Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024

Xứ Trầm Hương 1

Xứ Trầm Hương 1

LỜI THƯA
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương
Non cao biển rộng người thương đi về.
T.X.
KHÁNH HÒA là XỨ TRẦM HƯƠNG
Nhưng XỨ TRẦM HƯƠNG không phải là Khánh Hòa Tỉnh chí.
Bởi Địa Phương Chí, thiết tưởng, phải do nhà Địa Lý Học chuyên môn hoặc người địa phương lịch lãm ra công biên khảo, thì mới nói được đầy đủ những gì đáng nói, cần nói, và những gì nói ra mới thật chính xác, mới có sinh khí, mới phản ảnh đúng chân diện mục của nước non.
Tôi không phải nhà Địa Lý Học chuyên môn, lại là người Bình Định. Tự biết không đủ khả năng, không đủ tư cách, lẽ đâu lại đi viết địa phương chí Khánh Hòa.
Viết XỨ TRẦM HƯƠNG, tôi chỉ làm một việc mà nhiều người có thể làm được, nếu muốn, là ghi chép lại những gì đã thấy, đã nghe, đã cảm trong mấy mươi năm sống cùng non nước Khánh Hòa.
Ghi chép lại vì nhận thấy đẹp, thấy hay, thấy thú, thấy đáng yêu đáng quí, đáng ra công gìn giữ cho đoàn hậu tiến có lòng cùng nước cùng non.
Ghi chép lại hầu mong bạn phương xa ghé mắt rồi đem lòng thương tưởng đến Khánh Hòa mà tôi kính yêu như bà Nghĩa Mẫu, vì nuôi nấng tôi gần nửa đời người.
Mục đích viết XỨ TRẦM HƯƠNG là thế, và chỉ có thế.
Nghĩa là tôi không có tham vọng viết một quyển sách địa lý, mà chỉ mong giới thiệu được những cái hay cái đẹp của Khánh Hòa, về mặt thiên nhiên cũng như về mặt nhân sự.
Cho nên tôi thiên về phong cảnh, cổ tích, giai thoại, huyền thoại… là những cái dễ mất. Còn những gì thuộc về khoa học, thuộc về chuyên môn thuần túy, là những cái thường còn, thì nhượng cho các nhà học giả.
Do đó XỨ TRẦM HƯƠNG có tánh cách một tập du ký hơn là biên khảo.
Vì vậy nên bảo XỨ TRẦM HƯƠNG không phải là Địa Phương Chí Khánh Hòa.
Thế thì nó là gì?
Tùy cao tình nhã ý của bạn đọc.
Tấm lòng đã trải cùng non nước,
Thương được nhờ ơn chẳng cũng nhờ.
Xin thưa thêm chút nữa:
XỨ TRẦM HƯƠNG vốn là ĐÔI NÉT VỀ TỈNH KHÁNH HÒA nhuận chính và bổ túc.
Và ĐÔI NÉT VỀ TỈNH KHÁNH HÒA hoài thai từ thời Pháp thuộc, lúc tôi còn làm việc tại Tòa Sứ Nha Trang (1935-1945).
Lúc ấy thỉnh thoảng đi theo làm thông ngôn cho các nhà du lịch, các nhà khảo cổ ngoại quốc, tôi biết được thêm một ít thắng cảnh, một ít cổ tích ở những nơi xa vắng, ngoài những danh thắng ở gần nơi xe ngựa lại qua. Tôi lại được các vị tiền bối như cụ cử PHAN BÁ VỸ, cụ đề NGÔ VĂN NHƯỢNG, nhà nho TRẦN KHẮC THÀNH… kể cho nghe nhiều sự tích ly kỳ lý thú.
Nhờ đó mà tôi viết nên ĐÔI NÉT TỈNH KHÁNH HÒA.
Viết năm 1962.
Viết để thuyết trình trong một buổi học tập thường kỳ của anh chị em công chức Nha Trang, và để đọc trên Đài Phát Thanh Nha Trang mỗi chiều thứ bảy.
Sau tôi in ronéo cho phổ biến.
HIẾU CHÂN và một số thân hữu xa gần tán thưởng.
Giáo sư PHAN NGỌC CHÂU ở Saigon, cao hứng, viết bài phê bình đăng phụ trương báo Tự do số 1902, 1908 ra ngày chúa nhật 14 và 21 tháng 7 năm 1963.
Viết văn mà được hàng thức giả để ý là một cái thú vô giá. Riêng tiếc chưa nói hết được những gì mình được biết về Khánh Hòa.
Duyên may run rủi:
Trong bức thư gởi cho tôi cuối xuân năm Mậu Thân (22-4-68), NGUYỄN HIẾN LÊ khuyên nên viết kỹ lại.
VÕ HỒNG và CHÂU HẢI KỲ cổ xúy thêm.
Nguồn hứng vừa khơi thì lại gặp Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ và Đại Đức HẢI TUỆ. Hòa Thượng hứa ủng hộ việc xuất bản. Đại Đức giúp phương tiện đi thăm lại những cảnh cần thăm và có thể đến thăm.
Trong lúc đi, tôi thu thập thêm được nhiều tài liệu quí báu.
Thật là những liều kích thích tố tinh thần khiến tôi hăng hái làm việc.
Khởi sự từ đầu tháng 9 năm 1968, tôi quyết cố gắng hoàn thành trước tháng 12, hầu mong kịp ra mắt bạn đọc trong dịp xuân Kỷ Dậu, để làm «quà mừng» tuần hoa giáp của tôi.
Nhưng trời chẳng chìu người! Vừa viết xong được hơn ba phần tư thì tôi bị ngọa bệnh.
Sáu tháng trôi xuôi!
Mãi đến tháng 6 năm 1969, tôi mới tiếp tục lại được công việc bỏ dở!
Và đã hoàn tất sau một thời gian cần cù.
Nhận thấy tên ĐÔI NÉT VỀ TỈNH KHÁNH HÒA không được gọn, bèn đổi là XỨ TRẦM HƯƠNG.
Nâng niu bản thảo, tôi chợt nhớ đến câu hát xẩm của Tản Đà Tiên sinh: «Văn không hay thi không đỗ thời đừng… Gió mưa khỏi chết, nửa mừng (anh lại) nửa thương! Nghiệp bút nghiên cay đắng trăm đường!»
Lòng thê nhiên cảm khái.
Nên trước khi dừng bút, xin có mấy lời thành kính:
- Bộc bạch tấc lòng cùng bốn bể tri âm.
- Hoài niệm các bậc tiền bối mà buổi sinh tiền đã giúp tôi hiểu biết được Khánh Hòa.
- Tạ lòng Hòa Thượng và Đại Đức cùng quí bạn thân mến « đã lòng hạ cố đến nhau ».
- Thỉnh cầu các bậc cao minh chỉ giáo cho những điểm sai lầm thiếu sót, mà dù cố gắng đến đâu cũng không sao tránh khỏi, hầu mong khỏi mang điều « thiên tải ngộ nhân ».
Nợ dâu vướng ruột tằm xuân,
Bao phen ngủ thức, bao lần nắng mưa…
Băn khoăn cơm đứng mà chờ.
Nước non xe thắm mối tơ chung tình.
Viết tại Nha Trang, tiết Tiểu Thử năm Kỷ Dậu
(Trung tuần tháng 7 năm 1969)
QUÁCH TẤN
Phần Thứ Nhất - Lịch Sử
Theo những sử liệu hiện hữu thì tỉnh Khánh Hòa ngày nay là phần đất của nước Tây Đồ Di thuở trước, sau bị nước Chiêm Thành thôn tính và đổi làm châu Kaut Hara. (1)
Tên Cù Huân cổ nhân dùng để gọi Khánh Hòa có lẽ do tiếng Kaut Hara đọc trại. Tại Nha Trang hiện còn một vùng gọi là Hà Ra. Như vậy tiếng Kaut người Chàm ngày xưa chắc đọc na ná như tiếng Cù Huân, hoặc Kaut đọc là Cù còn Huân là tiếng người Việt thêm sau cho đẹp lời.
Tây Đồ Di bị Chiêm Thành đánh lấy lúc nào không rõ, vì sách không thấy chép. Còn Kaut Hara trở thành đất nước ta thì từ giữa thế kỷ thứ XVII, thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
Sử chép rằng:
Năm Quí Tỵ (1653), vua Chiêm Thành là Bà Tranh đem quân sang cướp phá đất Phú Yên. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc cử binh vào đánh dẹp. Bà Tranh đại bại, dâng thư xin hàng. Chúa để phần đất từ sông Phiên Lang tức Phan Rang, trở vào cho vua Chiêm, còn từ Phiên Lang trở ra đến Phú Yên thì chiếm cứ, lập ra hai phủ là Diên Ninh và Thái Khang, và 5 huyện là Phước Điền, Hòa Châu, Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh, và Tân Định, Quảng Đức thuộc phủ Thái Khang. Hùng Lộc được bổ làm Thái Thú cai trị hai phủ. Dinh đóng tại Thái Khang.
Năm Canh Ngọ (1690), chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Tràn đổi tên phủ Thái Khang ra Bình Khang. Và năm Nhâm Tuất (1742) chúa Nguyễn Phúc Khoát đổi tên Diên Ninh thành Diên Khánh.
Từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp chúa cho đến đời Nguyễn Phúc Khoát, trải trên 150 năm, tuy làm chúa một phương, chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiện nhà Lê và theo chế độ phương`Bắc. Năm giáp tý (1744), chúa Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu, sửa chế độ, định triều nghi, biệt lập thành một nước tự chủ. Nước tuy độc lập nhưng chưa có Quốc Hiệu. Người ngoại bang thường gọi là Quảng Nam Quốc. Nước của Nguyễn Vương lúc bấy giờ gồm tất cả đất đai của nước Chiêm Thành cũ cộng với nước Thủy Chân Lạp, chạy từ Hoành Sơn đến Cà Mâu và chia làm 12 dinh.
Hai phủ Diên Khánh và Bình Khang cùng 5 huyện liên hệ thuộc dinh Bình Khang. Còn từ sông Phiên Lang trở vô thuộc dinh Bình Thuận. Mỗi dinh có quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục coi việc cai trị. Lỵ sở của Bình Khang vẫn đóng tại địa hạt phủ Bình Khang như thời Thái Thú.
Xứ Kaut Hara từ khi sáp nhập vào địa đồ nước ta cho đến khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương đổi thành dinh Bình Khang, trải gần 100 năm, không xảy ra một biến cố gì quan trọng. Nhưng sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất (1765), Định Vương Nguyễn Phúc Thuần kế nghiệp, thì trong nước sanh loạn lạc. Nhân dân phần thì bị bọn tham quan ô lại bóc lột, phần thì bị giặc cướp quấy nhiễu, không ăn yên ở yên, nơi nơi đồ thán.
Năm Tân Mão (1771), tam kiệt đất Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy nghĩa binh đánh chúa Nguyễn. Lòng người chán nhà Nguyễn Phúc hăng hái theo về nhà Tây Sơn. Nhờ vậy, không mấy lúc, nhà Tây Sơn đã dựng nên nghiệp lớn. Năm Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn bỏ thành Phú Xuân chạy vào Gia Định. Những đất đai từ Quảng Nam đến Bình Thuận đều lọt vào tay nhà Tây Sơn.
Nhưng liền đó, tướng nhà Nguyễn là Tống Phúc Hạp từ đất Long Hồ 2 kéo quân ra đánh lấy lại được dinh Bình Thuận và Phủ Diên Khánh. Nguyễn Huệ hay tin cử binh vào đánh Tống Phúc Hạp. Phúc Hạp không đương nổi. Diên Khánh và Bình Thuận trở về nhà Tây Sơn.
Hai năm sau (1776), Nguyễn Huệ đem binh vào lấy thành Gia Định. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần bị giết. Nhà Tây Sơn làm chúa toàn cõi lãnh thổ của nhà Nguyễn. Gần 20 năm trời, dinh Bình Khang, dưới quyền cai trị nhà Tây Sơn, được yên ổn. Nhân dân an cư lạc nghiệp. Nhưng sau khi Nguyễn Phúc Ánh được người Pháp giúp đỡ lấy lại được Gia Định rồi, thì can qua nổi dậy.
Năm Quí Sửu (1793) binh Nguyễn Ánh kéo ra đánh nhà Tây Sơn. Nguyễn Văn Thành cùng Tôn Thất Hội, Nguyễn Hoàng Đức kéo đại binh đi đường bộ, Nguyễn Phúc Ánh đem chiến thuyền đi đường thủy, kéo ra Bình Khang.
Bộ binh bị chận ở Bình Thuận.
Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá (tức là Phương Sài hiện thời). Hai bên kịch chiến. Người chết thuyền chìm đầy cả khúc sông. Cuối cùng quân Tây Sơn thất bại phải bỏ Diên Khánh và Bình Khang.
Chiếm được dinh Bình Khang, Nguyễn Phúc Ánh lo việc phòng thủ. Nhận thấy địa thế phủ Diên Khánh hiểm trở, bèn cho xây thành đào hào tại phủ lỵ để làm Tổng Hành Dinh, và cất trại lập xưởng ở dãy núi gần bến Trường Cá ở Nha Trang đề đóng tàu bè và giữ mặt biển. 3
Thành Diên Khánh đắp xong, Nguyễn Phúc Ánh giao cho Nguyễn Văn Thành trấn thủ. Sau cho Hoàng Tử Cảnh và Giám Mục Bá Đa Lộc ra tăng cường. Kế đó Võ Tánh lại ra thay. Thành đắp kiên cố. Phòng thủ cẩn mật. Tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu kéo quân vào đánh hai lần, năm Giáp Dần (1794) và năm Ất Mão (1795), mà không hạ được. Vì vậy từ khi Nguyễn Phúc Ánh đắp thành Diên Khánh thì dinh Bình Khang vĩnh viễn thuộc về nhà Nguyễn.
Năm Nhâm Tuất (1802), sau khi thống nhất lãnh thổ, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Gia Long và đặt Quốc hiệu là Việt Nam. Việc nước được sửa sang mọi mặt. Lãnh thổ Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, chia làm 4 doanh và 23 trấn.
Dinh Bình Khang đổi làm trấn Bình Hòa. Phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Dinh quan trấn thủ đóng tại thành Diên Khánh.
Đến đời Minh Mạng thứ 12 tức năm Tân Mão (1831), theo chế độ Trung Hoa, Trấn đổi thành Tỉnh. Trấn Bình Hoà đổi thành tỉnh Khánh Hòa. Diên Khánh vẫn được dùng làm tỉnh lỵ. Còn phủ huyện, thì phủ Bình Hòa đổi thành phủ Ninh Hòa, và sáp nhập huyện Hòa Châu vào huyện Phước Điền. Thành ra tỉnh Khánh Hòa lúc bấy giờ gồm có hai phủ và bốn huyện. Lo việc cai trị trong Tỉnh có quan Bố Chánh Sứ và Án Sát Sứ đặt dưới quyền quan Tuần Vũ coi hai tỉnh Bình Thuận và Khánh Hòa, gọi là Thuận Khánh Tuần Vũ. Còn ở phủ huyện thì có quan tri phủ tri huyện.
Từ đời Gia Long (1802-1820) đến cuối đời Tự Đức (1847-1883), ở Khánh Hòa không xảy ra việc gì quan trọng. Nhân dân được yên ổn làm ăn. Nhưng sau khi bọn thực dân Pháp để chân lên lãnh thổ Việt Nam, thì Khánh Hòa cũng như các tỉnh khác thường xảy ra những cuộc đổ máu.
Năm Ất Dậu (1885), Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương, các sỹ phu Bắc Nam đều hưởng ứng.
Ở Khánh Hòa, ông Trịnh Phong ở Phú Vinh (Vĩnh Xương), ông Trần Đường ở Hiền Lương (Vạn Ninh) và ba anh em ông Nguyễn Khanh ở Võ Canh (Vĩnh Xương), chiêu mộ hào kiệt, ứng nghĩa Cần Vương chống Pháp. Ông Trần Đường giữ mặt Bắc, đóng binh tại đèo Dốc Thị. Ông Trịnh Phong giữ mặt Nam, chia binh làm hai đạo, một đóng ở Diên Khánh, một đóng trên hòn Trại Thủy tại bến Trường Cá Nha Trang. Còn ba anh em ông Nguyễn Khanh lo việc tiếp tế cho toàn thể nghĩa binh.
Mùa thu năm Ất Dậu (1885), quân Pháp đổ bộ lên Nha Trang. Nghĩa binh do Trịnh Phong chỉ huy chận đánh. Tuy chỉ có hảo mai giáo sào, song nhờ tinh thần bất khuất, nghĩa quân chiến đấu anh dũng, chận không cho quân địch tiến lên Diên Khánh. Nhưng rồi gươm giáo không địch nổi cùng súng trường, đại bác, nghĩa quân phải rút về Diên Khánh giữ thành. Quân Pháp kéo đến công thành kịch liệt. Nghĩa quân ra sức chống giữ, cứ ban ngày thì đóng chặt cửa thành ở trên bắn xuống không cho địch đến gần, còn ban đêm thì lẻn ra đánh úp.
Khi mới khởi nghĩa thì các quan Tỉnh, Phủ, Huyện đều theo nghĩa binh. Nhưng được ít lâu họ nhận thấy địch quá mạnh không thể thắng nồi, bèn lén ra đầu giặc. Bao nhiêu cơ mật trong thành đều bị tiết lộ! Địch bèn đắp ụ đất ở ngoài thành, rồi kê súng đại bác bắn vào. Các kho thuốc súng bị bắn cháy. Nghĩa binh không chịu nổi sức công phá, phải bỏ thành, theo đường núi ra giữ mặt Bắc cùng Trần Đường. Trần Đường chia quân ngăn các đường bộ. Trịnh Phong xuống trấn tại Hòn Khói để chặn mặt biển.
Quân Pháp lập cơ sở ở Nha Trang và Diên Khánh xong, kéo quân ra đánh mặt Bắc. Nhờ thế núi sông và sức ủng hộ của toàn dân, nghĩa quân cầm cự cùng địch bằng những trận du kích chớp nhoáng. Để thêm sức mạnh, nghĩa quân Khánh Hòa liên kết cùng nghĩa quân Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định thành một khối. Nhờ vậy mà gần hai năm trời chiến đấu bằng vũ khí thô sơ, nghĩa quân đã làm cho quân địch khiếp phục lòng dũng cảm, đức hy sinh của dân tộc Việt Nam trong nhiều trận kịch chiến.
Đầu thu năm Bính Tuất (1886), viên công sứ Aymonier, viên Thiếu Tá De Lorme cùng tên Việt gian Trần Bá Lộc từ Saigon kéo đại binh ra đánh.
Trần Bá Lộc là một tên gian xảo và độc ác. Một mặt va thảm sát lương dân để khủng bố tinh thần kháng chiến, một mặt va mua chuộc bọn mãi quốc cầu vinh để dò biết mật khu và cơ sở kháng chiến. Rồi đem toàn lực quân đội bao vi công kich. Quân Pháp đã đông lại đầy đủ binh khí tân chế, cứ nhắm những chỗ hiểm yếu mà tấn công. Nghĩa quân đem hết tinh thần và năng lực ra chiến đấu. Nhưng lực lượng của địch quá mạnh, nghĩa quân chỉ chống cự được hơn hai tháng thì bị đại bại. Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh tuẫn quốc. Các bạn đồng chí lớp bị giết lớp bị tù đày. Còn binh lính những người còn sống sót đều bị Trần Bá Lộc bắt giết! 4
Thế là phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa chấm dứt, và nền đô hộ Pháp xây cao. Cũng như các tỉnh Trung Kỳ, Khánh Hòa nằm dưới hai ách cai trị: Chánh phủ Pháp và Chánh phủ Nam Triều. Cấp chỉ huy tỉnh thuộc Nam Triều gồm có Tuần Vũ, Án Sát, coi việc hành chánh và tư pháp, và lãnh binh coi việc canh gác các cơ quan cùng giữ an ninh trật tự trong tỉnh. Lỵ sở đóng tại thành Diên Khánh. Cơ quan lãnh đạo Pháp gồm có Chánh Sứ, Phó Sứ và giám binh, đóng tại Nha Trang. Nhân dân gọi cơ quan chỉ huy Pháp là Tòa, cơ quan Nam Triều là Tỉnh. Và Nha Trang từ ấy trở thành tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa và lần lần mở mang thành thị trấn.
Năm Mậu Tý (1888), vua Đồng Khánh trích huyện An Phước cùng 7 xã của huyện Tuy Phong và hai tổng của huyện Hòa Đa ra khỏi tỉnh Bình Thuận, và đem tháp nhập vào huyện Vĩnh Xương. Nhưng 10 năm sau, là năm Thành Thái thứ 13 (1901), các phần đất trên lại tách ra khỏi Khánh Hòa để thêm vào đạo Ninh Thuận mới thành lập. Sau đó còn nhiều về ranh giới, về lỵ sở và về danh hiệu của các phủ huyện. Song không có ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân bao lăm. Và suốt thời Pháp thuộc ở Khánh Hòa không xảy ra những vụ đổ máu người Việt Nam yêu nước như ở các tỉnh miền ngoài.
Duy năm Mậu Thân (1908), người Khánh Hòa phải chứng kiến một việc thương tâm do Nam Triều tác nghiệt. Đó là việc nhà chí sĩ Trần Quí Cáp phát động phong trào canh tân trong hàng trí thức, bị bọn quan lại của Triều đình Huế kết án tử hình và hành quyết tại cầu Sông Cạn (Diên Khánh). Việc nầy đã gieo trong lòng người dân yêu nước tỉnh Khánh Hòa và các tỉnh bạn, một mối hận nghìn thu. Cho nên khi Nhân Dân có quyền liền lấy tên nhà chí sĩ đặt tên cho một con đường trong thành phố Nha Trang chạy ngay trước nhà viên Tuần Vũ đã hãm hại người hiền.
