lóc một ít đá vụn hình tròn tròn vì gió mưa mài cọ. Người địa phương bảo đó là Bàn Cờ Tiên.
Lên trên nữa, đá chất chồng thành hang hố, nhiều chỗ nằm ngồi thong thả. Chung quanh có bóng cây che mát, có hoa rừng thoảng hương. Người địa phương bảo đó là Động Tiên.
Vì suối có Động Tiên, có Bàn Cờ Tiên, có Hồ Tiên, nên mệnh danh là Suối Tiên. Còn vì sao lại gọi là Suối Bà Nên thì chưa được rõ. Hỏi người sở tại thì kẻ nói thế nầy người nói thế khác, nghe không ý vị, nên để mặc Bà Nên, mà đi tìm tiên cho thích thú.
Truyền rằng Tiên thường đến Suối Tiên trong mùa nóng nực. Mỗi lần tiên đến thì có voi cọp đến hầu, có hươu dâng quả dâng hoa, vượn dâng rượu dâng nước. Các Tiên Ông thì đánh cờ. Các Tiên Bà Tiên Cô, các kim đồng Ngọc nữ, lớp thì ngồi trên mỏm đá cao đàm đạo, lớp thì thung thăng đi trên sóng, kè đàn người sáo, kẻ gõ phách, người múa ca. Gió mát nước trong, Suối Tiên lúc bấy giờ thật là Bồng Lai Nhược Thủy. Chư Tiên, người nào vui chơi đã mỏi thì vào động nghỉ ngơi. Đến khi mãn cuộc vui thì cùng nhau cỡi gió mây về Tiên giới. Một hôm chư tiên đều lui bước hết, chỉ một Tiên ông vì quá chén nằm ngủ quên trong động đến mấy hôm. Khỉ tỉnh dậy một mình, bèn theo bờ suối đi xuống… Lúc bấy giờ một đoàn Tiên nga đương tắm. Kẻ giăng mình trên cạn, người lặn hụp dưới hồ sâu. Vóc ngọc da ngà ẩn hiện trong màu nước trong, cát trắng. Dù rằng là Tiên nhưng lòng thích đẹp vốn trời sở phú, thì tu đến muôn ngàn kiếp cũng không dứt được tánh trời. Nên khoái mắt khoái lòng, Tiên ông vùng cất tiếng cười thích thú. Các Tiên nga ngoảnh đầu trông thấy, hổ thẹn, vụt bay bổng lên không trung. Những áo xiêm bỏ lại nơi bờ hồ, lần lượt biến thành năm sắc mây bay chờn vờn trên ngàn cây cổ thụ. Các Tiên nga về cung Đâu Suất kiện cùng Thái Thượng Lão Quân. Lão Quân phán: « Phạm nhân háo tửu háo sắc, bị trích xuống trần thế làm kẻ bạch diện thư sinh ». Và đề tránh những chuyên tương tợ có thể xảy ra một lần nữa làm thương tổn danh dự làng Tiên. Lão Quân lại cấm chư tiên không ai được đến Suối Tiên nữa. Từ ấy Suối Tiên không còn thấy bóng tiên.

Đồng thời trong vùng sanh ra một đứa con trai, hình dung tuấn tú. Lớn lên học giỏi thơ hay, nhưng có bệnh nghiện rượu và ưa sắc đẹp. Vì có bệnh nên thi mãi vẫn rớt, và thục nữ đều chê « dài lưng ». Sau phải bỏ bút nghiên làm anh thương nhân đa trá. Không mấy chốc mà giàu. Có của liền có vợ. Nhưng khi vào phòng hoa chúc, rượu cúng Tơ Hồng làm cho anh chàng say túy lúy. Rồi đêm nào ma men cũng rủ chàng đi tìm mộng, khiến cho người có chồng phải ôm mãi tuyết sạch giá trong. Không chịu nổi cảnh gần lửa mà lạnh lùng, người vợ bỏ đi biệt xứ. Anh chàng buồn bã bỏ ăn bỏ uống, ra đứng trên tảng đá cạnh Hồ Tiên, mơ màng nhìn nước nhìn cát, mỉm cười cùng bóng những nàng Tiên nữ trong mơ. Lâu ngày thân khô hóa thành cây cổ thụ đứng đìu hiu trong bóng nước mây. Định Phong đến chơi Suối Tiên có mấy câu ngẫu tác:
Suối Tiên nước chảy lững lờ,
Tiên đi đâu để bàn cờ rêu phong!
Mây trôi ngày tháng theo dòng,
Bền gan đá vẫn ngày mong đêm chờ.
Chờ mong sắp lại cuộc cờ,
Thú vui chung cả đôi bờ bắc nam.
Động Tiên chưa bén gót phàm,
Hồ Tiên sóng vẫn giợn chàm long lanh.
Cây cao hoa lá sum cành,
Ráng mây nỡ để nặng tình nhớ thương.
Phía trên Hồ Tiên lại có dấu một bàn chân to lớn mà năm đầu ngón chân in vào đá thật sâu. Người địa phương bảo đó là bàn chân ông Khổng Lồ và truyền rằng: Trong thời kỳ chư Tiên còn đến chơi Suối Tiên, một hôm ông Khổng Lồ ở Bình Định đi vào Nam, nghe danh Suối Tiên liền tìm đến. Quang cảnh vừa mắt làm cho trí lửng bước chân. Ông bước lên hòn đá đóng rêu, lơ đễnh bị trợt chân. Ông giật mình, một chân bấm vào đá, một tay chống vào vách, để cho khỏi ngã. Ông chống mạnh quá đến nỗi bàn tay ông lún vào đá và một khoảnh vách vỡ văng tận mé biển Cù Lao hóa thành Hòn Chồng Đực và Hòn Chồng Cái. Chân ông bấm cũng mạnh quá, nên dấu còn để nơi Suối Tiên. Nghe chuyện ông Khổng Lồ, một du khách là Thi nại Thị cười bảo: « Ông Khổng Lồ bị trợt không phải vì vô ý bước nhầm đá rêu, mà chính vì Hồ Tiên báo hại ». Cho nên có bài ca rằng:
Khổng Lồ vừa mập vừa cao,
Chân bước đi trên đá,
Mặt ngó vào Hồ Tiên:
Trong ngần nước tẩm dòng quyên,
Năm ba pho tượng thiên nhiên nõn nà.
Thân ông run,
Hồn ông động,
Tim ông rụng,
Mắt ông lòa.
Bảy nghiêng tám ngã…
Đá mấy tòa rung rinh.
Bước gập ghình,
Thất kinh,
Ông vội vã,
Bám chân vào đá.
Nhưng ông vẫn ngã cái ình!
Tiên giật mình bay đi mất.
Riêng ông để dấu si tình lại nghìn thu.
Dấu si tình của Khổng Lồ một nửa là bàn chân để nơi Suối Tiên, một nửa bàn tay gởi nơi Hòn Chồng, chứng tỏ một cách nên thơ rằng Suối Tiên và Hòn Chồng quả thật là dòng họ đá với nhau vậy.
Vì dòng họ nhà đá mà phải từ Hòn Chồng đi thẳng vào Suối Tiên một mạch. Viếng Suối Tiên xong theo con đường Quốc Lộ số 1 trở về Nha Trang, nhân đi ngang qua Diên Khánh, cũng nên ghé lại viếng: Suối Đổ, Suối Ngổ, Suối Ồ Ồ.
B) SUỐI ĐỔ
Cũng gọi là Suối Nước Đổ, nằm trong địa phận làng Phước Trạch gần làng Cư Thạnh, vùng phía Tây dãy núi Hoàng Ngưu. Suối từ trên núi cao tục gọi Hòn Chùa chảy xuống và tạo thành ba cảnh hồ khá rộng.
Hồ thứ nhất nằm trên lưng chừng núi, dưới một thác nước đổ mạnh. Nước hồ chia làm hai nhánh chảy quanh co xuống triền núi chừng năm ba chục thước thì rót vào hai hồ nằm gần nhau, rồi nhập lại thành một dòng chảy xuống núi. Lòng hồ cát trắng phau nhau. Lòng suối và quanh suối đá xanh lớp giăng lớp chồng. Cây cối mọc chen đá, xanh tươi, rậm rạp. Trên bờ hồ thứ nhất, ngoài những tảng đá dựng thành vách, nằm thành đống, có một tảng đá hoa cương to lớn dị thường và bằng phẳng như tấm ván ngựa, trông như có tay người đẽo dũa công phu. Truyền rằng đó là nơi bà Thiên Y A Na đến ngồi hóng mát, hoặc nghỉ chân lúc vân du. Những lúc Bà đến thì có ba tiếng sấm nổ vang trời, rồi có một luồng ánh sáng màu xanh, rộng và dài như một cây lụa xổ, từ phía hòn Núi Chúa ở Đại Điền, hoặc từ Hòn Bà ở Cam Lâm, bay đáp xuống suối. Đi vào sâu trong núi có một vườn cam và một vườn quít, trái rất nhiều. Ai đến hái ăn cũng được, nhưng không được khen chê, mà cũng không được hái đem về nhà. Nếu không tuân thì có tai họa xảy đến.
Cách hồ nhất chừng trăm thước, có một cây kỳ nam lớn đến bốn ôm và dài cũng đến chín mười thước, nằm ngang qua suối. Đi ngoài xa nghe phảng phất mùi thơm, nhưng lại gần thì không thấy chi cả. Nếu người nào có ý muốn chiếm hữu thì một cặp rắn mun to lớn hiện ra khủng bố. Thời Pháp thuộc, một viên chánh tổng tìm thấy cây kỳ, đem lễ vật đến cúng kính rồi lấy dây cột nơi gốc cây kéo dài ra cho đến chân núi để làm dấu. Đoạn về nhà thuê người đem dây thừng đến khiêng. Khi trở lại, theo sợi dây mà lên núi. Nhưng đến nơi thì thấy mối dây cột ở nơi khác, còn cây kỳ biến đâu mất, tìm mãi vẫn không thấy tăm hơi. Tuy vậy mãi đến nay, người đi củi thỉnh thoảng vẫn còn nghe hơi trầm thoảng. Bên suối nơi hồ thấp, có đền thờ Bà, khói hương không ngớt. Một Nho sĩ làng Cư Thạnh là Thái Vịnh có bài thơ vịnh Suối Đổ rằng:
Hóa công xây đắp tự đời nao,
Thăm thẳm rừng xanh trổ lối vào.
Xối xả nước tuôn lì mặt đá,
Mịn màng cát trải mát lòng ao.
Mây tòng khói liễu chồng rồi chất,
Đờn suối ca chim thấp lại cao.
Bên núi hương trầm đưa phảng phất,
Khe trong mường tượng bóng hoa đào.
Năm 1963, trước khi Chánh phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ mấy tháng, tự nhiên trên Suối Đổ nổi lên ba tiếng sấm, người địa phương hãi hồn vì tưởng có giặc. Liền đó có người nằm chiêm bao thấy thần linh mách bảo rằng bà Thiên Y về Suối ban phước cứu dân độ thế. Tiếng đồn lan ra, người ta đến múc nước về chữa bệnh.
Bệnh có hết chăng chẳng ai biết, nhưng từ miệng người nầy sang miệng người kia rằng « người câm vừa uống vào mấy hớp liền nói được », rằng « một người mù đến khấn vái rồi múc nước rửa liền thấy đàng đi », rằng « người bị bệnh ung thư, Bác Sĩ không chữa nổi, xin nước Suối Đổ về uống có mấy lần liền bớt đau », v.v… Một người nói chín mười người nghe, rồi chín mười người nói cho trăm ngàn người nghe… Một đồn mười, mười đồn trăm, đồn ngàn, đồn muôn. Ban đầu chỉ có người trong quận Diên Khánh đến cầu xin nước thiêng, lần lần đến người ở quận khác trong tỉnh. Chỉ trong một tuần nhật, người Dalat, Saigon… cũng thùng chai đưa đến. Chật đường chật sá. Chánh quyền tỉnh Khánh Hòa ra lệnh cấm không được, phải cho lính đến canh. Nhưng canh đường nầy thì đồng bào tìm đường khác để vào suối. Chộn rộn ồn ào, vui thật là vui.
Gặp những người đi xin nước, hỏi. Ai nấy đều đáp « Hết sức linh nghiệm ». Nhưng những người kém đức Tin vẫn nghĩ « Đó là một cách xem thơ Trạng Quỳnh », nên nhân dịp đông vui, đến ngắm cảnh chớ không xin nước. Nhận thấy những người đồn « nước rất thiêng » đều là kẻ giàu có. Một nhà thơ hài hước có mấy câu đọc thầm cho bạn nghe, chớ không dám phổ biến vì sợ vạ miệng, rằng:
Đời nay « tiền định » rõ ràng,
Nước thiêng cũng phải có vàng mới thiêng.
Nhà nghèo chữa bệnh kinh niên,
Tim đường đi xuống Huỳnh tuyền khỏe hơn.
Suối Đổ trước kia, ngoài người địa phương, ít ai để ý. Khách du lịch cũng không mấy người tới lui, mặc dù suối ở gần đường Quốc Lộ số 1. Nhưng từ ngày xảy ra việc « xin nước thiêng », thì miệng người theo đường Quốc Lộ đưa danh Suối Đổ đi xa. Thành ra hiện nay đối với du khách, Suối Đổ cũng tế danh cùng Suối Tiên và Suối Ngổ vậy.
C) SUỐI NGỔ
Suối nằm phía Đông Bắc thành Diên Khánh, thuộc địa phận thôn Xuân Phong, quận Vĩnh Xương, dưới chân hòn Én. Muốn đến Suối Ngổ thì từ thành Diên Khánh đi ra, hoặc từ trụ sở Vĩnh Xương đi lên. Đến vùng Miễu Quá Quan, dưới chân hòn Đá Lố, thì theo con đường nhỏ đi lên xiên xiên hướng Tây Bắc. Đường đi không dễ dàng thoải mái như đường đến Suối Đổ, Suối Tiên, vì phải đi bộ bởi chất hẹp lại thêm nhiều gai gốc, nhiều vồng dốc. Đi đường bằng chừng nửa cây số, du khách phải vượt qua ba cụm gò đá lẫn sỏi. Gò tuy không cao không dốc, song khúc khuỷu chông chênh.
Đi độ nửa đường thì gặp một vũng nước nho nhỏ nằm dưới chân núi. Nước từ trong vách núi nhỉ ra đọng thành vũng. Chung quanh vũng toàn đá. Trong lòng vũng cũng đá. Nước sâu chừng một gang tay. Trong như lọc. Uống vừa mát vừa ngọt. Hành khách lại qua thường múc giải khát. Vũng tuy không lớn không sâu, nhưng múc mấy cũng không cạn, nắng mấy cũng không khô. Người địa phương gọi là Giếng Cậu. Cậu đây tức là con bà Chúa Ngọc Thiên Y A Na. Gọi như vậy vì tin rằng tất cả những gì tốt đẹp linh thiêng ở Khánh Hòa đều là của Bà và của Cô của Cậu cả. Đi một chặng nữa, nơi sườn núi thấy một vùng đá mọc lởm chởm, chỗ lồi rồi chỗ hũng vô, chỗ thì đen chỗ thì trắng, đứng xa trông có vằn có vệnh như mặt ông bùa của thầy phù thủy. Người địa phương gọi là Đá Mặt Quỉ. Hai cảnh nầy làm cho du khách vui mắt quên mỏi chân.
Qua khỏi vùng Đá Mặt Quỉ thì đường đi luồn trong cây cối. Phải vén cành vẹt gai mà đi. Đi chừng vài ba trăm thước nữa thì đến Suối. Cảnh Suối thật sầm uất thâm u. Một tảng đá hoa cương cao trên hai thước, chu vi cũng đến 15, 20 thước, trên mặt lum lúp, nằm chắn ngang lối vào. Mọc bên cạnh, một cây gáo gốc lớn đến ba bốn người ôm, thân cao tàn cả và rễ nổi lên từng vòng như những con trăn khồng lồ uốn khúc.
Phải đi quành qua hông đá hông cây mà vào. Bên trong là một hồ nước rộng chừng bảy tám chục thước vuông. Phía Bắc là sườn núi ; ba mặt, đá mọc ngổn ngang, lớn có nhỏ có, đứng có nằm có. Chen chúc cùng đá, cây mọc dày như rừng già, che khuất cả ánh mặt trời và gió. Đá cũng như cây đều phủ rêu mốc rêu xanh, và hình thù muôn vẻ trông thật lạ mắt khoái tâm. Hồ nước do dòng suối trên núi chảy xuống tạo thành. Dòng suối phát nguyên trên đỉnh hòn Én, chảy quanh co theo sườn núi, khuất trong đá trong cây. Khi đã ló dạng ra ngoài và cách chân núi chừng mươi thước, suối tuôn thẳng xuống hồ, mai mải theo triền núi và qua vài ba bậc cấp lài lài, đứng bên này hồ trông sang như một cây lụa bạch buông xổ. Lòng suối không rộng – chỉ độ một thước một thước rưỡi thôi – sức nước cũng không mạnh – vì bị đá ngăn chận – nên tiếng suối không lớn, chỉ nghe rào rào như gió thổi vào rừng bàng mùa thu mùa đông.
Suối tuôn xuống hồ. Nước hồ tràn vào kẽ đá kẽ rễ cây gốc cây. Thành ra cây đá chung quanh hồ đều dầm nước ăm ắp. Qua kẽ cây kẽ đá, nước chảy ra ngoài hợp thành suối chảy vào đồng ruộng. Chung quanh hồ và hai bên bờ suối, rau ngổ mọc đầy, mùi hương bay thơm ngát. Người địa phương thường đến hái bán. Do đó suối mệnh danh là Suối Ngổ. Phía chân núi, cạnh hồ có một trảng rộng mọc toàn ổi. Đến mùa ổi chín, mùi thơm bay nồng nực cả vùng và làm át hẳn mùi thơm của ngổ.
Phong cảnh Suối Ngổ có vẻ man rợ và vô cùng vắng vẻ. Trông cách biệt hẳn với thế gian! Ngoài tiếng nước chảy, tiếng chim kêu, không nghe một tiếng gà tiếng chó. Đứng trước những cây cao, ngổn ngang, lớn có nhỏ có, đứng có nằm có. Chen chúc cùng đá, cây mọc dày như rừng già, che khuất cả ánh mặt trời và gió. Đá cũng như cây đều phủ rêu mốc rêu xanh, và hình thù muôn vẻ trong thật lạ mắt khoái tâm. Hồ nước do dòng suối trên núi chảy xuống tạo thành.
Dòng suối phát nguyên trên đỉnh hòn Én, chảy quanh co theo sườn núi, khuất trong đá trong cây. Khi đã ló dạng ra ngoài và cách chân núi chừng mươi thước, suối tuôn thẳng xuống hồ, mai mải theo triền núi và qua vài ba bậc cấp lài lài, đứng bên nầy hồ trông sang như một cây lụa bạch buông xổ. Lòng suối không rộng – chỉ độ một thước một thước rưỡi thôi – sức nước cũng không mạnh – vì bị đá ngăn chận – nên tiếng suối không lớn, chỉ nghe rào rào như gió thổi vào rừng bàng mùa thu mùa đông.
Suối tuôn xuống hồ. Nước hồ tràn vào kẽ đá kẽ rễ cây gốc cây. Thành ra cây đá chung quanh hồ đều dầm nước ăm ắp. Qua kẽ cây kẽ đá, nước chảy ra ngoài hợp thành suối chảy vào đồng ruộng. Chung quanh hồ và hai bên bờ suối, rau ngổ mọc đầy, mùi hương bay thơm ngát. Người địa phương thường đến hái bán. Do đó Suối mệnh danh là Suối Ngổ. Phía chân núi, cạnh hồ có một trảng rộng mọc toàn ổi. Đến mùa ổi chín, mùi thơm bay nồng nực cả vùng và làm át hẳn mùi thơm của ngổ.
Phong cảnh Suối Ngổ có vẻ man rợ và vô cùng vắng vẻ. Trông cách biệt hẳn với thế gian! Ngoài tiếng nước chảy, tiếng chim kêu, không nghe một tiếng gà tiếng chó. Đứng trước những cây cao, đá to, trong người đôi khi thấy rờn rợn. Hình thù của đá của cây khiến cho những óc giàu tưởng tượng liên tưởng đến những quái vật, những hung thần trong các huyền thoại xưa nay. Cho nên đến Suối Ngổ, khách du quan ít khi có cảm giác được lạc vào Đào Nguyên như khi chơi Suối Tiên, Suối Đổ. Lại thêm không khí phía bên nầy hồ không được thoáng, bởi bốn mặt bị núi và cây đá bao vây. Ngồi lâu thấy nực. Cho nên mọi người vào chơi đều thích tắm. Nước hồ trong và sâu lút đầu. Bơi lội rất thú. Và tắm xong lên nằm trên những tảng đá bằng phẳng dưới bóng cây mà ngơi một giấc thì dễ xây nên mộng La Phù.
Song nếu muốn thưởng thức thú gió rộng trời cao thì vịn đá vịn cây sang qua bên kia hồ, theo bờ suối mà lên núi: Một vọng cảnh bao la từ Nha Trang trải trùm lên tận Diên Khánh, thành một tấm thảm vỹ đại có trăm sắc đậm nhạt điểm lên trên màu xanh. Thật vô cùng ngoạn mục.
Nhưng không phải vì cảnh thú mà Suối Ngổ nổi danh. Suối nổi danh trước hết là nhờ ngôi chùa bên suối. Ngôi Chùa tục gọi là Chùa Suối Ngổ, sắc tứ Chí Linh Sơn Tự. Cất trên triền núi, phía đông Suối Ngổ, mặt ngó vào Nam. Kiểu thức không có gì đặc biệt, qui mô không lấy gì làm rộng lớn. Nhưng có 4tiếng rất linh thiêng. Người đau đến cầu thường khỏi. Người có tai nạn đến cầu thường qua. Và những lá xăm của Chùa cho thì luôn luôn linh ứng. Những khách thập phương lui tới hầu hết chỉ để dâng hương cầu phúc. Nhưng khi về nhà nói đến sự linh ứng của chùa thì phải nói đến tên chùa, mà tên dễ nhớ và ít lẫn lộn với các chùa khác là tên tục. Do đó là tiếng « Suối Ngổ » bay xa. Trong núi có con Cọp Mun rất hiền, hễ gặp người liền tránh. Trước chùa có một miếu nhỏ thờ « Sơn lâm chúa tướng ». Nơi miếu thỉnh thoảng con Cọp Mun về nằm nghỉ ngơi. Người địa phương bảo rằng con cọp mun ấy cai quản tất cả các thú trong vùng núi Suối Ngổ. Các giống cọp vệnh, tàu cau, xám tro. Không dám bén mảng đến.
Truyền rằng: Một năm chùa làm chay vừa xong, người trong chùa và người đến cúng bị mỏi mệt ngủ quên. Nửa đêm kẻ trộm vào dọn hết từ khí từ vật và chén bát nồi niêu. Khổ chủ thức dậy, thất kinh. Toan kéo nhau đi tìm thì, chợt thấy một đoàn người khiêng gánh kéo vào ngõ. Đoàn người vào chùa quì lạy vị trù trì thú thực rằng mình là ăn trộm và nói: « Chúng tôi xuống khỏi dốc thì gặp Chúa Sơn Lâm đứng dựng trên hai chân sau và giơ cao hai chân trước, miệng gầm gừ nghe rợn tóc gáy. Chúng tôi quýnh cẳng, cứng tay… đứng im không nhúc nhích. Ngài cũng đứng im. Thấy ngài không có ý làm hại, chúng tôi mới hoàn hồn. Ngài ra dấu bảo chúng tôi trở lại. Biết rằng mình đã làm việc quấy, mà ngài không nỡ hành tội, chúng tôi liền gánh đồ đạc trở lại trả cho chùa, và xin lạy Phật lạy thầy cho chúng tôi sám hối ». Câu chuyện lan truyền, làm cho Chùa Suối Ngổ nổi tiếng thêm. Do đó Suối Ngổ cũng thêm danh giá.
Lại đồn rằng trên núi Suối Ngổ có Kỳ Nam. Đáng tin lắm vì kỳ nam là trầm hương là lâm sản của Khánh Hòa, mà trên núi Suối Ngổ lại có nhiều cây Gió là thứ cây thường sanh kỳ nam và trầm hương. Biết rằng có kỳ nam trên núi, nhưng không ai dám manh tâm, bởi tin rằng của quỉ thần, và có lính canh gác. Lính canh gác ấy là một thứ Chim, không ai thấy hình dáng ra sao, cũng không ai biết rõ nhiều hay ít, mà chỉ nghe tiếng kêu. Tiếng kêu rất đặc biệt. Ban ngày nghe như tiếng mõ, ban đêm nghe tiếng chuông. Cứ kêu ba tiếng rồi nghỉ, nghỉ giây lát rồi kêu ba tiếng nữa… đều đặn khoan thai, thường xuyên, liên tục. Tuy nghe hai thứ tiếng, và dường như chỉ có một con kêu. Nhưng người địa phương bảo rằng chỉ có một thứ chim, và nhiều con kêu thay đổi. Biết được như vậy là vì hễ khi nào có kẻ gian đến gần cây kỳ nam thì tiếng chuông tiếng mõ đổ liên hồi, như chuông mõ đánh chữa lửa. Khi tiếng chuông mõ đánh dồn thì rắn độc thú dữ kéo đến đánh đuổi. Nếu kẻ gian không bỏ lòng tham, còn trở lại nữa thì nhất định bị tai họa, không bị cọp chụp cũng bị rắn cắn. May mà chạy thoát được, về nhà vẫn không sống được yên lành. Đó là một yếu tố nữa làm cho Suối Ngổ lừng danh.
D) SUỐI Ồ Ồ
Suối Ồ Ồ ở phía Tây suối Ngổ, thuộc địa phận thôn Đại Điền Trung, quận Diên Khánh. Suối phát nguyên trong dãy núi cao nằm nơi ranh giới Ninh Hòa Diên Khánh. Có hai nguồn chạy song song ở giữa ba nhánh núi thấp, từ Bắc vào Nam. Nguồn phía Tây gọi là Suối Khô vì mạch thường bị đứt trong mùa nắng. Nguồn phía Đông gọi là Suối Chà Vông vì hai bên bờ có nhiều cây chà vông mọc san sát.
Ra khỏi núi, hai ngọn nguồn đổ xuống một gành đá đứng thẳng như vách và cao ngó trật ót. Dưới chân gành, nước xói thành một hồ bán nguyệt, rộng trên một sào và sâu chừng ba sải. Nước hồ tràn ra thành suối chảy quanh co ba bốn cây số mới đến đồng ruộng. Núi nhiều cây nhiều đá. Chung quanh hồ và hai bên suối cũng có nhiều đá nhiều cây chập chồng chen chúc. Phong cảnh thật tĩnh mịch thanh u.
Từ hồ trở ra, Suối mang tên là Ồ Ồ. Ồ Ồ là tiếng nước chảy, nước nguồn chảy xuống gành vào hồ bán nguyệt. Suối Tiên chảy róc rách. Suối Đổ và Suối Ngổ chảy ào ào như tuôn hoặc rào rào như lá động, và tiếng suối bay lên không trung rồi tan trong mây gió. Tiếng Suối Ồ Ồ khác hẳn. Đã kêu ồ ồ mà dường như đọng lại chung quanh và vướng vào cây đá, chớ không chịu bay đi. Tiếng rền lại nghe rất xa.