Năm Tân Tỵ (1941), Nhật đem quân đến đóng Nha Trang, một nhóm nhân sĩ có tâm huyết tổ chức một đảng bí mật hầu lật đổ Thực Dân Phong Kiến. Đảng lấy tên là Việt Nam Ái Quốc Đảng. Nhật muốn lợi dụng nên giúp vũ khí và ủng hộ về mặt tinh thần. Hai Chánh Phủ Pháp Nam biết, nhưng vì sợ Nhật nên để yên. Song địa bàn hoạt động không được rộng, bởi thiếu người đủ khả năng lãnh đạo, nên không làm được việc gì có lợi cho Tổ Quốc và gây được ảnh hưởng trong nhân dân.
Mùa xuân năm Ất Dậu (9-3-1945), Nhật đảo chánh Pháp. Cuộc đảo chánh rất mau lẹ và không đổ một giọt máu, không tốn một viên đạn. Người trong đảng Việt Ái được mời ra nắm Chánh quyền tỉnh Khánh Hòa. Nhưng những người có khả năng không chịu ra, còn những kẻ muốn ra lại không đủ tài sức. Nhật bèn giao quyền hành chánh cho các quan Nam Triều. Cơ quan hành chánh tỉnh Khánh Hòa liền dời xuống đóng nơi Tòa Sứ cũ Nha Trang.
Mùa thu năm đó (19-8-45), Việt Minh đứng dậy cướp chánh quyền. Cuộc cướp chánh quyền của Việt Minh không chút khó nhọc, vì Nhật đã đầu hàng Đồng Minh và quan lại Nam Triều không có binh lực. Nhưng Việt Minh nắm chánh quyền chỉ được hai tháng thì Pháp đổ bộ lên Nha Trang và đánh lấy lại Khánh Hòa.
Pháp nắm giữ chánh quyền, nhân dân Khánh Hòa chịu không biết bao nhiêu tang tóc. Theo Pháp thì bị Việt Minh khủng bố. Theo Việt Minh thì bị Pháp khủng bố. Đồng bào Khánh Hòa sống trong cảnh đau khổ hãi hùng gần 10 năm, cho đến khi đất nước chia hai (1954).
Năm 1955, Chánh thể Cộng Hòa thành lập trên phần đất Miền Nam Việt Nam tự do. Tỉnh Khánh Hòa cũng được tổ chức lại trên mọi phương diện. Các phủ huyện đổi thành quận. Các làng đổi thành xã.
Tháng 5 năm 1959, hai tổng Krang Ying và Krang Hinh thuộc tỉnh Đarlac được sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa và lập thành quận Khánh Dương.
Tháng 4 năm 1960, 12 thôn Thượng thuộc quận Cam Lâm được trích ra khỏi Khánh Hòa để nhập vào quận Du Long tỉnh Ninh Thuận.
Tháng 10 năm 1965, một phần đất quận Cam Lâm ở phía Nam bị cắt để thiết lập Thị Xã Cam Ranh.
Hiện nay tỉnh Khánh Hòa còn 6 quận kể từ Nam ra Bắc: Cam Lâm, Diên Khánh, Vĩnh Xương, Ninh Hòa, Vạn Ninh và Khánh Dương. Và tình hình trong tỉnh trong mấy năm nay tương đối yên ổn hơn tất cả các tỉnh Trung Việt. Hiện thời, mặc dù ở trong tình thế bất an, nhân dân Khánh Hòa vẫn hăng hái làm ăn, hăng hái góp phần vào công việc xây dựng hòa bình thịnh vượng cho Tổ Quốc nói chung và cho tỉnh nhà nói riêng. Và chiến tranh tuy chưa dứt, nơi thôn quê còn nhiều nơi đồng bào chưa hồi cư, nhưng quang cảnh Khánh Hòa trông đã có phần khởi sắc.
Chú thích:
[1] Kaut Hara thuộc Panduranga (Phan Đô Lung) chạy từ núi Thạch Bi đến cuối Bình Thuận. Sử nhà Minh chép: Nước Chiêm Thành cổ lai có 27 xứ, 4 phủ, 7 châu, 22 huyện. Nước An Nam lấy chỉ còn 5 xứ Bang Đô Lang (tức Phan Đô Lung) đến Chân Lạp mà thôi.
[2] Long Hồ là một dinh trong Nam.
[3] Do đó núi mệnh danh là Hòn Xưởng, hòn Trại Thủy. Sẽ nói rõ ở phần núi non.
[4] Xem «Phong trào Cần Vương» ở phần V.
Phần Thứ Nhì - Địa Lý
i. hình thế
khánh hòa
Là một tỉnh miền Nam Trung Nguyên Trung Phần. Nói theo thiên văn của ông cha ngày trước, thì nằm vào khoảng sao Dực sao Chẩn, kề sao Thuần Vỹ. Nói theo địa lý ngày nay, thì nằm giữa Vỹ tuyến 12 và 13.
- Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên.
- Phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận.
- Phía Đông giáp Nam hải, chạy dọc theo bờ biển gần 120 cây số, sóng nước thương mang.
- Phía Tây dính liền vùng Cao Nguyên, giáp ranh tỉnh Darlac và Tuyên Đức, núi non trập trùng.
Hình thế thật là hiểm yếu. Núi rừng chiếm hết 15/16 của toàn tỉnh. Qua khỏi biên giới Phú Yên, núi Khánh Hòa mở rộng lên phía Tây và chạy xiên xiên theo hướng Tây Nam. Đến giữa Tỉnh thì quay lại lần lần xuống hướng Đông Nam gần sát biển. Do đó miền đất bằng, chiếm 1/16 diện tích, thon hai đầu và phình khoảng giữa, trông phảng phất một bầu rượu móp méo nhiều chỗ, để nằm khu trở vào Nam cổ xoay ra Bắc. Dưới chân núi Đại Lãnh, lắm nơi chiều rộng không quá một cây số. Vùng Ninh Hòa, Diên Khánh, Vĩnh Xương, nhiều chỗ rộng đến năm, sáu chục cây số. Đến gần ranh giới phía Nam, vùng Cam Lâm, lại thu hẹp lại còn từ mười đến mười lăm cây số.
Diện tích toàn tỉnh là 598.460 Mẫu Tây (Hectares). Trích giao cho Cam Ranh 55.275 Mẫu Tây. Còn lại 543.185 Mẫu Tây, tức 5.432 cây số vuông. Phong cảnh kỳ tú.
II. NÚI NON
Núi non Khánh Hòa trùng trùng điệp điệp, nơi khúc nơi bàn, thế thật hiểm trở. Các nhà quân sự bảo rằng rất có lợi cho việc dụng binh.
A) NÚI ĐẠI LÃNH, TAM PHONG
Làm chúa quần sơn Khánh Hòa là dãy Tam Phong cùng núi Đại Lãnh ranh giới cho Khánh Hòa và Phú Yên.
1) NÚI ĐẠI LÃNH
Núi Đại Lãnh nằm giữa Phú Yên và Khánh Hòa. Chỉ cao 620 thước, nhưng hình thế hoành tráng vỹ đại. Chạy từ Tây xuống Đông sát biển, làm bức thành thiên nhiên cho hai tỉnh Nam Bắc. Nhờ có Đèo Cả mở đường vô ra mà Bắc Nam khỏi bị ngăn cách.
ĐÈO CẢ cao dưới 500 thước, dài trên 10 cây số, quanh co đoanh lộn giữa khoảng biển rộng non cao. Con đường Quốc Lộ số 1 chạy ngang qua đèo. Hai bên đầu đèo lại có hai hầm xe lửa, là hầm số 6 ở Phú Yên và hầm số 7 ở Khánh Hòa. Xưa kia trên đèo có trạm gọi là trạm Phú Hòa. Phong cảnh Đại Lãnh rất đẹp.
Núi cao chớm chở ở phía Tây. Biển rộng mênh mông ở phía Đông. Ngồi trên xe khi lên khi xuống, khi lộn khi quanh, nhìn lên đỉnh mây xanh, nhìn xuống vực sóng bạc, lòng chúng ta không khỏi hãi hùng. Nhưng nếu giữ được tâm hồn bình tĩnh, rộng con mắt, trải tấm lòng, thì chúng ta hưởng được nhiều hứng vị.
Nhìn xuống Đông thì:
Lặc lìa biển trải cỏ xanh,
Lô nhô sóng bạc trỗ cành hoa tươi.
Vườn hoa bướm lượn thảnh thơi:
Gió đưa buồm trắng ra khơi chập chờn.
Còn trông lên phía Tây lại:
Cheo leo đá núi xây thành,
Đầu cây mây trải, chen cành suối tuôn.
Biển khơi nước chẳng quên nguồn,
Gành xa sóng vỗ tiếng luồn trong hoa.
Dừng chân đứng lại trên nơi cao nhất và rỗng nhất, trông vào Nam, thấy Tu Bông Vạn Giã, thì chúng ta không sao quên được câu hát của khách đa tình buổi trước:
Bước chân lên Đèo Cả,
Trông sang Vạn Giã,
Ngó lại Tu Bông,
Biết rằng cha mẹ đành không,
Anh chờ em đợi uổng công hai đàng.
Hoặc lời khẳng khái của những người biết trọng di luân:
Con ngựa tía ăn quanh Đèo Cả,
Bóng trăng rằm sắp ngả về đông.
Chẳng thà giục mã về không,
Chớ không thèm cướp vợ tranh chồng người ta.
Nếu chúng ta ngoảnh trông ra Phú Yên, chúng ta có thể mường tượng quang cảnh mả ông Cao Biền ở trong câu hát tình tứ:
Bước lên Đèo Cả,
Thấy mả ông Cao Biền.
Thấy đôi chim hạc đương chuyền nhành mai.
Phong cảnh Đại Lãnh vừa tú vỹ vừa hữu tình, nên được liệt vào danh thắng Việt Nam thật xứng đáng. Năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836), vua sai thợ chạm hình Đại Lãnh vào Tuyên đỉnh là một trong chín đỉnh đồng to lớn để trước sân Thế Miếu ở Thần Kinh. Và năm Tự Đức thứ sáu (1853) Đại Lãnh được liệt kê vào Từ Điển. Đó là một vinh dự lớn, không phải danh sơn nào cũng được dự phần.
Theo Đường Thư Hoàn Vương Truyện, thì núi Đại Lãnh là núi Đồng Trụ.
Sách ấy chép rằng: « Vua Lâm Ấp đại bại chạy qua Đại Phố, phía Nam Châu Đà Lãng (tức Đà Rằng ở Phú Yên). Ở đó có núi Ngũ Đồng Trụ, sườn phía Tây liền với gò đống ngổn ngang, sườn phía Đông giáp biển khơi. Nơi núi nầy xưa kia Mã Viện đã trồng trụ đồng vậy ».
Nhưng xét kỹ thì Mã Viện chưa từng đến đây. Bởi đời nhà Hán, vùng Phú Yên Khánh Hòa thuộc về nước Lâm Ấp. Mà suốt đời Mã Viện chưa cầm quân đánh Lâm Ấp lần nào. Năm Quí Mão, tức là năm 43 Tây Lịch, Mã Viện đem quân sang đánh Hai Bà Trưng và cướp lại đất Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cho Trung Hoa. Những đất nầy nằm từ đèo Hải Vân trở ra. Truyền rằng sau khi thắng trận, Mã Viện dựng trụ đồng khắc sáu chữ dọa nạt đồng bào ta: « Đồng trụ chiết, Giao Chỉ tuyệt ». Đồng bào đi qua lại, gai mắt lấy đá ném vào chân trụ, lâu ngày đá chồng thành núi, lấp mất trụ « ai ấy chép công ta chép oán, công riêng ai ấy oán ta chung ». Cho nên ngày sau không biết trụ trồng nơi nào. Nhưng chắc chắn không thể trồng ở Đại Lãnh được. Bởi Mã Viện không thể vượt non vượt biển vào dựng cột đồng trong một nơi không liên quan đến công việc đánh cướp của ông ấy. Người đời Đường ngồi bên Trung Quốc viết chuyện Việt Nam thời nhà Hán thì không sao trúng được, bởi không gian đã cách xa, thời gian cũng cách xa trên bảy thế kỷ (Nhà Đường đánh Hoàn Vương năm Mậu Tý 808).
Tuy vậy, đến ngắm cảnh Đại Lãnh mà biết thêm được một chuyện đời xưa « nói có sách » để kể cho nhau nghe, thì cũng là một cái thứ gia vị cho thú du quan.
2) NÚI TAM PHONG

Núi Tam Phong nằm phía Tây núi Đại Lãnh. Ở giữa Đại Lãnh và Tam Phong có núi Gian Nan tục gọi là núi Cục Kịch, trên núi có đèo, thế núi rất hiểm trở. Núi gọi là Tam Phong vì có ba ngọn núi cao vút mây đứng trên một căn đế:
- Ngọn cao nhất tên là Trấn Sơn tục gọi là Hòn Giữ (1.264 thước).
- Ngọn thứ nhì nằm phía Đông Hòn Giữ, tên là Hoành Sơn tục gọi là Hòn Ngang (1.128 thước).
- Ngọn thứ ba nằm phía Nam Hòn Ngang, tên gọi là Hộ Sơn tục gọi là Hòn Giúp (1.127 thước).
Chung quanh có nhiều núi non triều cũng khí thế thật là hùng.
Năm Ất Mão (1795) Trần Quang Diệu vây thành Diên Khánh. Nguyễn Ánh đem quân cứu viện, sai Tống Viết Phước giữ Đại Lãnh, Võ Văn Lượng đóng đồn ở núi Cục Kịch, để chận đường tiếp viện của Tây Sơn và đường rút lui của Trần Quang Diệu. Nguyễn Ánh từ Nha Trang đánh lên.
Trong khi Trần Quang Diệu đánh cùng Nguyễn Ánh thì ở Phú Xuân có nội biến. Để cứu nguy trong nội bộ, Trần Quang Diệu phải bỏ thành Diên Khánh rút quân về Phú Xuân. Đường biển và đường đèo đều có quân nhà Nguyễn ngăn chặn, việc rút binh không phải dễ dàng. Nhắm mặt đèo Cục Kịch, đèo Cả tuy binh đóng giữ không đông bằng mặt biển Nha Trang, nhưng núi non hiểm trở, vượt khỏi bức tường thành thiên nhiên do những ngọn Tam Phong, Gian Nan, Đại Lãnh kết hợp, phải hao tổn nhiều binh tướng, Quang Diệu bèn đánh mạnh xuống mặt biển, mở trùng vây mà ra.
Và suốt mười năm chống Pháp, Nghĩa binh đã tiêu diệt lực lượng địch tại những vùng núi nầy rất nhiều phen. Sau Hiệp Định Genève, đi ngang qua Đại Lãnh, du khách còn trông thấy những xe tăng thiết giáp của địch bị phá hủy nằm ngổn ngang dưới chân đèo và hai bên hố. Hùng khí ngất trời!
Trước kia dãy Tam Phong là dãy núi cao nhất tỉnh Khánh Hòa. Nhưng từ khi mở thêm quận Khánh Dương, thì núi Tam Phong phải nhượng núi Mẫu Tử vì núi nầy cao gần gấp đôi.
B) MẪU TỬ, NÚI KHÁNH DƯƠNG
Núi Mẫu Tử tục gọi là Mẹ Bồng Con, cao 2.051 thước, nổi bật lên trên hàng trăm ngọn núi bao quanh. Núi tuy cao, nhưng sườn không dốc. Đỉnh núi có phần bằng phẳng và không cây cao. Một tảng đá xanh lớn đến bảy tám ôm và cao có trên 15, 17 thước, đứng sừng sững giữa trời, quanh năm thường có mây quấn quít. Một tảng đá thứ hai, cao, lớn bằng nửa, đứng sát bên cạnh. Xa trông hình dạng phảng phất một người đàn bà đứng với một đứa con. Do đó núi mệnh danh là Mẹ Bồng Con. 1
Khách hàn mặc gọi là Mẫu Tử Sơn và người Pháp gọi là La Mère et l’enfant. Trong tiếng Hán Việt và tiếng Pháp không có chữ « bồng ». Trên thực tế « Mẹ » cũng không « bồng » mà chỉ « dắt ». Có lẽ để cho tình Mẫu Tử thêm nồng nàn khắng khít, cổ nhân thêm chữ « bồng » vào làm nhấn 2. Tiếng « Mẹ bồng con » nói lên nghe âu yếm quá!
Chung quanh « Mẹ bồng con » còn nhiều hòn đá to lớn nằm ngổn ngang. Có nhiều hòn trông rất ngoạn mục. Theo óc tưởng tượng của người xem, thì đây là « Rổ may với sợi chỉ thòng xuống đất », kia là « cối đâm, chày, sàng, chổi… », nọ là « con nghĩa khuyển nằm trông con gà cồ đương lẩn quẩn bên cối xay », v.v… Lại có một tảng vuông, trên mặt nổi lên nhiều núm đá tròn tròn nho nhỏ. Người ta bảo đó là « bàn cờ tiên mới dàn quân, nhưng mất hết một con tốt ».
Truyền rằng đá « Mẹ bồng con » xưa kia là người, và những đá chung quanh là đồ dùng và thú nuôi trong nhà.
Nguyên hai vợ chồng chán cảnh rộn rịp nơi dân gian, bèn đem nhau lên núi ở. Đến ở được bốn năm, sanh được đứa con 4 tuổi. Một hôm một người bạn cũ tu tiên đắc đạo tìm đến thăm hai vợ chồng. Chủ khách mừng rỡ. Vợ lo sửa soạn tiệc rượu đãi khách, chồng ngồi nghe bạn giảng phép tu tiên.
Khách nói: « Muốn cầu tiên thì phải đốt trầm hương mà khấn. Hương trầm đưa lời cầu nguyện lên cung Tam Thanh. Chư tiên đón lấy mùi hương đưa qua mắt mũi thì biết ngay người cầu nguyện cùng ý nguyện của người cầu ».
Chủ nhân hỏi: « Trầm hương tìm ở đâu ra »?
Khách đáp: « Ở trong vùng núi non nầy, trong phạm vi nghìn dặm đều có. Nhưng muốn tìm trầm phải ngậm ngải mới giữ được thân ».
Nói xong đưa ra một gói nhỏ và bảo: « Gói ngải nầy tôi mất bao nhiêu năm mới luyện được. Tôi đến đây trước thăm cố nhân, sau vào thâm sơn tìm trầm để cầu Thiên Tiên truyền phép trường sanh bất lão ».
Chủ nhân nghe nói, lòng ước ao được bái yết chư tiên. Và để bạn thêm vui, bèn bày bàn cờ ra đánh. Nhưng quân cờ vừa dàn xong thì trong nhà nghe tiếng gọi. Chủ nhân vội vào nhà trong. Khách ngồi nắm bộ cờ: tất cả đều bằng ngà sanh, duy có một con tốt bằng ngọc bích. Khách giật mình tự nhủ: « Bộ cờ này trong thế gian có thể có. Nhưng viên ngọc bích nầy là vật hi hữu nơi thế gian ».
Đoạn cầm lên ngắm nghía và khen thầm: « Không có mảy may tì vết. Nếu đem dâng cho Lão Tổ thì tất được ban ân ». Liền giấu con cờ vào tay áo.
Vừa lúc ấy tiệc rượu bưng ra. Cuộc cờ tạm gác lại, chủ khách cùng nâng chén chung vui.
Khách vốn chay lạt lâu ngày, gặp rượu thịt thì hứng khẩu. Hết chung cạn đến chung đầy, và say lúc nào không biết, khách ngã xuống chiếu ngủ, tiếng ngáy như sấm. Chủ nhân ngồi nhìn khách chợt nhớ câu chuyện trường sanh. Thấy khách ngủ say, bèn thò tay vào bọc khách lấy gói ngải, rồi lẳng lặng ra đi…
Khách ngủ vùi đến hai ngày đêm mới tỉnh dậy. Rờ vào bọc không còn thấy gói ngải. Nhìn khắp nơi lại không thấy chủ nhân ông. Hỏi, người vợ đáp rằng bỏ đi đã hai hôm. Khách thất kinh vội băng ngàn đi kiếm.
Khách nhảy từ đầu núi nầy sang đầu núi nọ, phóng tầm mắt tìm khắp bốn phương. Núi non trùng điệp, tuyệt nhiên không một bóng người! Lòng vừa giận vừa lo, bồi hồi hoảng hốt, khách bỗng sẩy chân rơi xuống núi Tịnh Sơn vùng Sơn Hòa (Phú Yên), bỏ mạng.
Con tốt trong túi khách văng ra thành đá, và xương thịt khách biến thành những cây cổ thụ đứng che hòn đá Con Cờ.
Còn người chồng ra đi, ngậm ngải tìm trầm. Nhưng trầm không tìm thấy mà tháng ngày chỉ thấy rừng núi thâm u. Lòng muốn trở về, song không thấy đường lui mà chỉ thấy đường tới. Năm nầy sang năm khác ; ngải nơi miệng lần lần tan hết, và lần lần thân mọc đầy cả lông. Rồi một hôm hóa thành con cọp xám, gầm lên mấy tiếng, quay đầu chạy về chốn cũ tìm vợ con.
Nhưng khi về đến nơi thì cảnh xưa đâu còn thấy nữa!
Vợ con ở nhà trông chồng trông cha mỗi ngày một vắng! Lệ thảm tuôn thành suối khe và thân nắng mưa hóa thành đá. Những vật dùng vật nuôi cảm tình chủ mẫu cũng hóa đá theo hai mẹ con.
Đối cảnh thương tâm, hổ gầm hét vang cả rừng núi. Và để vơi bớt nỗi lòng, phá gãy hết những cây cổ thụ trên đầu núi. Đoạn bỏ đi vào rừng sâu. 3
Những dòng khe dòng suối do « nước mắt đau thương » tạo thành là nguồn của một số sông ngòi trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Trong đó có một dòng suối, gọi là Suối Tiên, nước trong xanh và không bao giờ cạn. Nghe đồn nơi suối có đôi bạch nga bơi lội.
Truyền rằng đó là cặp ngỗng của người khách đem đến biếu hai vợ chồng người bạn. Vì đối với hai mẹ con chủ nhân, mối tình chưa thâm, nên hai con ngỗng không hóa đá để giữ niềm chung thủy. Nhưng vẫn cảm lòng thiết thạch của người tiết phụ, ngỗng đắm mình trong dòng lệ tương tư. Truyền rằng hòn Mẫu Tử rất linh thiêng:
- Trong thời Kháng Chiến chống Pháp, một tiểu đoàn Lê Dương đi hành quân, dùng hòn Mẫu Tử làm nơi tạm trú. Một tên lính tinh nghịch lấy mìn chôn dưới chân đá « Mẹ bồng con » mà đốt. Mìn nổ phá hủy cả một vùng cây đá mà « Mẹ bồng con » vẫn không chút hư hao. Nhưng tiếng nổ vừa im thì tên lính hộc máu chết.
- Cũng trong tiểu đoàn ấy, một tốp lính khác dùng lựu đạn ném xuống dòng Suối Tiên để bắn cá. Cá chết nổi lên mặt nước đầy đặc như lá thu rơi. Tốp lính vui mừng đua nhau lội xuống bắt. Bắt bỏ đầy mấy túi vải. Nhưng đem về trại coi lại thì toàn là củi mục, đá sỏi và lá khô! Liền đó tốp lính nghe trong mình ngứa ngáy khó chịu và vài hôm sau toàn thân sanh đầy lác, thuốc chữa không lành. Viên chỉ huy lấy làm kì dị, đến tận nơi điều tra, thì từ lòng suối một cặp thiên nga hiện lên mặt nước đứng kêu mấy tiếng rồi bay vút lên từng không.
- Và gần đây, thời Ngô đình Diệm chấp chính, Trung sĩ Lung, phụ tá Đại Đội Trưởng Đại Đội Dân Vệ quận Khánh Dương, đem một Trung đội đi hành quân trong vùng núi Mẫu Tử. Một Tiểu đội do Tiểu Đội Trưởng Y BLIC chỉ huy đi lạc vào núi. Đêm đông gió lạnh, trời lại tối như mực, Tiểu đội không biết ngõ nào mà ra. Y BLIC ra lệnh dừng quân. Chợt một con hổ nhảy ra gầm lên một tiếng như sấm dậy. Y BLIC nhả một tràng đạn tiểu liên và đoán chắc thế nào cọp cũng bị hạ. Cả Tiểu đội, súng lên cò, chầm chậm bước tới. Cả một vùng trước mặt vụt bừng sáng như trăng lên, và một ông già đầu tóc bạc phơ, râu dài quá rốn xuất hiện, quắc thước uy nghiêm. Mọi người đều hãi hồn, tay muốn rơi súng! Ai nấy đứng sững như trời trồng! Lão trượng không nói không rằng, lấy tay chỉ đường, rồi cùng ánh hào quang biến mất…
Vì hòn Mẫu Tử linh thiêng thế ấy nên người địa phương ít khi dám lên thấu đầu non.
Hòn Mẫu Tử ở cách quận lỵ Khánh Dương chừng 13 cây số về hướng Đông. Đi đường rừng thì mất nhiều thì giờ. Nhưng đi ô-tô theo con đường Liên Tỉnh số 9 thì chỉ mất độ nửa giờ, rồi đi bộ chừng 5 cây số đường rừng nữa là đến chân núi. Từ chân núi lên đến nơi « Mẹ bồng con », đi cho giỏi cũng mất đến nửa ngày. Bởi vậy khách đến Khánh Dương ít ai chịu khó đến xem « Mẹ bồng con » cho tận mặt. Mà đứng nơi quận lỵ nhìn sang, thì ít khi ngó thấy, nhất là mùa mưa, vì núi thường bị mây che.
Cho nên tất cả những gì ở trên hòn Mẫu Tử và chung quanh hòn Mẫu Tử đều do chỗ « bách văn » mà ra. Nhưng hòn Mẫu Tử vẫn là cảnh lạ trong đời như ngọn Khuông Lư của Thánh Thán. Và người chưa được xem tận mặt vẫn thích núi Mẹ Bồng Con của Khánh Dương.
Khánh Dương thuộc về Cao Nguyên. Cho nên núi mọc trên Khánh Dương dù thấp mấy, cao độ vẫn trên những ngọn núi trung bình ở bình nguyên, vì chiều cao tính theo mặt biển. Ở Khánh Dương ngoài hòn Mẫu Tử, còn nhiều ngọn cao độ trên nghìn thước. Như:
- Chử Ba Giam (1.720 thước)
- Chử Ninh (1.034 thước)
- Chử Bình (1.021 thước)
- Chử H’Mú (1.752 thước)
- Chử M’Ta (1.057 thước)
- Chử Prong (1.100 thước)
Nhưng tất cả đều không nổi danh, trừ Hòn Chử M’Ta.
1) CHỬ M’TA (1.057 thước)
Chử đọc là Cử. Tiếng Thượng nghĩa là Núi mà cũng là họ của một bộ lạc ở vùng Cao Nguyên. Còn M’Ta đọc là Mơ Ta, là Con mắt và tên một vị Thần có đôi mắt sáng như mặt trời mặt trăng.
Núi Chử M’Ta nằm phía Đông Nam quận lỵ Khánh Dương, chạy từ đèo M’Drac đến Trại Chăn Nuôi của Chánh Phủ. Cao độ của núi tuy trên nghìn thước, nhưng đứng nơi quận lỵ mà nhìn thì không thấy cao. Khí thế cũng không hùng hiểm. Song trông có vẻ « lầm lì » và « dữ » như người Thượng Sơn. Trên núi có nhiều cây to, nhiều thú dữ. Khách săn bắn cho biết rằng thỉnh thoảng có người gặp được trầm hương, trông thấy bạch tượng và chim đại bàng hình thù giống chim ưng song lớn gấp ba gấp bốn, liệu sức có thể tha được cừu con bò con. Núi lại có nhiều đá lớn, trong đó có một hòn trông giống đầu ông Khổng Lồ với đôi mắt mở trao tráo. Người Thượng gọi là « Đá Mắt Thần ».
Truyền rằng: chức Đầu Mục của bộ lạc ở núi nầy nằm trong tay họ Chử đã nhiều đời. Đến đời Chử Madrà thì trao sang họ khác.
Họ Chử vốn có sức mạnh hơn người, ăn ở lại cũng tốt hơn người. Cho nên đời nào cũng được toàn bộ lạc quí trọng. Cha Chử Madrà chết, để lại 10.000 con trâu, 5.000 con bò, 5.000 con dê và 100 con voi. Người trong bộ lạc bầu cử Madrà lên thay cha lãnh đạo bộ lạc. Madrà nhượng lại cho người khác để rảnh thì giờ lo việc báo hiếu cho cha.
Madrà bán một số voi, mua gỗ quí đóng quan tài liệm thi thể cha và cất một ngôi nhà vuông nhọn nóc để quàng linh cữu. Mỗi ngày hạ 12 con vật, nào trâu nào bò nào dê, để cúng cha và đãi bộ lạc. Còn bản thân thì ngày đêm nằm bên cạnh linh cữu mà than khóc. Ròng rã mấy mùa rẫy, ngày nào cũng hạ súc vật, ngày nào cũng khóc than. Thân thể của Madrà cũng như gia sản của Madrà mỗi ngày mỗi hao mòn. Cuối cùng nhuốm bệnh mù đôi mắt, thuốc thang không chữa khỏi. Chẳng bao lâu qua đời, để lại một người vợ góa và một đứa con côi năm tuổi.
Đứa bé là một em trai kháu khỉnh. Người mẹ lo làm lụng nuôi con. Một hôm đứa bé theo mẹ đi làm rẫy. Thình lình một con đại bàng, cánh rộng như hai đám mây, đáp xuống tha đứa bé lên núi. Đứa bé hết hồn nằm bất tỉnh. Đại bàng toan xé thịt đứa bé thì một con bạch tượng hiện đến, thét một tiếng dậy cả rừng núi. Đại bàng thất kinh thả đứa bé, cất cánh bay lên không trung. Đứa bé tỉnh dậy. Bạch tượng hiện nguyên hình là một lão trượng, râu tóc bạc phơ, đến vỗ về đứa bé: « Ta là ông nội con đây. Thần A Die vâng lệnh Trời trao trả cặp mắt của cha con lại cho ông và sai ông xuống cứu con, đồng thời ban cho con cặp thần nhãn là cặp mắt của cha con đã được thần luyện phép. Đó là do lòng chí hiếu của cha con cảm thấu lòng Trời, nên con được hưởng dư phước ».
Nói đoạn đưa tay móc cặp mắt của đứa bé và thay cặp thần nhãn vào. Rồi tiếp: « Cha con mãn lo việc báo hiếu mà quên đặt tên cho con. Nay ông đặt cho con tên là Chử M’Ta (Cử MaTa). Đôi mắt của con, ông sẽ đem về dâng thần A Die luyện phép để gắn vào cha con ».
Chử M’Ta tuy còn thơ ấu nhưng đã có trí khôn hơn tất cả mọi trẻ em đồng lứa. Nghe ông nói và được ông thay mắt, mừng rỡ liền làm lễ tạ ơn theo phong tục người Thượng. Lễ xong thì không trông thấy bóng ông nội. Đưa mắt nhìn quanh thì thấy ánh sáng thoang thoáng trên cây đá, ánh sáng phát từ đôi mắt thần. Liền đó nào voi nào hùm, nào nai nào vượn… kéo đến phủ phục chung quanh. Chử M’Ta biết ngay rằng nhờ thần nhãn ông nội vừa trao mà mình được làm chúa cả mọi vật trên rừng núi. Bèn ra lệnh cho hùm beo không được sát hại dân lành, voi nai không được phá hoại bắp lúa, vượn khỉ mỗi ngày thay phiên nhau đem trái cây nước suối đến dâng. Đoạn cho các thú trở về rừng sâu, chỉ giữ một con voi già để đỡ chân và làm bạn.
Sau khi các thú giải tán hết, Chử M’Ta cỡi voi xuống núi. Mẹ con gặp gỡ mừng quá đỗi mừng. Và cả bộ lạc nghe tin kéo nhau đến hỏi thăm sức khỏe. Trông thấy thần thái của Chử M’Ta sáng rỡ và nghe chàng kể chuyện lại, ai nấy cũng tỏ lòng hâm mộ và cung kính như một vị thần.
Thấy vậy, viên đầu mục sợ bộ lạc bỏ mình theo Chử M’Ta bèn tìm cách hãm hại. Chử M’Ta biết được liền đem mẹ lên ẩn trên non cao. Sống cùng sơn thú, Chử M’Ta vẫn không quên nòi giống nơi nhân gian. Những khi dưới buôn có bệnh tả, bệnh dịch hạch, hai mẹ con liền vào rừng hái thuốc đem xuống chữa. Lại thêm từ khi chàng làm chúa sơn lâm, thì hổ hoạn dứt, rẫy bái không bị hư hao. Cho nên các bộ lạc trong vùng hết lòng ngưỡng đức.
Cảnh thái bình kéo dài được trên vài mươi mùa rẫy, thì thình lình mưa gió nổi dậy tứ phương. Mưa mỗi lúc mỗi to, gió mỗi lúc mỗi lớn. Không mấy chốc nhà cửa sập hết, cây cối gãy hết, và nước dâng lên đến nửa núi! Nhân dân lớp chết đuối, lớp ngoắc ngoải trôi. Thú vật trên non, tuy nhờ hang hóc che chở, nhưng mười phần cũng chết quá năm. Duy dãy núi Chử M’Ta ở, nhờ thần nhân hộ trì, không có một gốc cây ngã, một con cầm con thú nào chết. Song đứng trước cảnh thương tâm, Chử M’Ta không thể ngồi yên mà ngó. Bèn đốt hương cầu thần A Die xuống phước cứu dân. Thần A Die hiện vào chiêm bao, phán: « Hỡi con dòng hiếu thảo! Ta cảm lòng nhân đức của nhà ngươi. Song mệnh Trời khó thay. Nhà ngươi nên thận trọng kẻo bị Trời phạt ».
Mặc dù đã có lệnh ngăn cấm, Chử M’Ta không thể để đồng bào bị sóng gió phũ phàng. Chàng ra lệnh cho bầy voi xuống vớt. Hàng nghìn thớt voi toan thi hành mệnh lệnh, thì một tiếng sét nổ vang trời. Bầy voi thất kinh chạy tản vào núi. Đồng thời người mẹ ngã ra chết cứng, và Chử M’Ta lăn nhào hóa thành hòn đá tròn trịa với đôi mắt mở to.
Đó là Đá Mắt Thần hiện còn trên núi. Từ đó núi mang tên Chử M’Ta, tức là Núi Mắt Thần hay là Hòn Mắt Thần của họ Chử. Đá rất linh. Những khi có thời khí hoặc thiên tai hạn hán… người địa phương hướng về núi M’Ta mà cầu đảo. Thường được linh ứng, nên nhân dân rất tin thờ, không ai dám xâm phạm.
Núi Chử M’Ta nằm phía Nam đường Quốc Lộ 21, cách quận lỵ Khánh Dương chừng ba bốn cây số. Nằm về phía Bắc Quốc lộ và cách quận lỵ cũng chừng ba bốn cây số còn có Chử Kroa cũng rất có danh trong quận.
2) CHỬ KROA (570 thước)
Người Việt đọc là Cử-Cờ-Rua. Núi thấp hơn Chử M’Ta trông không được hoành tráng, song cây cối sầm uất, phong cảnh rất thâm u. Trên núi có một tảng đá cao lớn phi thường nằm giữa đám cổ thụ sống hàng nghìn tuổi. Chung quanh đá chất chập chồng thành vồng thành đống, và trổ hang trổ hóc, nhiều nơi chứa được cả voi. Hòn đá không lồ kia tên là KLÉ-LAK. Đó là hòn đá Thần. Người Thượng coi như thần linh. Truyền rằng:
Xưa kia nơi đá Thần Klé Lak (Cờ Lê Lắc) là vương cung của vị chúa tể núi Chử Kroa (Cử Cờ Rua): Một con mãnh hổ thân lớn như con bò mộng, mắt sáng như hai cây đuốc, lông xám tro. Tục gọi là Cọp Nhang, vị Chúa Rừng (Nhang là tiếng Thượng, tên một vị Thần tối cao của người Rhadé. Cọp Nhang là Cọp Thần).
Cọp Nhang vốn dòng họ Y. Cha là Tù Trưởng bộ lạc núi Chử Kroa, tên là Y Nang, sanh được hai trai. Con cả là Y D’Ric. Con thứ là Y D’Rang. Y D’Ric dưới con mắt thế gian thì là con của Y Nang. Nhưng sự thật là con của Ma Lai, một vị hung thần, mình người, đầu hổ, tay chân vượn. Vợ Y Nang chiêm bao cùng thần hoan lạc mà thụ thai. Vì vậy tướng mạo của Y D’Ric rất hung tợn, lại có sức mạnh đánh ngã bò đực, và lên núi, trèo cây dễ dàng như đi trên đất bằng. Chàng ỷ thế, cậy sức, thường làm nhiều điều bạo ngược. Người trong bộ lạc đều ghét, nhưng không dám kiện cùng Y Nang.
Trái lại, Y D’Rang dung nghi anh tuấn, tánh tình thuần lương. Tuy có sức mạnh địch muôn người và có tài bắn ná trăm phát trăm trúng, Y D’Rang không bao giờ thi tài đua sức với một ai, và không bao giờ nói nặng lời cả với đứa bé ngỗ nghịch. Đối với anh, chàng luôn luôn tỏ thái độ cung kính nhường nhịn, mặc dù anh thường có những hành vi không lành, những cử chỉ không đẹp đối với người trong bộ lạc cũng như với chàng.
Y Nang, tuổi già sức yếu, muốn nhường chức Tù Trưởng cho Y D’Rang, nhưng lại sợ con trưởng tranh giành, sanh chuyện rắc rối cho gia đình và bộ lạc. Để cho toàn thể bộ lạc chọn lấy người lãnh đạo theo ý muốn phần đông. Y Nang bèn vật trâu mổ dê… mở đại hội.
Đương lúc tiếng trống tiếng cồng vang dội, thịt thui rượu cần thích khoái, thì trên núi cao bò xuống một con mãng xà to lớn phi thường. Thân mình ôm đến hai người lớn, dài trên mười trượng, vảy rộng như bàn tay sè và sáng ánh như bạc, và đến bảy chiếc đầu với bảy lỗ miệng đỏ như bảy chậu huyết cắm bảy lưỡi độc nhọn hoắt và rung rinh. Ai nấy đều hết hồn, rùng rùng bỏ chạy. Riêng ba cha con Y Nang vẫn ngồi yên, đưa mắt nhìn trừng trừng con quái vật. Con bạch mãng xà bò đến chỗ để thịt rượu. Bảy chiếc đầu luân phiên nhau mổ thịt mà nuốt. Bụng no thò bảy đầu vào bảy vò rượu mà nút. No say rồi, bò đến một khoảnh đất rộng, nằm khoanh tròn, bảy chiếc đầu nghểnh lên nhìn ba cha con Y Nang một cách thân thiện. Y Nang đoán biết rằng thần xà đến để giúp đồng bào mình trong việc lựa chọn lãnh tụ, bèn gọi tất cả mọi người trở lại và truyền: « Đây là điềm tốt. Đây là ý Trời. Trong bộ lạc, bất kỳ trẻ già, hễ ai chiến thắng được bạch mãng xà thì được thay ta làm Tù Trưởng ».
Y Nang vừa dứt lời thì rắn vùng dậy, thét lên một tiếng dài lanh lảnh như tiếng kim khí kéo lên nhau. Trừ ba cha con Y Nang, ai nấy đều run lập cập. Không ai dám xông ra.
Y D’Ric liền rút giáo, chuyển thần lực nhảy đến giao chiến cùng mãng xà. Tay giáo vừa lanh vừa mạnh. Bảy chiếc đầu của mãng xà vừa đỡ vừa đánh vùn vụt như bão táp sóng tung. Mũi giáo chạm vào thân mãng xà tiếng kêu rảnh rảng, và những cái táp của mãng xà nghe đốp đốp, nếu chạm nhằm thì dứt nghiến cả thịt xương. Y D’Ric mạnh nhưng không dẻo bằng mãng xà, nên được nửa buổi thì lần lần đuối sức, bị đuôi mãng xà quật ngã xuýt vỡ đầu! Y D’Ric không đứng dậy nổi. Mãng xà lướt tới toan cắn thì một mũi tên bắn trúng ngay giữa ngực. Đó là mũi tên của Y D’Rang bắn để cứu anh. Một tiếng keng như tiếng kiểng vang dội. Mũi tên của Y D’Rang rơi xuống đất tà đầu, và con mãng xà bị đẩy lui trở lại, lõ bảy cặp mắt chói ngời nhìn Y D’Rang.
Biết rằng vảy mãng xà quá dày, giáo tên không thể đâm thủng. Y D’Rang bèn tự nhủ: « Phải bắn vào miệng với tên sống lá tẩm thuốc ».
Chàng liền nhử cho mãng xà hả miệng lướt tới. Chàng nhảy lui mấy bước, rồi bắn liên tiếp bảy phát vào bảy lỗ miệng mãng xà. Bị thương đau đớn, mãng xà không dám lướt tới nữa. Thuốc độc ngấm vào mình, mãng xà lăn lộn làm lở đất gãy cây, bụi mù trời gió chuyển núi. Sức lăn lộn mỗi lúc mỗi yếu dần. Rồi giãy giụa mấy cái thật mạnh, thân mãng xà cứng đờ, và nơi bảy lỗ miệng máu đen phun ra thành bảy vòi mực, tanh hôi nực nồng!
Ai nấy đều reo mừng. Tiếng chiêng tiếng trống nổi dậy. Và theo lời hứa của Y Nang, tất cả người trong bộ lạc đều hoan hỷ bầu Y D’Rang lên ghế Tù Trưởng thay cha.
Y D’Ric vừa xấu hổ vừa tức giận, bỏ làng chạy vào rừng sâu. Hung thần Ma Lai liền hiện xuống, biến Y D’Ric thành một con cọp xám và phong làm chúa tể vùng núi Chử Kroa. Y D’Ric đến ở tại vùng đá Klé Lak. Tất cả sơn thú lớn nhỏ đều phải đến hầu và cung phụng miếng ăn miếng uống. Đó là Cọp Nhang vậy.
Tuy đã trở thành chúa tể sơn lâm, Cọp Nhang vẫn không quên cái nhục của thân trước. Để rửa hận, bèn truyền cọp, beo, voi, gấu… theo mình xuống buôn của Y D’Rang quấy nhiễu. May nhờ có tên sống lá tẩm thuốc độc và tài thiện xạ của Tù Trưởng Y D’Rang mà bầy ác thú phải lui. Nhưng thất bại chuyến nầy, chúng lại phản công chuyến khác. Nhân dân không yên ổn làm ăn.
Để cứ vãn tình thế. Y D’Rang một mặt lo tích trữ vũ khí và rèn luyện vũ nghệ cho đồng bào, một mặt lo sửa đổi lại kiểu nhà cửa cho thích hợp với hoàn cảnh.
Tên sống lá tẩm thuốc trước kia chỉ một mình Y D’Rang biết chế tạo và biết sử dụng. Đó là một môn vũ khí rất nguy hiểm. Sợ đồng bào lạm dụng nên chàng không dám truyền. Nhưng đứng trước nạn thú dữ, không dùng đến không thể cứu được nguy, chàng đành phải đem ra phổ biến với điều kiện là đồng bào phải thề cùng Thần Linh chỉ được dùng để tự vệ.