Có lẽ do ảnh hưởng của vị trí. Người địa phương gọi gành đá tuôn nước xuống hồ kia là Sòng Tát. Ở hai bên đầu gành có nhiều dấu lõm xuống trông mường tượng như dấu chân người. Và trên mặt gành có một đường chạy dài như một giải lụa giăng ngang.
Truyền rằng: Nước hồ bán nguyệt không bao giờ cạn. Xưa kia những năm hạn hán, mạch suối đứt, tiên thường đến tát nước về nguồn. Những dấu ở hai bên đầu gành là dấu chân của tiên, và dấu dài nơi mặt gành là dấu dây lưng của tiên phơi khi tát nước. Vì có tiên tát nước nơi gành nên gọi gành nên gọi gành là Sòng Tát vậy.
Lại truyền rằng: Suối Ồ Ồ rất linh. Những năm nắng hạn, các nhà chức trách địa phương thường đến cầu đảo. Lễ xong lấy một hòn đá từ trên đầu gành lăn xuống hồ. Nước bắn tung lên và sóng nổi cuồn cuộn. Liền đó một đám mây hiện ra, bay lơ lửng trên không, ngay nơi cầu đảo. Rồi không nhiều thời ít, không kịp thời chẩy, một trận mưa đổ xuống…
Đó là việc đời xưa, thời mà lòng người còn tin tưởng thần tiên. Hữu thành tất hữu thần. Chớ ngày nay lòng mọi tầng lớp trong xã hội đều hướng vào khoa học Âu Mỹ, dù có muốn cầu đảo chắc không còn linh ứng như xưa. Tuy thế những chuyện thần tiên kia vẫn là những món gia vị làm tăng thêm thú du ngoạn.
Còn một món gia vị nữa thực tế hơn, là Cá. Cá vừa nhiều vừa lớn con. Vì ít người đến quấy rầy nên cá rất dạn dĩ. Khách du lịch vào thăm Ồ Ồ đem theo một cần câu hoặc một cái lưới nho nhỏ, thì chỉ cần mang cơm mang rượu chớ không cần mang đồ ăn. Không biết có phải vì Suối Ồ Ồ có điểm « khoái khẩu » nên được Đại Nam Nhất Thống Chí nhắc đến trong khi tất cả các suối có danh khác trong tỉnh bị bỏ rơi.
Đ) SUỐI BA HỒ
Các dòng suối có phong cảnh kỳ mỹ, có những huyền thoại lý thú, thường ở trong những vùng rừng rậm núi cao. Quận Vĩnh Xương là một quận tương đối ít núi cao rừng rậm hơn các quận trong tỉnh. Nhưng ngoài Suối Ngổ ra, còn một cảnh suối nữa được du khách chú ý hơn cả Suối Tiên, Suối Đổ, Suối Ngổ, Suối Ồ Ồ. Đó là: SUỐI BA HỒ
Suối phát nguyên trên đỉnh Hòn Son, cao 660 thước, chảy giữa hai triền núi đá xuống thôn Phú Hữu ở phía Bắc, rồi vượt qua một cánh đồng rộng để xuống vũng Nha Phu. Suối mệnh danh là Ba Hồ vì trên thượng lưu có ba lỗ hủng to rộng, lúc nào nước cũng đầy ăm ắp, mà người địa phương gọi là hồ. Suối Ba Hồ cách Nha Trang chừng 25, 26 cây số.
Từ Nha Trang theo Quốc Lộ số 1 đi ra chừng 19 cây số thì có một con đường hương lộ trẻ qua phía tay trái. Theo con đường ấy đi chừng bốn năm cây số nữa thì đến nơi xe đậu. Từ đó đi bộ trên dưới một cây số thì đến khúc suối có cảnh hồ thứ nhất.
Hồ Thứ Nhất nằm dưới chân một thác nước cao chừng năm sáu thước Đó là một vũng, nước xói thành lòng chảo. Rộng chừng một trăm, một trăm rưởi thước vuông, rốn sâu chừng vài sải. Đáy hồ cát trải trắng, rải rác năm bảy hòn đá nằm hoặc ló đầu lên khỏi mặt nước hoặc chìm lỉm trong lòng hồ. Chung quanh đá sắp ngồn ngang, nhiều tảng thật to lớn. Nước trong hồ khi đầy thì tràn lên mặt đá, khi lưng thì luồn qua kẽ đá mà tuôn ra ngoài rồi theo hướng Đông Bắc mà chảy xuống biển.
Từ Hồ Thứ Nhất, theo bờ suối đi ngược lên chừng trên dưới một cây số thì đến Hồ Thứ Nhì. Ở nơi đây không có thác. Đá ngăn nước đọng lại thành hồ. Mặt hồ rộng dưới trăm thước vuông. Lòng hồ chỉ lõm xuống chừng bốn năm tấc, không biết do nước xói hay vốn trời sanh. Nước từ trên cao theo hai dòng quanh co trong đá chảy xuống, nhập lại nơi hồ rồi mới chảy đi.
Từ Hồ Thứ Hai đi lên nữa, chừng bốn trăm thước, thì đến Hồ Thứ Ba. Hồ nầy nằm dưới chân một ngọn thác chạy lài lài và đổ xuống thành lòng chảo. Hồ nầy rộng và sâu thua hồ thứ hai. Bờ hồ thường bị nước khỏa lấp và mặt hồ chỉ trông thấy dờn dợn. Cũng như lòng hồ thứ nhất và thứ nhì, lòng hồ nầy cũng có nhiều cát và đá. Mùa mưa lụt, nước suối tràn trề, cả ba hồ đều không trông thấy. Đến mùa nắng hồ mới « hiện nguyên hình ». Nước ở trên nguồn chảy xuống nhè nhẹ, lòng hồ không gợn sóng, nhìn vào như một khối thủy tinh. Dù nắng mấy hồ cũng không bao giờ khô nước.
Chính Suối đã nhờ hồ mà có tên và nổi tiếng. Nhưng hồ đối với suối chỉ là những chiếc huy chương trên ngực một võ tướng, thân dài vai rộng, hàm én râu hùm. Không đeo những chiếc huy chương, tướng quân vẫn uy phong lẫm liệt: Suối, từ nguồn chí bể, dài trên dưới 10 cây số. Phần thượng lưu là phần quan trọng đối với du khách, chiếm phân nửa. Hai bờ suối là hai triền núi cao. Từ bờ bên nầy sang bờ bên kia, chỗ rộng có trên 30 thước, chỗ hẹp nhất cũng đến 20 thước. Hình thế hiểm tuấn. Trên bờ suối, trong lòng suối, đá mọc ngổn ngang. Lớn có nhỏ có, chen chúc lẫn nhau, chồng chất lên nhau. Tất cả đều một màu xam xám đen đen, nhưng thiên hình vạn trạng. Lòng người muốn tạo nên hình gì thành ra hình nấy. Tâm hồn phong phú bao nhiêu thì cảnh tượng kỳ mỹ bấy nhiêu. Kể không thể cùng, tả không thể xiết. Chen cùng sắc đá, dưới suối thì cát thì nước, trên bờ thì cây thì mây. Cát từng chòm từng giải, trắng phau phau. Chỗ thì trải rộng thành miền tự do, chỗ thì khép mình dưới chân đá. Nước khi ẩn khi hiện, khi giăng dài trên cát, khi luồn trong đá khuất khúc quanh co.
Còn cây thì lớp lớp như rừng. Nhiều cây cao lớn, màu da lẫn với sắc đá, và rễ quấn vào nhau, trên mặt đá có trong kẽ đá có, trong như những bầy trăn nằm nghỉ ngơi. Càng lên cao, cây càng nhiều và càng to lớn. Trên cành những cây đại thọ, phong lan bám tua tủa. Đến chơi gặp mùa lan nở thì lòng người phải say vì sắc vì hương. Chim cũng rất nhiều. Nhiều nhất là giống chim bạc má, lòng xám mỏ đỏ. Lại có một giống chim lớn hơn chim bạc má, lòng đỏ mỏ đen, không biết tên và tuy chiếm thiểu số nhưng nổi bật giữa đám đông phi cầm. Chim và phong lan chỉ có từ hồ thứ nhì và càng lên cao càng nhiều.
Phong cảnh thật đẹp. Sắc thái lại thay đổi theo ngày giờ theo thời tiết. Cho nên ngắm mãi không chán, đến luôn không nhàm. Tất cả các cảnh suối, mỗi cảnh có một vẻ đẹp riêng. Suối Tiên thì đẹp thanh nhã. Suối Đổ, Suối Ồ Ồ thì đẹp chất phác. Suối Ngổ thì đẹp man dại. Đẹp hùng vĩ nhưng không thiếu mỹ miều chỉ có cảnh suối Ba Hồ.
Suối Ba Hồ có đôi nét phảng phất Suối Đổ, đôi nét mường tượng Suối Tiên. Giống Suối Đổ ở điểm hồ. Giống Suối Tiên ở chiều dài và cảnh cây chen đá lá chen mây. Nhưng đặt Suối Đổ bên cạnh Suối Ba Hồ thì chẳng khác một em bé đứng bên cạnh một người lớn. Đặt Suối Tiên tìm bên cạnh Suối Ba Hồ thì có thể liên tưởng đến Thuý Kiều với Từ Hải hay Ngu Cơ với Hạng Vương.
Đến chơi Ba Hồ ngày xuân, ngày hạ. Nằm trên tảng đá bằng phẳng, dưới bóng cổ thụ xanh tươi, nghe tiếng chim hoà tiếng suối, đón ngọn gió trộn mùi phong lan, thì bóng dáng người tiên nơi động Từ Thức hay động Thiên Thai thế nào cũng đi về trong giấc mộng.
Nhưng đến vào mùa thu mùa đông, nhất là sau những ngày mưa lụt, thì những cảnh nên thơ đều ẩn lánh. Nước từ trên đầu núi đổ xuống cuồn cuộn, ngàu ngàu, sóng lấp cả đá, chuyển cả rừng, tiếng dội ầm ầm như sấm dậy. Đứng tận trên cao ngó xuống, người yếu bóng vía không đủ can đảm đứng lâu. Cho nên Suối Ba Hồ chỉ quyến khách du quan về mùa nắng ráo.
Truyền rằng Ba Hồ rất linh thiêng. Thời Phong Kiến, những năm nắng hạn, người địa phương thường đến cầu đảo. Hương áng thường thiết nơi Hồ Thứ Hai. Lễ xong vị chủ tế lấy một hòn đá lớn kính cẩn quăng xuống hồ. Thế là nội nhật làm gì cũng có mưa, nếu không mưa khắp hạt thì cũng mưa trên nguồn đủ nước chảy xuống đồng ruộng.
Bởi vậy người địa phương ít người dám lên chơi ở Hồ Thứ Hai, Thứ Ba. Còn du khách, vì trèo leo khó khăn, thường chỉ du ngoạn hồ Thứ Nhất, một số ít ráng lên đến hồ Thứ Hai. Hồ Thứ Ba thì dành riêng cho một vài người mạnh chân khoẻ gối, và có gan, bởi ngoài đá lớn cây to, thỉnh thoảng chúa sơn lâm cũng ra ngồi mát. Khách phong tao cũng thường đến Ba Hồ ngâm vịnh. Gần đây Định Phong đến chơi, có để lại một bài hát ngậm ý cảm khái:
Hỡi mưu thần đất Việt,
Hỡi người đẹp Cô Tô:
Năm Hồ mây nước là mô,
Mà đây chỉ thấy Ba Hồ đá xây?
Đá lẫn cùng cây,
Mây xây cùng đá.
Suối tuôn lã chã,
Bóng ngã hình nghiêng.
Ai người luyện thạch bổ thiên?
Nghìn xưa núi chất còn nguyên đến giờ.
E) SUỐI ĐÁ XẺ
Ba Hồ ở gần cuối Vĩnh Xương và nằm giữa đèo Rù Rỳ ở phía Nam và Ruột Tượng ở phía Bắc. Từ Ba Hồ ra đèo Ruột Tượng rồi đi thêm chừng năm bảy cây số nữa, thuộc địa phận quận Ninh Hoà, thì có hai dòng suối nữa, danh tiếng tuy không được lẫy lừng như các dòng suối kể tên, nhưng chứa đựng nhiều cảnh nhiều chuyện kỳ bí. Đó là: Suối Đá Xẻ, Suối Cát. Hai ngọn suối nầy ở hai xã, cách nhau, nhưng vẫn chảy vào một con sông là sông Cầu Lâm.
Suối nằm trong địa phận xã Ninh Lộc. Từ trụ sở xã đi lên Suối Ngả Hai, rồi lên Suối Ngả Ba. Đi khỏi Suối Ngả Ba thì đến Trường Bơi. Trường Bơi là một khúc suối mở rộng, nước lênh láng và sâu lút đầu. Cá nhiều như cát. Những khi trời nắng hạn, hễ nghe có tiếng ào ào như tiếng nước chảy tiếng gió thổi, ở nơi đây, thì biết rằng đó là báo hiệu trời sắp mưa. Qua khỏi Trường Bơi thì phải băng ngang một rừng cây rậm mọc toàn mà ca, trên triền núi, tục gọi là Rượng.
Rượng rất sầm uất thâm u. Sườn núi lài lài, cây mà ca vừa lớn vừa dẻo. Đến mùa ân ái voi kéo về đây để thi hành nhiệm vụ « nối dõi tổ tông ». Voi cái đứng xiên xiên theo triền núi, đuôi thấp đầu cao, và vòi quấn chặt vào cây mà ca, để chịu đựng cùng đấng phu quân có khi nặng đến vài chục tấn. Ngày thường voi cũng hay tới lui nơi rượng, nhưng chỉ một vài con, chớ không kéo từng đoàn như lúc « đi công tác » thường lệ. Cho nên người đi qua rượng phải để ý xem phân voi. Nếu thấy phân mới thì phải trở lại ngay, vì ở Khánh Hoà voi dữ hơn cọp.
Dòng suối băng qua rượng, chảy quanh co dưới bóng mà ca chập chờn trong đá, trong bóng đá. Rượng vắng bẻ, suối quạnh quẽ. Người đi qua cảm thấy lành lạnh toàn thân, nửa vì thần hồn nhát thần xác, nửa vì hơi nước suối hơi gió rừng. Vì vậy, mặc dù quang cảnh trong rượng rất ngoạn mục, không mấy ai dám triền miên ở lại để thưởng thức thoả thuê.
Qua khỏi rượng mà ca thì đến trảng tranh săng. Trảng rộng mênh mông và tranh săng xanh mịt mù. Khách không quen đường, rủi đi lạc vào trong tranh thì nhất định phải bị khốn như Lục Tổn vào thạch trận của Gia cát Lượng. Nhưng nơi thạch trận có Hoàng thừa Ngạn mở lòng nhân, chớ nơi trảng tranh chỉ có giống người bốn chân « dĩ sướng thân vi bản ». Cho nên vào rượng mà ca phải đề phòng, mà lên trảng tranh săng cũng phải đề phòng theo thủ tục.
Để khỏi bị lạc, du khách cứ theo dòng suối mà tiến lên. Suối chảy trong tranh, nhưng không bị tranh che khuất ánh sáng mặt trời như trong rượng mà ca. Lòng suối nhuộm được sắc xanh của tranh, sắc xanh của trời, lại điểm thêm những bóng mây trắng, tạo thành một cuộn gấm Thượng Hải màu thanh thu thêu hoa dệt lá.
Vừa đi vừa ngắm cảnh, không mấy chốc thì đến một nơi cần phải chú mục chú tâm mới vượt qua khỏi. Đó là ba đống đá chồng chất lên nhau, hô hê húc hỉu, có lỗ có hang. Trên thực tế thì rất vững vàng, nhưng trông qua thì dường như gập ghềnh gập gữ. Người địa phương gọi là: Gọp. Gọp nầy qua gọp kia chỉ một bước nhảy. Nhưng gọp có hơi cao, nước chung quanh có hơi sâu, nên cần phải vững đầu gối mới mong khỏi xuống cung rồng hầu kiện. Nhảy qua khỏi ba gọp nầy thì cũng như Quan Vân Trường qua khỏi ngũ quan.
Du khách đi một chặng đường ngăn ngắn nữa thì thấy nơi triền núi, đá xẻ ra thành một cái hang lộ thiên nằm ngay trên đầu suối. Hang hình khối chữ nhật. Cao ngó trật ót, rộng trên dưới ba thước, ăn sâu vào lòng núi chừng năm thước. Phía trước là nước suối. Trên đầu và hai bên hông là vách đá. Vách hậu đầu hơi lài lài. Hai vách hông đứng sững và bằng bặng như vách xây. Hang đã ăn sâu vào triền núi, lại còn ăn sâu xuống lòng đất, tạo thành một cái hồ hình chữ nhật, sâu đến vài ba sải. Hồ mệnh danh là: HỒ ĐÁ XẺ
Hồ và hang là một, như ngực với bụng đối với khúc mình con người. Để giản tiện hoá việc xưng hô, người địa phương gọi chung là « Hồ Đá Xẻ ». Nước trên nguồn theo triền núi chảy xuống hồ. Nước trong như lọc. Đứng trên miệng hồ nhìn suốt đáy. Những bầy cá bơi lội trong lòng hồ, trông thấy rõ ràng từng cái vảy. Lấy một cắc bạc quăng xuống hồ chúng ta nhận được cả những tia ánh sáng phát sinh. Hơi nước bốc lên mát lạnh. Trời nắng nực, đi mệt tháo mồ hôi, lên đến mé hồ liền thấy khoẻ khoắn, khoan khoái. Nước nguồn chảy xuống hồ, hồ tràn thành suối. Suối lấy hồ làm nguồn, nên từ hồ đến Ninh Lộc, Suối mệnh danh là Suối Đá Xẻ.
Và vì núi có đá xẻ thành hồ, nên người địa phương cũng gọi luôn là Núi Đá Xẻ. Nơi triền núi phía bên phải hồ, một tảng đá xanh vừa rộng vừa lớn dô ra như một mái hiên. Dưới mái hiên nền đá bằng phẳng, có thể nằm được vài chục người. Người ta gọi là: Nhà Đá.
Những khách lên chơi hồ thường đến nghỉ ngơi và đụt mưa nắng. Nơi triền núi phía bên trái hồ, lại có một cảnh vườn rộng và xanh tươi suốt năm. Trong vườn có đủ thứ trái cây. Nhiều nhất là cam. Cam rất sai trái và trái rất lớn. Thấy cam chín đỏ mọng và hương bay thơm ngát, không ai không thèm. Nhưng chớ vội mà cực thân. Cam ngọt lắm, ngon lắm. Ăn vào thích thú phi thường. Nhưng ăn xong thì thấy khó chịu trong cổ, nếu không bị sặc đến ngút hơi, cũng phải khạc đến rách cuống họng. Do đó người địa phương gọi là: Cam Sặc hay cam Khạc. Đó là vì giống cam có chất độc. Nhưng những người mê tín bảo rằng vườn kia vốn của quỉ thần, người đời xâm phạm, nên bị trừng phạt. Vì bị cam làm khổ rồi, nên không ai dám nếm thử các giống trái khác.
Lên đây, cữ ăn trái rừng, nhưng có một món ăn khác rất ngon, rất bổ, quỉ thần không cấm người tri vị cũng không cấm bạn dân thiên. Đó là giống Chà Khé. Chà Khé hình thù giống như cua biển và cũng lớn bằng cua biển. Thịt ngọt. Ăn sống được. Chúng nằm dưới gọp đá. Muốn ăn, chỉ có việc giở những hòn đá ở quanh suối, bắt bẻ đôi ăn với lá gian mọc đầy đường. Nếu có sợ vi trùng ẩn náu trong thịt thì nhúm lửa nướng như nướng cua. Ăn đến no, không sợ phá bụng cũng không sợ phát ách. Không cần muối. Nhưng nếu có tí muối tiêu nữa thì thật là « thơ bất tận ngôn ». Bợm rượu mà vớ được chà khé thì không « dục tiêu sầu » cũng « thả tự do ». Mùi vị thật đặc biệt, không biết lấy món gì mà ví cho ổn. Cho nên muốn hưởng hết thú vị của Suối Đá Xẻ phải đi nhiều ngày. Đến Trường Bơi ăn cá. Lên rượng mà ca rình xem voi. Đến hồ Đá Xẻ thưởng thức chà khé. Đó là những món gia vị vào cảnh thiên nhiên của non nước, làm cho du khách thêm khoái mục khoái tâm.
Còn một điểm nữa khiến cho Suối Đá Xẻ có tiếng. Đó là sự linh ứng trong việc cầu đảo. Truyền rằng những khi hạn hán, người địa phương thường đến Hồ Đá Xẻ, thiết hương áng mà cầu. Cầu xong lấy một hòn đá ném xuống hồ. Mặt hồ đương im vùng nổi sóng. Sóng động lòng hồ động luôn lòng trời in đáy nước. Cũng như ở Ba Hồ quận Vĩnh Xương, lòng trời ở Hồ Đá Xẻ động thì không kịp thời chầy thế nào cũng có mưa. Xưa bày nay làm, và làm thường có kết quả. Nên dù sống trong đời khoa học thịnh hành, người địa phương vẫn tin ở sự linh ứng của Thần Phật. Và Hồ Đá Xẻ khởi điểm của Suối Đá Xẻ nổi tiếng là linh thiêng.
G) SUỐI CÁT
Ở phía Tây Suối Đá Xẻ, nằm trong địa phận xã Ninh Hưng. Từ thôn Tân Hưng đi vô Đồng Nẩy thì đến Suối Cát. Trên bờ dưới nước toàn cát. Và cát trắng phau phau. Hết cát đến đá. Đá mọc ngổn ngang, trên bờ có dưới nước có. Hòn to hòn nhỏ, lớp ngửa lớp nghiêng, hình trạng bất nhất. Suối cát chảy dưới đồng bằng. Suối đá chảy trong rừng, và chảy dọc theo triền núi, khúc quanh khúc thẳng, khi chạy dọc khi đâm ngang. Nước chảy rất mạnh, tiếng nghe rào rào như gió tạt lá rung. Rừng sâu thăm thẳm. Cây cao rậm che khuất cả bóng mặt trời. Phần nhiều là cây gió. Chen cùng cây, đá hòn hòn lớn như đống rơm, kỳ hình dị dạng. Nhưng tuyệt nhiên không có gai.
Cứ theo suối đi lên mãi thì đến Ao Bà. Ao Bà đối với Suối Cát cũng như Hồ Đá Xẻ đối với Suối Đá Xẻ. Nguồn còn ở trên núi cao, song suối lấy Ao Bà làm khởi điểm. Ao Bà rộng chừng ba bốn sào ruộng, và sâu không biết bao nhiêu, vì chưa ai dám xuống thử. Chung quanh ao, đá nằm ngổn ngang, lớp nầy chồng lên lớp nọ, thành hố thành hang. Ao nằm dưới chân một ngọn thác cao, hai bên là núi.
Nước trên thác chảy xuống tiếng dội vào vách núi, nghe ầm ầm như sấm. Nước thác chảy xuống ao, ao tràn chảy ra suối. Tứ mùa tám tiết không lúc nào khô.
Ở ngoài đi vào, nơi sườn núi phía bên hữu ao, có một tảng đá to lớn nhô ra như một mái hiên. Dưới mái hiên, một cái hang đá ăn sâu vào núi, cao rộng có thể chứa được vài ba chục người, trông như một cái nhà đá. Nơi sườn núi phía bên tả ao, lại có một tảng đá rộng lớn và bằng phẳng như một bộ ván ngựa kê trên những gọp đá, dưới chân có nhiều hang hầm hố hốc thông thương với nhau. Bộ phản ngựa đá nầy đối diện cùng ngôi nhà đá kia, nhưng nằm dưới thấp. Còn ngôi nhà đá thì ở nơi lưng chừng. Có thể ví nhà đá là trang thờ, còn phản đá là cái kệ để đứng làm lễ. Cảnh tượng hùng vỹ hơn hồ Đá Xẻ nhiều lắm.
Hồ Đá Xẻ là một vị quan văn, khoan hoà nghiêm chỉnh. Ao Bà là một vị tướng võ mạnh bạo, nóng nảy và lúc nào cũng muốn ra oai. Cho nên đứng trước Ao Bà, lòng người có phần sờ sợ.
Ao Bà cũng như Hồ Đá Xẻ, rất linh. Những người đi tìm trầm, vào đây đều phải dâng lễ vật cầu khẩn. Người ta cầu bà Thiên Y A Na. Vì trầm hương, kỳ nam ở đất Khánh Hoà nầy đều của Bà cả. Bà cho ai nấy được. Nếu Bà không cho thì dù đứng trước cây trầm cây kỳ cũng không nghe thấy mùi hương. Truyền rằng Bà thường đến nghỉ chơi nơi ao. Do đó mới gọi là Ao Bà. Chung quanh ao đều là rừng sâu. Cây gió rất nhiều. Cây gió là giống cây sanh ra kỳ nam và trầm hương. Mà những nơi có nhiều trầm kỳ là những nơi có nhiều cọp. Truyền rằng một số cọp đó là những người ngậm ngải tìm trầm hoá thân sau khi ngải tan hết. Cho nên có nhiều con cọp trông thấy người, ứa nước mắt rồi bỏ đi. Nếu lấy ngải đốt xông thì cọp hiện hình người như cũ. Nhưng đó chỉ mới « bách văn » chớ chưa mấy ai được « nhất kiến ». Đối với Ao Bà, mặc dù phong cảnh kỳ mỹ, khách du quan ít người tới lui. Bởi vì chẳng những sợ cọp, mà còn ngại đường xa. Từ Suối Cát đến Ao Bà, phải mất ít ra cũng một ngày nếu theo bờ suối, và phải mất trọn một buổi nếu đi đường tắt băng qua rừng. Cho nên biết tường tận Ao Bà chỉ có những người thợ săn, thợ rừng và những người đi tìm trầm.
Thời Tiền Chiến, vào khoảng 1935, 1936, có một tu sĩ khất thực, người Huế, từ Suối Cát đi vào rừng, ngồi nhập định trên một tảng đá cao bên bờ suối. Khi tu sĩ vào rừng thì người địa phương trông thấy. Nhưng ai cũng tưởng tu sĩ vào ngắm cảnh rồi trở ra nên không ai lưu ý. Cách mấy tháng sau thợ rừng đi làm súc trông thấy tu sĩ ngồi chết khô trên đá. Lý hương và đồng bào thôn Tân Hưng được tin liền kéo vào rừng chiêm ngưỡng. Tu sĩ ngồi kiết già, đôi mắt nhắm, trông như một tượng gỗ. Không một mùi hôi, không một con ruồi một con kiến bu đậu. Tấm vải vàng khoác trên thân, chiếc bình bát đặt bên gối, trải nắng sương mưa gió, vẫn giữ hình sắc lúc tu sĩ bước vào rừng. Đồng bào không dám rờ tay vào thi thể tu sĩ. Mỗi người rinh một viên đá chất chung quanh thành một ngôi mộ cao rộng và kiên cố. Từ ấy đường từ Suối Cát vào Ao Bà đã ít người đi lại càng ít thêm, vì người đời sợ quỉ thần và người chết hơn sợ cọp.
Ngoài những suối kể trên, Khánh Hòa còn nhiều nơi khác nữa. Nhưng không có danh và đường đi nguy hiểm. Nên du khách đến Khánh Hòa dù yêu mến phong cảnh đến đâu cũng chỉ đến Suối Cát, Suối Đá Xẻ rồi trở vào Nha Trang để đi tìm những nơi danh thắng khác.
Phần Thứ Ba - Thắng Cảnh Cổ Tích (tt)
v. thành diên khánh và lăng bà vú
Ở Khánh Hòa thắng cảnh nhiều hơn cổ tích. Thắng cảnh chúng ta đã xem qua những nơi có thể đến xem được. Còn cổ tích thì có:
- Tháp Poh Nagar tức Tháp Bà chúng ta đã thấy rồi.
- Phế lũy Chiêm Thành ở vùng Bắc Vĩnh Xương. Thời Gia Long còn một đoạn. Niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) bị san bằng. Hiện không còn dấu tích.
- Bia Võ Cạnh, bằng đá xanh, cao lớn, khắc chữ Phạn. Theo các nhà khảo cổ thì bia nầy dựng từ thế kỷ thứ II, để định biên giới của Phù Nam và Chiêm Thành. Bia dựng dưới một gốc cổ thọ làng Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương, bị cỏ bìm phủ lấp không mấy người để ý.
Đó là di tích của Chiêm Thành. Còn của người Việt Nam thì có:
- Lục Đồn là một đồn bằng đất ở phía Đông Nam núi Trại Thủy. Chu vi 36 trượng 4 tấc, cao 7 thước 5 tấc. Không biết đắp thời nào. Sau khi Nguyễn Ánh thắng được nhà Tây Sơn, có tu bổ lại để phòng ngự mặt biển. Qua triều Minh Mạng, bị phá hủy. Hiện không còn dấu tích.
- Thành Diên Khánh ở cách thành phố Nha Trang 10 cây số về hướng Tây. Đây là một di tích lịch sử của người Việt Nam còn sót lại trên đất Khánh Hòa.
- Lăng Bà Vú ở Ninh Hòa.
A) THÀNH DIÊN KHÁNH
Thành nằm trên địa phận hai thôn Phú Mỹ và Trường Thạnh (nay là thôn Khánh Thành, xã Diên Thạnh). Chung quanh đắp đất, chu vi 336 trượng 4 thước, cao 8 thước 5 tất. Trổ 6 cửa ra vào, xây gạch kiên cố, trên có vọng lâu tứ diện thông phong. Ngoài thành có hào sâu 8 thước, rộng 4 trượng, và luôn luôn đầy nước do sông Cái tháo vào. Để vào ra, trước các cửa thành đều có xây cầu vồng bằng gạch. Chung quanh hào lại có lũy bao bọc và có trại canh gác. Cho nên thành tuy bằng đất nhưng rất kiên cố. Địch muốn công phá không phải dễ dàng.
Thành Diên Khánh do Nguyễn Phúc Ánh xây đắp năm Quí Sửu (1793) 15. Ban sơ, các cửa thành đều bằng đất, và có đến sáu cửa. Năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) lấp bớt hai cửa và xây bốn cửa gạch kiên cố. Đến thời Pháp thuộc lại lấp thêm hai cửa tiền và hậu. Hiện nay chỉ còn cửa Đông và cửa Tây. Từ đời Gia Long đến cuối thời Pháp thuộc, Thành Diên Khánh là nơi đóng cơ quan đầu não địa phương của nhà Nguyễn. Trong thành có Hành Cung của nhà vua, có dinh thự của các quan thủ hiến, có những Ty, Tào, đồn, trại. Tòa ngang dãy dọc, kèo chạm cột sơn… Quang cảnh thật trang nghiêm khang phú. Phong quang rực rỡ nhất về triều Thiệu Trị (1840-1847) Tự Đức (1847-1883).
Đến cuối triều Hàm Nghi, năm Ất Dậu (1885), nghĩa binh Cần Vương lấy thành làm cơ sở kháng chiến. Quân Pháp nã súng đại bác vào tàn phá hết một số dinh thự 16. Sau khi chiếm trọn được lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp liền phá hủy vòng lũy và lấp cạn vòng hào ở quanh thành, lại triệt hạ cửa tiền và cửa hậu. Từ ấy cảnh hào hoa mỗi ngày mỗi giảm sút.
Mùa xuân năm Ất Dậu (9-3-1945) Nhật đảo chánh Pháp. Quyền cai trị giao cho Triều Đình Huế. Cơ quan tỉnh Khánh Hòa bỏ thành Diên Khánh, dời xuống Nha Trang. Cơ quan hành chánh phủ Diên Khánh dời vào thành. Lúc bấy giờ dinh thự đã hư quá nửa vì lâu đời. Quang cảnh thật tiều tụy.
Sang thời chiến tranh Việt Pháp, những công thự trong thành hoàn toàn bị phá hủy. Hiện nay dấu xưa còn lại chỉ có nhà lao xây đá ở gần cửa Đông! Còn vòng thành bằng đất, trên 80 năm trời mưa nắng, không được bồi đắp, nên trụt thấp lần lần. Lại thêm bìm lau xâm lấn, trông không còn vẻ hùng tráng của ngày xưa. Tuy vậy, đối với những người háo cổ, một viên gạch xưa còn sót lại vẫn là vật đáng giá vàng châu. Cho nên đã không đủ sức gìn giữ thành Diên Khánh cho trọn vẹn như xưa, tưởng không nên nhẫn tâm phá hủy như thành Quảng Nam, Bình Định. Truyền rằng từ ngày giặc Pháp đánh thành Diên Khánh, ngoài một số chiến sĩ ra, lương dân trong thành nhiều người bị thiệt mạng. Oan hồn không tiêu, hóa thành ma quái. Những đêm thanh gió mát, người ta thường trông thấy bóng ma đi thơ thẩn chung quanh dinh trại và hành cung. Có lắm người bị vương vẩy, phải cung kính mới nạn khỏi tai qua. Hay quấy quá nhất là ba nữ quái, tục gọi là Ba Cô. Ba Cô, cô nào cũng trẻ cũng đẹp. Nhiều khi hiện hình cả lúc ban ngày và nói cười như người sống. Những chàng trai trẻ không biết, có điều bất kính, thường bị bắt đau ốm có khi đến điên cuồng. Quan Tỉnh lo sợ lập một am nhỏ ở trước dinh thờ phụng. Từ ấy bớt tác quái và ai cầu gì cũng linh thiêng. Am ấy gọi là Am Cô. Thời Pháp thuộc, tất cả các quan đầu tỉnh đều tỏ lòng cung kính. Khói hương không mấy lúc tàn.
Dưới triều Thành Thái (1889-1907) một viên thừa phái trẻ tuổi, có tiếng là háo sắc, đổi vào làm Ty Niết Khánh Hòa. Thầy thừa ăn cơm tháng nhà bạn và mướn nhà ở riêng một mình. Một đêm ngồi một mình, thấy có bóng người qua qua lại lại ở trước ngõ, dáng như chờ đợi cuộc hẹn hò. Thầy bước ra xem thì thấy một người con gái có nhan sắc. Buông lời trêu ghẹo. Người con gái nhoẻn miệng cười. Lại gần cầm tay. Không chút kháng cự. Thích quá kéo vào nhà bày chuyện mây mưa. Sáng hôm sau không thấy thầy thừa đến Ty, quan cho người đến gọi. Trước sau vắng vẻ. Xô cửa vào phòng, thấy thầy thừa cùng một mụ ăn mày rách rưới bẩn thỉu ôm nhau nằm ngủ ngon lành. Đánh thức dậy, thầy thừa hoảng hốt, mụ ăn mày cũng hoảng hốt, bỏ chạy như người điên. Sau khi đã bình tĩnh trở lại rồi, thầy thừa mới thú thật mọi nỗi. Ai nấy đều cho là bị ma mà mắc, trông gạch nát hóa vàng mười! Và ai cũng đoán chắc rằng là Ba Cô trừng trị để thầy chừa thói trăng hoa. 17
Dưới triều Duy Tân (1907-1916) lại xảy ra một chuyện nữa, cũng như chuyện trên, khó tin rằng có, khó ngờ rằng không! Thời bấy giờ cụ Đào phan Duân, đậu phó bảng, người Bình Định, ngồi Tuần Vũ. Nhân ngày Quốc Khánh mồng 2 tháng 5 (Gia Long phục quốc), cụ rước bạn hát Bình Định vào hát mừng. Các kép nổi danh trong tỉnh đều có mặt. Cầm đầu toàn ban là Bát Phàn, Cửu Khi và Chánh ca Đựng.
Ngày mồng 2, sau khi bái mạng ở Hành Cung rồi, thì khởi sự hát cho đến xế. Buổi chiều bạn hát nghỉ để dưỡng sức hát buổi tối. Đèn vừa đỏ, trong dinh tuần vũ, các quan cùng thân hào nhân sĩ lo vào tiệc để rồi đi xem hát cho sớm. Ngoài rạp, đào kép đã vẽ mặt bận áo xong xuôi, ngồi đợi các quan ra khai mạc.
Bát Phàn, Chánh ca Đựng và Cửu Khi đương ngồi uống nước dưới trang Tổ, chợt thấy ba người thiếu nữ ăn mặc theo kiểu thành thị và toàn đồ trắng, má phấn môi son, đầu trần, tóc bỏ xõa, vẹt màn bước vào, tươi cười nói: « Lũ bay ra làm tuồng cho chị em ta coi. Khi sáng mắc đi vắng không được thưởng thức tài nghệ Bình Định ».
Mọi người đều tưởng là người trong dinh. Bát Phàn đáp: « Chúng tôi không được lệnh. Nếu quí cô muốn xem sớm thì vào xin phép cụ ».
- Lũ bay vào xin đi.
- Chúng tôi không dám.
- Chị em ta cũng không dám.
Nói rồi biến mất. Chừng ấy mới biết là ma.
Thấy trước dinh tuần vũ có am thờ, anh em nghệ sĩ hỏi ra mới hay ma đó là Ba Cô thờ trong am. Ai nấy đều thất kinh! Câu chuyện không mấy chốc truyền khắp tỉnh Khánh Hòa rồi truyền ra đến Bình Định. Lúc cụ Đào phan Duân làm Tuần Vũ Khánh Hòa thì ông Nguyễn Đình Văn làm Án sát. Quan án đàn rất hay. Một đêm quan đốt trầm, một mình ngồi gảy đàn, thì bỗng nghe tiếng họa từ trong vách đưa ra. Âm thanh tuyệt diệu. Quan ngờ rằng Ba Cô ngoài am trêu cợt, nên bình tâm chính ý ngồi gảy cho hết khúc đàn.
Khúc đàn dứt, một người đàn bà diễm lệ xô cửa bước vào. Quan án giật mình! Người đàn bà cười, nói: « Thiếp không phải một trong Ba Cô thờ nơi am, mà là người có lương duyên cùng quan án ».
Nói đoạn, ung dung đến ngồi nơi kỷ và tiếp: « Thiếp là ma, nhưng không có tà ý. Cảm phục ngón đàn của quan lớn nên không nề u hiển, đến xin đươc kết duyên sắc cầm ».
Người đẹp như hoa, giọng nói trong như ngọc. Trong đêm thanh vắng, không mấy ai có thể làm Liễu hạ Huệ hay Nhan thúc Tử, mặc dù biết đó là ma. Cho nên quan án Nguyễn Đình Văn đã cùng người đẹp vầy cuộc ái ân, nơi văn phòng tĩnh mịch. Đêm nầy sang đêm khác, « đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm ». Nhưng người ngoài và cả vợ con trong nhà không một ai hay biết.
Một hôm quan án, sau buổi làm việc, đến chơi dinh Tuần Vũ. Cụ Đào cầm ở lại ăn cơm tối rồi đánh tổ tôm cho vui. Ông Nguyễn từ chối. Cụ Đào có ý bất bình. Ông Nguyễn phải đem chuyện kín của mình ra thú thật, và nói: « Ban ngày đi đâu thời đi, làm gì thời làm. Nhưng từ lúc lặn mặt trời cho đến gà gáy sáng thì phải dành trọn cho nàng. Có việc thì phải báo trước. Nếu không tất bị nhiều chuyện cực lòng ».
Cụ Đào tin lời, không nỡ ép. Sau đó ông Nguyễn được thăng Phủ doãn Thừa Thiên. Người đàn bà ma cũng theo về Huế. Không bao lâu quan Phủ doãn thất lộc. Không biết tại số hay tại ma. 18
Cuộc đời trải nhiều dâu bể. Những chuyện xưa hoang đường cũng như thực hữu, đã cùng cung đình dinh trại trong thành Diên Khánh, theo mây khói tan vào cõi hư vô. Hiện nay cơ quan hành chánh quận đóng trong thành. Cảnh vật đã thay đổi mới. Những người qua lại hằng ngày cũng như những người đến thăm chơi chốc lát, không mấy ai đi sâu vào những nơi lấp cỏ mờ rêu, để bâng khuâng chút lòng cảm cựu. Gần đây Cổ bàn Nhân đến viếng thành, có mấy vần cảm tác:
Thành cũ đìu hiu vách nắng mưa,
Phong quang một mảnh bể dâu thừa.
Cờ lau phất gió cung rồng lấp,
Búa nguyệt mài sương ngục thép lưa!
Theo mới bụi lầm xe ngựa mới,
Tìm xưa tro lạnh miếu am xưa!
Bên hào sen lụn chân dừng bước,
Tiếng địch chiều thu trận cúc đưa.
B) LĂNG BÀ VÚ
Lăng ở thôn Mỹ Hiệp, cách quận lỵ Ninh Hòa chừng một cây số.
Kiểu thức rập theo các lăng vua ở Huế. Tuy không nguy nga tráng lệ bằng lăng vua, nhưng ở miền Nam Trung Việt không thấy ngôi mộ nào có thể sánh về qui mô cũng như về kiến trúc.
Lăng nằm dưới chân một ngọn đồi, mặt hướng về Đông Nam. Hình chữ nhật. Có ba lớp thành:
- Thành ngoại, chiều ngang chừng 12 thước, chiều vô ra chừng 20 thước, chiều cao chừng một thước năm. Ở mặt trước có chừa cửa. Hai bên cửa có hai trụ ba biểu đội hai con kỳ lân ngồi đối diện. Phía trong cửa một bức bình phong cao rộng đứng chắn ngang. Lưng thành cao hơn mặt thành và xây hình cánh cung.
- Qua khỏi bình phong đến lớp thành thứ nhì. Cao chừng một thước. Cửa thành núp sau bình phong, và hai bên cũng có hai con kỳ lân ngồi đối diện.
- Vào khỏi cửa đến lớp thành thứ ba ôm lấy phần mộ. Thành thấp. Phía trước có nhà bia khắc bài ký ghi công đức của người dưới mộ.
Trên mặt tường phía trong lăng đắp nhiều hình ảnh nhiều tranh cảnh, nét đắp tinh xảo, như lưỡng long triều nguyệt, ngư tiều canh mục, Trúc Lâm thất hiền…
Lăng nầy của vua xây. Truyền rằng 19: Nguyễn phúc Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh. Chạy đến Mỹ Hiệp thì trời vừa tối. Bộ hạ vừa mệt vừa đói, Nguyễn Ánh lại thụ bệnh, không thể đi được nữa. Tình cảnh thật nguy khốn. Một người đàn bà trong thôn thấy vậy, đem về nhà cho ăn uống và lo thuốc thang. Nhờ đó mà thoát nạn.
Đến khi lên ngôi cửu ngũ, Nguyễn Ánh nhớ công ơn, muốn đền đáp, thì người ơn đã qua đời. Không rõ tên họ là gì nhà vua bèn phong hiệu là Nhũ Mẫu tức Bà Vú và truyền bộ Công đưa thợ vào xây dựng lăng. Nhà vua lại cấp cho một sở ruộng giao cho làng sở tại làm ruộng hương hỏa.
Mỗi năm đến ngày kỵ của bà, là ngày 12 tháng chạp âm lịch, quan tỉnh Khánh Hòa phải ra đứng chủ tế.
Lệ ấy từ ngày Pháp đô hộ Việt Nam, không còn thi hành nghiêm chỉnh. Và đến ngày toàn dân đứng lên chống Pháp, thì bỏ hẳn.
Ngày nay hương khói đã lạnh lùng mà phần mộ của bà cũng bị bìm lau lấp kín. Đường đi đến lăng lại bị phá hoại. Khách du quan muốn đến viếng không thể nào đi đến nơi!
Về Cổ Mộ Khánh Hòa còn nhiều như:
- Ngôi mộ ở sau trường Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương.
- Ngôi mộ ở trước chùa Kim Liên tại ấp Đông Dinh quận Diên Khánh.
- v.v…
Nhưng kiểu thức không có gì đặc biệt.
Ngôi mộ ở Võ Cạnh truyền là của một vị tướng bị tử trận, đầu bay từ nơi chiến trường về đến làng quê. Nhưng hỏi họ tên và thời đại, người địa phương ở gần mộ đều cười « thông qua ».
Còn ngôi mộ trước chùa Kim Liên của ai cũng không ai biết. Nơi bia chỉ khắc « Tổ khảo chi mộ » và hai bên khắc câu đối:
Thiên sanh tàng bạch cốt,
Vạn cổ giám trung trinh.
Nghĩa là:
Nghìn đời chôn cốt trắng,
Muôn thuở rạng lòng trung.
Mộ quay đầu ra Bắc, chân trở vào Nam. Lấy hòn Dữ ở Diên Khánh làm hậu đầu và hòn Đồng Bò ở phần đất Diên Khánh làm tiền án. Theo cách phân hướng và tinh thần câu đối, thì người trong mồ là người có quyền vị của thời trước chớ không phải người bạch đinh. Nhân nói về Lăng Bà Vú, cũng có nói qua cho vui vậy.
VI. NHỮNG NƠI THỜ PHỤNG
Coi như thắng cảnh cổ tích những nơi thờ phụng, như đền miếu, chùa chiền, xây cất đã trên trăm năm, hoặc dưới trăm năm mà có những dấu tích cũ, sự tích xưa đáng lưu truyền, hay có những phong cảnh đẹp, kiến trúc lạ đáng thưởng ngoạn.
Về phương diện tôn giáo không đề cập ở chương nầy. Nếu có nói qua, cũng chỉ để tô điểm cho cảnh vật mà thôi. Điều cốt yếu là đưa ra những cái xưa, cái lạ, cái đẹp, cái thú trong những cảnh vật hoặc đã mất hình nhưng còn bóng, hoặc đương còn hình tướng nhưng cái còn đó chỉ là hậu thân…
A) ĐỀN MIẾU
Tỉnh Khánh Hòa, cũng như các tỉnh khác ở Trung Việt, thời xưa đều có đắp những đàn để tế Trời Đất, tế Núi Sông, tế Quỉ Thần, như:
- Đàn Xã Tắc ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh. Đó là đàn tế Trời Đất, dựng năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Đàn lộ thiên. Hai tầng đắp bằng đất. Tầng dưới vuông 10 trượng 4 thước 5 tấc, cao 1 thước 3 tấc. Tầng trên vuông 4 trượng 2 thước 3 tấc, cao 2 thước 5 tấc. Mặt xây về hướng Bắc. Đàn Xã Tắc ở các tỉnh là hình ảnh thâu nhỏ của đàn Xã Tắc ở Kinh Đô Huế. Quan đầu tỉnh thay mặt nhà vua đứng tế.
- Đàn Tiên Nông ở ngoài cửa Đông thành Diên Khánh. Đàn tế Thần Nông. Xây năm Minh Mạng thứ 13, sau khi xây xong đàn Xã Tắc. Đàn cũng bằng đất, một tầng. Vuông 3 trượng 6 thước, cao 2 thước 7 tấc.
- Đàn Sơn Xuyên ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh.
- Đàn tế Sông Núi. Xây năm Tự Đức thứ 5 (1852). Một tầng. Cũng bằng đất, cao rộng tương tự đàn Tiên Nông.
Những đàn nầy đã đổ nát từ ngày phong kiến nhường bước cho thực dân và hiện nay đã bị cào bằng thành bình địa không còn mảy may dấu tích!
Đó là những nơi tế tự dành riêng cho giai cấp cai trị địa phương. Chung cho mọi tầng lớp nhân dân là các đền các miếu. Những đền miếu quan trọng, tên được ghi vào sử sách, thân còn vững với nắng mưa, hiện nay không còn được mấy:
- Ở Diên Khánh có: Miếu Thái Tử, Đền Thiên Y A Na, Miếu Văn Thánh, Miếu Thành Hoàng, Miếu Hội Đồng.
- Ở Vĩnh Xương có: Miếu Sinh Trung, Đền Quá Quan.
- Ở Vạn Ninh có: Đền Mã Cảnh, Đền An Lương.
Còn một số ít nữa, tên tuy không thấy trong sách vở, nhưng danh được miệng thế truyền đi xa, như: Miếu cây Dầu Đôi, Cây Me ở Diên Khánh, Miếu Lỗ Lườn ở Ninh Hòa, v.v…
Những đền miếu nầy, qui mô không được rộng lớn, kiến trúc không có gì kỳ mỹ, cách trang trí cũng không lấy gì làm sang trọng xứng đáng với những vị thờ trong miếu trong đền. Lại thêm không được săn sóc thường xuyên, nên quang cảnh nhiều nơi hết sức tiêu điều ảm đạm. Người vãng cảnh nếu không nặng lòng cảm cựu thì không mấy ai có thể đứng lâu.
1) MIẾU THÁI TỬ
Ở tại Xuân Đài, thôn Phước Lương, xã Diên Phước. Miếu đứng dưới chân Hòn Ngang, cuối Đồng Lớn. Bên cạnh có một bụi tre sum sê và trước mặt một con mương gọi là Mương Hai chạy quanh co từ thôn Đảnh Thạnh vào Đồng Lớn. Miếu là một tiểu đình, mái ngói cột săn, tứ diện thông phong, đứng che một tảng đá vuông vức, mỗi chiều trên một sải, nằm giữa một đám đá lởm chởm. Trong miếu không có bàn thờ. Từ khí từ vật là một bàn cờ bằng đá có đủ bộ con cờ cũng bằng đá, một đôi giày đá và một bộ cối chày đá. Truyền rằng tảng đá vuông kia là tượng của Thái Tử. Hỏi Thái Tử là ai thì người địa phương đáp rằng là con vua Tần. Vua Tần tức là Vua Chàm. Tên nhà vua là gì không ai biết. Hỏi vì sao lại lấy tảng đá làm tượng, cũng không ai biết vì sao. Chỉ xưa thờ sao nay thờ vậy.
Miếu đã trùng tu nhiều lớp. Truyền rằng rất linh thiêng. Trong vùng, mỗi lần có người gặp chuyện oan ức nan giải, thường đem nhau đến miếu thề thốt. Thề xong cầm chày đá giã vào cối, vừa giã vừa lặp lại lời thề. Nhiều khi rất linh ứng. Vì vậy nhân dân địa phương rất kính sợ, không ai dám xâm phạm và ít người dám đến gần.
2) ĐỀN THIÊN Y A NA
Thường gọi là Am Bà, ở trên hòn Qua Sơn tức Núi Chùa, Trong thôn Đại Điền Trung, quận Diên Khánh 20. Truyền rằng bà Thiên Y Na giáng trần tại đây, và hiển thánh tại núi Cù Lao. Cho nên ở Cù Lao có tháp ở đây có đền. Đền lập đã lâu đời và đã trùng tu nhiều lớp. Trong đền có thần tượng bằng mít. Thời kháng chiến chống Pháp tượng bị hư, nhân dân địa phương tạc lại một tượng bằng thạch cao, thay thế. Ngôi đền không mấy đẹp. Nhưng phong cảnh chung quanh thật thanh kỳ. Phía sau, núi cao đá dựng, cây cối vướng víu cùng khói mây. Trước mặt, đồng lúa xanh bát ngát, và nhà cửa ẩn hiện trong vườn chuối bờ tre. Sau núi có hang cọp. Truyền rằng xưa kia có một con cọp mun ẩn náu. Cọp tu nên rất hiền, không bao giờ phạm sát. Trước đền có hai cây mã tiền, tức cây cổ chi sống lâu đời, cội cao tàn cả. Dưới gốc cây có mộ ông Tiều bà Tiều là cha mẹ nuôi của bà Thiên Y. 21
Thời thái bình, đền Thiên Y rất được du khách chú ý. Các tay phong nhã cũng thường đem nhau đến ngâm vịnh. Ai nấy đều khen là cảnh nên mộng nên thơ và đều say với cảnh:
Hương trầm thoảng vị gió đưa,
Mây trương cánh hạc nghìn xưa chập chờn.
3) VĂN MIẾU
Thờ đức Khổng Tử và tứ phối. Ở thôn Phú Lộc, quận Diên Khánh. Xây cất năm Gia Long thứ hai (1803). Trước kia ở phía trên nổng gò tục gọi Hòn Tháp 22. Sau bị lụt xói sông Cái lở vào tận chân miếu, nên phải dời miếu xuống hướng Đông. Đó là vào năm Tự Đức thứ hai (1849).
Trước kia văn miếu cũng không rộng lớn lắm. Đến đời Pháp thuộc, nhất là sau khi chữ Hán cáo chung, việc tu bổ lơ là dần dần. Rồi đến thời kháng chiến chống Pháp thì bị sập đổ nhiều nơi. Hiện nay miếu chỉ còn là một ngôi nhà ngói ba gian hai chái, trung trung, và cũ kỹ.
Bên cạnh miếu, dưới gốc một cây cổ thọ, có một bàn thờ xây gạch. Đó là bàn thờ Chúa Sơn lâm, tức là Cọp. Mỗi lần tế miếu, đều đem một tợ thịt heo ba sườn ra đặt nơi bàn thờ. Truyền rằng: Lúc miếu còn ở phía Tây, cũng như khi miếu đã dời sang Đông, hễ tế xong thì cọp đến tha thịt đi. Lúc đến cũng như lúc đi, cọp tỏ vẻ hiền lành như một con gia súc. Lại có lắm đêm cọp về nằm ngủ nơi bàn thờ. Ngủ đã giấc rồi đi chớ không bao giờ làm hại đến người hoặc súc vật. Từ ngày bỏ cúng tế theo cổ tục, cọp không về nữa.
Khi xưa lựa thôn Phú Lộc để lập Văn Miếu, một là vì thôn ở bên nầy sông, đối diện cùng tỉnh thành ở bên kia sông, cách mà không xa, việc đi lại tiện lợi. Hai là vì thôn Phú Lộc là một thôn trù phú và có nhiều nhân vật có uy danh. Trong thôn, gần Văn Miếu, có Trường Văn và Trường Võ. Cạnh trường võ có lò đúc súng, gọi là lò Gang. Ở xóm Đông lại có lò làm giấy. Nhờ vậy mà thời phong kiến thịnh vượng, thôn Phú Lộc nổi danh nhất Diên Khánh. Và con sông Cái được mang tên Phú Lộc vào sử sách, mặc dù sông chảy qua nhiều thôn. Cũng nằm trong thôn Phú Lộc, miếu Hội Đồng và miếu Thành Hoàng.