Còn về nhà cửa thì từ xưa nhà người Thượng cất theo hình chiếc nón lá, vào ra chỉ một cửa. Nếu bị ác thú tấn công xâm nhập, người không có ngõ rút lui. Y D’Rang mới sáng kiến ra kiểu nhà sàn cao cẳng vừa tiện cho việc phòng thủ vừa tránh được thấp khí chốn sơn lâm.
Trước cảnh phòng vệ chu đáo, Cọp Nhang đành chịu thua. Và từ ngày Cọp Nhang tới ở nơi Klé Lak, nhân dân trong vùng không ai dám qua lại. Thành ra trên núi dưới buôn, bên nào ở yên bên nấy.
Cọp Nhang sống một cách « đế vương ». Các sơn thú luân phiên nhau đến hầu hạ. Từ miếng ăn thức uống đến chỗ nghỉ chỗ ngơi của vị chúa tể sơn lâm đều được « bá quan » chăm non cẩn thận, không hề sơ xuất nhất hào.
Nhưng trời bỗng trở lạnh, lạnh đến cực độ. Nước khe suối đều đọng thành giá. Những cầm thủ nhỏ đều chết cóng. Bầy tôi không thể tìm ra mồi để dâng, Chúa rừng Cọp Nhang phải « ngự giá » đi tìm lấy mồi. Chúa tôi đi được một chặng đường thì thấy một bầy bạch tượng đang giãy giụa trong lòng suối nước đá. Bầy cọp beo theo « hầu ngự » phấp phới mừng thầm. Nhưng Cọp Nhang ra hiệu đứng yên, vì biết rằng bầy voi lâm nạn không phải « hạng dân dã tầm thường ». Đó là bầy voi thần được Chúa Tể Sơn Lâm toàn quốc sai đi kiểm soát « đồng bào voi » trên dãy Trường Sơn. Cọp Nhang liền ra lệnh cho đám tùy tùng hết sức đào nước đá cứu bầy bạch tượng. Đoạn rước về « vương cung ».
Một con voi bị lạnh lâu quá, kiệt sức, lăn đùng ra chết. Con voi bạc phước ấy là con của Voi Chúa Đàn. Bầy voi thương xót, đứng xây tròn quanh tử thi, kêu rống thảm thiết. Đoạn đào lỗ chôn cất cạnh hòn Clé Lak.
Trời càng ngày càng rét thêm. Cọp voi nhiều con chịu đói chịu rét không nổi đã tắt thở. Chúa đàn Bạch Tượng bàn cùng Cọp Nhang làm lễ cầu đảo. Không biết lấy gì làm tế vật, hai vị chúa đành lấy thịt nơi đùi mình mà dâng. Lòng thành thấu đến Thiên đình, Thượng Đế liền sai thần Yang H’Ruê (Giang Hắt Ru Ê) xuống núi Chử Kroa làm phép cho gió ấm nước đá tan. Vạn vật hồi sinh. Bầy Bạch tượng liền từ giã Cọp Nhang, lên đường.
Qua năm sau, nhớ ngày thần Yang H’Ruê giáng trần cứu nạn, Cọp Nhang chuẩn bị làm lễ tri ân. Để buổi lễ được long trọng và để đủ đãi tất cả các sơn thú vùng Chử Kroa, Cọp Nhang ra lệnh cho cọp beo trên núi phải xuống buôn bắt gia súc.
Không nhịn thua, Y D’Rang huy động toàn dân trang bị cung tên giáo mác, kéo ùa nhau lên núi Chử Kroa… Cọp Nhang cùng sơn thú đương quây quần chung quanh hòn Klé Lak để dự lễ, thì bị nhân dân đánh úp thình lình. Không kịp « trở tay », đoàn sơn thú thất kinh, rối loạn, lớp bị giết, lớp bị đồng loại giày xéo, thây chất ngổn ngang. Cọp Nhang cũng bị tên thuốc độc mà chết.
Trong khi sơn thú đương bị tàn sát thì thình lình bầy bạch tượng đến cứu nguy. Đó là bầy bạch tượng thần năm trước. Đi « công cán » xong trở về, ghé thăm mộ voi con, tình cờ gặp lúc ân nhân ngộ nạn. Bầy bạch tượng thét lên một tiếng long trời lở đất. Nhân dân thất kinh bỏ chạy trở lui. Một số dã thú nhờ vậy mà sống sót. Nhưng khiếp đảm vì trận tấn công bất ngờ, chúng không dám xuống buôn quấy nhiễu nữa.
Còn hòn đá Klé Lak, sau khi Cọp Nhang chết, khí thiêng nhập vào trở thành thần linh. Nhân dân địa phương không dám xâm phạm.
Và tại núi Chử Kroa, thỉnh thoảng người địa phương trông thấy bóng bạch tượng. Truyền rằng đó là sứ giả của chúa đàn Bạch Tượng sai về viếng mộ con.
Một ông bạn thợ săn kể lại rằng: « Lúc tôi làm việc ở Đồn M’Drack thời Pháp thuộc, một bận đi bắn ở Chử Kroa trông thấy một bầy voi lớn có nhỏ có. Chúng đứng quanh một tảng đá lớn, đầu chấu vào nhau và cúi gục xuống đất, miệng buông ra những tiếng « bầm bầm, bun bun » như tiếng trống chầu tiếng chiêng đồng gióng đòi lúc tế thần. Tôi không hiểu chúng làm gì, đứng xem hồi lâu rồi lặng lẽ xuống núi ».
Những câu chuyện nghe hoang đường nhưng lý thú. Chính những chuyện hoang đường mà lý thú ấy đã làm cho núi Chử Kroa nổi danh, và quyến rũ khách du quan hơn là những ngọn núi cao chỉ có đại bàng và loài bò sát tới được đỉnh.
Quận Khánh Dương là nơi ma thiêng nước độc. Thời nay cũng như thời xưa, những công chức nào bị đổi đến phục vụ thì đều coi như « bạc phước ». Có ngờ đâu trong nơi « cùng cư » lại có những câu chuyện ly kỳ làm gia vị cho những ngọn núi tráng tú.
Chẳng những thế mà thôi, Khánh Dương còn là nơi xuất phát sơn mạch nhiều dãy núi của Khánh Hòa, và nối liền núi Khánh Hòa với vùng Cao Nguyên.
C) NHỮNG NGỌN NÚI CAO TRÊN 1.000 THƯỚC
1) NÚI KHÁNH HÒA
Ngoài những ngọn núi ở Khánh Dương và ở dãy Tam Phong, còn nhiều ngọn cao trên 1.000 thước. Kể từ Bắc vào Nam:
- Vạn Ninh có: Hòn Chảo (1.564 thước), Hòn Chát (1.519 thước), Hòn Đại Đa Đa (1.709 thước)
- Ninh Hòa có: Hòn Bà (1.361 thước), Hòn Long (1.339 thước), Hòn Giong hay Dung (1.290 thước)
- Vĩnh Xương không có ngọn núi nào cao đến 1.000 thước.
Ở Diên Khánh, núi cao hầu hết nằm ngoài ranh giới, dính liền với núi vùng Cao Nguyên và đều mang tên Thượng:
- Chử Grên (1.159 thước)
- Chử Tông (1.717 thước)
- Chử Toung (1.099 thước)
- Chử Ka Doung (1.783 thước)
- Chử Ron Giang (1.488 thước)
- Chử Bon Gior (1.479 thước)
- Chử Het Tiaha (1.466 thước)
- Chử Kanda (1.281 thước)
- Chử Luôn (1.553 thước) 4
- Hòn Gia Lo (1.812 thước)
- Hòn Giao (2.010 thước)
Những hòn núi cao ở Cam Lâm cũng dính liền với núi vùng Cao Nguyên và cũng mang tên Thượng:
- Se Gai (1.128 thước)
- Ba Koum (1.403 thước)
- Ta Lô (1.304 thước)
- Ma Rai (1.356 thước) 5
Những ngọn núi nầy tuy cao lớn, nhưng trông không hùng dũng, không có dáng chọc trời khuấy mây. Nhìn kỹ thấy đượm vẻ hiền hòa an lạc. Phần nhiều không nổi danh.
Trong các sách Dư Địa Chí của người xưa, như Đại Nam Nhất Thống Chí, Phương Đình Dư Địa Chí… không thấy chép. Ngoài nhân gian cũng ít người biết. Nếu không nhờ những họa đồ của người Pháp ngày trước và người Mỹ ngày nay thì hầu hết người Việt Nam trở thành người ngoại quốc đối với đất nước thân yêu.
Trong số núi cao thượng dẫn, được thường nhắc nhở là Hòn Chảo ở Vạn Ninh và Hòn Bà ở Ninh Hòa. Nhưng được nhắc nhở không phải vì cao, mà tại có những điểm đặc biệt.
2) HÒN CHẢO
Nằm phía Tây Bắc Vạn Giã thuộc xã Vạn Hưng. Hình thù cao lớn. Chung quanh nhiều núi bao bọc, trước mặt núi thấp, sau lưng núi cao. Địa thế hiểm trở. Đỉnh núi lõm xuống thành lòng chảo. Do đó núi mệnh danh là Hòn Chảo. Người thường cho là cảnh trời sanh. Nhưng người tân học tin rằng đó là hòn hỏa diệm sơn đã nguội mà lòng chảo xưa kia là miệng hỏa sơn.
3) HÒN BÀ
Nằm phía Tây Nam quân lỵ Ninh Hòa, thuộc xã Minh Hưng cách chừng mười cây số đường thẳng. Đứng song song cùng hòn Long, theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Chung quanh có nhiều núi triều ủng. Cây cối sầm uất. Có nhiều cây gió nên sản xuất nhiều kỳ nam trầm hương. Núi nầy được người địa phương coi là núi của bà Thiên Y A Na, nên gọi là Hòn Bà. Trên núi có miếu thờ. Những người đi điệu tức là đi tìm trầm, trước khi vào rừng, đều phải đem lễ vật đến miếu cầu khẩn. Người nào được Bà ban phước thì mới tìm ra trầm. Bằng không thì đi không cũng trở về không. Ngoài Hòn Bà và Hòn Chảo ra, còn một ngọn núi nữa tuy không nổi danh bằng, nhưng vẫn được nhắc nhở vì đã có người lên thấu đầu non. Đó là Hòn Giao ở Diên Khánh.
4) HÒN GIAO
Núi nằm sát ranh giới Khánh Hòa và Tuyên Đức, ở giữa đám quần sơn mây khói thâm u. Đỉnh cao nhất vùng. Mưa nhiều, lạnh gắt. Những lúc nắng ráo, thì hễ mặt trời vừa lặn là bắt đầu có sương. Sương xuống mỗi lúc mỗi dày, trông như mưa phùn, như hoa cải. Mãi đến khi mặt trời mọc, mới tan dần.
Núi mọc toàn ngo. Ở dưới thấp thì cây tươi tốt như ngo Dalat. Nhưng lên cao thì không cây nào lên quá hai thước năm. Thân hình lại u nầng khúc khỉu, cành gân guốc cong queo, lá lưa thưa và vàng vọt. Trông như những cây tùng trồng kiểng lâu năm.
Đây là một hòn núi đá. Song đá bị rêu phủ lấp hết. Lớp rêu dày có nơi đến hàng thước. Mỗi khi rủi trượt chân té ngã thì êm ái như ngã trên nệm mouse có ressort.
Chim rừng thú rừng, cả muỗi nữa, đều không có. Nếu khí trời được ấm áp thì ban đêm có thể ngủ ngay trên nệm rêu gữa trời.
Vì đỉnh núi cao trên 2.000 thước, nên ban đêm trông lên phía Tuyên Đức thì thấy ánh đèn điện thành phố Dalat, trông xuống Khánh Hòa thì thấy ánh đèn điện thành phố Nha Trang. Ánh sáng mờ mờ và thu hẹp lại một vùng bằng cái nong. Nhưng không phải đêm nào cũng trông thấy được. Muốn ngắm chơi cho thích thì phải đợi lúc không mưa và không sương. Những lúc nầy năm khi mười họa mới có. Cho nên được ngắm ánh đèn dưới thành phố là cái thú tuyệt thú của người vì phận sự phải ở trên Hòn Giao lâu ngày.
Phía Tây Hòn Giao về địa phận Tuyên Đức có người Thượng Gia Rích ở. Phía Đông về địa phận Khánh Hòa có người Thượng Gia Lách ở. Hai giống người nầy hiềm khích nhau tự nghìn xưa. Hễ người bên nầy sang bên kia, người bên kia sang bên nầy, thì thế nào cũng bị bắt giết để tế lễ. Nhưng gần mươi năm nay người Gia Lách được các nhà truyền giáo Tin Lành khuyên nhủ, nên mối thù truyền kiếp đã được giải tỏa lần lần. Và người Gia Rích, gần đây đã đến phần đất người Gia Lách để tránh đói rét.
Chính nhờ hai giống người Thượng nầy mà người Trung Châu lên đến Hòn Giao vậy.
D) NHỮNG NGỌN NÚI CÓ DANH
Còn những núi cao khác chỉ có một số thợ rừng và một số chiến sĩ rừng xanh mới rõ hình thế và danh hiệu. Trái lại có nhiều ngọn núi cao dưới nghìn thước, lắm khi chỉ cao chừng một vài trăm thước, mà danh nổi chẳng những trong tỉnh mà còn bay tận phương xa. Như ở Vạn Ninh có:
1) HÒN TU HOA (728 thước)
Núi nằm về phía Tây Tu Bông (Vạn Khánh). Xưa gọi là Tô Sơn hay Hoa Sơn. Sau đọc trại chữ TÔ thành chữ TU và ghép chữ HOA vào thành TU HOA.
Núi có tiếng là nhiều gió. Nguyên tỉnh Khánh Hòa nhờ những dãy núi phía Tây và phía Bắc vừa cao vừa liền che ngăn, nên không bị ảnh hưởng gió Lào và gió Bấc, như Bình Định, Phú Yên. Riêng ở vùng Tu Bông, ở phía Tây và phía Tây Bắc có đôi nơi hạ thấp xuống thành thung lũng. Do đó gió Lào và gió Bấc lọt vào.
Gió Lào thổi về mùa hạ và thổi qua hòn Tu Hoa. Cho nên tục có câu « Gió Tu Hoa ». Gió Bấc thổi về mùa thu mùa đông và thổi qua thung lũng phía Tây Bắc. Nơi đó gọi là Eo Gió. Gió Lào cũng như gió Bấc đều thổi đến Tu Bông. Cho nên Tu Bông có tên là « Tụ Phong Xứ » nghĩa là xứ tụ gió. Gió thổi ào ào và thổi suốt ngày suốt tháng! Cho nên ở Tu Bông, ngoài câu phương ngôn « Gió Tu Hoa », và tiếng « Eo Gió », còn có câu hát rằng:
Gió đâu bằng gió Tu Bông,
Thương ai bằng,
Thương cha, thương mẹ, thương chồng, thương con.
Người thục nữ Tu Bông có tấm lòng quí hóa như thế, nên khách nam nhi Phú Yên Bình Định thường tìm vào kết nghĩa trăm năm. Có nhiều người đã cùng Tu Bông nặng tình đôi lứa, nhưng còn ngại lòng mẹ cha nên có lời than thở:
Bước chân lên Đèo Cả
Trông vào Vạn Giã
Ngó lại Tu Bông…
Biết rằng cha mẹ đành không?
Anh chờ em đợi uổng công hai đàng…
Thật có thua gì thơ Quan Thư trong Kinh Thi Trung Quốc. Được thế có phải chăng nhờ ảnh hưởng gió Tu Hoa gió Eo Gió là những ngọn thuần phong sanh mỹ tục? Hòn Tu Hoa có danh nhờ Gió. Từ núi Tu Hoa vào Nam, đi quá Vạn Giã chừng bốn cây số tại thôn Xuân Tự xã Vạn Hưng thì có:
2) NÚI BỒ ĐÀ
Cũng gọi là Phổ Đà. Chỉ cao 292 thước. Hình phảng phất giống con voi trở đầu ra Bắc. Sườn núi chỗ lồi, chỗ lõm, trồi sụt, thấp cao, lên xuống không dễ. Bên cạnh về phía Đông Bắc có ngọn núi nhỏ gọi là núi Phiên Lê tục danh Dốc Thị. Con đường Quốc Lộ số 1 trổ ngang qua núi nầy. Bồ Đà và Phiên Lê là hai chị em. Núi tuy thấp nhưng hiểm trở, có thể dụng binh.
Ngày xưa nghĩa quân Cần Vương do anh hùng Trần Đường chỉ huy đã đóng tại Bồ Đà để giữ đèo Dốc Thị. Giặc Pháp không dám đến gần. Sau hai năm hao công sức, Pháp xin thêm viện binh. Đại binh Saigon kéo ra. Tên Việt gian Trần bá Lộc đem tiền của chức tước mua chuộc bọn mãi quốc cầu vinh. Biết được căn cứ quân sự của Nghĩa binh, y viên kéo dồn quân đến bao vây công kích. Nghĩa binh chống cự anh dũng. Nhưng súng hỏa mai, giáo sào, gươm, ná, không chống nổi cùng đại bác súng trường. Nên sau mấy trận thư hùng, nghĩa binh bị đại bại và anh hùng Trần Đường phải hy sinh.
Bồ Đà và Dốc Thị nổi tiếng nhờ chiến công oanh liệt của nghĩa binh Cần Vương tỉnh Khánh Hòa. Chung quanh Bồ Đà và Dốc Thị còn nhiều núi chung một sơn mạch. Thường được nhắc nhở: phía Bắc có Núi Chùa, phía Nam có Núi Quán.
Núi Chùa thấp và không có gì đặc sắc, ngoài một ít dấu thành lũy của Chiêm Thành. Có danh là nhờ ở gần đàng Quốc lộ số 1 ngày nay và đường Thiên Lý ngày xưa. Kẻ qua người lại mượn làm cái tiêu cái đích cho dễ nhớ, dễ nói năng.
Gọi là Núi Chùa vì xưa kia trên núi có chùa thờ Phật 6. Được liệt vào hàng danh sơn là Núi Quán, tên chữ là:
3) NÚI MỸ NGỌC
Có tên nữa, là Núi Dàn, cao 473 thước. Phía Tây núi non trùng điệp. Phía Đông và phía Nam, gò đống ngổn ngang chạy từ chân núi đến Hòa Huỳnh, liền nhau như những nấm mồ trong nghĩa địa, nấm to nấm nhỏ, nhiều nấm tròn, cũng có nấm hình dáng không đều đặn.
Để hình dung cảnh tượng, cổ nhân dùng bốn chữ « Thác lạc thùy châu». Nghĩa là một chuỗi hạt châu rơi rụng lòng thòng. Và để ca tụng quang cảnh ngoạn mục lúc đăng sơn, cổ nhân dùng tên Mỹ Ngọc tặng cho núi.
Người bình dân gọi là Núi Quán vì xưa kia có một thiền sư đến cất am tu trên núi, và để giúp đỡ những hành khách lỡ đường, che một cái quán dưới chân núi, cạnh đường vô ra.
Còn vì sao gọi là núi Dàn thì không ai biết rõ. Có người giải thích rằng vì trước núi gò đống dàn bày nghênh ngang ra vậy. Đó chỉ là cượng giải mà thôi.
Những gò đống dưới chân núi bị đường Quốc Lộ 1 chia làm hai nhóm.
Nhóm phía dưới hình dáng trông đều đặn hơn nhóm phía trên và liền chân nhau thành một hàng dài từ Bắc vào Nam dọc theo đường Quốc lộ. Tất cả có chín nổng: Tục gọi Chín Cụm. Khách văn chương gọi là Cửu Phong Liên Đới và Cửu Lĩnh Minh Châu.
Núi Mỹ Ngọc cũng như núi Phổ Đà và các núi nằm dọc theo đường Thiên Lý, trước kia rất sầm uất. Nhưng từ thời chiến tranh bùng nổ, cây cối bị đốn gần hết. Núi trông trơ trụi khô khan, giảm hứng thú đi nhiều lắm.
Dãy núi nằm phía Tây núi Mỹ Ngọc (cũng thuộc xã Vạn Hưng) là dãy:
4) NÚI ĐÁ ĐEN
Cao 611 thước. Sắc đá đen như cháy. Có nhiều chướng khi và thỉnh thoảng có mây đen trong đá bay ra.
Trên núi có dấu thành lũy của Chiêm Thành, tục gọi là Thành Hời. Trong phạm vi thành có miếu cổ do người Việt cất. Lâu đời đã hư nát. Dưới chân núi có một cái láng gọi là Láng Chu và một cánh đồng rộng, chung quanh núi bao bọc, gọi là đồng Xuân Sơn.
Vùng nầy xưa kia là bãi chiến trường. Oan khí tích tụ sanh ra quỷ quái. Truyền rằng những chiều âm u, những đêm trăng mờ gió lạnh, thường nghe tiếng khóc than, và thấy bóng ma thấp thoáng trong sương khói. Có người gặp ma cả ban ngày. Vì vậy không mấy ai dám đi qua núi một mình, nhất là lúc trời chạng vạng.