4) MIẾU THÀNH HOÀNG
Miếu cất trên ngọn đồi Sơn Lâm, ở phía Đông Bắc văn miếu. Dựng năm Thiệu Trị thứ năm (1845). Sơn Lâm là một ngọn đồi bằng đá đứng giữa đồng bằng. Hình tròn đỉnh nhọn. Cây cối sầm uất. Bên đồi có một ao nước rộng chừng một sào. Bóng núi ngã vào ao trông như ngòi bút lông chấm vào nghiên mực. Do đó người địa phương gọi đồi là hòn bút, gọi ao là dĩa nghiên. Tức là Bút Sơn và Nghiên Trì. Khi quan Tỉnh chọn ngọn đồi để cất miếu Thành Hoàng, các nhân mỹ trong thôn không bằng lòng, song phép quan không dám cãi. Đỉnh núi bị phá bằng. Cây cối bị đốn trụi để lấy gỗ làm miếu. Hòn Sơn Lâm không còn giữ được quang cảnh thâm u của nghìn xưa. Truyền rằng: Trước khi Hòn Sơn Lâm chưa bị xâm phạm thì trong thôn có nhiều người học hành phát đạt. Nhưng từ khi « ngọn bút bị tà » thì việc học lần lần bị sút kém và văn phong văn khí không còn thịnh vượng như xưa.
5) MIẾU HỘI ĐỒNG
Nằm phía Nam miếu Thành Hoàng. Cất năm Gia Long thứ mười lăm (1816) bằng tranh. Trùng tu năm Tự Đức thứ hai (1849) lợp ngói. Ở Bình Định cũng có miếu Hội Đồng ở An Nhơn. Nhưng ở Bình Định thờ khác, Khánh Hòa thờ khác. Bình Định thờ Tam Giáo Đạo Sư:
- Ở giữa thờ Phật với tượng Tam Thế.
- Phía Tả thờ Tiên với tượng Tam Thanh.
- Phía Hữu thờ Thánh với tượng Tam Tòa. 23
Còn ở Khánh Hòa lại thờ Thần: Dương Thần và Âm thần. Có sáu bài vị:
- Hội Đồng Thượng đẳng Dương Thần.
- Hội Đồng Trung đẳng Dương Thần.
- Hội Đồng Hạ đẳng Dương Thần.
- Hội Đồng Thượng đẳng Âm Thần.
- Hội Đồng Trung đẳng Âm Thần.
- Hội Đồng Hạ đẳng Âm Thần.
Miếu ở Bình Định đã bị thời gian làm đổ nát rồi tay người hủy hoại từ lâu. Còn miếu ở Khánh Hòa gần đây đã biến thành trường. Trước miếu hiện còn cây cổ chi tức cây Mã tiền, sống lâu đời, thân cao tàn cả. Những gì của ngày xưa còn lại chỉ tìm thấy nơi gốc cổ thọ nầy.
6) TAM TÒA
Miếu ở phía Đông Miếu Hội Đồng. Không biết cất thời nào vì Đại Nam Nhất Thống Chí không thấy chép. Có lẽ do địa phương đứng cất nên không được sử sách ghi tên. Ở Bình Định cũng có đền Tam Tòa, gọi là Tam Tòa Sơn Thần Từ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì đền nầy do người Chiêm Thành lập ra để tỏ lòng nhớ ơn Oai Minh Vương con thứ tám vua Lý Thánh Tông, vì đã có công giúp vua Chiêm dẹp yên loạn trong nước. Sau vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành đến cửa Thi Nại, lên đền cầu đảo và phong làm « Tam Tòa Sơn chi thần ». Đền ở trên núi Phương Mai, tại biển Qui Nhơn. Nhưng theo lời các bậc phụ lão địa phương thì đền Tam Tòa Phương Mai do người Việt Nam lập để thờ chư vị thánh mẫu:
- Trên hết thờ: Đệ Nhất Thiên Thai, Đệ Nhị Thiên Đế, Đệ Tam Thiên Vị.
- Rồi đến: Tây Cung Vương Mẫu.
- Tiếp theo: Thập Nhị Tiên Nương, tục gọi 12 bà mụ, Lục thập Bổn Mạng Tiên Bà.
Đó là chỉ nghe truyền, chớ hiện thời đền không còn mảy may dấu tích, nên không biết sách chép đúng hay lời trong thế gian đúng. 24
Còn Tam Tòa ở Khánh Hòa thì gồm có ba ngôi:
- Ngôi chính thờ bà Thiên Y A Na với mười bản sắc của vua nhà Nguyễn phong tặng.
- Ngôi bên tả thờ thần Bạch Mã.
- Ngôi bên hữu thờ thần Ngũ Hành.
Và theo lời các vị phụ lão địa phương thì đền gọi là Tam Tòa bởi vì đền gồm có ba ngôi vậy. Đền không lấy gì làm đồ sộ nguy nga, song trang nghiêm thanh tịnh. Du khách bước chân vào đền tự nhiên cảm thấy bầu không khí linh thiêng huyền bí vây bọc chung quanh. Dù kẻ khinh bạc đến đâu cũng không dám hỗn xược phá phách. Nhờ vậy nên trải nhiều cơn dâu bể, đền vẫn không bị hư hại bởi tay người.
7) MIẾU CÂY DẦU ĐÔI
Miếu ở ấp Phật tỉnh, thôn Phú Ân Nam, cạnh Quốc Lộ số 1 về phía Nam. Miếu thờ thần « Quan Đại Thánh ». Vì nằm dưới bóng cây dầu đôi, nên người đời lấy tên cây mà gọi miếu.
Cây Dầu Đôi là một « cổ tích » của Khánh Hòa. Cây sống trên trăm năm. Một gốc hai thân. Mỗi thân lớn đến ba ôm và cao cũng đến mười lăm hai mươi thước, đứng song song như hai trụ kinh thiên, trông thật hiên ngang ngạo nghễ. Cây Dầu Đôi chẳng những làm tên cho miếu mà còn làm tên cho cả vùng. Người ở các nơi bảo đến Phật Tỉnh thì có lắm người không biết là nơi nào chớ nói đến cây Dầu Đôi thì không một ai không biết. Người địa phương rất quí trọng Cây Dầu Đôi. Quí trọng vì tuổi tác vì lợi ích. Chẳng những quí trọng mà còn kính sợ e dè. Đó là vì cây đứng cạnh miếu, mà miếu lại có tiếng rất linh.
Truyền rằng: Thời Pháp thuộc, có một lúc cả vùng Cây Dầu Đôi bị bệnh dịch hạch, người chết khá nhiều. Thần đạp đồng lên cho biết rằng có ba con quái thử to lớn đã đem tai nạn đến gieo rắc trong vùng. Chúng ẩn trong hang dưới bụi duối sau miếu. Thần ban cho ba đạo phù, bảo đem đốt ở nơi miệng hang, rồi đào miệng hang cho rộng, lấy vôi bột đổ vào. Chung quanh hang lại bao lưới. Nếu quái vật chết trong hang thì thôi, bằng chạy ra ngoài thì lấy vôi vãi lên mình và lấy gậy đứng xa mà đánh. Người trong thôn làm theo và giết chết được ba con chuột cống lớn tày bắp vế. Lại theo lời thần dạy, những nhà có người chết đều rải vôi, và người sống phải tránh xa trong một thời gian. Nhờ vậy mà nạn dịch dứt. Người trong thôn trước kia đã tin thần linh, từ ấy lại càng tin thêm. Sau rồi mới biết ba con chuột kia vốn của Viện Pasteur nuôi để làm thí nghiệm về thuốc trị dịch hạch. Ba con chuột bị sẩy. Nhân viên ở viện chỉ tìm quanh quẩn trong vùng Nha Trang, không ngờ chúng chạy lên đến Diên Khánh.
Ngoài chuyện trừ bệnh dịch hạch rất khoa học, người địa phương mỗi lần có việc đến cầu đảo, Thần đều ứng vào mộng hoặc vào đồng vào cơ. Nhưng lần lần lòng người tin khoa học hơn tin thần thánh, miếu Cây Dầu Đôi cũng lần lần bớt linh thiêng. Tuy vậy người địa phương đối với miến với thần vẫn còn kính sợ, và hương khói vẫn còn đượm nồng.
8) MIẾU CÂY ME
Miếu thuộc địa phận thôn Phú Ân Nam, cách miếu Cây Dầu Đôi chừng vài trăm thước, bên cạnh đường Quốc Lộ số 1. Thờ Phấn Nhĩ Quỉ Vương Thần Nữ, nhưng vì nằm dưới gốc cây me cổ thọ nên gọi là Miếu Cây Me.
Cây Me nầy sống đã lâu đời lắm, lâu đời hơn Cây Dầu Đôi rất nhiều. Gốc to đến mấy ôm và ruột bộng. Tán rộng, nhánh gân guốc khẳng khiu. Đây cũng là một món « đồ cổ » quí giá. Miếu tựa cây me, cây me tựa miếu. Cây me nhờ miếu mà thiên hạ sợ không dám xúc phạm. Miếu nhờ cây me mà tiếng hay khắp Bắc Nam. Nói miếu cây me thì ai cũng biết, chớ nói miếu thờ Bà Phấn Nhĩ Quỉ Vương thì không mấy người biết.
Miếu Cây Me linh có tiếng. Đi ngang qua, kẻ ngồi xe ngựa, phải xuống xe ngựa, kẻ đi bộ phải lấy nón cúi đầu. Truyền rằng: « Tả Quân Lê Văn Duyệt đi ngang qua miếu, cờ biển võng lọng nghênh ngang ». Quân bẩm: « Miếu linh thiêng, cúi xin ngài xuống võng ». Tả Quân bảo cứ đi. Hai tên khiêng võng không dám cãi lệnh. Vừa tới ngang miếu thì bụng tự nhiên đau nhói ngã quỵ, tay phải thả võng để ôm bụng… Tả Quân bị té xuống đất. Đứng dậy phủi áo, cười: « Tôi đi có việc gấp. Chị làm rắc rối làm chi thế, chị Phấn? » Hai người khiêng võng liền hết đau bụng. Tả Quân lên võng đi. Câu chuyện lan truyền, thiên hạ sợ càng thêm sợ.
Lại truyền rằng: Khi Khánh Hòa đã có xe kéo lên xuống Thành Diên Khánh và Nha Trang thì có nhiều chuyện kỳ quái xảy ra. Những anh phu xe đi gần đến miếu thì cắm đầu cắm cổ chạy chớ không dám ngó quanh. Một hôm một chiếc xe từ Thành về Nha Trang. Trên xe không người. Nhưng sau khi qua khỏi miếu, chậm bước ngoảnh lại thì thấy một mỹ nhân ngồi trên xe! Một hôm trời vừa chạng vạng, một chiếc xe kéo một thanh niên từ Nha Trang lên Thành. Khi gần đến miếu thì có một thiếu nữ xinh xắn xin cho đèo. Anh phu xe ham tiền, chàng thanh niên ham sắc, đều bằng lòng. Đi dọc đường, chàng thanh niên không giữ lễ. Khi đến gần tới thành thì thiếu nữ biến mất, còn thanh niên thì bị hộc máu chết tươi. Anh phu xe hết hồn đau liệt giường hàng tháng, v.v… Do đó hễ trời sắp tối thì không mấy ai dám đi ngang qua miếu. Rủi lỡ đường, mà thấy bóng đàn bà con gái thì lo chạy tránh. Miếu hiện còn, nhưng bớt linh.
9) ĐỀN SINH TRUNG
Đền dựng trên núi Hà Ra, cạnh đầm Xương Huân về phía Tây Bắc, trong thành phố Nha Trang. Dựng năm Đinh Mão (1807) triều Gia Long. Trùng tu năm Tự Đức thứ năm (1852). Đền thờ 350 công thần của nhà Nguyễn đã bị tử trận hay bị mệnh vong vì bệnh trong lúc tranh hùng cùng nhà Tây Sơn. Phần đông là những người mất tại Khánh Hòa. Tên trước kia Tinh Trung sao đổi là Sinh Trung. Tuy là đền thờ công thần, nhưng qui mô không được rộng lớn. Cách thờ phượng ngó cũng sơ sài, đối với đền miếu của đồng bào bình dân thật không hơn không kém. Nhưng phong cảnh rất mỹ quan 25. Cạnh đền có cây cao. Trước đền có sân rộng.
Dưới chân núi, đầm Xương Huân láng lai và ăn thông ra sông Hà Ra, một nhánh của sông Nha Trang chảy ra biển. Bên kia đầm, khu Xương Huân và Xóm Cồn, nhà tôn chen nhà ngói. Và ngoài xa, ngó thẳng ra Bắc, núi nối liền núi, ngó xiêng xiêng xuống Đông, biển nối liền trời. Màu ngói sắc cây, bóng mây hơi nước… lớp ẩn lớp hiện, nơi tỏ nơi mờ. Xa cũng như gần, một ngó đều thâu trọn vào mắt.
Ba mặt Đông, Nam, Tây, thành phố Nha Trang mở rộng tận chân non, mặt biển. Cửa nhà chen chúc, đường rộn rịp xe chạy người đi. Những bồn hoa xinh xinh, những hàng cây rậm rậm. Đứng trên nhìn xuống, khách giàu tưởng tượng không khỏi ngỡ rằng mình đương ngắm cảnh Hàng Chân tả trong vần thơ cổ: « Sơn ngoại thanh sơn lầu ngoại lầu », mà Trường Xuyên phỏng dịch:
Xanh dờn non tiếp liền non,
Ngoài lầu hoa lại những còn lầu hoa.
Cảnh đã đẹp lại ở gần thành phố, cho nên khách phong lưu thường đến thưởng ngoạn. Xúc cảnh sanh tình, người làng thơ thường lưu lại được nhiều giai tác. Được nhiều người thuộc, có hai bài chữ Hán của cụ cử Nguyễn Tạo và của nhà Nho Trần Khắc Thành:
« DU SANH TRUNG TỪ NGẪU TÁC »
I.
Nhàn lai huề hữu thưởng xuân dương,
Lộ đáo Sinh Trung miễn lực cường.
Oanh chuyển hoa khai cung thẳng khái,
Sơn triều thủy nhiễu nhập bình chương.
Lâu đài ngoại vọng văn minh hóa,
Tướng sĩ trung lưu tánh tự hương.
Từ diện thanh quang đô khả ái,
Danh lam thiên tạo xuất tầm thường.
(Tr.K.Thành)
II.
Mích thắng xuân du khách tứ đồng,
Lưỡng tương huề thủ thượng Sanh Trung.
Hiến đồ nhập hoa giang san sắc,
Sùng tự trường minh tướng sĩ công.
Tiếp ngạn lâu đài ba diệm giã,
Cách thông gia liễu ấm thanh thông.
Danh đô huống thị phùng giai tiết,
Vô hạn di tình thưởng thức trung.
(Nguyễn Tạo)
Gần đây có mấy ông bạn yêu văn chương ở Bình Định và Quảng Ngãi vào Khánh Hòa, đến viếng đền Sinh Trung. Nhân cao hứng diễn hai bài thơ trên ra quốc ngữ:
DỊCH BÀI CỦA TRẦN TIÊN SINH
I.
Mình dạo tìm xuân với bạn mình,
Sinh Trung lần bước bước thinh thinh.
Oanh ca hoa nở câu nhàn hứng,
Nước điền non tô nét phẩm binh.
Hương khói ngạt ngào danh tướng sĩ,
Lâu đài thấp thoáng bóng văn minh.
Vời trông bốn bức phong quang trải,
Cao vút danh lam cảnh hữu tình.
(Nguyễn Hoài Văn)
II.
Tầm phương mình với bạn mình,
Sinh Trung thẳng bước thỏa tình đăng cao.
Oanh hoa giúp hứng thêm hào,
Non xanh nước biếc hiện vào bình chương.
Văn minh giợn bóng phố phường,
Danh thơm tướng sĩ mùi hương đượm đà.
Tranh treo bốn bức yên hà,
Xa vời thế tục một tòa danh lam.
(Trần Thúc Lâm)
DỊCH BÀI CỦA NGUYỄN TIÊN SINH
I.
Tìm xuân bước khách nhẹ thinh thinh,
Viếng cảnh Sinh Trung bạn với mình.
Màu sắc nước non in nét họa,
Công lao tướng sĩ tạc đền linh.
Lâu đài tiếp biển hoa lồng thắm,
Dừa liễu kề thôn bóng rợp xanh.
Trong chốn danh đô vầy thắng cảnh,
Cảnh thêm giai tiết xiết bao tình.
(Hồ Thăng)
II.
Vui xuân khách cũng đồng vui,
Sinh Trung dìu bạn lên chơi với mình.
Non sông vẽ bức tranh tình,
Hồn hương tướng sĩ đền linh ngạt ngào.
Biến lồng hoa thắm lầu cao,
Cách thôn dừa liễu dạt dào sóng xanh.
Danh lam ẩn bóng thị thành,
Gặp tuần giai tiết thỏa tình lãng du.
(Nguyễn Đình Mẫn)
10) ĐỀN QUÁ QUAN
Trong sách vở thì chép là Quá Quan từ. Nhưng người địa phương gọi là Miếu. Trong số từ miếu còn sót lại đến thời Pháp thuộc, đền Quá Quan là ngôi đền cổ nhất. Đền lập từ thời Hậu Lê, hoặc trong niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740), hoặc trong niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786). Đền ở thôn Xuân Phong, quận Vĩnh Xương. Cất dưới chân ngọn đồi tục gọi là Núi Đá Lố hay Hòn Lố. Kiểu thức cổ kính: Ba gian hai chái, mái ngói tường gạch, cây gỗ toàn danh mộc.
Phong cảnh kỳ tú. Hòn Đá Lố, tuy nhỏ thấp, nhưng hình thù cổ quái. Đá mọc ngổn ngang và chồng chất lên nhau, gồ ghề hốc hỉu. Nhiều cây cổ thọ, hoặc gầy guộc khúc khuỷu, hoặc bóng cả thân cao, chen chúc trong đá, xấp xới quanh đền. Sắc đá màu cây trộn lẫn cùng màu vôi sắc ngói, được thời gian « châm chước » thành một bức tranh màu sắc dịu dàng nhịp nhàng. Sau lưng núi Đá Lố là núi Mặt Quỉ. Gọi như thế là vì sườn núi đá mọc lởm chởm. Nhiều hòn kỳ hình dị dạng. Đứng xa trông vào thấy mắt miệng tai mũi, chỗ đen chỗ xám chỗ trắng chỗ xanh… chỗ lõm chỗ lồi, u nầng nham nhở, giống như mặt quỷ Dạ Xoa. Sau núi Mặt Quỉ, núi non trùng điệp. Đền ngó vào Nam. Trước mặt có bàu sen rộng lớn nằm trên cánh đồng ruộng mênh mông. Xa xa hàng tre xanh trên bờ sông Cái, chạy từ Tây xuống Đông đoanh lộn quanh co như một con thanh long uốn khúc. Phía Tây hòn núi Chúa ở Đại Điền Trung nhìn xuống. Phía Đông, biển Nha Trang và vùng núi Cù Lao với mấy ngọn cổ tháp nhìn lên. Nhìn khắp bốn bên, mắt rộng lòng cũng rộng.
Đền thờ Bà Thiên Y A Na. Trước kia xuân thu nhị kỳ, các quan Tỉnh phải sang dâng lễ. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép rằng khi xưa cống sứ nước Chân Lạp đi ngang qua đền, có vào bái yết. Đó là một sự kiện lịch sử đáng ghi. Nhưng tiếc rằng không biết việc xảy ra vào thời đại nào. Tuy vậy cũng có thể đoán rằng sau khi chúa Nguyễn đã làm chủ lãnh thổ của nước Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp. Thời bấy giờ con đường thiên lý chạy từ Nam chí Bắc, đến Khánh Hòa, phải đi ngang qua đền Quá Quan. Nếu từ trong đi ra thì đến thành Diên Khánh không xuống Nha Trang theo con đường Quốc Lộ số 1 hiện thời, mà qua sông Cái sang Phú Lộc, ra Đại Điền Đông, Phú Cấp, Xuân phong… Nếu ở ngoài đi vô thì đến Lương Sơn, không qua đèo Rù Rỳ để vào Nha Trang như hiện thời, mà lại quay lên hướng Tây Nam, qua đèo Tam Đảnh ở Đắc Lộc, đi xiêng xiêng vào Xuân Phong… Con đường Thiên Lý ngày xưa chạy ngang qua trước đền Quá Quan để vào thành Diên Khánh. Đó là con đường Liên Hương số 1 của tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Biết rõ đường đi thì việc cống sứ vào bái yết đền Quá Quan không lấy gì làm lạ.
Nhưng sách Đại Nam nói rằng: « Nhân việc cống sứ vào bái yết mà gọi tên đền là Quá Quan » thì chưa lấy làm ổn. Theo lời các vị phụ lão địa phương thì bà Thiên Y A Na, từ Núi Chúa xuống tháp Cù Lao, hoặc từ tháp lên núi, đều đi ngang qua đền. Những lúc Bà đi thì một luồng hào quang sắc xanh, lớn như một cây lụa trải, bay giữa lừng trời. Đến đền thì hạ xuống giây lâu rồi mới bay tiếp. Đền coi như một cửa quan Bà qua lại, nên mệnh danh là Quá Quan. Có lẽ đúng như thế.
Đền đã bị súng đại bác của quân Pháp phá hủy năm Bính Tuất (1946) thời kháng chiến. Cây cối trước kia bị phá một phần, ngày nay phá một phần nữa. Nhưng đá vẫn còn lỳ gan với nắng mưa. Hiện nay tên « Quá Quan » trở thành một địa danh. Người phương xa qua lại, không ngờ trước kia có đền.
11) ĐỀN AN LƯƠNG
Ở thôn An Lương, quận Vạn Ninh. Lập thời nào không rõ. Đây là một đền cũ nhất trong tỉnh Khánh Hòa. Các bậc phụ lão đoán chừng đồng thời cùng đền Quá Quan, vào khoảng Lê Cảnh Hưng. Đền thờ Bà Thiên Y A Na, thần Bạch Mã, thần Thủy Hoàng và Thành Hoàng.
12) ĐỀN MÃ CẢNH
Ở tại đèo Cổ Mã cạnh đường Quốc Lộ số 1 26. Thờ thần Chúa Vàng và Chúa Sắt 27. Xây cất đời nào không rõ. Đã cũ và hư sập nhiều nơi. Nhưng hành khách ra vào đều tỏ lòng sợ sệt, mặc dù không biết rõ Chúa Sắt Chúa Vàng là vị thần nào, của ta hay của Chàm, và đã làm gì có lợi ích cho nhân dân mà được thờ phụng. Phong cảnh nơi đền, trên non dưới biển, trông rất hữu tình. Song phần thì sợ Chúa thờ trong miếu, phần thì sợ Chúa ngoài sơn lâm, cho nên không mấy ai dám dừng chân thưởng ngoạn. Tuy vậy vẫn có thơ đề:
Chúa Vàng Chúa Sắt là ai?
Một tòa cổ miếu trong ngoài quạnh hiu!
Chim rừng chiu chít tiếng kêu,
Biển khơi hờ hững nước triều xuống lên.
Đường đời rộn bước đua chen,
Đèo cao vực thẳm ghe phen hãi hùng.
Gan vàng dạ sắt ai nung?
Nước non gánh nợ ai cùng chung lo?
Hương lòng dẫu tắt còn tro,
Mong sao vàng sắt giữ cho vững bền.
13) MIẾU LỖ LƯỜN
Miếu ở tại Hòn Đỏ ngoài vịnh Vân Phong, thuộc hải phận Ninh Hòa. Miếu đã lâu đời do các ngư phủ làm lưới đăng thiết lập để thờ một vị nữ thần trên đảo. Danh hiệu nữ thần là gì không ai biết. Bên miếu có một hang đá. Trong hang, vách có chỗ nổi lên hõm vào trông phảng phất như cơ quan sanh sản của phái nữ. Người địa phương gọi trại là Lỗ Lườn. Hang do đó mà mệnh danh.
Miếu vốn không tên riêng, nên cũng mượn tên hang mà gọi. Truyền rằng: Thần miếu Lỗ Lườn rất linh. Đến mùa làm cá, các ngư phủ phải sắm lễ vật ra đảo cúng tế. Nếu không thì chẳng những đánh không được cá mà còn gặp phải tai nạn gớm ghê. Thần ăn thịt sống. Xưa kia tế vật là một đồng nam hay một đồng nữ. Các chủ lưới đăng phải thay phiên nhau mà cung cấp. Người ta thường mua trẻ em của đồng bào Thượng về tế thần. Sau lệ tế người bị cấm và thay bằng lễ tam sinh. Bò heo dê làm thịt sạch sẽ nhưng để sống và nguyên con. Tế xong, người ra về hết. Phẩm vật để y tại chỗ. Sáng hôm sau đến xem thì chỉ còn thấy những xương.
Việc cúng tế hiện nay vẫn còn. Nhưng không còn tế người hoặc tam sinh như trước, mà dùng đồ nấu nướng như mọi nơi. Lễ vật tuy thay đổi, song có một nghi tiết từ xưa đến nay phải thi hành nghiêm chỉnh là: Cúng tế nơi miếu xong, vị chủ tế phải đến hang, trịnh trọng cầm khúc chày gỗ để sẵn thọc vào Lỗ Lườn ba lần, rồi mới lễ tất. Tục nầy của người Chiêm Thành truyền lại.
Người Chiêm Thành có một bộ lạc thờ thần Lingam (Dương vật) và thần Yoni (Âm vật). Tượng Thần hiện còn thấy đôi nơi. Tại Musée Chàm Đà Nẵng hiện còn hai tượng lớn. Lỗ Lườn tức là Yoni Việt Nam hóa vậy. Lỗ Lườn còn gọi là Lỗ Đĩ Dàng. Dàng là tên một vị thần của Chàm. Một số người Thượng cũng dùng tiếng Dàng để gọi thần linh. Nhưng không hiểu tại sao gọi là Đĩ. Ở Vạn Ninh, tại thôn Vinh Huề có một cái bàu gọi là Lỗ Đĩ. Bàu nằm trong một cánh rừng, hình bầu dục, rộng chừng năm sào ta, sâu lút một cây sào chân vịt. Cá, trạnh, ba ba, rùa… rất nhiều và rất lớn. Tiếng Đĩ ở bàu này và tiếng Đĩ ở miếu Lỗ Lườn có lẽ đồng nghĩa. Nhưng cổ nhân thủ nghĩa như sao, chưa một ai giải thích được thỏa đáng.
Cách đặt tên miếu và nghi thức hành lễ ở Lỗ Lườn là ngoại lệ. Toàn tỉnh Khánh Hòa, trong đất liền cũng như ngoài biển khơi, không còn nơi thứ hai vậy. 28
Đền Miếu ở Khánh Hòa cũng như ở các tỉnh khác ở Trung Việt, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ trên lãnh thổ Việt Nam, đều lần lần bị triệt hạ hoặc bỏ hoang phế. Đến thời chiến tranh, những ngôi còn sót, lại bị tàn phá một lần nữa. Nên hay không còn được mấy. Và những di tích không được bảo tồn nầy, bị nắng mưa phũ phàng, e không thể tồn tại được lâu lắm.
Những đền miếu cổ, phần vật chất ngó không giá trị bao lăm, nhưng mặt tinh thần tưởng rất quan trọng. Bởi trước hết là của ông cha để lại, lẽ nào con cháu nỡ xem thường xem khinh. Sau nữa, những kiến trúc nầy không bị ảnh hưởng văn minh Âu Mỹ. Nhìn vào, các nhà khảo cổ có thể tìm được ít nhiều dân tộc tính Việt Nam Cho nên việc bảo tồn không phải không cần thiết vậy.
B) CHÙA CHIỀN
Khánh Hòa hiện nay có lẽ là tỉnh nhiều chùa chiền hơn tất cả các tình Miền Nam Trung Việt. Tất cả lớn nhỏ, cũ mới, cộng trên vài trăm ngôi, trên núi có, dưới đồng bằng có, nơi thôn quê có, nơi thị thành có. Nhưng không có ngôi chùa nào đồ sộ nguy nga. Nếu dồn nhân lực tài lực lại mà dựng một ngôi chùa vĩ đại trên một dãy núi cao để cho mọi người chiêm ngưỡng thì công hoằng pháp tưởng còn cao bội phần, vì lòng của phật tử tập trung vào một nơi và cảnh trang nghiêm hùng tráng ngày ngày trông thấy dễ dẫn dắt lòng hồi hướng của thế nhân.
Riêng nói về cổ tự Khánh Hòa cũng không thua Bình Định, Phú Yên, là nơi Phật giáo truyền bá trước. Và các Tổ khai sơn các ngôi chùa có danh ở các tỉnh, hầu hết là người Trung Hoa, như chùa Thập Tháp, chùa Linh Phong… ở Bình Định chẳng hạn. Ở Khánh Hòa, các Tổ khai sơn đều là người Việt Nam, người trong tỉnh có người ngoài tỉnh có. Đó là một đặc điểm của Khánh Hòa. Trừ Cam Lâm và Khánh Dương là hai quận mới, quận nào trong tỉnh cũng có ít ra là một ngôi chùa cổ. Như thế chứng tỏ việc tu hành của người Khánh Hòa, ngày xưa thạnh vượng biết bao! Ở Vạn Ninh, ngôi chùa cổ nhất là:
1) LINH SƠN TỰ
Chùa nằm tại thôn Hiền Lương. Thủy tổ khai cơ là Hòa Thượng Đại Bửu, Pháp hiệu là Kim Cang Đại lão Tổ sư. Ngài quán Quảng Nam băng ngàn vào Hiền Lương hoằng pháp. Năm Cảnh Hưng thứ 22, tức năm 1761 Dương Lịch mới lập chùa đúc chuông, gây cơ sở vững chắc. 29
Ban sơ chùa gọi là Sa Long Tự. Triều Tự Đức, năm thứ 21 (1867) chùa bị thất hỏa. Sau khi xây cất lại, cải tên là Linh Sơn Tự. Từ bấy đến nay, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến thức cổ phác, và hoàn toàn Việt Nam. Mái ngói tường gạch. Chánh điện ba gian, Phía đông phía tây có tăng phòng, tịnh thất. Cách thờ phụng đơn giản nhưng trang nghiêm, đại khái cũng như các chùa cổ ở Trung Việt. Vườn chùa rộng rãi và có nhiều cây cối tươi mát. Phía trước có tường vôi và cửa Tam quan cổ kính. Trước mặt chùa là đồng lúa bát ngát, có hồ sen sâu rộng, có sông Hiền Lương quanh co. Và xa xa núi cao chập chờn. Phong cảnh quang đãng nhưng thanh tịnh. Trong vườn chùa có hai cây cổ thụ: một cây xoài, một cây kén. Cây Xoài ở trước chùa, cạnh ngõ bước vô. Thuộc giống xoài mủ, sống trên trăm năm. Thân cao vút và nhánh mọc tua tủa như những cánh tay gân guốc giơ lên trời. Sắc lá xanh láng, màu da cây lại trăng trắng mông mốc. Đứng xa trong như một cây lọng trương nửa chừng. Vừa kỳ vừa cổ! Cây Kén đứng phía sau chùa. Thân cao vút và tuổi chắc là từ 300 trở lên. Chính ngài Đại Bửu ngồi tu nơi gốc cây kén nầy trước khi chùa thành lập.
Vùng Hiền Lương trước kia là một cánh rừng rậm, có nhiều dã thú. Lúc ngài Đại Bửu đến tu thì cây kén đã là một cây đại thọ. Khi phá rừng dựng chùa, các đệ tử giữ cây kén lại làm kỷ niệm. Truyền rằng: Khi Hòa thượng ngồi tu dưới gốc cây, thì một con hổ đến sanh nở bên cạnh một cách tự nhiên. Hòa thượng cũng ngồi tu một cách tự nhiên. Không có gì là lạ.
Bác sỹ Yersin, khi đi tìm Dalat, gặp một con rắn hổ mang cất cổ toan làm dữ. Bác sỹ đứng yên. Hồi lâu rắn bỏ chạy. Người ta ngờ rằng Bác sỹ có thuật thôi miên. Nhưng Bác sỹ cho biết: « Thú dữ cắn người, trước hết là để tự vệ. Nhưng chúng đều có tánh linh và rất nhạy cảm. Một khi chúng đã thông cảm rằng mình không có ác tâm, không có ý làm hại chúng, thì chúng có cần hại mình làm chi ».
Trường hợp của ngài Đại Bửu cũng thế. Từ thiện căn lực của ngài tỏa ra khi thiền định, khiến cho con hổ yên tâm lo nhiệm vụ của mình. Các vị chân tu sống bình yên trên núi cao đều nhờ sức mạnh của đức từ bi, chớ không phải nhờ thần thông chế ngự được thú dữ. Nhưng người đời không rõ, tưởng ngài Đại Bửu có phép lạ, nên đến xin qui y mỗi ngày một đông.
Quả hồng chung trong chùa cũng là một vật duy trì đức tin của bổn đạo. Nguyên thời nhà Nguyễn gia Miêu cùng nhà Tây Sơn tranh hùng, các chuông chùa đều bị tịch thu để đúc súng đạn. Đem chuông ra đúc súng đạn thật chẳng khác bắt các vị tu hành tòng chinh. Để cho chuông khỏi « phạm giới sát sanh », nhiều chùa ở Khánh Hòa đem dấu nơi vực sâu hố thẳm. Nhưng đến khi yên giặc giã, thì phần nhiều không tìm lại được, bởi lớp bị kẻ gian phi lấy trộm, lớp bị nước lụt trôi.
Quả hồng chung chùa Linh Sơn tìm lại được do một sự tình cờ đượm vẻ huyền bí: Một bà lão đi mò ốc phát kiến tại của sông Hiền Lương. Sợ quá liền tri hô. Cửa sông Hiền Lương vốn nằm giữa thôn Hiền Lương và Tân Đức. Biết hồng chung là vật xưa quí giá, làng Hiền Lương và làng Tân Đức tranh nhau để chiếm hữu. Việc phải đưa đến cửa quan. Quan xử: « Làng nào có chùa, chuông về làng ấy ».
Hiền Lương có chùa Linh Sơn, Tân Đức không có chùa, nên Hiền Lương được kiện. Làng khiêng chuông về đem cúng cho chùa Linh Sơn.
Việc dấu chuông của chùa Linh Sơn, nhiều vị phụ lão thường nghe nói đến. Lại thêm nơi thành hồng chung có ghi rõ năm tháng chú tạo: « Cảnh Hưng nhị thập nhị niên, Tân Tị, bát nguyệt » đúng vào năm Tổ Đại Bửu khai sơn. Nên ai nấy đều mừng « châu về Hợp Phố ». Quả chuông tìm lại được đó là quả chuông thuộc hạng « tiểu hồng chung ». Chùa còn một đại hồng chung không biết vùi lấp nơi đâu hay đã hóa kiếp. Những đêm trời trong gió lặng, người quanh vùng thỉnh thoảng nghe tiếng chuông ngân nơi hồ sen trước chùa. Nhiều người tin chắc rằng quả đại hồng chung còn ẩn náu trong hồ, và sẽ trở về với chùa một ngày nào đó.
Chùa Linh Sơn có tiếng là linh thiêng. Việc quả hồng chung trở về chùa làm cho các tín đồ thêm vững lòng mộ đạo. Lại còn một sự kiện nữa xảy ra thời Tiền Chiến, khiến nhiều người kém đức tín cũng phải tin rằng chùa linh thiêng thật sự. Lúc bấy giờ Nhật đóng khắp lãnh thổ Việt Nam. Tàu bay Mỹ ngày nào cũng đến oanh tạc. Khánh Hòa cũng không thoát khỏi nạn bom rơi. Năm 1944, một quả bom hạng nặng rơi ngay trên nóc chùa. Nhưng không nổ mà cũng không lăn xuống đất. Ai cũng lấy làm lạ. Vì quả bom nầy nếu nổ thì chùa bị tan tành. Không nổ thì sức nặng cũng đủ chọc thủng nóc chùa hoặc lăn theo mái chùa để xuống đất bằng cho hợp lý. Cớ chi lại nằm chình ình trên nóc mà tứ bề không có vật gì cản ngăn? Người Nhật nghe tin bom nằm trên nóc chùa thì đến lấy mang đi, chớ không có một lời giải thích. Các ông già bà cả bảo rằng: « Các vị thần giữ chùa làm cho quả bom tắt ngòi. Rồi để cho người đời tin sự linh thiêng, các ngài đem đặt bom trên nóc chùa và giữ không cho rơi xuống đất ».
Người đã tin thêm tin. Người không tin không biết sao mà cãi 30. Chùa Linh Sơn là tổ đình của hầu hết các chùa quận Vạn Ninh. Cổ nhất quận Ninh Hòa là:
2) THIÊN BỬU TỰ
Chùa ở thôn Mỹ Hiệp. Tổ khai sơn là ngài Tế Hiển, pháp hiệu Bửu Dương. Chùa dựng thời Lê Cảnh Hưng. Nhưng không rõ năm nào. Chùa mới sửa lại. Vì nằm trong vùng ngay dưới chân đường hỏa xa và chung quanh có nhiều nhà cửa chen chúc, quang cảnh chùa không được khoản khoát bằng chùa Linh Sơn. Tuy vậy kiểu thức của chùa vẫn giữ được bản sắc cổ truyền và không khí trong chùa vẫn đượm đà mùi Đạo.
Đây là Tổ đình của hầu hết các chùa trong quận, và là nơi đã đào tạo được nhiều danh sư, như ngài Đại Phước kế truyền ngài Tế Hiển, ngài Đạo Phước kế truyền ngài Đại Phước. Đến đời thứ tư, ngài Liễu Bửu pháp hiệu Huệ Thân, được vua Minh Mạng vời ra Kinh đô dự « Thủy lục Đạo tràng » siêu độ trận vong quan binh, tổ chức vào tiết Trung Nguyên năm Minh Mạng thứ 16 (1835) và rồi được sắc tứ giới đạo và độ điệp. Hiện chùa còn giữ.
Ngoài tổ đình Thiên Bửu Tự, Ninh Hòa còn hai ngôi chùa cổ nữa cũng lập vào thời Lê Cảnh Hưng. Đó là: Phổ Hòa Tự, Thanh Lương Tự.
3) PHỔ HÒA TỰ
Chùa ở thôn Bình Thành xã Ninh Bình. Ngài Tế Đường, pháp hiệu Châu Cấp là Tổ khai sơn. Ngày thành lập không được rõ. Vì chùa Phổ Hòa cũng như hầu hết các chùa cổ trong tỉnh đều mất tự phổ vì loạn lạc. Nhưng vì Tổ khai sơn cùng chữ Tế như ngài Bửu Dương chùa Thiên Bửu, nên có thể biết đại khái rằng chùa Phổ Hòa cũng lập thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786).
4) THANH LƯƠNG TỰ
Chùa ở thôn Nhĩ Sự xã Ninh Thân. Tổ khai sơn là vị nào không rõ. Chùa có một quả đại hồng chung rất xưa, trên thành có khắc ngày tháng chú tạo là mồng 8 tháng 4, tức ngày Phật Đản, năm Cảnh Hưng thứ 8 tức năm 1747 Dương lịch. Lại có khắc cả tên hòa thượng chứng minh chú tạo là ngài Tế Hiển chùa Thiên Bửu.
Để tránh nạn dùng chuông đúc súng, chùa Thanh Lương cũng như phần nhiều chùa trong tỉnh, đem quả đại hồng chung dấu nơi Bàu Bơi (Ninh Thân) ; nhưng rồi tìm không thấy. Sau người làng Đại Cát, Đại Tập, Nhĩ Sự đến câu nơi bàu, thình lình thấy chuông tự nhiên nổi lên rồi chìm xuống. Lặn xem thử thì thấy úp sấp trên cát. Xúm nhau kéo lên, kéo hết hơi sức, vẫn không chút di chuyển. Sau làng Nhĩ Sự thiết hương án cầu nguyện, thì chuông tự nhiên nhẹ bổng, khiêng về chùa một cách dễ dàng.
Chính nhờ quả đại hồng chung mà các vị trụ trì đương thời mới biết được các vị tổ khai sơn chùa Thiên Bửu, chùa Phổ Hòa, chùa Thanh Lương sống thời Hậu Lê, và các chùa tạo lập đời Cảnh Hưng vậy.
Sang đời nhà Nguyễn, Ninh Hòa còn tạo lập thêm nhiều ngôi chùa khác, như: Chùa Thiên Đức, Chùa Thiên Phước. Là hai chùa có danh vì các vị tổ khai sơn là những ngài có đại đức.
5) THIÊN ĐỨC TỰ
Chùa cất trên ngọn đồi thôn Bình Tây, xã Ninh Hải, khu vực Hòn Khói. Cất năm Minh Mạng nguyên niên (1820). Tổ khai sơn là Hòa Thượng Liễu Đức, Pháp hiệu Huệ Giáo. Người đương thời gọi Ngài là Hòa Thượng Đò. Gọi như vậy là vì trong vùng có một bến đò, qua lại phải chờ đợi rất bất tiện. Hòa Thượng bèn ra công bắc cầu. Không biết lấy gì đền ơn cho xứng đáng, người địa phương ghi công đức trên bia miệng bằng mấy chữ bình dân: Hòa Thượng Đò. Nghe thì nôm na mà ý nghĩa sâu sắc:
- Bắc cầu để giúp người đời qua khỏi dòng nước khó qua là tượng trưng cho việc lấy Phật pháp để đưa chúng sinh ra khỏi biển khổ.
- Hòa Thượng Đò là vị Hòa thượng đã hiến thân làm chiếc thuyền từ để tế độ chúng sinh.
Thật là một lời nói nhuần đạo vị.
Cầu ở dưới chân đồi. Trên đồi còn một công tác khác nữa của Hòa Thượng. Vùng Bình Tây vì gần biển gần ruộng muối nên nước giếng măn mẳn khó uống. Hòa Thượng bèn nạy đá đào giếng. Giếng sâu thăm thẳm và nước ngọt như nước cam tuyền. Cả vùng đều đến múc uống. Và để tỏ lòng tri ân, gọi giếng là Giếng Thảo. Tiếng « Thảo » đối với người bình dân có ý nghĩa tương đương với chữ « từ bi » đối với giới Phật học. Vì tìm nước ngọt để thay nước mặn là một cách làm cho người hết khổ và đem vui lại cho người.
Cầu tượng trưng công tế độ của Hòa Thượng. Giếng biểu thị lòng từ bi của Hòa Thượng. Đạo hạnh của Hòa Thượng rất cao. Chẳng những người đời ngưỡng mộ mà cả đến thú vật cũng quy y. Truyền rằng: Ngọn đồi Bình Tây xưa kia có nhiều cây cối. Trong rừng có đôi cọp mun thường xuống đồng bằng phá khuấy lương dân. Nhưng từ ngày có Hòa Thượng đến tu trì thì đôi cọp lần lần trở nên hiền hậu.
Muốn sớm về Tịnh Độ, Hòa Thượng thiết hỏa đàn trà tì 31. Nhưng khi Ngài bước lên đàn thì một đôi cọp mun nhảy đến cõng Ngài ra khỏi lửa. Biết rằng pháp duyên chưa viên mãn, Hòa Thượng phải tiếp tục hoằng pháp độ sinh tu hành cho đến ngày viên tịch. Thọ mạng 90 tuổi. Nhục thể mai táng tại đồi chùa. Gần đây các môn đồ cải táng về chùa Thiên Bửu. Ngọc cốt còn nguyên vẹn và trắng như ngà sanh. Các tín đồ đều tin rằng Hòa Thượng đã thành chánh quả 32. Và chùa Thiên Đức được liệt vào hàng danh lam.
6) THIÊN PHƯỚC TỰ
Chùa ở thôn Phú Nghĩa, xã Ninh Đông. Xây cất năm Tự Đức nguyên niên (1847). Tổ khai sơn là ngài Đạt Chánh, Pháp hiệu Từ Nghiêm. Nổi danh là uy nghiêm và thanh tịnh. Các ngôi chùa lớn ở Diên Khánh phần nhiều đều do đệ tử của Ngài tạo lập. Cho nên chùa Thiên Phước được tôn xưng là Tổ Đình. Sau Thiên Đức và Thiên Phước, Ninh Hòa còn hai ngôi cổ tự nữa cũng rất có danh. Đó là: Thiền Sơn tự và Bảo Long tự.
7) THIÊN SƠN TỰ
Ở dưới chân Hòn Độc Sơn tục gọi là Hòn Một thuộc xã Ninh Hưng. Trên Hòn Một, gần Chùa, có một hang to lớn hình như một bàn chân dậm sâu xuống đá. Người ta bảo đó là dấu chân ông Khổng Lồ. Nơi hang luôn luôn có nước. Đó là một điều lạ. Vì chung quanh toàn đá và không có suối khe. Hang không lấy làm sâu, nhưng trâu bò đến uống, người đến múc uống, uống mấy thời uống, vẫn không bao giờ khô. Người địa phương gọi là Giếng Khổng Lồ.
Giếng gần chùa, nên chùa khỏi đào giếng. Trước Chùa lại có một trảng mây rộng đến năm sáu chục mẫu ta. Mây nhiều mà lầy cũng nhiều, nên tục gọi trảng là Lỗ Mây. Và do đó người địa phương thường gọi chùa Thiền Sơn là Chùa Lỗ Mây. Chùa lập vào khoảng Hàm Nghi Thành Thái (1884-1907). Tổ khai sơn húy Trừng Nghệ, hiệu Nhơn Sơn. Tuy lập chùa, nhưng Hòa Thượng giao cho đệ tử coi giữ, thường thường vân du nơi thâm sơn cùng cốc. Vài ba tháng mới về chùa một lần. Có khi về ngồi ngoài tam quan rồi lại ra đi nữa. Tung tích không thể dò.
Việc ăn uống của Hòa thượng rất giản dị. Một nắm cơm khô, một nắm gạo rang… hoặc một nắm lá cây, bất kỳ lá cây gì, cũng đủ nuôi sống. Cho nên khi vân du, không cần đến lương thực.
Hòa Thượng có mẹ già và hai bà chị đều tu tại Thiền Sơn. Khi bà cụ mất, Ngài ra ngồi bên mả đúng 24 tháng tròn. Ngồi trần trần giữa trời, không kể ngày đêm, không kể mưa nắng. Hàng ngày chỉ ăn gạo rang và lá cây. Thân người gầy như cây sậy và đen như mực. Đạo hữu có người chê trách rằng không phải cách báo hiếu của giới tu hành. Hòa Thượng vẫn thản nhiên ngồi thiền định. Mãn tang bà cụ, Hòa Thượng trở lên núi. Ngót mấy năm trời không về. Một hôm hai bà chị có linh cảm rằng Hòa Thượng sắp tịch, liền băng núi đi tìm. Sau bao nhiêu gian lao, tìm được thi thể tại núi Chí Tôn, ngồi kiết già trên tảng đá cao dưới gốc cổ thọ, khô cứng như một gốc cây khô. Một bà ngồi lại giữ thi thể. Một bà trở về chùa báo tin.
Từ núi Chí Tôn đến chùa Thiền Sơn phải đi mất bảy ngày đường. Gặp nhiều núi non khe suối và nhiều cọp beo, voi gấu… Nếu không có một sức mạnh tinh thần vững chắc, thì không dám xông pha. Khi đưa Hòa Thượng về chùa làm lễ theo thủ tục cửa thiền xong thì hỏa táng. Và một ngôi tháp chứa xá lợi xây tại chùa 33. Chùa này đã bị hủy, nhưng tháp đương còn, và thanh danh của vị tổ khai sơn chùa Thiền Sơn vẫn còn mãi mãi.
8) BẢO LONG TỰ
Chùa ở thôn Thuận Mỹ xã Ninh Quang. Lập vào khoảng Đồng Khánh Thành Thái (1886-1907). Trong chùa có 11 pho tượng Phật bằng đồng đen rất cổ. Pho tượng Phật Tổ cao lớn bằng hình người. Đường nét tinh xảo. Truyền rằng tượng Phật xưa kia của chùa làng Phụng Cang (xã Ninh Hưng hiện tại). Một năm lụt lớn cuốn cả chùa cả tượng đi mất, không biết đâu mà tìm. Ở trong vùng có con suối sâu và rộng tục gọi Suối Bàu Sấu. Suối ở giữa Thuận Mỹ và Phụng Cang. Sau khi chùa Phụng Cang bị lụt trôi, nơi suối Bàu Sấu thường xảy ra nhiều hiện tượng kỳ dị:
Những đêm rằm mồng một, người quanh vùng thường nghe tiếng chuông tiếng mõ từ đáy bàu vọng lên. Và thỉnh thoảng, vào lúc chạng vạng những buổi chiều tạnh mát, trên mặt nước nổi lên một chiếc chiếu hoa có bốn ông già đầu râu bạc phếu ngồi nói chuyện, tiếng nói nghe văng vẳng tận ngoài xa. Đồng bào kính sợ không dám tới lui nơi bàu.
Bốn năm mươi năm sau, làng Thuận Mỹ vớt được tượng Phật nơi bàu, bèn lập chùa thờ phụng. Trong chùa có một quả đại hồng chung cũng rất cổ. Quả chuông này cũng như các tượng Phật, là « của Trời cho ». Truyền rằng sau khi chùa Bảo Long cất xong, người trong làng thường nghe tiếng chuông nơi suối Bàu Sấu. Làng thuê người lặn xuống xem, thì thấy quả hồng chung treo lơ lửng trên một rễ cây từ bờ suối đâm ra. Làng bèn cưa rễ cây, lấy chuông đem về chùa.
Suối Bàu Sấu ngày xưa có cá sấu ở. Cá sấu đi rồi quỉ thần lại nổi lên mặt nước. Kế đến làng Thuận Mỹ được tượng Phật được chuông. Nên suối trở thành một nơi linh thiêng. Người địa phương không dám xâm phạm. Cách đây chừng bốn năm mươi năm lại xảy ra một câu chuyện hy kỳ nữa:
Ở Phụng Cang có người đàn bà tục gọi là « Bà Xã Mập ». Một hôm bà thấy một con trâu cò râm vào ruộng phá lúa. Bà nổi giận chạy ra nắm đuôi trâu đánh. Trâu liền kéo bà nhảy xuống suối Bàu Sấu, mất tăm. Người nhà thuê người lặn tìm khắp nơi mà không hề thấy dấu vết. Tưởng bà chết rồi, người nhà lo để tang. Nhưng bốn hôm sau bà trở về, dung mạo trông xinh tươi hơn trước. Người trong nhà, người ngoài làng, mừng rỡ, xúm nhau hỏi thăm. Bà đáp: « Chuyện cõi âm không được phép nói cùng người cõi dương, nếu còn muốn sống ».
Rồi thời gian qua và bà xã sống yên ổn. Chuyện trâu cò tưởng đã nhạt hẳn trong trí nhớ người thế gian. Chẳng dè một hôm, ông xã lại thăng thỉ bà xã kể cho mình nghe chuyện xuống thủy phủ của bà. Bà xã vui vẻ nói: « Vậy thì ông phải dọn một bữa tiệc mời bà con đến đây để chung vui trước khi tôi tạ thế ».
Ông xã ngỡ rằng bà nói chơi. Nhưng vì tánh tò mò thúc giục, ông cũng làm gà vịt, mời người thân.
Trong tiệc, bà xã kể rằng: « Khi trâu cò bỏ chạy, tôi muốn thả đuôi trâu, nhưng tay tôi lại dính cứng không buông ra được. Trâu nhảy xuống nước, tôi thất kinh, nhắm mắt chờ chết… Đến khi mở mắt thì thấy mình đứng trước một cảnh lâu đài nguy nga lộng lẫy. Nhìn quanh không thấy trâu đâu cả. Lòng hết sức lo sợ, không biết phải tới lui thế nào! Đừng sá rộng rãi mát mẻ, nhưng không thấy một người để hỏi thăm! Chợt hiện lên hai người đàn ông ăn mặc theo kiểu lính thị vệ. Tôi sợ quá toan bỏ chạy. Nhưng bị họ nắm tay kéo vào trong lâu đài. Tôi chưa từng thấy nơi nào rộng lớn và đẹp đẽ bằng. Tôi không thể nào nói cho hết được những vẻ giàu sang! Thềm đá cẩm thạch, vách đá bạch khuê, cột son son, kèo chạm nổi. Vàng châu ngà ngọc, chiếu sáng cả đó đây ».
Hai người lính dắt tôi qua khỏi tiền đình, rồi qua một sân rộng đầy hoa thơm cỏ lạ. Sau cùng đến một cung điện hào quang chói cả mắt, khí lạnh ớn cả người. Bên trong một vị vương giả đội thiên miện, mặc long bào, râu dài, mặt sáng, ngồi trên một chiếc ngai vàng rực rỡ…
Nói mới tới đó thì bà xã ngã đùng ra tắt thở! Không biết câu chuyện kết cục như thế nào! Và ông xã ăn năn rằng mình vô tình đã giết vợ. Nhưng việc đã lỡ đành ghi câu huyền thoại lại cho đời. 34
Câu chuyện bà Xã Mập xuống Thủy Cung khiến cho người địa phương thêm tin rằng Suối Bàu Sấu có rồng và tượng Phật chuông đồng là tặng phẩm của Long Vương vậy. Do đó làng rất quí quả hồng chung và các tượng Phật.
Thời Pháp thuộc, tòa Bác Cổ Viễn Đông muốn mua các tượng Phật với một giá đắt, nhưng làng nhất định không bán, mặc dù có sự cưỡng bức của quan Nam Triều và công sứ Nha Trang. Và chùa Bảo Long nổi danh chính nhờ các tượng Phật và quả hồng chung, cùng những chuyện sắc không không sắc.
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí, nơi mục về Tự Quán tỉnh Khánh Hòa, tác giả chỉ kể hai ngôi cổ tự là: Kim Sơn tự, Linh Phong tự 35. Không biết tại vì hai ngôi cổ tự nầy là hai ngôi chùa danh tiếng đương thời hay vì trong chùa có di tích của chúa Nguyễn. Kim Sơn Tự và Linh Phong Tự nằm trong địa phận Vĩnh Xương, xưa cũng như nay.