Phía Tây Nam núi Đá Đen và Núi Dàn, có hòn:
5) HÒN VUNG
Thuộc xã Ninh An nơi ranh giới quận Ninh Hòa và Vạn Ninh. Núi chỉ cao 326 thước và cách xa đường Quốc Lộ số 1. Thế mà từ Vạn Giã vào đến Ninh Hòa, vẫn trông thấy như chạy theo bên cạnh. Đó là do hình núi khác với « đồng bào » chung quanh. Núi chung quanh đều chạy theo hướng Bắc Nam hoặc Tây Đông, và dáng dài dài loại hình thang hoặc hình đa giác dẹp… Hòn Vung đứng thẳng và đỉnh nhọn chọt lên trời xanh. Nếu như lưng đen chỏm trắng thì giống hẳn chiếc nón lông chụp bạc của các thầy Chánh Tổng ngày xưa. Khi đặt tên, nếu gặp tay háo sắc thì nhất định núi mang danh là Nhũ Sơn. Còn nếu gặp khách thích văn chương thì làm gì cũng gọi núi là Bút Sơn vậy. Nhưng người Khánh Hòa vốn ưa thực tế, nên gọi là Hòn Vung. Phía ngoài có Hòn Chảo, phía trong có Hòn Vung. Trời đã khéo sanh, mà người cũng khéo đặt. Rõ là thiên ý nhân tâm. Đỉnh Hòn Chảo và đỉnh Hòn Vung đối trĩ nhau, bên chính Bắc, bên chính Nam, và cách nhau mười cây số đường thẳng. Dường như có sự sắp đặt của Hóa công. Hai núi nầy nếu ở Bình Định thì làm gì đồng bào ngoài nó cũng bảo là có bàn tay ông Khổng Lồ nhúng vào 7. Ở Khánh Hòa ông Khổng Lồ cũng có đến 8, song không nghe nói chuyện dời núi non. Cho nên có câu:
Khánh Hòa non nước trời sanh,
Xưa sao nay vậy đượm tình nước non.
Bước vào địa phận Ninh Hòa, nhìn về hướng đông, xa xa thấy một vùng núi chạy ra biển. Đó là:
6) NÚI PHƯỚC HÀ
Núi nằm phía đông quận lỵ, rộng hàng trăm dặm vuông, chạy ra biển thành một bán đảo xiêng xiêng về hướng Đông Nam, bề ngang trên dưới 10 cây số, bề dài trên vài chục cây số, ở trên địa phận ba xã Ninh Phú, Ninh Diêm, Ninh Phước.
Vịnh Vân Phong và vịnh Nha Phu vây quanh ba mặt. Từ trên mây ngó xuống, hình núi giống hệt ngón tay cái củ gừng của bàn tay mặt úp sấp. Đó là một phần quần sơn đứng trên một căn đế. Có trên mười ngọn, cao nhất là Hòn Hèo (819 thước) ở giữa, rồi đến hòn Tiên Du ở phía Tây Nam (777 thước) và hòn Phủ Mái Nhà (725 thước) ở phía Tây Bắc. Còn các ngọn khác ở phía Đông như Hòn Răng Cưa, Hòn Nhọn… thì cao dưới 500 thước. Vì Hòn Hèo cao nhất nên người địa phương dùng làm đại biểu cho toàn dãy, nên thường gọi Phước Hà Sơn là Hòn Hèo.
Núi Phước Hà có nhiều mây, nhưng nhiều nhất và lớn nhất là mây Hòn Hèo. Tại Hòn Hèo lại có thứ mây bông, tên chữ là hoa đằng, vừa to vừa thẳng. Đồng bào địa phương chặt về làm vật dụng, nhất là làm hèo. Do đó anh chị em bình dân mới gọi núi là Hòn Hèo, và khách hàn mặc đặt cho một tên văn vẻ là Hoa Đằng Sơn.
Tên Hoa Đằng Sơn cũng thường thay thế cho Phước Hà Sơn vậy. Vì Hòn Hèo có nhiều mây nên phương ngôn có câu: « Mây Hòn Hèo ». Hình thế núi Phước Hà rất kỳ mà cũng rất hiểm:
- Đứng tại Phước Sơn, thuộc xã Ninh Đa, ngó xuống thì hình núi giống hệt mái nhà ngói rêu phong, dáng trông hiền lành nhưng nghiêm nghị.
- Đứng ngoài Phú Thọ thuộc xã Ninh Diêm ngó vô, thì nơi lồi nơi lõm, hốc hỉu hô hê, hình dáng trông rất xấu xí và dữ tợn.
- Đứng tại Ninh Tịnh thuộc xã Ninh Phước trông ngược lên thì thế núi liền lạc hòa hưỡn, «cây chen đá lá chen hoa», quang cảnh trông thanh u nhưng có phần kỳ bí.
- Đứng ở Lệ Cam thuộc xã Ninh Phú mà ngó thì phong cảnh thật là tú mỹ. Dọc theo bờ biển Vịnh Nha Phu, đá ngổn ngang chồng chất, hòn to lớn, trăm dạng nghìn hình. Đây là Đá Tượng theo trí tưởng tượng của người ngắm cảnh mà hóa thành voi thành ngựa, thành vật nọ vật kia. Rồi tới Đá Vách dựng đứng như vách, cao trật ót và dài đến ba bốn cây số. Trên thì núi, dưới thì biển, muốn qua lại, người ta phải luồn vào « vách » mà đi.
Đó là ở mặt ngoài. Trên núi và trong núi hình thế rất kỳ dị và rất hiểm trở. Nghĩa binh Cần Vương đã nhờ thế núi mà cầm cự cùng đại binh Pháp hơn một năm trời.
Tại hòn Tiên Du có một hang đá rộng lớn như một cái nhà và có thể chứa ba bốn trăm người thong thả. Hang đá ở trên lưng chừng núi. Chung quanh có cây rậm đá to. Cảnh trí rất thâm u tĩnh mịch. Xưa kia có một thiền sư đến ở tu, nên hang trở thành chùa và tục gọi là Chùa Hang. Chính nơi đây là một trong những mật khu quân sự của Nghĩa binh Cần Vương tỉnh Khánh Hòa thời kỳ Pháp đến xâm chiếm nước Việt Nam. 9
Gần Chùa Hang lại có một tảng đá cực kỳ to lớn. Những lúc trời thanh, đứng ở Ninh Hòa nhìn xuống, thấy rõ sắc dạng nổi bật lên trên màu núi xanh. Mặt đá bằng phẳng, hình chữ nhật, dài trên dưới 70 thước tây, rộng trên dưới 50 thước. Đá nằm lài lài theo triền núi, nên tục gọi là Đá Trải.
Đứng nơi chùa Hang cũng như nơi Đá Trải, ngó xuống chân núi, phía Nam, thì thấy thôn Tiên Du, thôn Lệ Cam, cửa nhà chen chúc trong bóng cây màu khói. Vịnh Nha Phu thường mang sóng vỗ vào chân núi Phước Hà ở mặt Bắc và những gành những bãi ở mặt Nam. Bên kia vịnh, con đường hỏa xa, con đường Quốc lộ số 1, từ Ninh Hòa vào đến Lương Sơn, trông như hai con rắn bò song song qua những lùm cây chỗ thưa chỗ nhặt. Và vườn ruộng, núi rừng giăng bát ngát ở phía Tây và dọc theo hai con đường xe hơi xe lửa… Ngó lên phía Ninh Hòa, xóm làng thành phố nối liền nhau, khi ẩn khi hiện… Phong cảnh gần đời nhưng không tục.
Phước Hà liệt vào hàng danh sơn thật là xứng đáng vậy. Ở phía Bắc núi Phước Hà, trên một doi đất chạy xuống biển Vân Phong, đột khởi một cụm núi nhỏ, chỉ cao 155 thước, tục gọi là:
7) HÒN KHÓI
Dưới chân núi có đầm Đông Hải. Chung quanh đầm, về phía Đông, phía Tây, rải rác một ít gò đống. Cả vùng đều mang tên núi: Vùng Hòn Khói. Người Pháp gọi là Hone Cohé. Tên nầy do tiếng Hòn Khói đọc theo giọng Tây. Nhưng có thuyết bảo rằng nùi nầy tên chữ là Quế Sơn, tục gọi là Hòn Quế. Tây đọc trại là Hone Cohé. Thuyết nầy không được phổ biến. Còn tên Hòn Khói do đâu mà ra?
Truyền rằng thời Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu tranh hùng, Phúc Ánh thường đóng quân ở đây. Trên núi có trại canh. Hễ khi nào có địch tới thì đốt khói làm hiệu. Do đó núi mệnh danh là Hòn Khói tên chữ là Yên Cang.
Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), đổi tên Yên Cang làm Vân Phong, tức Đỉnh Mây 10. Nhưng có người bảo: « Vùng núi nầy là núi lửa đã nguội. Thỉnh thoảng động đất, núi bị rạn nứt, khói ở lòng đất theo kẽ hở bay ra. Khói mà cổ nhân trông thấy rồi dùng đặt tên cho núi, là khói của đất chớ không phải của người. Tên Hòn Khói nhất định có đã từ lâu chớ không phải từ thời nhà Nguyễn Trung hưng ». Thuyết nầy có lẽ đúng hơn.
Nhưng việc đốt lửa báo hiệu lúc Nguyễn Ánh tranh hùng cùng nhà Tây Sơn vẫn là chuyện thật. Năm Bính Tuất (1886), sau khi Diên Khánh thất thủ, anh hùng Trịnh Phong kéo nghĩa quân ra đóng Hòn Khói, vẫn đốt lửa trên núi để báo hiệu lúc thấy giặc Pháp ở biển kéo vào.
Những sự kiện lịch sử tô điểm cho núi non thêm ý vị. Hòn Khói và Phước Hà nằm sát mé biển, phía Đông đường Quốc Lộ số 1, phía Tây đường Ninh Hòa còn hai ngọn núi nữa thấp mà có danh, một nổi tiếng về cọp, một nổi tiếng về heo rừng. Đó là: Núi Phú Như, Núi Xích Thổ.
8) NÚI PHÚ NHƯ
Tục danh là núi Ổ Gà. Núi nằm về phía Bắc quận lỵ cách chừng ba cây số, tại thôn Phú Nghĩa, phía Tây đèo Bánh Ít tức đèo Hà Thanh, giữa đường Quốc Lộ số 1 ở phía Đông và đường Hỏa xa ở phía Tây. Phía Nam núi lại có con đường liên xã số 10 chạy từ đường Quốc Lộ lên đường Hỏa xa. Núi không cao nhưng rậm rạp, nên cọp rất nhiều.
Khánh Hòa nổi tiếng về cọp. Tục có câu « Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận », vì núi nào hễ có rừng rậm là có cọp. Cọp ở Ổ Gà lại nhiều hơn các vùng sơn lâm trong tỉnh. Truyền rằng cọp kéo ra từng đoàn như đoàn bò. Cho nên phương ngôn có câu « Cọp Ổ Gà ». Cọp tuy nhiều, nhưng cọp Ổ Gà cũng như các nơi khác, rất nhát gan, hễ thấy người thì lo tránh. Cho nên người lịch lãm thường nói: « hiền như cọp Khánh Hòa ».
Thời Pháp thuộc, đời Duy Tân (1907-1916), nhà chí sĩ Trần Cao Vân vào Khánh Hòa vận động cách mạng. Không có kết quả, than cùng một ông bạn: « Nhân sĩ Khánh Hòa hiền lành quá! »
Ông bạn cười đáp: « Cọp còn thế huống chi người! »
Lại có câu chuyện Tiếu Lâm rằng: Ở các nơi gần rừng núi, cọp thường ra chơi cùng các em mục đồng. Đôi bên coi nhau như người trong tứ hải, có gì ngon đều đãi nhau. Một hôm một em bé chơi nghịch tay bóp dái cọp chúa đàn. Đau điếng ruột, cọp thét lên một tiếng, bỏ chạy về núi một hơi. Cả bầy thất kinh, ùn ùn chạy theo hết. Từ ấy không dám làm thân cùng người nữa, và hễ thấy người thì nguýt một cái rồi tránh xa. Cọp hiền là do thủy thổ. Cũng như người, cọp « dĩ hòa vi quí ». Bởi vậy, tuy xứ nhiều cọp, cổ nhân vẫn xem mặt đặt tên: Khánh Hòa. Vì cọp hiền nên Khánh Hòa ít bị hổ hoạn. Năm khi mười họa, nếu có kẻ bị rủi ro thì tiếng đồn khắp tỉnh. Như ở Vạn Ninh, ngày xưa có một ông tiều tục là lão Hảo, bị cọp tại đèo Dốc Thị chụp tuột da đầu. Nếu sự việc xảy ra ở Phú Yên hay Bình Định, thì rồi là rồi, vì thường quá. Nhưng ở Khánh Hòa, cọp chụp người là chuyện hy hữu, nên địa phương mới có câu « Tuột da lão Hảo », truyền cho đến ngày nay.
9) NÚI XÍCH THỔ
Là vùng núi đất đỏ ở phía Tây núi Ổ Gà. Núi thấp nhưng rừng rậm và nhiều cây to, nên có nhiều sơn thú. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí chép rằng có cả tê giác. Nhưng không mấy ai trông thấy. Chỉ thấy nhiều nhất là heo rừng. Heo rừng Đất Đỏ đã nhiều, thịt lại ngon hơn đâu cả. Cho nên nổi tiếng là « heo Đất Đỏ ». Vì có nhiều sơn thú nên thời Tiền Chiến, Đất Đỏ là nơi lai vãng của những tay thợ săn. Và hễ có thịt heo rừng bán ra, mà nói là heo Đất Đỏ, thì mấy gánh mấy khiên cũng không sợ ế. Ở quanh vùng Đất Đỏ có thứ đá son. Thời chữ Nho thịnh hành, học trò thường đến lượm về mài cho thầy chấm bài vở. Nhưng văn không quí bằng chất. Cho nên son không nổi tiếng bằng heo rừng. Đó là những ngọn núi thấp mà nổi danh ở vùng ngoài, vùng thuộc về phủ Bình Khang ngày trước. Ở vùng trong là thuộc phủ Diên Khánh ngày xưa, tức quận Vĩnh Xương, quận Diên Khánh, quận Cam Lâm ngày nay, cũng có lắm hòn đỉnh thấp mà danh cao. Ở Vĩnh Xương có:
10) NÚI CÙ LAO
Đây là một vùng núi thấp gồm có năm hòn lớn nhỏ liền nhau, nhưng bị đường Quốc Lộ số 1 cắt làm hai phần tây đông cách biệt. Núi đã không cao lại không cây lớn. Nhưng nhờ có sông phía Nam, biển phía đông, cổ tháp Thiên Y A Na ở dãy phía trên, những lâu đài tân tạo của Công Giáo và Tin Lành ở dãy phía dưới, cùng những nhà cửa của nhân dân chen chúc dưới chân núi, mà phong cảnh trở nên thanh lịch hữu tình.
Đứng tại Nha Trang trông sang, những lúc trời quang mây tạnh, nhất là lúc mặt trời mới lên và lúc bóng chiều đã ngả, thì chúng ta mới thấy rõ vẻ đẹp của núi. Không nhiều cây rậm lá, mà sắc núi trông lục lìa. Đỉnh núi không có ngọn đâm lên trời xanh, mà chạy lô nhô như những lượn sóng, nhưng đường nét sắc bén như một tấm bìa các em cắt làm thủ công. Và những màu đỏ màu xám của gạch của ngói, những màu trắng màu đen của vôi của đá… tô điểm cho bức tranh màu lục đậm thêm duyên. Ngoài xa, những dãy núi cao, màu xanh nhạt làm bối cảnh và ngoài xa nữa là trời xanh. Càng nhìn càng thích.
Song Núi Cù Lao quyến rũ khách du quan không phải vì phong cảnh, mà chính vì tháp Thiên Y A Na chứa đựng một sự tích ly kỳ và nhiều câu chuyện linh thiêng huyền bí 11. Núi Cù Lao nằm bên Bắc ngạn sông Cù Giang tức sông Nha Trang. Bên Nam ngạn và đối trĩ cùng dãy Cù Lao có hòn Sinh Trung và hòn Trại Thủy.
11) NÚI SINH TRUNG
Là một hòn độc sơn toàn đá, đứng trên mé đầm Xương Huân, cạnh bến Hà Ra của con sông Cù, giữa thành phố Nha Trang. Các thầy Địa gọi là « Bạch tượng quyện hồ ».
Núi không cao cũng không lớn. Đối với thành phố, núi chẳng khác một hòn non bộ đứng trong một vườn cảnh nhiều cỏ nhiều cây. Hình núi không có gì đặc biệt. Núi lại ít cây cối và không quái thạch kỳ nham. Nhưng nếu lên đầu núi đứng trông thì phía Bắc, phía Đông, nào sông nào đầm, nào cồn nào biển… bóng cây in nước, bóng mây trôi dòng, lầu tháp ven bờ, tàu thuyền trên sóng. Nhìn về hướng Tây, hướng Nam, thì phố xá ngựa xe, đồng ruộng mây khói, muôn màu nghìn nét, bát ngát mênh mông. Xa xa non xanh trập trùng như bức trường thành bao trùm lên ba mặt Tây Nam Bắc, còn mặt đông, sóng bạc làm thiên binh vạn mã để hộ vệ cho non. Vọng cảnh thật bao la, ngoạn mục.
Trên đầu núi có miếu thờ các vị công thần của nhà Nguyễn đã bỏ mình lúc Trung hưng. Miếu gọi là Tinh Trung, sau đổi là Sinh Trung. Tên núi mượn tên miếu mà kêu. Người địa phương cũng thường gọi là núi Ha Ra. Ha Ra là tên khu vực. Sách Đại Nam chép là A La. Núi Sinh Trung và đầm Xương Huân vốn có tình « cốt nhục ».
Truyền rằng: Ban sơ không có đầm cũng không có núi. Khi nữ thần Poh Naga giáng thế, sấm trời nổi dậy báo cho vạn vật biết tin, thì một con Cù sanh từ lúc khai thiên lập địa, nằm ngủ quên trong lòng đất, giật mình vùng dậy: Những lớp đá phủ trên mai Cù bị hất tung lên thành núi, và nơi Cù nằm bị hũng xuống thành đầm. Cho nên đầm có tên là Cù Đàm và núi có tên là Cù Lĩnh. Đầm nằm ôm chân núi, núi đứng soi bóng vào lòng đầm. Nước trang điểm cho non, non trang điểm cho nước. Tương y tương ỷ, ngày nắng cũng như ngày mưa. Những đêm gió mát trăng trong, lên núi mà xem đầm thì cực kỳ thanh thú. Mặt đầm như tờ giấy băng cơ trắng láng, và vầng trăng như quả ấn ngân châu đóng lên trên nền mờ mờ do núi non cửa nhà cây cối phác họa. Trương Xuyên có câu:
Sóng lặng tăm cù non gửi bóng,
Thu lồng gương quế nước in châu.
Đó là quang cảnh ngày trước. Ngày nay cảnh lâu đài khang trang, đèn điện trăm màu sắc, tưng bừng rực rỡ, đã lấn át cảnh thiên nhiên. Trong Chánh phủ ngoài dân gian, không còn mấy ai đế ý đến non nước, khiến Cù Đàm Cù Lãnh đã bị những tay đặt quyền lợi cá nhân lên trên hết, làm hư hại quá nhiều. Muốn tìm lại phong thú của nghìn xưa, phải đợi khi lòng người biết yêu nước non trở lại.
12) NÚI TRẠI THỦY
Thường gọi là Hòn Xưởng. Tên chính thức đã được « trước bạ » trong sách vở là Khố Sơn, tục danh Hòn Kho. Đại Nam Nhất Thống Chí chép: « Khố Sơn ở phía đông huyện Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía Đông Nam có nền cũ kho Phước Sơn nên đặt tên như thế. Phía Bắc gần sông Ngu Trường. Năm Ất Mão đầu lúc Trung hưng (1795) đại binh đánh phá tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu ở bảo Khố Sơn tức là chỗ nầy. Trên núi có đền Quan Công và miếu Ngũ Hành ».
Lỵ sở Vĩnh Xương trước kia đóng ở Phú Vinh, nên sách nói « Khố Sơn nằm ở phía Đông ». Và kho Phước Sơn là kho chứa lương thực từ thời Chúa Nguyễn. Nhà Tây Sơn chiến thắng chúa Nguyễn, lập xưởng đóng thuyền bè tại hòn Kho. Từ ấy núi mang tên Hòn Xưởng. Sau khi lấy lại được Diên Khánh, Nguyễn Phúc Ánh lập trại nơi hòn Xưởng, gần bến Trường Cá (tức Phương Sài hiện tại) để thủy binh đóng giữ mặt biển. Người địa phương bèn gọi là hòn Trại Thủy.
Sang thời Pháp thuộc, tên Trại Thủy được ghi trên các bản địa đồ và trên giấy tờ của Chánh Phủ, nên trở thành tên chánh thức và được thông dụng hơn tên Hòn Xưởng Hòn Kho. Và hiện nay Trại Thủy vẫn là tên ghi nơi « căn cước » và trong « sơn thủy bộ ».
Trại Thủy là một hòn độc sơn nằm ở địa đầu thành phố Nha Trang, về hướng Tây. Núi cao chừng ba mươi, ba mươi lăm thước, dài độ năm sáu trăm thước, chạy dọc theo đường Quốc Lộ số 1, ở phía Bắc. Hình giống một con dơi nằm xoè đôi cánh, đầu hướng về Tây Nam. Cổ nhân gọi là « ngọc bức hàm hoàn » (giải ngọc ngậm vòng ngọc). Triền phía sau toàn đá hoa cương và dốc ngược. Triền phía trước hơi lài lài, cũng bằng đá hoa cương nhưng có lẫn đất điệp.
Trên núi không có cổ thụ, không có bàn thạch. Khí sắc không được tươi nhận. Cảnh tượng trông có vẻ trơ trụi khô khan. Xưa kia chỉ có miếu thờ Quan Công và miếu Ngũ hành cất nơi « đầu con dơi », qui mô nhỏ hẹp. Thời Tiền Chiến (1943), Hòa Thượng Giác Phong lập nơi « cánh hữu con dơi » ngôi chùa Hải Đức, đồ sộ trang nghiêm. Tiếp theo chùa Hải Đức, một dãy tăng phòng và học viện cùng tịnh thất xây thêm sau ngày đình chiến. Gần đây, hội Phật Giáo Khánh Hòa đúc Kim Thân Phật Tổ, bằng thạch cao, nơi « lưng dơi ». Tượng ngồi trên tòa sen, ngó vào Nam, trông vừa bi vừa dũng. Dưới chân núi, nơi góc tiếp giáp « cổ dơi » và « cánh tả » hội Phật Giáo cất ngôi chùa Long Sơn tục gọi Chùa Hội một thời cùng chùa Hải Đức và hai dãy trường Tiểu Học và Trung Học Bồ Đề trong khoảng gần đây. Chùa và trường nằm ngay dưới chân Kim Thân Phật Tổ. Và, một con đường chạy quanh co theo triền núi nối liền Chùa Hội cùng chùa Hải Đức, một bực cấp ở sau Chùa Hội và một con đường thứ hai vừa xây đắp để cho khách thập phương lên chiêm ngưỡng Kim Thân đức Từ Tôn. Cây cối quanh chùa quanh tượng, mỗi ngày mỗi trồng thêm. Hiện nay đã có bóng xanh mát.