9) KIM SƠN TỰ
Chùa ở thôn Ngọc Hội (xưa gọi là Ngọc Toản), cách thành phố Nha Trang chừng 4, 5 cây số về hướng Tây Bắc. Tổ khai sơn là Pháp Ấn Hòa Thượng, húy Thiệt Địa. Dựng năm nào không được rõ. Chùa đứng trên một ngọn đồi đá đột khởi giữa bình nguyên. Đồi xưa kia đứng sát mé sông Nha Trang. Triền phía Bắc là một gành cao ngó xuống mặt nước. Cho nên tục gọi ngọn đồi là Núi Gành. Truyền rằng khi Hòa Thượng dọn núi cất chùa có được một số vàng chôn. Nên gọi là Kim Sơn và đặt tên chùa là Kim Sơn Tự.
Năm Canh Thân, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 6 (1740), Chúa Nguyễn Phúc Khoát cải tên Kim Sơn làm Quy Tôn và ban một tấm biển rộng lớn, sơn son thiếp vàng, khắc ba chữ đại tự « Quy Tôn Tự » và có chú rõ năm ân tứ « Canh Thân niên tạo » cùng tám chữ lạc khoản « Quốc Chủ Từ Tế Đạo Nhân ngự đề ». Tấm biển của chúa ban thưởng chứng tỏ rằng chùa đã có từ thời Lê ý Tôn, niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740), hoặc thời Lê thuần Tôn, niên hiệu Long Đức (1732-1735). Lúc bấy giờ chúa Nguyễn chưa xưng vương hiệu.
Đến năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), nhà vua sắc hạ chùa nên theo danh hiệu cũ. Một tấm biển khắc tên Kim Sơn Tự treo ngoài cửa. Còn tấm biển chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc tứ thì treo trong chùa để bảo tồn thắng tích.
Chùa đã nhiều lần bị hư và nhiều lần tu bổ. Dưới triều Khải Định (1916-1924), vợ một hưu quan đã tự xuất gia sửa sang chùa lại. Từ ấy người ta gọi là Chùa Bà Nghè. Năm Mậu Tuất (1946) sau khi chiếm Khánh Hòa, Pháp cho một đội binh lên đóng tại chùa Kim Sơn. Chúng phá chùa, đồn hầu hết cổ thọ, và dựng lô cốt, đặt súng đại bác bắn phá tứ tung.
Miếu Quá Quan và nhiều nơi cổ tích ở trong phạm vi tầm súng hầu hết bị phá hủy! Sau ngày đình chiến, chùa mới trùng tu. Kiểu chùa không được mỹ thuật. Nơi giặc xây lô cốt, nhà chùa dựng một tiểu đình với tượng đức Quan Thế Âm.
Chung quanh chùa có mấy gốc me cổ thọ dựng lại và một số cây mới trồng, không đủ « làm ấm cúng » cảnh chùa. Quang cảnh tiêu điều ảm đạm. Người vãng cảnh có cảm giác đứng trước một người bệnh đã được cơm nhưng thiếu gạo nấu. Nhưng vọng cảnh thì tuyệt!
Chùa hướng về Đông Nam, lấy hòn đảo Bồng Nguyên, tục gọi là hòn Miễu, ở Cửa Bé làm tiền án. Bốn mặt núi non trùng điệp. Biển Nha Trang ở phía đông trông như một vũng nước nhỏ ánh màu ngân. Từ chân đồi đến chân núi, mênh mông bát ngát, nào làng xóm, nào ruộng nương vườn tượt, khi ẩn khi hiện dưới bóng dừa xanh. Hòn Trại Thủy cách Kim Sơn chừng vài cây số, xiêng xiêng về hướng Đông Nam, trông như một hòn cù lao nhỏ ngập trong thủy triều. Và thành phố Nha Trang « đồng hóa » cùng lá cây và dính liền với làng quê đồng ruộng: Những cao ốc biệt thự phố xá chỉ còn là những vệt trắng, vệt xám, vệt đỏ, thấp thoáng trong sắc xanh của cây của núi của trời.
Trừ trời ra, tất cả, cả núi non, đều nằm dưới mặt. Nhìn đàn cò trắng bay cao, đám khói bay cao, cũng phải cúi mặt xuống. Du khách ngông cuồng, nhiều khi tưởng mình « đã cao hơn thiên hạ » rồi vậy! Gần đây Định Phong lên viếng cảnh, nhớ đến bài Ngôn Hoài của Không Lộ Thiền Sư:
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thinh hàn thái hư.
Cao hứng diễn Nôm:
Thân yên đẹp chốn long xà,
Thú vui ngày tháng đượm đà tình quê.
Có khi hề thẳng bước,
Thấu đỉnh hề non côi,
Hú dài một tiếng thảnh thơi,
Ùn ùn lạnh suốt ngoài trời khói mấy.
10) LINH PHONG TỰ
Chùa ở thôn Xuân Phong (xưa gọi là Xuân Sơn). Ban sơ gọi là Liên Hoa Tự. Mặt hướng về Đông Nam. Phía trước có mương nước đoanh lộn và một bàu sâu có nhiều cá, gọi là Bàu Cá Vượt. Phía Tây, tức phía sau lưng, có hòn núi như hình chim phụng sẻ cánh, tục gọi là Hòn Én. Phía Tây Bắc, tức phía tả, hòn Đá Lố, như hình con Sư Tử ngó vào chùa. Phía Nam hòn Đá Lố có một hồ sen rộng đến mấy mẫu, mùa hạ hoa nở hồng cả mặt nước, còn ba mùa kia thì nước xanh lục lìa. Cảnh trí rất ngoạn mục.
Chùa sáng lập thời nào, vị Tổ nào khai cơ và đổi tên Liên Hoa ra Linh Phong lúc nào, người địa phương không rõ, sách Thích Song Tổ Ấn tập và Đại Nam Nhất Thống Chí không thấy ghi. Có lẽ là một ngôi chùa xưa nhất tỉnh Khánh Hòa. Ít ra cũng một thời với chùa Kim Sơn. Bởi vì:
- Năm Giáp Dần (1734) chúa Nguyễn phúc Khoát có ngự chế câu đối liên:
Phụng thùy cái hậu, khê nhiễu oanh tiền,
Diên Ninh cảnh thượng hữu linh sơn, 36
Khánh tụng vương đồ ức tải ;
Sư cố tả quăng, đàm ngưng hữu dực,
Quảng Phước đường trung chơn tổ đạo, 37
Tăng huy Phật nhật vạn xuân.
Nghĩa là:
Phụng che mặt hậu, khe bọc mặt tiền,
Cảnh Diên Ninh trên có núi linh,
Mừng chúc nghiệp vương ức tuổi ;
Sư giữ cánh trên, đầm gìn cánh dưới,
Nhà Quảng Phước trong ngời đạo tổ,
Thêm tươi ngày Phật muôn xuân.
Nguyễn phúc Khoát lên ngôi Chúa năm Mậu Ngọ (1738) nên hiệu Vĩnh Hựu nhà Lê. Câu đối trên ngự chế năm Giáp Dần (1734), lúc còn làm Thế Tử. Tấm biển ân tứ cho chùa Kim Sơn năm Canh Thân (1740) sau câu đối chùa Linh Phong đến 6 năm. Nên cũng có thể tin rằng chùa Linh Phong có trước. Câu đối của chúa Nguyễn đề chùa Linh Phong viết trên giấy.
- Năm Tự Đức thứ năm (1351), Huệ Văn Thiền sư trùng tu Chùa lại, mới khắc câu đối của chúa Nguyễn vào liễn, sơn son thiếp vàng, treo trước cửa Chùa. Trong đôi câu liễn, nơi lạc khoản, một bên thì khắc năm ngự chế là « Giáp Dần Hoa triều », một bên thì khắc bốn chữ « Quốc Chủ ngự bút » 38. Huệ Văn Thiền sư lại tạo một tấm biển khắc tên chùa, cũng sơn son thiếp vàng, treo trước cửa giữa hai câu đối của chúa Nguyễn. Nhưng vì chùa trông mới mẻ mà vốn gốc chùa xưa, nên để khỏi bị ngộ nhận là chùa tân lập. Thiền sư phải thêm chữ « Cổ » vào tấm biển thành: Linh Phong cổ tự. Và cảnh chùa từ đó mới thật hoàng tú trang nghiêm.
- Đến năm Thành Thái thứ 18 (1906) Chân Hòa Thiền sư lại tu bổ một lần nữa. Chùa thêm tráng lệ nguy nga 39. Chân Hòa Thiền sư là người Phú Yên. Thiền sư trụ trì chùa Linh Phong được ít lâu thì trở về bổn kiển. Chùa trở thành chùa làng.
Chùa tuy ở trong địa phận thôn Xuân Phong nhưng lại dựng trên công thổ Xuân Lạc, nên thuộc quyền Xuân Lạc. Xuân Phong ở Bắc ngạn sông cái còn Xuân Lạc lại ở bên Nam ngạn. Đò giang cách trở, việc coi ngó có phần lơ là. Do đó chùa bị phát hỏa 40. Tất cả đều cháy hết, chỉ còn lại mười ba tượng Phật bằng đồng (một tượng Phật Tổ cao 5 tấc, mười tượng Quan Thế Âm, một tượng Quan Thánh và một tượng Địa Tạng cỡi đề thính), và cặp đối liên của chùa Nguyễn phúc Khoát 41. Lý hương bèn đưa về Xuân Lạc dựng chùa thờ và lấy lại tên cũ là: Liên Hoa Tự.
- Năm Bảo Đại thứ 15 (1940) được sắc tứ.
Chùa Liên Hoa vừa là tiền thân vừa là hậu thân của chùa Linh Phong. Chùa nhỏ và trông có vẻ sơ sài. Cảnh trí cũng không có gì đặc sắc. Còn nơi nền cũ của Linh Phong Cổ Tự thì đã cỏ lấp rêu mờ, chỉ còn một ngọn cổ tháp đứng đìu hiu trơ trọi. Nhưng hòn Đá Lố, hòn Én, Bàu sen, bàu Cá Vượt, vẫn còn, và mỗi bận xuân về « Giang san y cựu phục thiều quang ». Và kẻ qua người lại, nhớ đến ngôi cổ tự vẫn ưa ngâm câu… « Tăng huy Phật nhật vạn xuân ».
Ngoài hai ngôi cổ tự được ghi vào sử sách, Vĩnh Xương còn hai ngôi chùa nữa cũng thuộc vào hàng danh lam. Đó là:
- Chùa Hội Phước tục gọi là Chùa Cát.
- Chùa Hải Đức tục gọi là Chùa Hội.
Hai chùa nầy xưa kia nằm cạnh nhau tại thành phố Nha Trang. Ngày nay quang cảnh đã đổi thay. Nhưng một con đường trong thành phố vẫn mang tên « Đường Hai Chùa » dịch nghĩa chữ « Rue des deux pagodes » của Pháp đặc thuở danh còn đúng với thực. Sau mười năm xa cách, Thi nại Thị trở lại Nha Trang, đi ngang qua đường Hai Chùa có mấy câu cảm tác:
Đi ngang qua đường Hai Chùa,
Nhìn cây me cỗi lòng chua xót lòng!
Hai chùa xưa đứng song song,
Đường Hai Chùa đó sao không thấy chùa!
Nhà Thờ sang sảng chuông khua,
Một đoàn lính Mỹ nô đùa trong ba…!
Nhộn nhàng kẻ lại người qua,
Bóng chiều bảng lảng ai là cố nhân?
Không thấy chùa là vì một chùa dã dời đi nơi khác, còn một chùa thì bị nhà cửa che lấp, người không quen thuộc không dễ gì tìm cho ra! Không dễ tìm nhưng vì lòng nhớ cũ thúc giục, người đi tìm cũng tìm ra.
11) HỘI PHƯỚC TỰ
Chùa nằm trong ngõ hẻm đường Hoàng Tử Cảnh, thuộc xã Nha Trang Tây. Nếu nơi cửa ngõ không có bốn đại tự « Hội Phước Thiền Môn » và đôi câu đối:
Hội tấn nhơn duyên Phước,
會進因緣福
Thiền khai trí độ môn.
禪開智度門
Thì người đi xa lâu năm không thể nhận ra là ngôi chùa mình đã tầng lai vãng.
Thời Pháp thuộc vườn chùa rộng đến mấy mẫu. Chung quanh có tường gạch. Trong vườn cây xanh hoa tươi, hồ sen, non bộ, trang điểm cho ngôi chùa cổ kính thêm vẻ trang nghiêm. Trước chùa khoảng khoát.
Ngày nay bức thành ở mặt tiền đã đưa vào gần sát sàn. Trước chùa chỉ còn một lối đi nhỏ hẹp, và bề mặt kia đã bị nhà cửa của đồng bào lấn vào sát tận vách. Cây me cổ thọ trước kia là của chùa, mà nay đã đứng hẳn ra gần lề đường Hoàng Tử Cảnh ở giữa một đám nhà tôn. Và cây gạo ở sau chùa đã trở thành của sở hữu của người khác!
Chùa là một dãy nhà chữ môn cũ kỹ, lụp xụp. Vị trụ trì là một nhà sư tuổi gần 80 cũng đã phải chịu nhiều tang thương như chùa! Chùa Hội Phước là Tổ đình của hầu hết các chùa ở Vĩnh Xương cất từ thời Nguyễn sơ.
Tổ khai sơn là ngài Phật Ấn, pháp hiệu Quảng Hiển Lão ông, thuộc phái Lâm tế. Ban sơ Ngài cất một tịnh thất bằng tranh tại hòn Hoa Sơn tức hòn Một (ở Ngả Sáu, đầu đường Phước Hải hiện tại), tu theo xà duy hạnh, tức khổ hạnh đầu đà. Ngày mồng 9 tháng 12 năm Bính Ngọ tức năm Cảnh Hưng thứ 46 (1786) nhà Hậu Lê, Ngài thiết lập hỏa đàn trà tì. Đệ tử thâu xá lợi, lập liên hoa tháp tại Hoa Sơn. Sau đó Hòa thượng kế túc là ngài húy Đại Thông hiệu Chánh Niệm dời chùa xuống đất bằng, cách Hoa sơn chừng ba trăm thước (nơi địa điểm hiện tại). Chùa lúc bấy giờ vẫn bằng tranh như lúc ở núi. Đến đời thứ ba, ngài Tánh Minh hiệu Trí Quang Đại lão Hòa Thượng mới cất ngói. Đó thuộc triều Minh Mạng (1820-1840). Ngày Tánh Minh viên tịch, truyền lại cho đệ tử một bài kệ rằng:
Nhất thành thượng đạt nhất thành tinh,
誠上達一誠精
Nhất cú liễu nhiên nhất cú minh.
一句了然一句明
Nhất đức nhất tâm hàm nhất niệm,
一德一心成一念
Nhất tâm tịnh độ nhất trần thanh.
一心淨土一塵清
Truyền xuống được sáu đời nữa, đến năm Duy Tân nguyên niên (1907) thì chùa không có người thừa kế. Làng sở tại là Phương Sài bèn thỉnh ngài Chơn Hương hiệu Thiên Quang Hòa Thượng ở Chùa Linh Sơn ngoài Vạn Giã vào trụ trì. 42
Đến triều Khải Định năm thứ hai (1917), lại thỉnh Hòa thượng Phước Tường về trụ trì, vì ngài Thiên Quang phải trở về trụ trì chùa Linh Sơn. Lúc bấy giờ chùa đã hư. Một người ký lục họ Nguyễn đứng ra tu bổ lại để cầu phước.
Từ ấy đến nay, chùa chỉ sửa sang lại chút ít mà thôi. Vị trụ trì đương kim đã già yếu, bổn đạo lại ít, nên không đủ sức trùng tu. Vì chùa lâu đời, nên trong chùa có nhiều cổ vật quý giá:
- Các tượng Phật hầu hết đều bằng đồng.
- Hai quả chuông, quả báo chung (chuông nhỏ) có từ đời Cảnh Hưng, quả hồng chung (chuông lớn) có từ đời Minh Mạng. Quả báo chung của Tổ khai sơn truyền lại. Quả hồng chung chú tạo lúc chùa cất lại bằng ngói.
- Bức di tượng của ngài Phật Ấn, cao lớn như người thiệt, vẽ trên giấy lụa. Và trước khám thờ chư Tổ, khắc câu đối nôm, tương truyền là di bút của Tổ Khai sơn:
Biển ái dứt rồi,
Chỉ nẻo Linh Sơn nào mấy dặm ;
Rừng thiền liễu đặng,
Qua miền Thiên Trúc dễ bao xa.
Thật là những vật quí vô giá!
Riêng tiếc nhà chùa muốn cho hợp thời trang, dùng sơn màu sơn tất cả các tượng Phật. Đỏ xanh diêm dúa, trông vào tưởng rằng những tượng đất mới thỉnh nơi hàng thợ mã đưa về! Vẻ trang nghiêm thật giảm sút đi nhiều quá! Có người thắc mắc: « Tại sao chùa Hội Phước lại gọi là Chùa Cát? » Đó là vì xưa kia Nha Trang dân cư thưa thớt. Chùa đứng trong vùng cát trắng mênh mông, và ngoài cát ra quanh chùa không có vật gì khác để gọi, nên gọi là Chùa Cát.
Còn hòn Hoa Sơn, khi chưa bị con đường Phước Hải cắt đôi, thì hình thù giống con rùa bò vào Nam mà quay cổ ngó xuống đông. Nhân trên đầu có ngọn liên hoa tháp của ngài Phật Ấn, núi được người xưa tặng cho danh hiệu là « Kim Quy đới tháp », cùng với ba ngọn khác làm bốn con thú trấn giữ cuộc đất cho Nha Trang:
- Núi Trại Thủy là Ngọc Bức hàm hoàn.
- Núi Sinh Trung là Bạch tượng quyện hồ.
- Núi Cảnh Long ở Chụt là Thanh Long hí thủy. 43
Con Kim Qui nay đã biến dạng. Và tháp cũng đã cũ như chùa, cũng đã bị nhà cửa đồng bào che lấp. Kẻ qua người lại chỉ thấy ngôi nhà thờ đứng oai vệ trên hòn Hoa Sơn, không ai ngờ rằng nơi đây đã có người « Rừng thiền liễu đặng… »
12) HẢI ĐỨC TỰ
Xưa kia Chùa nằm phía trên chùa Hội Phước. Khai cơ là Viên Giác Thiền Sư, Pháp danh Đạt Khương, tục danh Tô văn Ninh, quán làng Vạn Thạnh (Nha Trang), đệ tử của Huệ Giáo Hòa thượng, pháp danh Liểu Đức, Tổ khai sơn chùa Thiên Đức Hòn Khói (Ninh Hòa).
Chùa dựng vào khoảng cuối triều Tự Đức (1847-1883). Ban đầu lấy tên là Duyên Sanh Tự và chỉ là một thảo am sơ sài. Năm Thành Thái thứ 3 (1891), mới mở rộng qui mô, đúc chuông tạc tượng, tạo thành một tự viện tráng lệ nghiêm trang và đổi tên là: Hải Đức Tự. Viên Giác Thiền Sư viên tịch, các môn đệ kế tiếp nhau trụ trì:
- Chánh Niệm đại sư, húy Chơn Minh
- Nhân Thụy giáo thọ, húy Như Khánh
- Phước Huệ hòa thượng, húy Ngộ Tánh.
Phước Huệ Hòa thượng, tục danh là Nguyễn Hưng Long, người Quảng Trị, được Viên Giác Thiền sư thọ ký lúc 16 tuổi (1890). Năm 20 tuổi (1894) phải bái biệt bổn sư về quê hương lo báo hiếu cho thân phụ. Rồi vào Huế tu hành. Mãi 15 năm sau (1909) mới trở lại Nha Trang. 44
Đối với Chánh Niệm Đại sư và Nhân Thụy giáo thọ, Hòa thượng ở hàng trên 45. Nhưng vì Viên Giác Thiền sư qui Tịnh Độ, Hòa thượng không hiện diện, nên không kế túc ngay bổn sư để trụ trì chùa Hải Đức.
Khi Hòa thượng trở lại Nha Trang thì chùa Hải Đức đã bị hư dột vì lâu đời. Hòa thượng ra công sửa chữa, và khôi phục được quang cảnh xưa. Từ ấy thiện tín đến tu tập và qui y thọ giới mỗi ngày một đông. Những ngày sóc ngày vọng, các hàng tăng giới và cư sĩ lại thường hội hợp để bàn về Phật sự. Do đó người địa phương mới gọi chùa là « Chùa Hội » để diễn tả cảnh tụ tập đông đảo nơi chùa. Trước khi vào Nha Trang, Phước Huệ Hòa thượng đã trụ trì chùa Kim Quang ở Huế do bà Từ Minh Hoàng Thái Hậu triều Thành Thái xây cất. Cho nên năm Khải Định thứ sáu (1921) Hòa thượng được triệu thỉnh về Huế để trụ trì chùa Kim Quang và làm Tăng Cang chùa Bảo Quốc. Chùa Hải Đức phải giao cho đệ tử coi sóc. Thỉnh thoảng Hòa thượng mới vào thăm. Rồi tuổi già sức yếu, việc đi lại khó khăn. Năm Bảo Đại thứ 14 (1938), Hòa thượng bèn giao nhiệm vụ trụ trì chùa Hải Đức cho Bích Không Đại sư.
Bích Không Đại sư, pháp danh Trừng Đàn, tục danh Hoàng hữu Đàng, quán Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đinh khoa bảng. Đậu tú tài năm Mậu Ngọ (1918). Đắc pháp Đại sư năm Ất Hợi (1935) trong giới đàn chùa Sắc tứ Tịnh Quang tỉnh Quảng Trị, nên cũng gọi là Giác Phong Đại sư 46. Khi nhận lãnh chùa Hải Đức, thì chùa đã quá cũ. Lại thêm thành phố Nha Trang mỗi ngày mỗi thêm đông đúc, xe ngựa mỗi lúc mỗi thêm ồn ào, cảnh thiền môn khó giữ được không khí trang nghiêm thanh tịnh. Đại sư với sự đồng ý của Hòa thượng Phước Huệ, bèn lo chọn một thắng địa thích hợp để cải tạo chùa Hải Đức. Sau ba năm dấn bước khắp danh sơn thắng địa tỉnh Khánh Hòa, Đại sư mới tìm được nơi vừa hợp với cảnh tu tâm dưỡng tánh của các bậc xuất gia, vừa tiện cho việc độ tha của hành nguyện đại thừa. Đó là: Hòn Trại Thủy.
Rồi phải trải bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu cực nhọc, Đại sư mới trưng được đất mới dỡ được non. Đại sư dời Tổ tháp và phần mộ của các bổn đạo nơi vườn chùa cũ lên Trại Thủy và khởi công xây chùa. Khởi công từ đầu năm Quý Mùi (1943) đến đầu năm Ất Dậu (1945) mới cáo thành. Cảnh trí đẹp đẽ, cao sáng. Tuy gần thành phố mà ly trần thoát tục. Tuy dựa chốn đô hội phồn ba mà vẫn giữ được vẻ thanh u tĩnh mịch.
Chùa cất theo kiểu thức Á Đông, trang nghiêm cổ kính. Tuy không nguy nga tráng lệ bằng các chùa lớn ở Thần Kinh, như Thiên Mụ, Diệu Đế, không kỳ cổ đồ sộ bằng Tổ đình Thập Tháp ở Bình Định song so với tất cả các chùa cũ mới ở Khánh Hòa, thì chùa Hải Đức to lớn nhất đẹp đẽ nhất.
Khi tìm được chỗ đất tốt, Đại sư tâm nguyện sẽ mở một đại tòng lâm cơ sở đào tạo tăng tài cho nền Phật giáo tương lai. Và khi chùa làm xong, có ý định mở trường kỳ khai đại giới đàn trong dịp khánh thành. Nhưng chùa chưa kịp lạc thành thì liền gặp quốc biến năm Ất Dậu (1945):
- Mùa xuân Nhật lật đổ Pháp.
- Mùa thu Việt Minh đứng dậy cướp Chánh quyền.
Công việc hoằng pháp bị bế tắc. Kế Pháp tái chiếm Khánh Hòa. Cuộc kháng chiến chống xâm lăng bùng nổ. Đại sư Giác Phong phải theo đồng bào tản cư. Khi thì Huế, khi thì Quảng Trị, Nghệ An. Rồi ngày rằm tháng chín năm Giáp Ngọ (1954), thị tịch tại Nam Đàn (Nghệ An). Đất nước qua phân, nhục thân không thể đưa về Nha Trang được. Đại sư khuất mà không mất. Vốn nhà khoa bảng xuất thân, Đại Sư văn hay chữ tốt. Vào thăm chùa Hải Đức, du khách nhận thấy tinh thần và cốt cách của Đại Sư chẳng những nơi kiểu kiến trúc của ngôi chùa, mà còn ở nơi tác phẩm văn chương nơi tự tích của Đại Sư khắc chạm trên vách trên cột mà mưa nắng vẫn còn nguyên. Có thể nói một cách mạnh dạn rằng đó là những tuyệt phẩm của Thiền môn Khánh Hòa. Nơi hàng cột ở trước chánh điện, có ba câu đối liên:
Câu chính giữa:
Hải thủy trừng thanh vạn tượng tề hiện ;
海水澄清萬象齊現
Đức hương ôn nhã nhất thiết mông huân.
德香溫雅一切蒙薰
Câu kế:
Hạnh thảo tác thân mao đoan hiện sát ;
莖草作身毛端現利
Vi phong thuyết pháp ngoạn thạch điểm đầu.
微風説法頑石點頭
Câu hai bên:
Kim Sơn Long Sơn tại kỳ tả hữu ;
金山龍海在其左右
Nha Hải Phước Hải bổn bất khứ lai.
芽海福海本無去來
Nơi vách mái hiên ngó ra sân, mỗi vách khắc bốn đại tự mỗi bề rộng đến bốn tấc tây.
- Bốn chữ vách tả (vách phía đông): Trú bình đẳng hội. 住平等會
- Bốn chữ nơi vách hữu (vách phía Tây): Tác như thị quán. 作如是觀
- Nơi lầu chuông ở phía Đông khắc 8 chữ: Thanh siêu Pháp giới, Giai chứng viên thông. 聲超法界皆證圓通
- Nơi lầu trống ở phía Tây khắc 8 chữ: Phổ đoạn sanh tử, Hưởng biến hà sa. 普斷生死響遍河沙
Ý nghĩa thâm viễn. Phải thấm đạo thuộc kinh, mới thưởng thức nổi những cái hay cái đẹp dưới những nét thanh lão, của ngọn bút tài ba đã đượm nhuần Chánh Pháp.
Chùa Hải Đức hiện nay thuộc Hội Phật giáo Trung Phần Việt Nam và đã trở thành một Đại Tòng Lâm gọi là Phật Học Viện Trung Phần để tăng chúng Trung Việt Nam Việt về tu học. Đó là niệm tâm sơ khởi của cố T.T. Giác Phong.
Mấy dãy học viện, tăng phòng, tịnh thất mới cất thêm gần đây nới rộng phạm vi của chùa. Một con đường mới trổ, chạy ngang qua lưng đồi Trại Thủy, từ Tây xuống Đông, nối liền chùa Hải Đức và chùa Long Sơn, làm cho cảnh chùa thêm linh động nhờ bóng tu sĩ bóng du khách thấp thoáng trong đá trong cây. Và cây bồ đề trước sân chùa, những cây mít, cây xoài, cây khế ở quanh chùa, ở triền đồi mỗi ngày mỗi cao cội sum cành, giúp cho cảnh chùa thêm thâm u tĩnh mịch.