Nhờ tay người điểm trang, mà hòn Trại Thủy trở nên xinh lịch. Nhưng thú đăng lâm của du khách không phải ở nơi chùa nơi núi, mà chính ở nơi vọng cảnh bốn chung quanh.
Nhìn ra phía sau núi: Ngoài con sông Cù như tấm lụa bạch, phân dòng uốn khúc, chạy xuống biển Nha Trang lai láng màu thủy ngân, ngoài dãy núi Cù Lao chạy dọc theo bờ sông mé biển, với tháp với lầu, với cây xanh đá xám, soi hình in bóng trên mặt sóng rung rinh… Ngoài những cảnh ấy, những cảnh đã thấy khi đứng trên núi Sinh Trung, du khách còn được thưởng thức quang cảnh những vườn dừa nối liền nhau không dứt của các làng Lư Cẩm, Ngọc Hội, Vĩnh Hội, Vĩnh Điềm… nằm dưới chân non và trải một màu xanh óng ánh như mặt biển xuân buổi sớm mai lặng gió…
Nhìn ra mặt trước núi: Nào vườn rau tứ mùa xanh, đồng lúa khi trải vàng khi giăng lục ; nào xóm làng ẩn hiện dưới bóng cây quằng trái, mai chiều điểm nhạt đôi cánh cò trắng quẩn quanh… Và thành phố Nha Trang trông suốt từ đầu đến cuối: Cửa nhà bát úp, đường sá màn nhện giăng… ban ngày ngựa xe, ban đêm ánh đèn điện, tưng bừng rộn rịp… nhưng bụi đời không làm bợn bầu không khí thanh tịnh trên đầu non.
Thấy Trại Thủy đứng giữa đất bằng, nhiều người tưởng là một hòn núi độc lập. Nhưng theo các nhà địa lý học thì núi thuộc về hệ thống vùng núi Cao Nguyên. Và các nhà phong thủy, tục gọi là Thầy Địa, cho biết rằng đó là Trấn Thủy Khẩu của dãy núi phía Tây Diên Khánh. Long mạch phát từ Hòn Thị 12, chạy ngầm dưới đất đến gần cửa sông Cù thì đột khởi làm cột trụ giữ anh khí cho cuộc đất Diên Khánh Vĩnh Xương. Và thành Diên Khánh lấy Hòn Thị ở phía Tây làm hữu bậc, lấy hòn Trại Thủy ở phía Đông làm tả phụ. Vì vậy, về mặt phong thủy, hòn Trại Thủy là trong những hòn núi quan trọng tỉnh Khánh Hòa.
Và trông thấy Trại Thủy có vẻ hiền lành, mấy ai ngờ rằng trước kia đã xảy ra nhiều cuộc huyết chiến ngay dưới chân núi. Đó là những trận đánh ác liệt giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn năm Quí Sửu (1793) và năm Giáp Dần (1795) tại bến Trường Cá 13. Và năm Ất Dậu (1885) Nghĩa quân Cần Vương đã dùng nơi đây làm căn cứ chống Pháp 14 Những sự kiện lịch sử ấy vẫn chưa mờ nơi bia miệng nghìn thu.
Thời Pháp thuộc, lên chơi Trại Thủy, Thi Nại Thị nghĩ đến chuyện xưa, đề nơi đá mấy vần cảm khái:
Bước lên hòn Trại Thủy,
Dừng chân đứng nghỉ,
Nghĩ chuyện đời xưa:
Lầm chữ Trung bao kẻ bị lừa,
Bọc thây da ngựa để dựng cơ đồ cho ai!
Vơi vơi biển rộng sông dài,
Đống xương vô định ai người khói hương?
Và rồi người tranh bá,
Và rồi kẻ đồ vương,
Sướng tay chẳng giữ mối giường,
Non sông đem gán cho phường sài lang!
Cảm thương đoàn nghĩa sỹ,
Gan rèn đá,
Dạ trui vàng,
Mật thù thắm vị gian nan,
Quyết đem xương máu lấp đàng xâm lăng.
Gươm mài trăng dẫu khuất,
Gương rửa nhục còn treo,
Nước sông Trường Cá trong veo,
Nghìn thu suy thịnh thủy triều xuống lên.
Trước mặt hòn Trại Thủy, cách một cánh đồng rộng thênh thang, một dãy núi giăng dài từ Tây xuống Đông, dọc theo đường Quốc Lộ số 1. Đi trên Quốc Lộ trông vào thấy nhiều hòn giống hình linh qui đương bò lên hướng mặt trời lặn. Đó là dãy núi Hoàng Ngưu.
Phần Thứ Nhì - Địa Lý (tt)
13) núi hoàng ngưu
Do tiếng Đồng Bò là tên một cánh đồng ở dưới chân núi mà ra. Đây là một vùng núi rộng hàng trăm dặm vuông, nằm trùm trên địa phận ba quận Vĩnh Xương, Diên Khánh, Cam Lâm và chạy ra sát biển. Núi không cao, đỉnh cao nhất là 978 thước nằm ở giữa núi nhưng thế hiểm. Nếu dùng làm mật khu quân sự thì địch khó mà tìm ra cơ sở, mà có tìm ra đi nữa cũng không dám tấn công. Đi trên tàu bay nhìn xuống thì thấy núi non điệp điệp trùng trùng. Nhưng chỉ có một ngọn nổi danh là hòn Cầu Hùm thường kêu là Hòn Con Hin.
Núi nằm sát biển cao 643 thước, cây cối rậm rạp, đá mọc gồ ghề, lại có nhiều thú dữ. Song núi nổi danh không phải vì cảnh vật, mà nhờ câu chuyện bắt hùm của người xưa.
Nguyên ngày xưa ở Khánh Hòa có một con cọp chúa đàn sống trên vài trăm năm, to lớn dị thường và hung tợn cực độ. Cọp què một chân, nhưng lanh lẹ như chớp. Ngày ngày thường xuống đồng bằng bắt người và gia súc, tên bắn không thủng, bẫy nhử không mắc, gây đại hoạn cho đồng bào địa phương.
Khi làm trấn thủ thành Diên Khánh (1793), ông Nguyễn văn Thành tìm đủ cách để trừ nạn cho dân. Song không có kết quả. Nghe đồn bà Thiên Y A Na linh thiêng, quan trấn thủ liền mật đảo. Thiên Y liền ứng mộng bảo gài bẫy nơi dãy Hoàng Ngưu, và bày lễ tam sanh cúng tế trong ba ngày đêm, thì tất bắt được hổ. Quan trấn thủ làm theo lời mộng thì quả bắt được con hùm xám ba chân. Từ ấy nhân dân được sống yên. Để tỏ lòng tri ân, quan lập miếu thờ bà Thiên Y nơi đỉnh núi đã bắt được hùm. Và nhân câu chuyện cầu đảo mà bắt được hùm thiêng, nhân dân địa phương gọi núi là núi Cầu Hùm vậy. 15
Hòn Cầu Hùm là chủ sơn trong dãy Hoàng Ngưu. Và dãy Hoàng Ngưu nằm sát biển ở mặt đông, lại có đồng bằng cùng đường Quốc Lộ số 1, đường Hỏa xa làm ranh giới ở phía Tây, nên bên ngoài có vẻ một « Quốc gia tự trị không lệ thuộc một cường quốc nào ». Nhưng sự thật, cũng như hòn Trại Thủy đối diện, vẫn nằm trong sơn hệ vùng Cao Nguyên và vẫn liên quan mật thiết với vùng núi phía Tây Diên Khánh. Quận Diên Khánh, ngoài những ngọn núi cao trên nghìn thước (đã dẫn ở đoạn trên), còn mấy ngọn thấp rất nổi danh. Trước hết là hòn:
14) NÚI CHÚA
Núi nằm trong địa phận thôn Đại Điền Trung, phía Bắc thành Diên Khánh. Ngày xưa gọi là núi Đại An. Tên chữ là Qua Sơn tức Núi Dưa. Tục gọi là Núi Chúa. Truyền rằng nơi núi Đại An xưa kia có vườn dưa của vợ chồng ông tiều mà bà Thiên Y A Na tục gọi là bà Chúa Ngọc giáng trần và hiển thánh. 16
Tên Qua Sơn, Núi Chúa do đó mà ra. Còn Đại An là tên làng cũ của Đại Điền. Cổ nhân mượn tên làng gọi núi vậy. Xưa nay tên Núi Chúa thông dụng nhất. Núi Chúa là một thổ sơn, cao 284 thước. Dáng tròn tròn. Cây cối thưa thớt. Phía trước là đồng bằng. Phía sau, chạy dài từ Tây xuống Đông, một dãy núi đá cao và rậm. Xa trông như một nấm mộ đất chôn dưới chân hàng rào dúi trong một khoảnh vườn hoang.
Trên đỉnh có miếu thờ bà Thiên Y A Na. Miếu ngói qui mô không được rộng lớn. Cách thờ phụng cũng không được trang hoàng. Không xứng với một vị thần thượng đẳng mà các quan Tỉnh một khi đến để lỵ Khánh Hòa đều phải sang bái yết. Trước miếu, cách một sân rộng, có hai cây mã tiền, tức là cây cổ chi, sống lâu đời, thân cao tàn cả. Dưới gốc cây có hai nấm mộ đất. Người ta bảo đó là mộ của hai vợ chồng ông tiều, cha mẹ nuôi bà Chúa Ngọc.
Bà Chúa Ngọc có nhiều danh hiệu. Nơi bia cụ Phan thanh Giản ghi là A Na Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí khi thì chép theo cụ Phan, khi thì chép là Thiện Phi A Diễn Bà, khi thì chép Thiên Y A Diễn Bà, khi thì chép là Chúa Ngọc Tiên Nương (tục thường gọi là Chúa Tiên). Trong các sắc thần do vua nhà Nguyễn phong tặng thường chép là Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi. Ngoài đời thường gọi là Thiên Y A Na. Nhà Nguyễn Trung hưng ngay buổi đầu đã phong tặng Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng Thượng Đẳng Thần, và các vua sau đời nào cũng có phong tặng. Truyền rằng Núi Chúa rất linh thiêng. Thường có hào quang chiếu sáng.
Năm Tự Đức thứ ba (1850) được ghi vào từ điển, hằng năm quan Tỉnh phải thân hành đến tế vào tháng trọng xuân. Từ ngày chế độ phong kiến bị lật đổ, lệ xuân kỳ không còn nữa. Nhưng nhân dân địa phương, vì lòng sùng thượng, vẫn không để lạnh khói hương.
Núi Chúa nếu không có bà Thiên Y A Na thì cũng bị một danh như muôn nghìn ngọn núi khác. Cổ nhân bảo:
Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh.
Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh.
Nghĩa là:
Non chẳng tại cao, hễ có tiên thời nổi tiếng.
Nước chẳng tại sâu, hễ có rồng thời hóa linh.
Lời nói ấy đã được Núi Chúa chứng minh một cách hùng hồn vậy. Thời Pháp thuộc, Trường Xuyên lên chơi Núi Chúa có lưu lại một tuyệt rằng:
Người tiên cỡi hạc đi không lại,
Non Dưa vắng vẻ cảnh am tiên!
Theo thời hoa cỏ đua màu thắm,
Ngậm đắng riêng đôi khóm mã tiền!
Ở Diên Khánh có hai ngọn núi hữu danh, trùng tên với hai ngọn núi ở Vạn Ninh. Đó là Hòn Ngang và Hòn Dữ. Hai hòn núi Diên Khánh đối với hai hòn núi Vạn Ninh thì thấp và nhỏ thua, và danh hai hòn núi Diên Khánh chỉ phổ biến trong tỉnh. Thêm nữa hai núi Diên Khánh chỉ có tên tục chớ không có tên chữ Hoành Sơn Trấn Sơn như núi Vạn Ninh. (Hòn ở Vạn Ninh viết là Giữ tức giữ gìn, tức là trấn. Hòn ở Diên Khánh phải viết là Dữ vì do dữ tợn dữ dằng mà ra).
15) HÒN NGANG
Nằm trong địa phận thôn Đại Điền Tây. Cao 265 thước. Dài chừng vài cây số. Nằm xây mặt xuống hướng Đông. Trông giống bức bình phong hình thang. Phong cảnh không có gì đặc sắc. Có tiếng là nhờ nằm ngang ở giữa đồng trong khi các cụm núi khác nối nhau chạy theo một chiều như một đoàn cừu ngoan ngoãn.
16) HÒN DỮ
Nằm sát ranh giới Diên Khánh và Ninh Hòa, về phía Tây. Cao 904 thước. Trông ngang ngửa dữ tợn. Ở Ninh Hòa cũng như Diên Khánh, đi ngoài Quốc Lộ số 1, nhìn thấy Hòn Dữ nổi bật lên trên đám quần sơn, như một viên tướng giữa đám ba quân. Núi gọi là Hòn Dữ vì hai lẽ:
- Hình thù của núi trông to lớn dữ dằng.
- Bà Thiên Y A Na thường tới lui nơi núi và trong núi thường có ma quỉ hiện hình. Hễ ai vào núi hoặc đến gần núi mà có điều vô lễ thì bị quở phạt, nhẹ thì nhức đầu nóng lạnh, nặng thì điên cuồng hoặc học máu chết.
Núi còn có tên nữa là Hòn Sông Đôi. Vì đỉnh tách ra làm hai ngọn đứng song song trông rất cân đối 17. Núi nhiều cây cối, phần nhiều là danh mộc, lại nhiều đá, lớp ngổn ngang, lớp chồng chất thành hố thành hang.
Truyền rằng: Trên núi có một cái sân đá bằng phẳng và rộng lớn. Đó là sân của Bà Thiên Y A Na, có quỉ thần canh giữ và cứ chiều chiều công và trĩ thay phiên nhau quét dọn sạch sẽ, không hề có tí rêu bám có chiếc lá rơi.
Cạnh sân có hai lỗ đá trông như hai họng súng thần công. Mỗi khi bà Thiên Y ngự đến thì sấm từ trong lỗ đá nổ lên ầm ầm ba tiếng vang dội tận ngàn xa. Rồi trên đầu non, hào quang bốc sáng cả bốn mặt. 18
Nơi lưng chừng núi lại có một cái hang ăn sâu vào lòng núi. Trước cửa hang có một dòng khe không nước. Ban đêm thường nghe tiếng ồ ồ như tiếng xay lúa. Và cứ mỗi buổi sáng vỏ trấu ở trong hang chảy ra khe như nước. Đến chiều hai con chim đại bằng bay đến lấy đuôi quét lấy cánh quạt, trấu bay theo gió tản mác ngoài bốn phương, nơi hang nơi khe không còn một chút mảy. 19
Nơi Hòn Dữ có nhiều cây gió, nên có trầm hương. Bởi vậy ngoài thợ rừng thường lên núi đốn danh mộc, còn có những người « ngậm ngải tìm trầm » tới lui. Những cảnh tượng kỳ quái nơi thâm sơn, chính nhờ các người thợ rừng và người đi điệu 20 đã « cho xuất giang hồ » vậy.
Hòn Dữ, Hòn Ngang, hòn Núi Chúa nằm bên hữu ngạn sông Cái Khánh Hòa. Bên tả ngạn còn mấy hòn tiếng nổi không kém Hòn Dữ và Núi Chúa, là Hòn Thị, Hòn Chuông, Hòn Phú Mỹ, Hòn Đại Đồng.
17) HÒN THỊ
Nằm trên địa phận các thôn Bình Khánh ở phía Đông, thôn Đảnh Thạnh ở phía Nam, thôn Phước Lương ở phía Tây, thôn Phò Thiện ở phía Bắc. Cao 728 thước. Khí thế trông hoành tráng hiên ngang. Trên núi có nhiều cổ thụ. Hầu hết là thị. Lắm cây to lớn, bộng có thể chứa được cả trâu. Núi do cây mà mệnh danh. Dưới chân núi về phía Đông, có một bàu sen rộng trên mười mẫu ta. Đến mùa hạ sen nở, gió đưa hương ngát khắp bốn thôn lân cận. Qua mùa thu mùa đông, sen tàn hết lá, thì thấy nước bàu phía chân núi đục ngàu ngàu, còn phía đồng bằng lại trong vắt. Cổ nhân cho là một việc lạ. 21
Hòn Thị trước kia là một ngọn núi quan trọng trong tỉnh vì liên hệ đến địa cuộc thành Diên Khánh là thủ phủ của các quan chỉ huy cao cấp địa phương. Thành Diên Khánh lấy Hòn Thị làm hữu bậc, lấy hòn Trại Thủy ở Nha Trang làm tả phụ. Và các thầy Địa bảo rằng long mạch chạy từ Hòn Thị đến hòn Trại Thủy thì hồi cố. Hai ngọn núi nầy bị phá là thành Diên Khánh bị hư, mà thành Diên Khánh hư thì tỉnh Khánh Hòa không giữ được cảnh thịnh vượng. Bởi vậy xưa kia hai hòn núi nầy rất được quan địa phương chú ý. Hòn Thị nổi danh một phần lớn do lòng tin thuật phong thủy vậy.
18) HÒN CHUÔNG
Đây là một « chồi » nhỏ trong nhánh núi cao rậm ở ranh giới Diên Khánh và Cam Lâm. Trước mặt là đồng bằng. Hòn Chuông thuộc địa phận thôn Khánh Phước. Cao 192 thước. Hình tương tự một quả đại hồng chung úp sấp. Trên đỉnh có một miệng hang ăn sâu vào lòng núi trông như một cái giếng không đáy. Dưới chân núi có một vực sâu tục gọi là Lỗ Bún. Lỗ Bún nằm về mé chân núi phía Nam. Mé chân núi phía Đông Bắc lại có một suối nước nóng. Nước nóng bốc hơi, nhưng hai bên bờ cỏ rau mọc xanh tốt. Song nếu bức một nắm rau hay cỏ nhúng vào nước thì xào ngay. Truyền rằng Hòn Chuông là trạm nghỉ chân của Thiên Y A Na khi Bà ở Núi Chúa vào Nam hay ở Nam trở về Núi Chúa. Mỗi khi Bà ghé vào thì trong núi phát hào quang và nghe tiếng chuông ngân vừa trong vừa dài như tiếng vàng tiếng ngọc. Vì vậy nên người địa phương gọi Hòn Chuông là Vại Bà. Và núi mệnh danh là Hòn Chuông chẳng những do hình thù giống quả đại hồng chung, mà còn do tiếng chuông ngân mỗi khi Bà ghé lại.
19) NÚI PHÚ MỸ
Tục gọi là Núi Đồng Cọ. Mượn tên cánh đồng nằm dưới chân núi thuộc thôn Mỹ Lộc, xã Diên Lộc. Tên Phú Mỹ ít người biết. Núi trùng trùng điệp điệp. Cao độ bao nhiêu không được rõ. Chắc là dưới nghìn thước. Song cây cao rừng rậm, nên lúc nào cũng có mây vầng và mùa nào cũng có mưa, nhất là buổi chiều không mấy khi tạnh. Đứng ngoài đồng trông vào thường thường chỉ thấy một màu trắng. Vì trên núi thường có mưa và thường mưa nhiều, nên phương ngôn có câu: « Mưa Đồng Cọ ». 22
20) NÚI ĐẠI ĐỒNG
Cùng nằm trong một dãy với núi Đồng Cọ. Dưới chân núi có một cánh đồng rộng mênh mông tục gọi là Đồng Lớn. Tên Đại Đồng do tiếng Đồng Lớn mà ra, và cũng như tên Phú Mỹ, ít được phổ biến. Nói đến núi, người phương xa cũng như người sở tại đều mượn tên đồng: Núi Đồng Lớn.
Đồng Lớn ở trên Đồng Cọ, thuộc thôn Phước Lương. Đại Nam Nhất Thống Chí chép rằng xưa kia là chiến trường, oan khí không tan hóa làm ác quỉ. Truyền rằng quỉ hiện cả ban ngày, khi dưới đồng khi trên núi. Cho nên qua lại trong vùng không mấy ai dám đi một mình. Cũng như Đồng Cọ, núi Đồng Lớn có nhiều danh mộc. Song núi nổi danh không phải vì gỗ tốt mà vì nhiều ma. Những thợ rừng thường bị ma quấy quá. « Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày đường ». Vì vậy tục ngạn có câu: Ma « Đồng Lớn ». Những đặc điểm về Ma và về Mưa của Đồng Lớn Đồng Cọ đã cùng những đặc điểm của một số núi Ninh Hòa, Vạn Ninh, hợp thành một bài vè ý vị:
Mây Hòn Hèo
Heo Đất Đỏ
Mưa Đồng Cọ
Gió Tu Hoa
Cọp Ổ Gà
Ma Đồng Lớn.
Nhờ bài vè mà tên tuổi các hòn núi kia được truyền sâu và truyền xa hơn cả các danh sơn được liệt vào từ điển thời Phong Kiến. Trong vùng núi thuộc quận Cam Lâm, có một ngọn cao trên dưới 1.500 thước, nhưng không mang tên Thượng như các ngọn núi cao khác ở chung quanh. Đó là Hòn Bà. 23
21) HÒN BÀ
Tên chữ là Bích Sơn tức là Núi Vách. Đó là do hình thế của núi mà đặt tên. Vì Hòn Bà là vị « nữ vương » trong đám quần sơn của vùng. Đám quần sơn nầy lại nối kết thành một bức trường thành bàn bàn khúc khúc, chạy từ Bắc vào Nam. Hòn Bà đứng chính giữa, nổi bật lên trên tất cả các ngọn núi cao, trên đỉnh thường thường có mây hoặc mù bao trắng.
Bích Sơn là tên cả dãy núi mà Hòn Bà là Đại Biểu. Còn Hòn Bà là tên của người địa phương đặt ra do lòng tín ngưỡng.
Ở Ninh Hòa cũng có Hòn Bà. Nhưng núi Ninh Hòa gọi là Hòn Bà là vì trên núi có miếu thờ Bà Thiên Y A Na. Còn ở Cam Lâm gọi là Hòn Bà là vì đó là Hành Cung của Bà Thiên Y vậy. Truyền rằng mỗi lần Bà giá lâm thì thấy một đạo hào quang dài như một cây lụa xổ bay xuống núi, rồi nghe ba tiếng sấm nổ vang rừng. Nhiều khi không thấy ánh sáng đáp xuống núi, cũng không nghe tiếng sấm dậy, nhưng từ trong núi lại có ánh hào quang phát ra chói sáng hàng trăm dặm. Những lúc ấy biết rằng có Bà ngự nơi núi, người địa phương đốt hương đốt trầm làm lễ. Ngự giá thường qua lại những đêm trăng trong gió mát.
Tiếng đồn như thế, nhưng từ đệ nhất thế chiến (1914-1918) trở về trước, không một người Trung Châu nào dám lên đến Hòn Bà để thưởng ngoạn và tìm cho biết thực hư. Bởi vì không có đường đi. Núi lại nhiều đá, lớp chồng chất lên nhau, lớp đứng sừng sững như vách. Thêm cây cối rậm rạp, thú dữ đầy rừng. Xét thấy không có lợi gì cho bản thân, ai dại gì mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Mãi năm 1914, vì cần nơi thí nghiệm giống quinquina, Bác sĩ Yersin và nhà vạn vật học Kremfp mới tìm cách lên đến tột đỉnh.
Sau khi nhận thấy Hòn Bà thích hợp với giống quinquina (chỉ sống trên núi cao trên dưới 1500 thước ở miền nhiệt đới), Bác sỹ bèn mở trại mở vườn thí nghiệm. Ngoài ra Bác sỹ lại còn đặt một phòng xem thiên văn và một trạm vô tuyến điện. Tất cả đều ở trên đầu núi cao trên dưới 1.500 thước so với mặt biển.
Lúc bấy giờ Hòn Bà hoàn toàn chìm sâu trong sương khói trong đá cây. Chỉ cách Nha Trang 50 cây số, cách sở Suối Dầu 30 cây số, nhưng đường liên lạc thật là thiên nan vạn nan. Để lên xuống được phần dễ dàng, Bác sỹ lo trổ một con đường nhỏ từ Suối Dầu đến chân núi, và từ chân núi lên tới đỉnh. Nhờ giải thưởng của Viện Hàn Lâm Khoa Học (Académie des Sciences) đã cấp đúng lúc và sức ủng hộ của người Thượng địa phương, Bác sỹ đã hoàn thành công tác trong năm 1917. 24
Sau đó Chánh phủ Pháp mới mở rộng khúc đường từ Suối Dầu đến chân Hòn Bà. Xe ô tô qua lại được dễ dàng (nay là hương lộ số 4). Từ ấy người đến viếng Hòn Bà mỗi ngày mỗi thêm đông. Nhưng đến chân Hòn Bà rồi còn phải leo bộ ngót sáu giờ đồng hồ nữa mới tới đỉnh. Đường đi vất vả. Song khi đến nơi rồi thì thân tâm tự nhiên thấy khoan khoái. Vì khí hậu trong mát không kém Đà Lạt, phong cảnh lại thanh lệ thâm u. Không một mảy may trần cấu. Nóng không quá 26 độ. Lạnh không dưới 6 độ rưỡi.
Mưa rất thường. Cho nên cây cao rừng rậm. Phần nhiều là sồi (chêne), phong (érable), và tô hạp (liquidambar). Chỉ có một số ít tòng và bá. Nhưng cây nào cũng cao lớn hơn mọi thứ cây chung quanh. Và cây nào thân cũng nổi u nổi gân, cành cũng rắn rỏi khúc khuỷu. Hình thù trông rất cổ quái. Những bức tranh lão tùng của người đời Tống nhìn không khoái mục khoái tâm bằng. Chen cùng đám cổ thụ, đá là đá! Lớp to lớp nhỏ, lớp đứng lớp nằm chồng chất, ngổn ngang. Và tảng nào cũng đóng rêu xanh rêu xám.
Trên cành cây cổ thụ, phong lan bám đầy. Trong các khoảnh vườn ương và chung quanh trại của Bác sỹ Yersin, hoa hường cùng dâu tây (fraisier) trồng từng luống từng đám. Mùa xuân mùa hạ, lan nở hường nở, trăm hình nghìn sắc. Và mùi hoa theo gió trộn cùng mùi hương tô hạp, bay ngào ngạt khắp rừng sâu.
Tuy cây đá rậm rạp, Hòn Bà không có thú lớn, Voi, cọp, beo… không hề thấy bóng. Heo rừng chỉ đi ngang qua chớ không mấy khi dừng bước. Nai và sóc ở các thung lũng chung quanh rất nhiều, nhưng không mấy khi tới lui nơi Hòn Bà. Ruồi mòng, sâu bọ cũng không có. Thêm một điểm nữa: Miền rừng núi Cam Ranh là những nơi « bào chế bệnh sốt rét » của tỉnh Khánh Hòa, nhưng ở Hòn Bà muỗi rất ít và tuyệt nhiên không có giống anophèle.
Trái lại Hòn Bà có rất nhiều chim và khỉ. Thường thường trong rừng già chim chóc ít tụ tập. Nhưng ở đây nhiều phi thường! Nhiều đến nỗi có thể tin rằng số chim chỉ em em số lá! Nhiều giống chim lạ không hề thấy nơi bình nguyên. Lại đủ cỡ đủ màu. Lớn nhất bằng bắp vế, nhỏ nhất bằng ngón tay cái, ngón tay út. Con thì xanh, con thì vàng, con thì xám, con thì nâu, con thì trắng tuyết, con thì rằn ri… con thì như trái ớt chín, con thì như lá chuối non… Bay nhảy suốt ngày, tiếng kêu tiếng hót khắp nơi. Những con chim tí hon len lỏi trong những khóm hoa hường, trong những cụm phong lan, để tìm sâu, hút mật… thái độ hiền lành nhưng nhí nhảnh, trông hết sức dễ thương. Chim lớn phần nhiều không thích hoa bằng thích trái. Những đám dâu tây được chúng chiếu cố hết sức. Mùa trái chín chủ nhân ít khi được hưởng thỏa thuê. Hột theo mỏ, theo phân của chúng, gieo vãi khắp nơi. Và nhờ thổ nghi, không cần săn sóc bón tưới, tới đâu cũng mọc dễ dàng và sanh hoa kết quả rất thạnh. Còn khỉ thì từng đoàn từng đội! Mỗi buổi sáng, hễ mặt trời hé bóng là chúng thức dậy. Tiếng kêu chí chóe vang dội cả rừng. Rồi kéo nhau đi tìm miếng ăn. Đến chiều kéo về, lố nhố lao nhao khắp cả cành cao cành thấp. Cho nên cảnh Hòn Bà không đến nỗi cô liêu.
Đứng nơi sở thí nghiệm của Bác sỹ Yersin trông ra bốn mặt thì vọng cảnh bao la. Phía đông, trên mặt biển màu thủy ngân, chân trời chạy dài từ mũi Varella đến mũi Padaran. Những ngọn núi ở phía Nam phía Bắc cùng những ngọn ở phía Đông, tuôn lài lài màu lục xuống các thung lũng và xuống tận đồng bằng duyên hải mà hoa màu và cát trắng đã chia thành bàn cờ. Ban đêm dưới ánh trăng vằng vặc, sóng xanh của cây rừng nhịp nhàng theo sóng bạc của nước biển, mông lung phiếu diếu, trông nửa thực nửa hư. Và tiết mùa thu mùa đông, nhiều khi vùng núi Cam Lâm chìm ngập trong biển mây trắng, chỉ có đỉnh Hòn Bà và đôi ba đỉnh nữa nổi lên trên mặt sóng chờn vờn 25. Phong quang tuyệt mỹ.
Nhưng Hòn Bà được nổi danh không phải vì cảnh trí, vì khí hậu, vì sự nghiệp của Bác sỹ Yersin, mà chính vì tương truyền Bà Thiên Y A Na thường tới lui vậy.
Khánh Hòa còn nhiều ngọn núi có lắm kỳ nham quái thạch, lắm u cốc thanh tuyền… Nhưng vì ở những nơi hẻo lánh xa xôi, khó nỗi tới lui thăm viếng, nên danh bị mai một, đời không nhắc nhở đến mà sách vở cũng không. Duy có một dãy nằm trong nơi đô hội, đồng bào Nha Trang, Trường Đông, Trường Tây ngày nào cũng ghé mắt, khách du lịch thường in gót chân, nhưng không mấy ai biết tên. Kẻ thì kêu núi Chụt, người thì kêu núi Cầu Đá, Cửa Bé. Đó là dãy núi chạy sát biển, từ Trường Đông đến Trường Tây, tức từ Cửa Bé đến Cầu Đá. Tên ghi trong « Sơn thế bộ » của dãy núi đó là:
22) CẢNH LONG SƠN
Cảnh là bờ cõi. Long là tốt thạnh. Không hiểu cổ nhân thủ nghĩa như sao, có người hỏi cụ cử Phan Bá Vỹ làm ký lục Tòa Sứ Nha Trang thời Tiền Chiến, cụ đáp: « Có lẽ ông cha chúng biết trước rằng thế nào vua ta cùng các quan bảo hộ cũng đến cất dinh thư để làm nơi thừa lương, nên mới đặt tên núi như thế ». Một câu trào lộng, nhưng vẫn nói lên được một cạnh khía của Cảnh Long Sơn: Trên đầu núi về phía Cầu Đá có lầu Bảo Đại và nhiều dinh thự của người Pháp xây thời Pháp thuộc. Hiện nay là nơi nghỉ mát của các vị lãnh đạo cao cấp ở Trung Ương.
Hình núi chạy dài theo bờ biển, giống như một con rồng xanh. Cổ nhân gọi là « Thanh long hý thủy » (Rồng xanh giỡn nước). Một con đường từ Nha Trang chạy xuống Chụt rồi chạy qua Cầu Đá, cắt « đầu rồng » ra khỏi « mình rồng ». Đầu rồng ở phía Cầu Đá là nơi có dinh thự khang trang dành riêng cho các nhà quyền quí, thời Cộng Hòa cũng như thời Thực dân Phong Kiến. Mình Rồng từ Chụt Cầu Đá chạy đến Cửa Bé là của chung của hai làng Trường Đông Trường Tây.
Tiếp theo con đường Nha Trang Cầu Đá, một con đường piste chạy vòng theo sườn phía Đông cho đến Cửa Bé, rồi từ Cửa Bé chạy vòng lên sườn phía Tây để xuống đất bằng trở về Chụt. Con đường nầy có thể gọi là « đường vòng mỹ cảnh ». Ngoạn mục nhất là đoạn đường chạy phía biển. Nằm trên lưng chừng núi, đường khi lên khi xuống, uốn éo quanh co, như một con rắn bò quanh hòn non bộ. Trên cao là cây đá, dáng nghèo nàn nhưng tình thắm đượm, đối với anh chị em bình dân cũng như hàng trưởng giả, luôn luôn niềm nở tươi cười. Ngó xuống thấp thì biển xanh lặc lìa, với những cù lao chân trơ sóng bạc, với những cánh buồm, những bầy én phơi phới nhẹ nhàng, với ngọn gió không bợn trần hiêu và chỉ thổi vừa đủ mát. Phong cảnh tuy chưa phải là tiên song cũng có thể làm vơi bớt nỗi phiền nơi lòng người bị đảo điên vì danh lợi.
Khi nước nhà bình trị, nếu những dinh thự nguy nga tráng lệ phía Cầu Đá mở rộng cửa đón khách bốn phương, không phân biệt giai cấp, thì núi Cảnh Long nhất định sẽ trở nên thạnh vượng bậc nhất bạc nhì ở miền duyên hải Trung phần như tên đã báo trước.
Đ) ĐÈO
Những ngọn núi thượng dẫn hầu hết đều chạy theo hướng Bắc Nam. Nên mặc dù điệp điệp trùng trùng vẫn không làm cho bước đường vô ra bị cản trở. Ngoài ra, Khánh Hòa còn vô số núi khác không biết tên, mặc dù có thấy mặt. Và có một số không theo hướng Nam Bắc, mà chạy từ Tây xuống Đông, chia Khánh Hòa ra làm nhiều khu vực, và làm cho con đường Quốc lộ số 1 phải vượt qua nhiều dốc nhiều đèo khúc khuỷu quanh co. Qua khỏi Đèo Cả, đi vào chừng ba bốn cây số thì tới:
1) ĐÈO CỔ MÃ
Tên Chữ là Mã Cảnh, hình giống cổ ngựa, thấp và ngắn lại rộng rãi, nên dễ đi. Nhưng đèo chạy sát biển. Phong cảnh trông cũng khá quyến rũ. Cho nên có lắm ông tài xế có tâm hồn thi sĩ, đôi khi cao hứng thích đưa hành khách xuống biển cỡi cá kình du tiên. Bởi vậy đèo không hiểm trở thành nguy! Vào khỏi Vạn Giã chừng bảy cây số, tới:
2) ĐÈO DỐC THỊ
Tức là Đèo Xuân Tự, chạy qua núi Phiên Lê. Đó là nơi nhà anh hùng Trần Đường đóng nghĩa quân Cần Vương chống Pháp. Đèo thấp nhưng hiểm hóc khó qua, cùng hòn Bồ Đà làm thế « răng môi » rất khăn khít. Đó là cảnh trí ngày trước. Từ ngày đường Quốc Lộ số 1 khai thông thì Dốc Thị chỉ còn là một cái dốc thấp thỏi dễ qua. Vào gần tới quận lỵ Ninh Hòa, thì có một đèo nhỏ nữa là:
3) ĐÈO BÁNH ÍT
Tức là Đèo Hà Thanh. Đây cũng chỉ là một cái dốc. Hành khách qua lại nhiều khi không để ý đến, vì không có gì đặc biệt. Nhưng vì đèo ở gần núi Ổ Gà, nên ngày xưa cọp thường ra « làm thân » với hành khách. Cọp Khánh Hòa tuy có tiếng « cắn cơm không bể » nhưng người nhát gan vẫn không dám đi qua đèo Bánh Ít một mình, nhất là lúc mặt trời sắp về non. Và hầu mong chúa sơn lâm phù hộ, người địa phương lập nơi đèo một miếu nhỏ, gọi là miếu ông Hổ. Vào khỏi Ninh Hòa chừng chín cây số đến.
4) ĐÈO RUỘT TƯỢNG
Đèo cao không đến 40 thước, nhưng quanh co nhiều vòng trên vài cây số, và chạy sát mé biển, gành đứng sóng to, nên trông rất dễ sợ. Đèo ngắn và thấp thua đèo Cả đến mấy lần, đường lại rộng rãi. Nhưng ở đây lại thường xảy ra nạn ô-tô. Hai bên đầu đèo và ở lưng đèo, có miếu thờ những người ngộ nạn. Hành khách đi ngang thường xuống xe thắp hương để cầu vong linh phù hộ. Những miếu thờ ấy ngoài « nhiệm vụ thiêng liêng » làm cho hành khách qua đèo vững dạ, còn có « sứ mệnh » cảnh giác các vị tài xế hay bỏ quên lương tâm nhà nghề ở nhà cùng vợ con. Đèo Ruột Tượng là ranh giới của Ninh Hòa và Vĩnh Xương.
Tên đèo là do hình thế mà đặt. Gọi là Ruột Tượng là vì quanh co nhiều vòng như khúc ruột và rộng lớn như « ruột voi ». Cũng như đèo Cổ Mã trông giống cổ con ngựa mà đầu nằm ngoài mé biển (Hòn Giôm) vai dính vào dãy núi phía Tây (Núi Xà, Núi Gian Nan). Nhưng có người bảo rằng tên đèo là Rọ Tượng chớ không phải Ruột Tượng, vì dáng đèo trông có vẻ lúng túng chật chội như rọ bó voi. 26
Phi thị thị phi, không biết bằng vào đâu để biện bạch. Thời Pháp thuộc, vì tranh phải trái về Rọ và Ruột mà hai ông bạn đồng nghiệp ở tòa sứ Nha Trang đã biến « tượng thành khuyển » và cho lỗ mũi nhau « ăn trầu ». Định Phong thấy vậy có mấy câu nửa bông đùa nửa chê trách:
Chuyện đời đương rọ nhốt voi,
Lênh bênh bá xáo mặn mòi gì tranh?!
Giật mình tiếng khuyển sủa canh,
Đìu hiu thương bóng non xanh lọt rèm!
Chữ rằng « tốt lá tốt nem »,
Hỡi ai, máu chảy ruột mềm hay chăng?
Từ đèo Ruột Tượng đi vào chừng 16, 17 cây số thì đến đèo cuối cùng là:
5) ĐÈO RÙ RỲ
Đèo cao 84 thước, ngắn chừng một cây số, uốn chữ Chi, chỗ khúc quanh rất gấp, nên trông thì đẹp mắt, song rất nguy hiểm cho xe cộ khi xuống cũng như khi lên. Vì vậy có câu ca rằng:
Rù Rỳ đường uốn chữ chi,
Anh lên đèo cho khéo,
Kẻo nữa có đi không về.
Đó, câu vợ mấy ông tài xế dặn chồng lúc đưa lên xe.
Hỏi tại sao lại đặt tên Rù Rỳ. Có người đáp rằng vì trên núi có nhiều giống cây rù rỳ. Đó có lẽ là cảnh ngày xưa, chớ hiện nay không thấy rù rỳ đâu cả. Đèo Rù Rỳ chẳng những là đèo cuối cùng của Khánh Hòa mà cũng là đèo cuối cùng của miền Nam Trung Việt. Từ Rù Rỳ trở vào tới Nam Bộ, con đường Quốc Lộ số 1 chạy trên đồng bằng, núi đứng vẹt ra hai bên như những toán quân đứng dàn hầu hai bên cổng vào một công đường khi có đại lễ. Núi Đèo tỉnh Khánh Hòa tuy hiểm trở, nhưng trông có vẻ hiền hòa khiêm tốn, chớ không ngạo nghễ nghênh ngang. Đó là một đặc điểm của núi non Khánh Hòa. Một đặc điểm thứ hai nữa là trên núi luôn luôn có nước khe nước suối, cho nên cây cối rậm rạp xanh tươi quanh năm, và quanh năm nước sông không bao giờ cạn vì nắng.
III. SÔNG NGÒI
Khánh Hòa có nhiều sông. Song tất cả đều phát nguyên trong nội thổ, tại vùng núi phía Tây, và chảy xuống biển phía Đông, nên không có trường xuyên đại giang tuôn ngàn vượt núi, cuốn mây khói cuồn cuộn theo dòng.
Có hai con sông đáng kể, từ Bắc vào Nam, là con sông Dinh và con sông Cù. Đó là hai « sợi tim » của phủ Bình Khang và phủ Diên Khánh ngày trước, hai « cuốn phim » đã quay bao nhiêu cảnh « cồn dâu bãi biển » đã xảy ra trên đất Khánh Hòa.
A) SÔNG DINH
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là sông Vĩnh Phú xưa gọi là Vĩnh An. Đó là con sông chảy ngang qua quận lỵ Ninh Hòa. Nên cũng thường gọi là sông Ninh Hòa. Vĩnh An, Vĩnh Phú, Vĩnh Hòa là tên đất mượn đặt cho sông vì sông chạy qua địa phận. Còn tên sông Dinh do đâu mà ra?
Nguyên từ khi đất Kaut Hara của Chiêm Thành về ta, cơ quan cai trị đều đóng ở Bình Khang, cho đến đời nhà Nguyễn Trung hưng mới dời vào Diên Khánh. Dinh quan trấn thủ đóng trong vùng Ninh Hòa hiện tại. Nhân sông chạy qua trước dinh, người địa phương mới gọi là sông Dinh cho gọn.
Sông Dinh có nhiều nguồn, nhưng chỉ ba ngọn chính:
- Một từ hòn Mẫu Tử ở Khánh Dương chảy xuống, tục gọi là sông Cái.
- Một từ hòn Đại Đa Đa quận Vạn Ninh chảy vào nhập cùng sông Cái tại vùng Xuân Hòa, tục gọi là sông Cây Sao.
- Một từ biên giới Phú Yên chảy qua vùng Đá Bàn ở Vạn Ninh, tục gọi sông Đá Bàn chảy vào giáp sông Cái tại vùng Vĩnh Phú.
Từ Vĩnh Phú trở xuống, sông mới gọi là sông Vĩnh Phú, sông Ninh Hòa, hay sông Dinh.
Sông Dinh chảy ra cửa Hà Liên, vũng Nha Phu. Sông Dinh không được sâu cũng không được rộng. Thuyền trọng tải chỉ có thể lên xuống được nơi khúc sông gần biển, dưới Ninh Hòa. Còn từ Ninh Hòa trở lên, đường giao thông chỉ thuận tiện về mùa mưa nước lớn. Trên dòng sông Dinh không có gì đặc sắc. Nhưng nước sông Dinh vẫn gây nguồn hứng cho khách phong tao. Trường Xuyên có bài ca « tự lân hoàn tự tiếu » bắt nguồn từ ngọn sông Dinh:
Sông Dinh có ba ngọn nguồn,
Nhớ em, anh băng ngàn vượt suối,
Nhưng không biết đường đến thăm em!