Đứng nơi chùa nhìn ra bốn mặt, vọng cảnh thật bao la. Núi đồi sông biển ngoài xa ; nhà cửa vườn tược dưới thấp ; đồng ruộng mênh mông, phố phường chen chúc, ở trước mặt. Muôn màu nghìn sắc, càng thêm ưa. 47
Cho nên chùa Hải Đức chẳng những liệt vào hàng danh lam mà còn liệt vào hàng thắng cảnh của tỉnh Khánh Hòa vậy. Đối với hàng văn nhân thi sĩ, chùa Hải Đức lại có nhiều nhân duyên. Một phen đến nơi, không mấy ai không tìm thấy cảm hứng, không lưu lại âm cảm tình. Như:
- Nhà văn Võ Hồng có bài « Hoa Khế lưng đồi » đã đăng ở Hải Triều Âm năm 1964.
- Nhà văn Tuấn Huy, trong tác phẩm « Hương Cỏ May » có nhắc đến Phật Học Viện.
- Thạch-trung-Giả, trong năm 1960 và 1961, suốt ba tháng hè, lên ở tịnh dưỡng nơi gác trống của Chùa. Trong thời gian ấy đã sáng tác được nhiều giai phẩm. Một số thơ đã đăng tải ở tập san Liên Hoa Huế. Như bài sau đây là một:
« LẦN TRÀNG »
Hoàng hôn buông xuống
Chiều xanh xanh huyền
Tiếng ai dâng lên
Lầu kinh Bát Nhã
Triều yên sóng cả
Bàn tay lần tràng
Nổi trên mênh mang
Vần xoay hạt hạt
Kim ô chìm tắt
Song nhỏ bừng châu
Bàn tay truyền mau
Vần xoay tinh đẩu.
- Phạm-công-Thiện, lúc ở tu tại Phật Học Viện (1962-1964), sáng tác được nhiều giai phẩm, trong đó có câu:
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn,
Cây khế đồi cao trỗ hết bông.
Và những câu:
Hồi chuông chùa vọng luân hồi,
Chim chiền chiện hót ngang trời đau thương.
Trùng dương nằm đợi vô thường,
Đồi cao bặt gió hai đường âm u…
- Trong Mộng Ngân Sơn, bài « Bồi Hồi », gởi T.T. Thích Tri Thủ:
Trăng lên đồi Trại Thủy,
Chuông khuya ngời âm ba,
Bồi hồi mây khóa viện.
Sân bồ đề sương sa.
Bài Lịu Địu, gởi Phạm Công Thiện:
Áo giữ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.
Và bài Chuông Khuya trong Đọng Bóng Chiều:
Từng giọt châu rơi mắt mẹ hiền,
Mừng con lưu lạc trở đoàn viên.
Neo thu bến tạnh thuyền sương sóng,
In bóng chùa xa trăng nửa hiên.
v.v…
Đều mang hình ảnh chùa Hải Đức, hoặc ít hoặc nhiều, hoặc mờ hoặc đậm.
Nhớ khi chùa Hải Đức thượng lương xong, Đại Đức Giác Phong cùng người bạn thơ dắt nhau lên đỉnh đồi, nhìn xuống chùa, nhìn ra bốn mặt, nói: « Cất chùa xong, sẽ cất một tiểu đình nơi đây để cùng nhau đàm đạo xướng thù ».
Mầm thiện đã gieo, chắc có ngày sẽ đâm chồi nảy lộc. Và biết đâu chùa Hải Đức lại không trở thành nơi hòa hợp đạo lý và văn chương, nơi trồng tỉa dị thảo kỳ ba để phong phú cho vườn văn hóa dân tộc.
Cũng trên đồi Trại Thủy, nơi đầu nhánh phía Nam, cạnh đường Quốc Lộ số 1, còn một ngôi cổ tự nữa nằm khuất trong bóng cây xanh, đứng dưới chân đồi ngó lên không thấy. Đó là:
13) BỬU PHONG TỰ
Chùa do người Trung Hoa lập tử đời Hậu Lê. Trong chùa hiện còn một quả đại hồng chung khắc tên chùa « Bửu Phong Tự » và năm chú tạo « Tuế thứ Quí Dậu niên Tứ nguyệt Cát nhật ». Năm Quí Dậu tức là năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753). Như thế chùa cũng cất trong niên hiệu Cảnh Hưng, hoặc một năm với chuông, hoặc trước một vài năm. Chùa thờ Quan Thánh, từ Quan Vân Trường đời Tam Quốc. Lâu đời không có người phụng tự, chùa trở thành chùa làng: Làng Phước Hải.
Làng vẫn thờ Quan Thánh. Nhưng gian bên cạnh thờ thêm bà Chúa Ngọc Thiên Y A Na, vị thần địa phương. Tên Bửu Phong ít người biết. Người địa phương thường gọi là Chùa Quan Thánh hay Chùa Núi. Dưới triều Bảo Đại (1925-1945), khi phong trào Chấn hưng Phật giáo phát động trong nước, làng Phước Hải hưởng ứng, cải chùa thờ Thánh thành chùa thờ Phật. Thờ Phật ở trước. Thờ Thánh và Thần ở sau. Và rước sư đến trụ trì. Chùa vẫn giữ tên Bửu Phong. Nhưng vì chùa lâu đời, tấm biển mang tên chùa hư chưa có dịp làm biển mới, nên sau khi chùa đã trở thành chùa Phật, tên Bửu Phong vẫn không được phổ biến và miệng đời vẫn quen gọi là chùa Quan Thánh như xưa.
Sau khi chùa Linh Phong trên Xuân Phong bị cháy và dời xuống Xuân Lạc đổi tên Liên Hoa, thì có người được tấm biển « Linh phong Cổ Tự » đem cúng cho chùa Bửu Phong. « Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về », chùa giữ làm kỷ niệm. Rồi chiến tranh bùng bổ, Phật sự cũng bị đảo điên như thế sự. Sau ngày Việt Pháp đình chiến (1954), một nhà sư ở Huế vào trụ trì chùa Bửu Phong, thấy tấm biển « Linh Phong Cổ Tự » nơi chùa, đinh ninh tên chùa là Linh Phong. Khi tu bổ lại chùa, bèn đắp trước hiên, khắc trước ngõ bốn chữ « Linh Phong Cổ Tự ». Từ ấy, trên 10 năm nay ai cũng gọi chùa Bửu Phong là Linh Phong.
Nếu không có quả hồng chung trong chùa thì không bao lâu nữa, tên Bửu Phong e không còn ai biết đến. Chùa cất theo kiểu trùng thiềm. Cây gỗ tốt. Song vì đã quá lâu đời nên mái đã quằn, cột đã xiêu. Mặt tiền và ngõ chùa vừa mới sửa lại. Nhưng màu lòe loẹt của phấn son do một bàn tay vụng về trang điểm, đã không cải lão hoàn đồng được bà già tám mươi, mà còn làm cho cảnh tóc bạc da mồi thêm khó ngó! Nếu cứ để y cũ: Mãi ngói đóng rêu xanh, tường vôi trùm bụi mốc, rong sân bìm dạu, hợp cùng những cây me cổ thụ u nầng khúc khuỷu, những con cọp đá sứt tai sứt đuôi, những bậc đá gập ghềnh lỏng chỏng, tạo thành một bức tranh hoang vắng xa xưa khiến khách vãng cảnh phải bồi hồi ảo não, thì thú đăng lâm ý vị biết bao nhiêu!
Nhưng đừng bận tâm đến cảnh nhân tạo, du khách vẫn tìm được nhiều vẻ đáng yêu. Hòn Trại Thủy hình giống con giơi nằm sè đôi cánh, đầu hướng về phía Tây Nam. Chùa Bửu Phong đứng trên đầu con giơi. Phía sau và hai bên tả hữu bị thân giơi và hai cánh che khuất chân mây, song phía trước nào núi nào đồng, nào xóm làng nào phố xá, sân tàu bay, đường xe lửa… sống động nhưng không ồn ào, giăng trùm một vọng cảnh bao la mà thời gian luôn luôn thay đổi màu sắc. Những khi mỏi mệt lợi danh, lên đây di dưỡng tinh thần thật là thuận tiện.
Hiện nay, phía sau lưng chùa, nơi lưng con giơi, đã có kim thân Phật Tổ. Nếu nơi chùa Bửu Phong, dẹp hết cây gỗ để xây một hòn tháp chín tầng, như những ngọn tháp bên Thái Lan, Cao Miên, hoặc như ngọn tháp chùa Thiên Mụ, thì phong cảnh hòn Trại Thủy nói riêng, phong cảnh thành phố Nha Trang nói chung, tăng huy biết mấy.
Ở Diên Khánh có ba ngôi chùa cổ nhất là:
- Vạn Thiện Tự tục gọi là Chùa Linh Phù.
- Thiên Lộc Tự
- Hoa Tiên Tự
Chùa nào cũng có di tích ngoạn mục, sự tích kỳ thú.
14) VẠN THIỆN TỰ
Chùa ở thôn An Ninh, xã Diên An. Lập vào khoảng Lê cảnh Hưng (1740-1786). Tổ khai sơn là ngài Thượng Ân hạ Tùy. Thừa kế là ngài Thiệt Vinh, pháp hiệu Bửu Hạnh. Ban sơ chùa cất bên Suối Đổ, trên triền một ngọn núi trong dãy Hoàng Ngưu sơn, thuộc địa phận thôn Phước Trạch. Do đó ngọn núi mệnh danh là Hòn Chùa. Không rõ chùa dời xuống An Ninh thời tổ khai sơn hay thời ngày Thiệt Vinh. Ngài Thiệt Vinh có người đệ tử húy Tế Cảm, hiệu Thiện Khoáng. Người Bình Định, tên Keo, vào ở chăn trâu cho chùa.
Chùa nuôi hàng trăm con trâu. Ngày ngày lùa vào ăn trong núi. Chiều về mỗi con trâu đều có một bó củi trên lưng. Trong chùa có một bà lão phụ trách việc nấu dầu chay, nấu bằng hột dầu tía. Nơi nấu dầu cấm người vô phận sự không được vào, vì sợ lạ hơi, dầu bị khét. Một hôm, đi chăn trâu về, ngày Thiện Kháng đẩy cửa bước vào. Bà lão, tục gọi bà cô, thất kinh la: « Thôi! Ông Keo làm hư dầu rồi! » Để « cứu vãn tình thế » bà cô bắt ông Keo phải khuấy dầu đương sôi trong chảo. Khuấy dầu phải dùng đũa bếp hoặc củi. Nhưng ông Keo lại xăn tay áo, nhúng cả cánh tay vào chảo dầu mà khuấy. Khuấy xong trở ra, tay không hề bị phỏng mà cũng không dính một giọt dầu. Bà cô lấy làm kỳ dị, lên bạch cùng Hòa thượng. Xét nghiệm thấy quả như lời, Hòa thượng không cho ngài Thiện Khoáng chăn trâu nữa.
Trâu không người chăn, nhưng sáng vẫn kéo nhau lên núi ăn, và chiều về trên lưng mỗi con vẫn đèo một bó củi như trước. Mọi người đều tin rằng nhà sư tu hành đắc đạo và đã luyện được phép thần thông có thể điều khiển được sinh vật ở xa cách. Mấy tháng sau Ngài tịch cốc, rồi xin sư phụ được hóa thân. Hòa Thượng hoan hỉ chấp nhận. Ngài xin người trong thôn mỗi người một bó củi, ngoài số củi của trâu mang về, để làm giàn hỏa. Phần đông đều hân hoan. Nhưng có một ít người miễn cưỡng. Trước khi lên giàn hỏa, Ngài nguyện sẽ để lại một vật mọn tặng làng. Đoạn đúng ngọ ung dung lên ngồi trên đống củi, gõ mõ tụng kinh. Không ai nỡ châm lửa. Ngài phải trở xuống. Lửa cất ngọn rồi, Ngài bước lên giàn trở lại. Tuy gõ mõ miệng tụng kinh. Ngọn lửa càng cao, tiếng mõ tiếng kinh nghe càng rõ. Mãi đến khi lửa tắt, tiếng kinh tiếng mõ mới lần lần theo bóng khói bay lên tầng xanh để chìm vào trong im lặng.
Người trong chùa đến nhặt xá lợi, nhận thấy: Một số củi còn y nguyên, không sổ dây, không sém lửa. Một chén chung cổ đựng một móng tay tươi hấn và không dính chút khói chút tro. Ai nấy đều biết rằng những bó củi kia là của những người thành tâm cúng dường, ngài Thiện Khoáng hoàn lại hầu mong họ sám hối. Còn chén chung đựng móng tay là vật lưu niệm cho người trong thôn. Các tăng đồ Phật tử đều tin rằng ngài Thiện Khoáng đã thành chánh quả. Hòa Thượng bổn sư phong cho ngài danh tự là Linh Phù. Và làng sở tại cúng cho chùa một mẫu ruộng để hương khói cho ngài, tục gọi ruộng Hóa Thân 48. Còn chén chung đựng móng tay thì làng đem thờ nơi am ở Núi Chùa, cạnh Suối Đổ. Và từ khi chén chung đem lên núi thì vùng chung quanh Cự Thanh, Phước Trạch, An Minh luôn luôn được mùa vì trời thường mưa. Người bên Đại Điền biết được, bèn lén sang lấy đem về để nơi am Bà trên Núi Chùa. Từ ấy Đại Điền thường được mưa và ruộng nương mỗi ngày mỗi trở nên phì nhiêu. Người bên nầy biết được, song nghĩ rằng Đại Điền nhiều ruộng hơn, nên hoan hỷ để bên đó, chỉ khi nào trời nắng hạn quá mới thỉnh về ít hôm, rồi cũng giao hoàn. Do những sự linh ứng đó mà người địa phương gọi chùa Vạn Thiện là chùa Linh Phù.
Truyền rằng sau khi ngài Linh Phù Viên tịch, một cặp trâu cò chiều chiều len theo bầy trâu của chùa vào vườn ăn dâu. Thấy dâu bị hư hao nhiều, người trong chùa rình xem. Bắt gặp liền ví đánh. Cặp trâu bò rống lên một tiếng lạnh mình, rồi chạy thẳng ra đồng nhảy xuống con Sông Cạn trốn mất. Còn bầy trâu của chùa, vì không người chăn, lần lượt kéo nhau lên núi ở.
Lại truyền rằng trong thời loạn lạc, để tránh sự dùng chuông đúc khí giới, chùa Vạn Thiện đem quả đại hồng chung dấu nơi lòng Sông Cạn ở cạnh chùa. Đến lúc thái bình, tìm lại không thấy. Ai cũng tưởng đã bị lụt trôi đi xa. Nhưng người trong vùng, đêm đêm thường nghe tiếng chuông ngân ở dưới vực. Lặn xem lại không thấy gì. Rồi thời gian qua, không còn ai để ý đến nữa. Đến triều Thành Thái (1889-1907), trong thôn có người đi câu trông thấy quả hồng chung, liền tri hô. Đồng bào xúm nhau khiêng lên. Khiêng không nổi. Bèn báo Tỉnh. Tỉnh sai viên quản tượng là Hồ Ngọc Nhuận đem voi đến kéo. Một voi kéo không lên, phải dùng đến hai voi. Nhưng suốt một ngày và nửa đêm, hết hơi hết sức, quả hồng chung vẫn không hề di dịch mảy may. Lý hương bèn thiết hương án cầu khẩn. Cuối canh tư, trời bỗng nổi sấm chớp. Rồi mưa tuôn như cầm chĩnh đổ. Nước sông lênh láng. Sợi giây cáp (câble) cột nơi quai chuông và cổ voi, tự nhiên đứt. Khi tạnh mưa, lặn tìm không còn thấy quả hồng chung! Đến giờ ngọ, nước Sông Cạn nổi sôi sục sục, hết sôi liền đổi màu, trông đen như dầm mục! Người địa phương cho rằng do teng đồng mà ra. Nên gọi khúc sông đó là Sông Đồng Đen. Hiện nay nước sông đã hết đen, nhưng tên sông vẫn còn giữ. 49
Còn chùa thì đã sửa đi sửa lại nhiều lớp. Qui mô không lấy gì làm rộng lớn, kiểu thức, phong cảnh cũng không có gì đặc biệt. Nhưng vẫn đượm khí vị thiền lâm. Vườn chùa trước kia rộng đến mấy mẫu. Cây cối sum sê. Ngày nay chỉ còn được chừng năm ba sào, và cam bưởi mới vun trồng, chưa có cội cao tàn cả. Dấu tích xưa chỉ còn ba ngọn cổ tháp và hai cây cổ thọ là cây dầu và cây song giá.
Những cổ vật nầy trước kia nằm trong phạm vi chùa. Hiện nay chỉ cây dầu và ngọn tháp ngài Linh Phù nằm trong vườn chùa. Còn tháp ngài Bửu Hạnh và của Tổ khai sơn nằm ở bên ngoài. Cây song giá đứng che tháp Tổ. Xa trông như một cây tầm thường. Nhưng lại gần xem thật là kỳ cổ: Thân cây vốn hai, nhưng tháng ngày đã nhập thành một và lòng cây đã rỗng thành bộng có thể chứa được hai người đàn ông vóc to. Nhánh lưa thưa, và gầy guộc rắn rỏi trông như bằng đá hay bằng gang. Cây và tháp đứng bên nhau, tạo thành một bức cổ họa kỳ mỹ. Nhưng vì ở trong đám cây cỏ tùm lum, nên khách du quan không mấy ai để ý.
15) THIÊN LỘC TỰ
Chùa ở ấp Thanh Tự, thôn Phú Ân Nam. Nam hướng vào Nam. Con Sông Cạn chạy trước chùa. Tổ khai sơn là vị nào không được rõ. Chùa dựng năm nào cũng không được rõ. Trong chùa có một quả hồng chung và một quả bảo chúng, là hai vật xưa còn truyền lại. Nơi Hồng chung chỉ khắc tên chùa là « Thiên Lộc Thuyền Tôn Tự ». Nơi Bảo Chung chỉ ghi ngày chú tạo « Đinh Sửu niên Nhị nguyệt Nhị Thập nhật ». Ghi năm tháng chớ không ghi triều đại, nên không dám quả quyết chùa sáng lập thời nào. Năm Đinh Sửu, kể từ ngày phần đất Khánh Hòa thuộc về Việt Nam (1693) cho đến ngày kinh đô Huế thất thủ, nước Việt Nam bị nước Pháp cai trị (1885), thì có 4 năm:
- 1697 nằm trong niên hiệu Chính Hòa (1680-1705)
- 1757 nằm trong niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786)
- 1817 nằm trong niên hiệu Gia Long (1802-1820)
- 1877 nằm trong niên hiệu Tự Đức (1847-1883).
Chùa Thiện Lộc là một ngôi chùa cổ, nhưng không thể có trước chùa Vạn thiện tức chùa Linh Phù, vì tương truyền chùa Linh Phù là ngôi chùa có trước nhất ở Diên Khánh. Cũng không thể bảo rằng chùa mới có thời Tự Đức, vì nơi trính chùa còn một cây trính có khắc rõ ngày tháng trùng tu: « Tự Đức Cửu niên, tuế thứ Bính Thìn Mạnh thu nguyệt Cát nhật, trùng kiến Thiên Lộc Tự ». Trùng tu năm Tự Đức thứ 9 (1856) thì tất nhiên chùa phải có từ trước. Có từ thời Cảnh Hưng hoặc thời Gia Long.
Có thể tin chắc là thời Cảnh hưng. Bởi vì dưới thời chúa Nguyễn, người Đàng Trong tuy vẫn dùng niên hiệu nhà Lê, song không chịu ân uy gì của nhà Lê hết, nên trên văn tự chỉ để tuế nguyệt mà không để niên hiệu cũng không tội vạ gì. Từ khi Gia Long nhất thống lãnh thổ, thì buộc phải viết niên hiệu trước rồi mới viết tuế nguyệt sau. Không ai dám trái, không ai dám quê. Trên quả bảo chúng chỉ khắc tuế nguyệt như thế chắc không phải đúc thời Gia Long mà đúc thời Cảnh Hưng vậy.
Còn về Tổ khai sơn thì không biết dựa vào đâu để suy cứu. Truyền rằng: Trong thôn có người quả phụ tục gọi Bà Sáu chuyên nghề nuôi tằm. Một đêm mùa thu, trời mát trăng sáng, bốn người đàn ông lực lưỡng vào nhà xin tá túc. Nhà không có chiếu dư cũng đủ chỗ nằm cho bốn người, khách bèn mượn bốn chiếc nong đem ra ngoài sân trải nằm. Gà gáy đầu, Bà Sáu thức dậy, ra giếng múc nước rửa mặt. Vừa bước xuống sân, thấy trong mỗi nong một con rắn lớn tày cột nhà nằm khoanh tròn, vảy sáng ngời dưới ánh trăng sắp lặn. Bà thất kinh thét lên một tiếng, rồi ngã ngay xuống đất, bất tỉnh! Khi hoàn hồn, bà thấy bốn người khách ngồi chung quanh giường. Một người nói: « Bà đừng sợ. Chúng tôi là Long thần ở Thủy Cung. Vâng lệnh Long Vương lên núi lấy gỗ. Được bà chiếu cố, chúng tôi không quên ơn ». Đoạn từ giã, lên đường.
Qua tháng sau, trời bỗng mưa tầm tã hai ngày đêm. Nước sông chảy cuồn cuộn và tràn ngập cả ruộng nương làng xóm. Nước lớn từ sáng và mỗi lúc mỗi lớn dần. Nhà cửa ở dưới thấp đều bị ngập lụt. Nhà Bà Sáu ở trên gò cao nhưng nước cũng vào đến sân lém đến thềm. Đêm đến ai nấy đều lo sợ, vì mức nước vẫn cứ lên…
Bà Sáu cũng không an tâm, chong đèn ngồi nhìn nước lụt. Chợt bốn người đàn ông tháng trước bước vào nhà. Một người nói: « Chúng tôi chở gỗ về Thủy Phủ. Nhân đi ngang, ghé thăm bà. Bà chớ lo nước sẽ dựt trong đêm nay ». Nói rồi từ biệt.
Sau khi bốn người đàn ông ra đi thì nước rút dần. Sáng hôm sau nước dựt hết. Trời đổ xuống một trận mưa « xối bùn » rồi mây tan nắng hảnh. Và nơi chân thềm Bà Sáu, một bè gỗ danh mộc nằm ngay ngắn như có người sắp xếp và không dính một tí bùn. Bà Sáu biết rằng đó là của Long thần đã tặng mình. Nhưng nghĩ rằng mình góa bụa, lại không con cái, một túp nhà nhỏ cũng đủ che nắng mưa, kinh dinh làm gì cho cực nhọc. Nhân bên cạnh nhà có một thiền sư che một thảo am tu hành và giáo hóa bổn đạo, bà bèn đem bè gỗ cúng dường. Thiền sư hoan hỷ thu nhận, rồi dùng gỗ dựng lên một ngôi chùa kiên cố trang nghiêm, lấy tên là: Thiên Lộc Tự.
Thử nghĩa rằng Chùa đó là lộc trời cho chớ không phải công người tạo. Sau chùa, cách chừng vài trăm thước, Bà Sáu dựng một ngôi miếu thờ 4 vị long thần, tục gọi là: Miếu Bà Sáu.
Câu chuyện long thần tặng gỗ nghe thật hoang đàng. Song Chùa có đó, bia miệng cũng còn đó. Nghi làm sao? Tin làm sao? Mà biện bạch làm sao? Chuyện u huyền âu đành để đó, trở lại cùng cảnh thực tại nơi thế gian.
Miếu cũng như chùa đã nhiều lần sửa đổi. Hiện nay miếu được làng xây cất lại tử tế và dùng thờ bà Thiên Y A Na. Nhưng tục vẫn gọi là Miếu Bà Sáu.
Còn chùa Thiên Lộc thì đã cải tạo thành một phạm vũ tráng lệ nghiêm trang. Chùa dựng năm Giáp Thân (1964). Kiểu thức Á Đông. Tầng trên xây một ngọn tháp bảy tầng thờ thất Cổ Phật. Chính đường thờ đức Thế Tôn. Tượng mới đúc, bằng đồng, cao gần lút đầu người, nghiêm trang quang diệu. Vật liệu xây cất đều mới. Trong chùa chỉ còn giữ làm kỷ niệm cây trính có khắc năm tháng trùng kiến ngôi chùa thời Tự Đức. Trùng kiến ngôi chùa thời Tự Đức là Ngài Thích Hải Tạng.
Chùa xưa ở trong nơi chật hẹp, Thượng Tọa mua thêm đất ở chung quanh để mở rộng phạm vi chùa. Thượng Tọa viên tịch năm Tự Đức thứ 16 (1863), bảy năm sau khi trùng tu Thiên Lộc Tự.
Ở trong quận Diên Khánh hiện nay, chùa Thiên Lộc là chùa rộng lớn nhất. Chỉ tiếc trước chùa không có đường giao thông. Khách Đàn Việt phải theo con đường sau chùa và vào cổng phía sau. Nhưng cũng có điều hay là: Đi ngõ sau thấy được Miếu Bà Sáu. Và có thấy Miếu Bà Sáu mới nhớ đến chuyện Long thần tặng gỗ, mới nhớ đến gốc tích của chùa, khiến lòng người không vong bản vậy. 50
16) HOA TIÊN TỰ
Chùa ở Ấp Phật Tỉnh, thôn Phú Ân Nam. Nằm phía Tây Bắc chùa Thiên Lộc. Ra khỏi chùa Thiên Lộc theo con đường Quốc Lộ số 1 đi lên khỏi cây Dầu Đôi chừng vài mươi bước thì trẽ ra phía Bắc để đi đến chùa Hoa Tiên.
Cây Dầu Đôi cũng là một « cổ tích » của Khánh Hòa. Một gốc hai cột đứng song song. Thân mỗi cội cũng đến ba người ôm, thẳng đuột, và cao vút mây. Tuổi e đã hàng ngàn, trông thật là « quắc thước ». Dưới gốc có một ngôi cổ miếu, thờ thần Hiệu Khôi Tinh. Thần cậy cây dầu, cây dầu cậy thần. Người đi đường cũng như người sở tại không ai dám xâm phạm 51. Đối với du khách đến viếng chùa Hoa Tiên, cây Dầu Đôi là món « khai vị ».
Chùa Hoa Tiên vốn là một quan tự, do Tỉnh lập năm Gia Long thứ 10 (1811). Chùa thờ Quan Thánh, tức Quan Vũ đời Tam Quốc ở gian giữa, thờ bà Thiên Y A Na ở bên hữu, thờ Phật ở bên tả.
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), Tỉnh giao chùa cho làng. Lúc còn thuộc quyền Tỉnh cũng như lúc đã giao cho làng, mỗi năm đến ngày 13 tháng giêng âm lịch, đều phải tổ chức hát bội tại chùa, tục gọi là « hát vía Ông ». Do đó Chùa trở thành quan trọng trong hạt, và ngày 13 tháng giêng trở thành ngày vui hàng năm của người địa phương.
Đến triều Bảo Đại (1924-1945) hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật Giáo, làng bèn đổi chùa thờ Thánh thành chùa thờ Phật. Ban đầu có một số hào mục không chịu. Vị tiên chỉ mới nghĩ ra một kế là cầu Quan Thánh thẩm định. Quan Thánh giáng cơ, phán, đại ý rằng: Việc dùng chùa ngài thờ Phật là việc chính đáng, bởi Phật là đấng chí tôn. Huống hồ ngài cũng đã qui y Tam Bảo. Thánh đã dạy thì còn ai dám không tuân. Làng bèn thỉnh tượng Phật vào thờ gian giữa, rước tượng Thánh sang thờ gian tả. Còn gian hữu vẫn thờ bà Thiên Y A Na.
Kế đến quốc biến. Chùa cũng không tránh khỏi nghiệp chung. Cảnh vật phải chịu khá nhiều biến cải.
Đến năm Kỷ Hợi (1959) chùa được trùng tu. Qui mô rộng lớn. Kiến trúc tân thời nhưng vẫn giữ được vẻ Á Đông cổ kính. Chùa hướng về Tây Bắc. Trước mặt, con sông Cái chảy từ Tây xuống Đông, mở vọng cảnh của chùa thêm rộng. Vườn chùa cũng khá rộng, lại nhiều cây, nhiều cây cao rậm nên quang cảnh trong cũng như ngoài đều đượm khí vị thiền lâm. Nhưng đáng lưu ý nhất là: Cây Cốc trong vườn chùa, Ba tượng thần bằng đá của Chiêm Thành để lại. Cây Cốc là một « vị cổ lão » chắc là bạn đồng canh cùng cây Dầu Đôi ngoài Quốc Lộ. Gốc lớn có đến 10 ôm, hô hê hốc hỉu. Thân cao có đến ba bốn chục thước. Cành tua tủa trông giống đầu con nai chà châu Phi.
Truyền rằng dưới gốc cây có vàng. Ban đêm, người quanh vùng thường thấy « vàng đi ăn », ánh vàng sáng rực. Thời Pháp thuộc, công sứ Bréda đòi đào gốc cây để tìm vàng. Người trong làng sợ tai họa xảy đến, nên nhiệt liệt phản đối. « Phép vua thua lệ làng », viên công sứ đành thối nhượng. Gần đây nổi lên phong trào tìm vàng. Nhiều nơi cổ tích bị đào phá. Có mấy người Hời ở Phan Rang tìm đến chùa, trưng giấy tờ của ông bà để lại và xin được phép bới gốc cây cốc để tìm của. Chùa nhất định từ khước. Nhờ vậy mà cây cốc còn cao cội sum cành, và chùa còn giữ được một bảo vật vừa kỳ vừa cổ.
Tượng Thần cũng vừa kỳ vừa cổ, nhất là tượng bà Thiên Y A Na thờ trong chùa. Tượng nầy là một phiến đá xanh hình khối chữ nhật. Cao chừng năm sáu tấc, dày chừng một tấc, một tấc rưỡi, rộng chừng một tấc rưỡi, hai tấc. Không biết là một tác phẩm điêu khắc bị bỏ dở, hay là hình tướng một vị quái thần của Bà La Môn. Tượng chỉ khắc có nửa thân phía trước: Mặt có đủ mắt mũi miệng, hai tay chấp nơi ngực, đầu đội chiếc mũ nhọn như ngọn tháp Cao Miên. Còn phía sau lưng và khúc mình thì để nguyên dạng đá.
Người trong ấp đã tìm được khi đào giếng xây chùa. Trông thấy nét mặt đàn bà, đồng bào cho là tượng bà Thiên Y A Na bèn đem vào chùa thờ phụng. Và nhân việc đào giếng được tượng, ấp lấy tên là Phật Tỉnh vì tin rằng bà Thiên Y cũng là một vị Bồ Tát như đức Quán Thế Âm.
Còn hai tượng nữa thì ở dưới gốc cây cốc lồi lên. Hai tượng nầy xưa lắm. Nét chạm khắc đã mòn hết, lại bị hư hỏng nhiều chỗ. Một tượng cao chừng 6 tấc, một tượng cao chừng 5 tấc. Tượng mới lồi lên chừng bốn năm mươi năm nay. Cho là vật linh thiêng, vị trụ trì đem vào chùa thờ. Nhưng nửa đêm tự nhiên rớt xuống đất. Một tượng bị gãy đầu. Vị trụ trì sợ, liền đem ra thờ dưới gốc cây cốc, nơi tượng đã lồi lên. Hiện nay vẫn còn, song chiếc đầu gãy không biết ai đã lấy mất. 52
Vào viếng chùa Hoa Tiên, nếu cây Dầu Đôi là món « khai vị » thì cây cốc và mấy tượng đá Chiêm Thành là những món « tráng miệng » thích thú hơn cả « bữa cơm thịnh soạn của nhà chùa ».
Còn một điểm hay hay nữa là Phú Ân Nam có hai ngôi chùa là Thiên Lộc và Hoa Tiên, mà cả hai đều đi ngõ hậu.
Khách Đàn Việt đến chơi cửa thiền chắc lắm vị thuộc chuyện Tây Du. Khi bước vào ngõ, chợt nhớ chuyện Tề Thiên Đại Thánh nhờ đi ngõ hậu lúc canh ba vào phòng Tổ sư mà được truyền thọ thất thập nhị huyền công, thì hẳn có người sanh hy vọng rằng mình sẽ được vị trụ trì mật truyền tâm ấn. Đó cũng là một hứng thú vậy.
Những ngôi chùa liệt kê trên đây là những cổ tự tạo lập từ thế kỷ thứ 19 trở về trước. Từ đầu thế kỷ thứ 20 tới nay Khánh Hòa sản xuất nhiều ngôi chùa mới. Được du khách lưu ý là: Chùa Linh Quang, Thiên Quang ở Diên Khánh, Chùa Giác Hải ở Vạn Ninh.
17) LINH QUANG TỰ
Chùa ở thôn Đại Điền Trung, trên Núi Chúa, gần miếu bà Thiên Y A Na. Chùa quan lập lâu đời. Hòa Thượng Nhơn Nguyện trùng tu triều Khải Định (1916-1925).
Ngài Nhơn Nguyện xuất gia lúc 9 tuổi. Bổn sư là Hòa thượng Phổ Xứ chùa Kim Long Ninh Hòa. Ngài có hơi tối dạ. Những lúc không thuộc kinh, Hòa thượng bắt ôm cột chùa để định tâm tĩnh ý. Khi đã hiểu được đạo lý, Ngài lên núi Phú Nhơn ngồi dưới gốc cây Ké đôi, tụng niệm. Ngài ngồi suốt một tuần nhật. Cọp ngồi chung quanh thèm ăn nhiểu nước bọt đọng vũng. Sau ngài vào trụ trì chùa Linh Quang, và trùng tu chùa được trang nghiêm hơn trước. Chùa trùng tu xong, Ngài nhập thất. Ngót ba năm ngài chỉ ăn rau muống sống và ớt vào đúng ngọ. Do đó người địa phượng gọi là Hòa Thượng Rau. Sau ba năm, ngài thọ trì kinh Pháp Hoa rồi thiết hỏa đàn trà tì. Đệ tử thâu xá lợi, lập tháp thờ. Truyền rằng: Khi mới đến chùa Linh Quang, ngài Nhơn Nguyện thường ngồi tu trong hang đá phía sau chùa. Trong hang có một cọp mun, một con rắn cụt đuôi và một con tắt kè cũng cụt đuôi. Ba con vật đối với Ngài như người quen thuộc, và ngài coi ba con vật như ba đệ tử thân yêu. Ba con vật thường đến nhảy giỡn trước sân chùa. Nhưng sau khi ngài viên tịch rồi thì không còn thấy chúng lai vãng. 53
Chùa hiện còn tốt. Nhưng trong vùng mất an ninh, nên cửa chùa tạm đóng.
18) THIÊN QUANG TỰ
Chùa ở thôn Phú Lộc. Mặt ngó vào Nam. Phía trước, con sông Cái chạy từ Tây xuống Đông, cát vàng nước bạc ; và cây cối phía bên kia sông bát ngát một màu xanh. Phía sau có miếu Thành Hoàng, đứng trên ngọn đồi Sơn Lâm xa trông như ngọn bút. Phía tả có miếu Hội Đồng, miếu Tam Tòa. Phía hữu, gần mé sông có miếu Văn Thánh. Cảnh trí thật mỹ quan.
Chùa mới cất thời Bảo Đại (1925-1945), nhưng kiểu thức hoàn toàn cổ. Hình chữ Môn. Chính điện ba gian hai chái, cột láng kèo trơn. Nhà Tây nhà Đông, rộng rãi mát mẻ. Cách bài trí đơn giản nhưng trang nghiêm. Mùi hương mùi hoa trên áng ngoài sân gây một bầu không khí nửa nồng nửa đạm. Chùa lại cất trong một khoảnh vườn rộng và nhiều cây cối, khiến cảnh chùa thêm vẻ u tịnh thanh bình.
Tổ khai sơn là Ngài Trừng Thông, pháp hiệu Nhơn Duệ, bào đệ ngài Nhơn Nguyện chùa Linh Quang. Ngài Nhơn Duệ đạo hạnh cao, phép lý sáng. Cất chùa Thiên Quang xong, ngài nhập thất ba năm rồi thiết hỏa đàn trà tì. Đệ tử thâu xá lợi và lập tháp thờ trong vườn chùa. Nơi ngài trà tì có xây một tiểu đài làm kỷ niệm.
Trong thôn Phú Lộc có đến 4 ngôi chùa:
- Phong Lộc, ở xóm Đông (gần sông Cái).
- Quang Lộc, cũng ở xóm Đông.
- Huệ Quang, ở xóm Trung.
- Thiên Quang, ở xóm Thượng.
Nhưng chùa Thiên Quang nổi danh hơn cả là nhờ tư thế tổ khai sơn.
Gần đây lại xảy ra một sự kiện làm cho du khách thêm để ý đến chùa Thiên Quang. Nguyên phía Tây chùa có một ngọn đồi tục danh là Hòn Tháp nằm một nửa bên Phú Lộc, một nửa bên Đại Điền Tây. Trên gò có 7 ngọn tháp lâu đời, trải nắng mưa ít ra cũng vài ba thế kỷ. Xưa nay ai cũng tưởng là tháp của Chiêm Thành nên không gìn giữ. Tháp hư sập lần lần, chỉ còn ba ngọn, một lớn hai nhỏ. Vì trên gò có tháp, nên gò mệnh danh là Hòn Tháp. Ba ngọn tháp còn lại đứng vững trên dưới một trăm năm nay. Gần đây có phong trào tìm vàng. Những mộ cổ tháp cổ của Chàm đều bị kẻ gian manh quật khởi. Ngọn tháp lớn trên gò bị đào sập. Một ngọn nữa mới đào lỡ dở rồi bỏ. Chư tăng chùa Thiên Quang được tin đến xem thì thấy trong tháp bị đào lỡ dở, nơi lỗ đào bày ra một bình bát màu nâu. Mở bình ra, chỉ thấy một ít tro và vài đốt xương trắng.
Bằng theo di tích, biết rằng những ngọn tháp kia không phải của người Chàm mà là của các thiền sư hoặc người Trung Hoa hoặc người Việt Nam, các tăng sĩ chùa Thiên Quang đặt bình bát đựng linh cốt vào tháp, lấp lại tử tế, và ra công coi ngó những ngọn tháp còn lại. Tháp xây bằng vôi. Kiểu thức thô phác và có tính cách Việt Nam. Trông giống những tháp trong các chùa cổ. Một ngọn còn giữ được hình hoa sen trên đỉnh và một cây bồ đề mọc lên trên, rễ bao trùm cả ngọn tháp. Thật là một cổ tích đáng bảo tồn vậy.
Khách du lịch muốn đến xem tháp đều phải ghé vào chùa Thiên Quang. Do đó chùa đã có tiếng thêm nổi tiếng.
19) GIÁC HẢI TỰ
Chùa ở thôn Xuân Tự, phía Nam đèo Giốc Thị. Khai cơ là T.T. Thích viên Giác, đệ tử Bích Không Đại Sư chùa Hải Đức. Chùa cất năm Bính Thân (1956). Cạnh chùa có điện Nam Hải Quan Âm với pho tượng đúc Bồ Tát bằng thạch cao, trang nghiêm tráng lệ. Chùa dựng trên một ngọn đồi tục gọi là Núi Ông Sư. Mặt ngó vào Nam. Đồi trước đây hoang vu, gai gốc rậm rạp. Nhưng xưa kia dường như đã có chùa hoặc am, nên đồi mới mang tên là Núi Ông Sư. Thêm nữa, trên đồi có hai cây me già cỗi, tuổi ước trên vài trăm, đứng song song một cách cân đối, không phải mọc tự nhiên, mà chắc là hai cây me trồng trước sân để lấy bóng mát. Rồi chùa am mất, cây còn lại với nắng mưa. Thượng Tọa khai sơn đã dùng hai cây me cổ thọ để nhắm phương hướng cho ngôi chùa. Hiện hai cây đứng trước sân chùa Giác Hải như hai trụ ba biểu.
Kiến trúc của chùa không có gì lạ nhưng phong cảnh thật là mỹ quan. Ngọn đồi hình mai rùa. Phía Tây hòn Phổ Đà Sơn tức là núi Bồ Đà, giống con voi nằm ngó ra Bắc, chung quanh gò đống ngổn ngang. Dưới chân đồi, cũng phía Tây, con đường Quốc Lộ số 1 chạy từ Nam ra Bắc, vượt qua đèo Giốc Thị, như một con hắc mãn xà đương đi, khúc cong khúc thẳng. Phía Nam phía Bắc, nhà cửa ruộng nương của thôn Xuân Tự ẩn hiện dưới bóng dừa xanh xoài xanh. Và phía Đông, vịnh Vân Phong trông như hồ bán nguyệt, mây nước thương mang, nửa mờ nửa tỏ. Đứng nơi sân chùa trông ra, cảnh Vân Phong thật vô cùng ngoạn mục.
Bán đảo Bàn Sơn ở phía Bắc, bán đảo Phước Hà ở phía Nam như hai cánh tay ôm lấy vịnh và hòn Đại Dự tức Hòn Lớn đứng làm bình phong. Biển xanh màu chàm, non xanh màu lá, trời xanh màu dương. Và hòn Đại Dự trông giống người đàn bà nằm trở đầu vào Nam, ngửa mặt lên trời, chân trái co, chân phải duỗi ; trán, cằm, ngực, bụng, có đủ, và đường cong nét thẳng rõ ràng, nhịp nhàng như một pho tượng vĩ đại bằng đá xanh. Vì phía Tây có hòn Phổ Đà Sơn và vịnh Vân Phong lại thuộc về Nam Hải, nên người cửa Phật bảo đó là tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Cảnh là hình ảnh của Tâm. Những người không có Phật tâm mà có thánh tâm hoặc thị tâm thì nhất định thấy khác. Nhưng không ai không công nhận là một bức tranh sơn thủy hữu tình.
Trong chùa lại có rất nhiều huyền thoại 54. Song huyền thoại cũng như rượu nho, phải đợi ngày tháng dầm ngâm, thì vị mới đằm hương mới đượm. Chớ vách chùa rêu chửa phong, Thượng Tọa khai sơn chưa thiết giàn hỏa, thì chất nho chưa tan biến không làm cho người hảo tửu khoái khẩu khoái tâm.
Nhưng nước dừa xiêm cần chi phải thêm đường cát. Nội cảnh nước non trước mắt cũng đủ làm cho du khách một khi lên chùa Giác Hải, lúc ra về không ai không ước ao cuộc trùng lai.
Khánh Hòa còn một ngôi chùa nữa, tuy mới cất chưa đầy ba mươi năm nay mà có tiếng không thua chùa Tổ. Đó là chùa Long Sơn.
20) LONG SƠN TỰ
Chùa nằm dưới chân hòn Trại Thủy, ngay kim thân Phật Tổ, mặt hướng về Nam. Trong các đối liên của chùa Hải Đức có câu:
Kim Sơn Long Sơn tại kỳ tả hữu,
Nha Hải Phước Hải bổn bất khứ lai.
Kim Sơn là chùa trên Núi Gành. Long Sơn là chùa nầy. Nha Hải là biển Cù Huân. Phước Hải là làng sở tại.
Chùa của Hội Phật Giáo Thống Nhất tỉnh Khánh Hòa. Kiểu thức tân thời. Có tánh cách một nhà giảng hơn một chùa Phật. Nhưng vị trí thì thật tốt. Chùa cất trên một trảng đất cao, nhìn ra đường Quốc Lộ số 1. Trước mặt đất rộng cây nhiều. Nên tuy gần đường xe ngựa xuống lên, Chùa vẫn giữ được vẻ thanh tịnh.
Trong các danh lam ở Khánh Hòa, chùa Long Sơn là ngôi chùa được du khách thường tới lui nhất, sau chùa Hải Đức. Đó không phải nhờ kiến trúc lạ mắt của chùa, cũng không phải vì phong cảnh khả ái, mà chính nhờ:
- Chùa ở gần thành phố Nha Trang, xe cộ đến được tận chân chùa, một cách thoải mái.
- Muốn lên chiêm ngưỡng Kim Thân Phật Tổ phải đi ngang qua chùa.
- Chùa của Tỉnh Hội, hầu hết những cuộc hội họp của sa môn tín đồ về Phật sự, tất cả những buổi lễ cầu siêu, cầu an của Chánh Quyền đều tổ chức tại chùa.
Những sự kiện khách quan đã làm cho chùa trở nên quan trọng. Cho nên nói đến danh lam thắng cảnh mà không nói đến Long Sơn Tự là một thiếu sót to.
Long Sơn Tự cũng nằm trong phạm vi hòn Trại Thủy. Không kể ngôi chùa tư nho nhỏ ở dưới chân núi bên nhánh phía Tây, Trại Thủy có ba chùa lớn:
- Chùa Hải Đức ở trên đầu núi, nhánh phía Tây.
- Chùa Bửu Phong cũng ở trên đầu núi nhánh Nam.
- Chùa Long Sơn ở dưới chân núi, nơi nách nhánh Nam và nhánh Đông.
Nếu nơi đầu nhánh Đông, một ngôi chùa nữa thế cho nhà đồng bào tản cư, thì Trại Thủy là một bài thơ đối rất chỉnh vậy. Và ước mong sao trong các ngôi chùa ở Trại Thủy có được những vị sư lừng danh như quý ngài: Đạo Sanh, Huệ Duệ, Huệ Nham, Huệ Quán, Huệ An… là các môn hạ trong hệ thống truyền thọ của ngài Cưu Ma La Thập, để hòn Trại Thủy trở thành hòn Lô Sơn và đá mọc quanh chùa biết gật đầu đảnh lễ trước Kim Thân Phật Tổ.
Ở Khánh Hòa chắc còn nhiều ngôi chùa quan trọng. Nhưng tiếc rằng chưa gặp được thiện duyên. Nên tạm ngừng nơi chùa Long Sơn và ngâm câu thơ của ngài La Thập:
Tâm sơn dục minh đức,
Lưu huân vạn do diên.
Chú thích:
[1] Đã nói rõ ở mục Sông Nha Trang.
[2] Phương Đình Dư địa Chí do Ngô mạnh Nghinh dịch, trang 161.
[3] Đại Nam Nhất Thống Chí do Nha Văn Hóa xuất bản trang 88 quyển 10 và 11.
4- Thuần Phu tiên sinh người Quảng Nam vào trú ngụ ở Nha Trang từ lúc bé và nhập tịch Khánh Hòa.
5- Biển Nha Trang nhiều én, nên khách làng thơ gọi là Yến Hải. Đồng Bò ở phía trong Phước Hải.
6- Thơ của Định Phong họa vận thơ Vịnh Nha Trang của Thuần Phu.
7- Đã tả rõ ở đoạn trước: Chương Địa lý, mục Núi Non.
8- Đã tả rõ ở đoạn trước: Chương Địa lý, mục Núi Non.
9- Đã tả rõ ở đoạn trước: Chương Địa lý, mục Núi Non.
10- Trà tỳ là tự thiêu.
11- Xá lợi là những mảnh xương còn sót lại. Xem thêm mục «chùa chiền» đoạn nói về chùa Hội Phước.
12- Thơ của Trương Duyệt.
13- Xem sự tích nơi Suối Tiên sau đây.
14- Bà Tùng Trang cùng «đấng phu quân» không ăn ở với nhau đã lâu, nhưng vẫn còn là vợ chồng. Đến lúc già hai ông bà lại về ở Nha Trang chung một con đường, bà đầu trên, ông đầu dưới, mỗi người một giang san độc lập, không mấy ai biết đó là cặp vợ chồng.
15- Đã nói rõ ở phần Lịch sử tỉnh Khánh Hòa.
16- Đã nói rõ ở phần Lịch sử tỉnh Khánh Hòa.
17- Chuyện này do cụ đề Ngô Văn Nhượng thuật lại.
18- Câu chuyện quan án Nguyễn Đình Văn sống với ma, cũng như câu chuyện các ông bát Phàn, cửu Khi, chánh ca Dựng thấy ma, do ông bạn Thọ Nguyên, môn đệ thân tín cụ Đào Phan Duân kể cho nghe. Ông bạn cho biết rằng chính ông bạn được nghe cụ Đào thuật lại. Chuyện có vẻ Liêu Trai. Song cụ Đào là bậc tác nho tuổi cao đức trọng, lời nói của cụ không thể nghi ngờ được.
19- Vì bia mờ quá không đọc được nên chép theo lời truyền.
20- Phong Cảnh đã tả rõ ở phần «Địa lý», Chương «Núi Non», mục «Núi Chúa».
21- Xem sự tích ở đoạn trước, mục «Tháp Bà».
22- Xem sự tích ở đoạn trước, mục «Tháp Bà».
23- Có người lầm là Thánh Khổng Phu Tử. Đức Khổng là Thánh nhân. Còn Thánh Thờ ở miếu Hội Đồng là Thánh thần, có quyền phép, hay phù hộ người mà cũng hay quở phạt.
24- Vì thấy có chỗ khác nhau giữa Khánh Hòa và Bình Định nên chép lại cho vui. Theo các vị phụ lão tin Thánh thì bà Thiên Y đại diện chư thánh trên thiên cung, coi ngó người thế gian từ Khánh Hòa ra Thừa Thiên, còn từ Thừa Thiên ra đến Thanh Hóa thì thuộc phạm vi bà Liễu Hạnh Công Chúa.
25- Xem thêm phần «Địa Lý» mục Núi Sinh Trung ở trước.
26- Xem «Đèo Cổ Mã» ở phần Địa Lý, mục núi đèo.
27- Ở Phú Yên tại núi Nhạn Tháp cũng có đền thờ bà Chúa Sắt, được các vua chúa Nhà Nguyễn phong tặng là «Thượng Đỉnh Chúa Thiết Bà». Thần thờ nơi đền Mã Cảnh không biết có phải vị thần ở Phú yên chăng. Vì trong đền không còn bài vị nên không thể tra cứu được.
28- Ở Lỗ Đoi tại Thác Nhét thuộc quận Diên Khánh, khi ghe bè đi ngang chỉ lấy sào thọc vào mấy cái, chớ không có cúng tế như ở Lỗ Lườn. (Xem chương Sông Ngòi ở phần II. Mục Sông Nha Trang về Thác Nhét đã nói kỹ).
29- Hòa Thượng viên tịch năm Giáp Thân, ngày mồng 2 tháng chạp, tức năm 1764, thời Cảnh Hưng (1740-1765).
30- Thuật theo lời Thượng Tọa Tịch Tràng, trụ trì Chùa Linh Sơn.
31- Trà Tì là lên dàn hỏa tự thiêu. Thiêu xong còn một ít xương sót lại gọi là xá lợi, được thu nhặt và lập tháp thờ. Các vị cao tăng thời trước thường tự thiết hỏa đàn để trà tì.
32- Thuật theo lời Đại Đức Hạnh Hải, trụ trì chùa Thiên Bửu ở Ninh Hòa.
33- Thuật theo lời Đại Đức Minh Mỹ người Ninh Hòa.
34- Những chuyện trên do Đại Đức Minh Mỹ người Ninh Hòa thuật lại.
35- Trong Đại Nam Nhất Thống Chí chép là Linh Sơn Tự nhưng tấm biển treo nơi chùa đề là Linh Phong Cổ Tự và người địa phương vẫn gọi là chùa Linh Phong.
36- Trong Đại Nam Nhất Thống Chí chép tên chùa là Linh Sơn tự, không biết có phải do chữ trong câu đối mà ra chăng. Và chữ Linh Sơn đây không biết chỉ chùa hay chỉ núi.
37- Đại Nam Nhất Thống Chí chép là «Quang Tổ Đạo» Khánh Hòa ngày xưa có huyện Quảng Phước (Vạn Ninh hiện thời). Không biết trong câu đối chỉ huyện hay nói về nhà Nguyễn Phước.
38- Câu đối đề lúc còn làm Thế Tử mà sao lại đề là « Quốc chủ ». Nếu đề khi đã lên ngôi Chúa rồi thì năm Dần kia không phải là Giáp Dần mà là Bính Dần, hoặc Mậu Dần, Canh Dần.
39- Sách không nói tỉ mỉ. Đây là nghe các vị phụ lão kể lại.
40- Chùa phát hỏa năm nào không được rõ, chừng vào khoảng cuối triều Khải Định đầu triều Bảo Đại.
41- Tấm biển «Linh Phong Cổ Tự» không bị cháy, chỉ bị thất lạc. Sau có người tìm được đem cũng cho chùa Bửu Phong ở Phước Hải (trên đồi Trại Thủy).
42- Xưa kia vùng Nha Trang Tây thuộc về Phương Sài.
43- Đã nói rõ ở đoạn trước về Nha Trang.
44- Tiểu sử Huệ Giáo Hòa thượng đã nói rõ ở mục «Chùa Thiên Đức». Tiểu sử Phước Huệ Hòa thượng đã nói rõ trong tập Chùa Hải Đức do Phật Học Viện Nha Trang xuất bản năm 1964.
45- Quí Ngài trụ trì chùa Hải Đức thuộc phái Lâm Tế, dòng Tổ Vạn Phong. Xem mục «Phật Giáo ở sau.
46- Tiểu sử của Đại sư đã nói rõ trong tập «Chùa Hải Đức».
47- Đã tả rõ ở chương «Núi Non» mục nói về Trại Thủy, và ở chương «Thắng Cảnh Cổ Tích» mục nói về Nha Trang.
48- Ruộng nầy đến triều Bảo Đại (1924-1925) bị xung công.
49- Chuyện nầy do Đại Đức Thiện Danh Trụ trì chùa Linh Phù thuật lại.
50- Câu chuyện Long thần tặng gỗ do Đại Đức Như Pháp thuật lại. Các vị phụ lão ở Phú Ân Nam công nhận rằng có nghe ông bà kể lại na ná như thế.
51- Xem đoạn trước, mục «miếu cây Dầu Đôi».
52- Những truyện trên do vị trụ trì chùa Hoa Tiên thuật lại.
53- Những chuyện trên do Đại Đức Hạnh Giác, trụ trì chùa Thiên Quang ở Phú Lộc kể lại.
54- Tập Phổ Môn diễn nghĩa của T.T. Viên Giác có nói rõ ở phần phụ bản.
Quách Tấn
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

​ Ký Ức về Taberd Sài gòn… Để tưởng nhớ về sư huynh Félicien Huỳnh Công Lương, Edmond Nguyễn Văn Công, Bonnard Hồ Đình Bá và những sư ...