Ghé vô chợ Ninh Hòa,
Mua một xâu nem,
Một chai rượu trắng,
Anh uống cho say mèm,
Để quên nỗi nhớ Nhung.
Rượu không say, anh nghĩ lại ngại ngùng:
Con gái mười hai bến nước,
Biết em thủy chung bến nào?
B) SÔNG CÙ
Tức là sông Nha Trang. Đại Nam Nhất Thống Chí chép là sông Phú Lộc. Sông dài chừng 60 cây số, chảy qua hai quận Diên Khánh và Vĩnh Xương. Sông có nhiều nguồn. Nguồn thì chính Tây chảy xuống, như nguồn Gia Lai, Nguồn sông Máu 27. Nguồn thì từ Tây Bắc chảy vô, như nguồn Gia Toui. Nguồn thì từ Tây Nam chảy ra như nguồn Gia Lê, v.v… Các nguồn hầu hết đều gặp nhau tại Thạch Trại, quận Diên Khánh. Hình giống như một cây quạt sè. Tại Thạch Trại nước các nguồn nhập lại, chảy về Đông, thành con sông Cái, tức sông Cù, tức sông Nha Trang. Sông Cái khúc thượng lưu, nước chảy rất mạnh, vì lòng sông bị núi chèn ép ở hai bên, đã hẹp lại dốc.
Từ Thạch Trại, sông Cái chạy quanh co chừng vài chục cây số thì đến Giang Ché. Ở đây sông Cái tiếp nhận nước Sông Khế 28 từ vùng Du Hoài, phía Tây Nam chảy ra. Xuống dưới Giang Ché chừng vài ba cây số thì tiếp nhánh thứ hai gọi là Sông Giang từ vùng núi tỉnh Darlac, phía Tây Bắc, chảy vào. Đến Sãi Me, cách khẩu Sông Giang chừng ba bốn cây số, thì tiếp nhánh thứ ba từ vùng núi Hòn Bà quận Cam Lâm, chảy ra, gọi là sông Cầu 29. Từ Giang Ché trở xuống, nhờ ba nhánh sông nầy mà sông Cái có nhiều nước, và lòng sông mở rộng lần lần. Và từ khẩu Sông Cầu xuống chừng bảy tám cây số, thì tiếp nhánh thứ tư từ vùng núi Khánh Dương chảy vào. Nhánh nầy gọi là sông Chò, giao thủy tại Khánh Xuân, cuối Đồng Trăng.
Bốn nhánh sông sắp xếp với nhau một cách lý thú. Vào sông Cái như chân bước, cứ một nhánh ở tả ngạn thì nhánh tiếp theo ở hữu ngạn, một nhánh ở hữu ngạn thì nhánh tiếp theo ở tả ngạn. Thành thử tuy có nhiều sông con, sông Cái không « mang tiếng thiên vị », và những bạn lên nguồn tìm gỗ quí, nếu lắng tai « cao sơn lưu thủy » tất nghe trong tiếng nước chảy, câu ngâm:
Ta nằm ở giữa cân trời đất,
Khối ngọc không nghiêng một hướng nào. 30
Đến khẩu sông Chò là chấm dứt khúc thượng lưu của Sông Cái. Nơi đây có một cái vực rộng trên vài mẫu và sâu đến sáu sải. Nước xanh lặc lìa. Trong vực có nhiều cua đinh. Lắm con to lớn, đầu bằng đầu người và mai rộng như chiếc nong. Truyền rằng trong vực có hai con cá bạc má lớn bằng chiếc ghe bầu, và một con cá kẽm to như một con trâu cầm bầy sung sức. Những con vật nầy mỗi khi nổi lên thì sóng dậy cuồn cuộn. Vịnh vực Từ Mẫu, cụ tú Phan duy Thuần quận Diên Khánh có câu:
Sông Cái vực nầy sâu sáu sải,
Có khi cá nổi lớn vô song.
Và Thi nại Thị có câu:
Cá nằm đáy nước chờ phong hội.
Chẳng hóa rồng thiêng cũng hóa bằng.
Từ vực Từ Mẫu trở xuống, Sông Cái hết bị núi non chèn ép, thong dong chảy giữa đồng bằng. Hai bên bờ ruộng nương, nhà cửa với bóng tre bóng dừa xanh mát, in bóng trên dòng xanh. Và chảy quanh co chừng mười một mười hai cây số, đến thôn Trường Lạc tại Hà Dừa, lại gặp con sông Suối Dầu, từ Cam Lâm chảy ra.
Sông Suối Dầu phát nguyên tại Hòn Bà, quận Cam Lâm, và chảy xiêng xiêng ra hướng Đông Bắc. Đến thôn Thủy Xương, xã Suối Hiệp thì chia làm hai phái. Một chảy xuống đông về Cửa Bé. Một chảy ra Sông Cái để theo về Cửa Lớn Nha Trang. Sông Suối Dầu là phụ lưu cuối cùng của Sông Cái. Từ khẩu sông Suối Dầu, Sông Cái chạy qua sau lưng thành Diên Khánh để chảy xuống Vĩnh Xương. Đến thôn Xuân Lạc thuộc Vĩnh Xương, Sông Cái chia làm hai phái:
- Một phái chảy xuống Đông Nam, qua đồng ruộng, qua bãi Cát, men men theo chân núi Đồng Bò chạy xuống thôn Trường Đông và rót vào cửa Tiểu Cù Huân, tức Cửa Bé. Phái nầy bị lấp nơi phân lưu. Còn dòng nước thì nhiều nơi trở thành đồng bằng, đôi nơi đọng lại thành bàu thành ao. Những khi mưa lụt, nước nhớ đường cũ từ Sông Cái tràn vào, vạch lại dòng sông xưa một cách rõ rệt.
- Phái thứ hai chảy xiêng xiêng xuống hướng Đông Bắc. Đây là phái chính. Và hiện thời là con Sông Cái, vì phía Nam trên thực tế không còn hiện hữu một cách thường xuyên.
Từ Xuân Lạc chảy đến Ngọc Hội, sông lại chia làm hai chi:
- Một chi chảy vào Phương Sài, gọi là Ngư Trường (tên cổ nhân mượn bến Trường Cá tại Phường Củi mà đặt), rồi chảy xuống Hà Ra. Nơi đây nước xoáy thành một đầm rộng chừng một mẫu, tên chữ là Cù Đàm, tên thường là đầm Xương Huân. Nước sông một nửa chảy vào đầm, một nửa chảy xuống Xóm Cồn để ra cửa Đại Cù Huân, tức Cửa Lớn Nha Trang.
- Chi thứ hai, rộng và sâu hơn, chảy xuống Xóm Bóng thuộc thôn Cù Lao, rồi cũng chảy ra cửa Nha Trang như chi kia.
Hai chi giáp nhau trước khi ra cửa, và cùng nhau ôm kín một cồn đất phù sa tục gọi là Cồn Dê, có nhà cửa đông đúc và vườn dừa bát ngát xanh.
Từ Ngọc Hội trở lên là Trung lưu sông Nha Trang. Từ Ngọc Hội trở xuống là hạ lưu. Trong khúc hạ lưu có ba cầu dài:
- Cầu hỏa xa ở Ngọc Hội.
- Cầu Hà Ra ở trên đường Quốc Lộ số 1 phía Nam thành phố Nha Trang.
- Cầu Xóm Bóng bắc ngang qua cửa sông Nha Trang, trên đường Quốc Lộ số 1.
Cửa sông rộng nhưng không được sâu lắm. Lại có nhiều đống đá cao lớn mọc ở giữa, có phần bất tiện cho việc lưu thông. Những đá ấy gọi là Đá Chữ 31, trông giống bầy trâu nước khổng lồ nổi lên mặt sóng nằm phơi lông.
Khách làng thơ bảo với nhau rằng đó là những giọt mực « rảy bút » của Hóa Công làm rơi, khi vừa vẽ xong con sông Nha Trang vậy.
Tên Nha Trang, trên thực tế, chỉ dùng để gọi khúc sông từ Ngọc Hội chảy xuống biển. Sông qua thôn nào thì mang tên thôn ấy. Nhưng trong sách xưa, như Đại Nam Nhất Thống Chí, thường gọi là Sông Phú Lộc, vì sông chảy qua làng Phú Lộc, mà làng Phú Lộc trước kia là một làng có nhiều nhân vật hữu danh và thịnh vượng nhất vùng Vĩnh Xương Diên Khánh. Sách địa lý ngày nay thường dùng tên Nha Trang mà gọi sông. Anh chị em bình dân thì gọi là Sông Cái. Còn khách hàn mặc thì gọi là Cù Giang, tức Sông Cù. Theo các vị cố lão ở Khánh Hòa thì Nha Trang là tên kỳ cựu của con sông. Nha Trang do tiếng thổ âm của người Chiêm Thành mà đọc trại ra. Tiếng đó là Ea Tran hay Yjatran. Ea hay Yja là nước là sông. Tran là lau lách. Gọi như vậy là vì xưa kia, hai bên sông lau lách mọc đầy. Câu thơ được truyền tụng ở Khánh Hòa:
Lưỡng ngạn vi lô trường đáo hải,
兩岸葦蘆長到海
Tứ biên hoàng diệp dục vi thu.
四邊黃葉欲為秋
Nghĩa là:
Trắng lợp đôi bờ lau tới biển,
Vàng bay bốn phía lá gieo thu.
Có phải là câu thơ vịnh sông Nha Trang? Nha Trang vốn tên con sông. Khi người Pháp đánh chiếm Khánh Hòa xong, mới lấy làm tên cho thành phố hiện tại 32. Nói tóm lại, dùng tên Nha Trang làm tên chính thức để gọi con sông Cù, tưởng đích đáng hơn tên nào hết. Tên cũ nay làm mới lại, đã hợp tình hợp lý, mà còn làm cho người phương xa dễ phân biệt với các con sông khác, và khó lẫn lộn về vị trí Bắc Nam.
Sông Nha Trang không sâu, cũng không được rộng. Mùa mưa thì nước sông lai láng. Đứng bờ bên nầy trông sang bờ bên kia thì « con ngựa trông nhỏ còn bằng con dê ». Đến mùa nắng thì lòng sông, chỗ sâu nhất độ hai thước là cùng, còn thường thường thì từ một thước rưỡi trở xuống. Bề rộng của lòng sông, kể cả bãi cát ở hai bên, thì nơi rộng nhất không quá 500 thước và nơi hẹp nhất cũng từ 300 thước trở xuống, 200 thước trở lên. Đó là nói về khúc sông từ vực Từ Mẫu đến biển. Còn trên khúc thượng lưu thì hẹp hơn nhiều. Vì lòng sông cạn nên thuyền trọng tải chỉ lên xuống được dễ dàng trong mùa mưa. Đó là hiện trạng ngày nay.
Xưa kia, sông Nha Trang vừa sâu vừa rộng. Cửa sông mở từ Xóm Bóng sang thấu Hà Ra. Giữa sông không có nổng Cồn Dê. Từ Ngọc Hội nước chảy thẳng xuống biển chớ không phân lưu như hiện nay. Bến Trường Cá ở Phường Củi ăn sâu vào tận chân núi Trại Thủy chùa Hải Đức và núi Gành chùa Kim Sơn. Nước lênh láng như biển. Mùa nắng cũng như mùa mưa, không lúc nào, không khúc nào có thể lội qua được.
Vì vậy nên chiến thuyền của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn mới có thể lên xuống thành Diên Khánh, và bến Trường Cá mới dùng làm nơi tranh hùng tranh bá của hai nhà « đồng tánh bất đồng tông ». Giữa hai nhà có ba trận đánh lớn trên sông Nha Trang:
- Năm Quí Sửu (1793), chiến thuyền của Nguyễn Ánh kéo lên Diên Khánh, bị quân Tây sơn chận đánh tại Trường Cá. Hai bên kịch chiến, máu chảy đỏ sông!
- Năm Ất Mão (1795) tướng Tây Sơn là Trần quang Diệu đem thủy binh và bộ binh vào đánh Diên Khánh. Thủy binh của họ Trần bị Võ Tánh chận đánh tại Trường Cá. Trận nầy ác liệt gấp mấy mươi lần trận Quí Sửu. Quân Tây Sơn đã thiện thủy chiến, lại đồng tâm quyết tử, nên quân nhà Nguyễn chống không nổi, bị tiêu diệt, xác chết và ván thuyền hư chận đứng cả nước sông. Võ Tánh thất kinh rút tàn quân chạy vào thành cố thủ.
Trần quang Diệu vây chặt thành. Nguyễn Ánh hay tin đem thủy binh ra cứu. Nhưng không lên nổi Diên Khánh, phải đóng quân chận nơi cửa sông Nha Trang, và các nơi núi non hiểm yếu. Sau đó Trần quang Diệu có việc phải về Phú Xuân. Đi đường núi bất tiện phải mở đường ở mặt biển. Thế là một trận đánh thứ ba xảy ra. Nhưng không kịch liệt bằng hai trận trước. Bởi Nguyễn Ánh biết Trần quang Diệu hùng mãnh không thể thắng nổi, thêm nữa mục đích xuất quân chỉ để giải vây cho Võ Tánh, mà địch tự nhiên rút lui thì còn chận lại làm chi. Do đó mà hai bên đều ít hao binh tổn tướng. Những sự kiện lịch sử nầy tuy sử nhà Nguyễn không chép rõ. Nhưng đã khắc sâu vào bia miệng người địa phương. Nên trải qua 170 năm mưa nắng, rêu dẫu mờ mà nét vẫn không mờ. Vịnh sông Nha Trang, Cổ Bàn Nhân có câu:
Trường Cá mây lồng tranh Hán Sở,
Cồn Dê cỏ phủ lớp tang thương.
Và gần đây một du khách ở Qui Nhơn vào chơi Nha Trang, nghe kể chuyện hai nhà Nguyễn tương tranh trên sông Cù, ngẫu chiếm hai câu trào lộng ngậm đủ tình, cảnh, cổ, kim:
Trường Cá nước chìm hai họ Nguyễn,
Sông Cù cát nổi một cồn Dê!
Phần nhiều khách du quan viếng sông Nha Trang, chỉ viếng khúc hạ lưu và trung lưu, chớ không mấy ai có gan lên đến thượng lưu để xem những thác nước là nơi chứa đựng nhiều nhất kỳ thú của sông. Sông Nha Trang có rất nhiều thác. Từ khẩu sông Chò trở lên thì có:
- Thác Đồng Trăng ở nơi giao thủy Sông Chò và Sông Cái.
- Thác Ông Hào cách thác Đồng Trăng chừng một cây số.
- Thác Đá Lửa
- Thác Nhét
- Thác Mòng
- Thác Võng
Những thác nầy đều nằm trong địa phận Đồng Trăng và cách nhau chỉ trên dưới một cây số. Và những người lên nguồn, đến Bàn Giáp gần Thác Võng thì phải bày lễ vật cúng quỉ thần rồi mới dám tiếp tục đi. Có lẽ nơi đây là ranh giới làng nước của « kẻ khuất mặt », và lễ cúng kia là lễ bàn giao. Qua khơi thác Võng thì đến:
- Thác Dằng Xay
- Thác Tham Dự
- Thác Ngựa
- Thác Hông Tượng
- Thác Trâu Đụng
- Thác Giang Ché
- Thác Trâu Á
- Thác Nai
- Thác Rùa
- Thác Hòm, v.v…
Những người lên nguồn làm súc gỗ, lên đến Thác Hòm mà thôi. Trên nguồn còn lắm thác nhưng ít người lên đến nên không có tên. Và hầu hết những thác thượng dẫn không cao như những thác Camly, Gougah, Ankrouet, Prenn… ở Dalat. Thác nào cao lắm cũng trên dưới vài thước mà thôi. Nhưng nhiều thác rất nguy hiểm. Cho nên ghe bè lên xuống phải hết sức cẩn thận và tay chèo chống phải hết sức thạo nghề thì mới tránh khỏi tai nạn. Có những điểm đặc biệt đáng lưu ý, là những thác sau đây kể từ nguồn trở xuống:
1) THÁC HÒM
Ở trên nguồn Gia Toui. Nước trên các khe các suối chảy dồn xuống một hồ rộng. Cuối hồ một đập đá thiên nhiên nằm chận ngang dòng nước chảy. Do đó nước hồ luôn luôn lênh láng và sâu không biết bao nhiêu. Dưới đập đá có một lỗ cống bồng bềnh. Nước hồ theo lỗ cống chảy qua bên kia đập đá và tuôn xuống một vực sâu, tiếng vang ầm ầm. Thợ rừng làm súc gỗ xong kết bè thả xuống hồ rồi trèo qua đập đá sang bên kia đợi. Bè gỗ chui vào lỗ cống thường bị nước đánh rã, và súc gỗ thường bị mắc kẹt trong hang. Phần trôi ra ngoài mười phần chỉ còn độ ba bốn. Rất ít khi bè ra được, nguyên. Vì nước thác chảy luồn qua cống đập đá bốn bên bịt bùng, nên gọi là Thác Hòm.
2) THÁC RÙA
Gọi như thế vì giữa thác có nhiều đá hình tròn tròn trong giống mai rùa. Những đá ấy lớp chìm lớp nổi. Bè đi vô ý bị va vào tất nguy.
3) THÁC NAI
Giữa thác có một hòn đá hình thù giống một con nai mới lú sừng. Thác Nai hiền như nai. Nếu không có hình đá trông xinh xinh thì không mấy ai để ý. Thác Nai, Thác Rùa, Thác Hòm ở trên Thạch Trại, là những thác hữu danh thuộc về nguồn. Từ Thạch Trại trở xuống, những thác được để ý nhất là:
4) THÁC TRÂU Á
Trâu Á là trâu húc nhau. Gọi như vậy là vì nơi thác có hai tảng đá to lớn hình giống hai con trâu giao đầu lại với nhau, như đương húc lộn. Hình trâu có đủ đầu đủ sừng, một phần chìm dưới nước, một phần nổi lên trên. Bè phải len chính giữa hai đầu trâu mà đi. Lắm khi bị vướng vào sừng xảy ra tai nạn. Thời Tiền Chiến sừng trâu bị sét đánh gãy, nên sự qua lại ít nguy hiểm hơn xưa.
5) THÁC GIANG CHÉ
Thác ở gần khẩu sông Khê. Ở giữa thác có một tảng đá nổi cao, hình giống như một cái ché cổ. Ché bị sét đánh sứt hết một phía miệng. Thác Giang Ché không nguy hiểm. Và ngoài cái ché trời sanh rồi trời đánh, không có chi đặc biệt.
6) THÁC TRÂU ĐỤNG
Cảnh tượng khác thác Trâu Á. Trâu ở thác Trâu Á đứng hai bên sông. Trâu ở thác Trâu Đụng lại nằm ở giữa dòng. Và có ba con. Trâu mẹ nằm giữa, hai trâu nghé nằm hai bên. Bè ở trên theo sức nước xuôi xuống, nếu lỡ tay sào, thì nhất định bị đụng vào đá, không đụng vào tảng nầy cũng đụng vào tảng kia. Mà một khi đụng vào thì hoặc chìm hoặc vỡ, chớ khó mà « bình yên ». Cho nên tay sào thật giỏi mới dám qua thác Trâu Đụng.
7) THÁC HÔNG TƯỢNG
Gọi tắt là thác Hông. Gọi thế là vì nước thác xối thẳng vào hông núi rồi mới quay trở lại xuôi theo dòng sông. Bè trôi xuống, nếu chống đỡ không khéo, bị tột vào hông núi, thì dội ngược lại và chìm ngay. Hông núi vừa to vừa mốc như da voi, nên gọi là Hông Tượng.
8) THÁC NGỰA
Thường gọi là thác Ngựa Lồng. Thác dài đến trên dưới 300 thước. Không dốc nhưng có nhiều đá mọc ngầm dưới nước. Có ba tảng cao nhất, chỏm lên gần sát mặt nước. Nằm theo hàng dọc. Nước chảy xuống bị sức cản, bắn bọt tung tóe. Trông dạng nước chảy qua ba tảng đá ấy, lên cao rồi xuống thấp, giống như kiều ngựa. Cho nên ba tảng đá mang tên là Kiều Nhất (tảng ở trên hết), Kiều Nhì (tảng ở giữa), Kiều Ba (tảng cuối). Sức nước qua thác Ngựa rất mạnh. Dòng nước chảy cuồn cuộn trông hung hăng như ngựa lồng. Do đó mà mệnh danh là thác Ngựa Lồng. 33
9) THÁC THAM DỰ
Cũng gọi là thác Sông Cầu vì nằm nơi giao thủy Sông Cầu và Sông Cái. Giữa thác nổi lên một cồn cát. Nước chảy chung quanh cồn giống như hai tay ôm choàng một thúng cát. Cánh phía Bắc cạn. Ghe bè đi bên cánh phía Nam. Thác không nguy hiểm.
10) THÁC DẰNG XAY
Mệnh danh như thế là vì thác chảy theo hình cánh chỏ, trông giống như dằng xay xay lúa. Nước chảy rất mạnh. Nơi nghẹo cánh chỏ có một cồn cát. Nước chảy xuống dội mạnh vào nghẹo cánh chỏ bị dội trở lại, một phần theo dòng sông chảy xuôi, một phần chạy vòng quanh cồn cát như kiểu xay lúa. Đó là một điểm nữa làm cho thác lấy tên là Dằng Xay chớ không lấy tên Cánh Chỏ hay chữ Chi. Bè ghe khi xuống gần đến khúc nghẹo dằng xay, thì các tay sào phải sẵn sàng giơ ra theo chiều hướng thuận tiện để chống vào vách đá cho ghe bè theo đúng đường trôi xuôi. Nếu lỡ tay thì thế nào cũng bị va vào vách đá. Mà một khi bị va thì không vỡ cũng chìm, hoặc bị đẩy lọt vào giữa phần nước bị dội và bị nước cuốn chạy vòng quanh cồn cát, phải tốn nhiều công sức mới ra khỏi vòng xà quây.
11) THÁC VÕNG
Cảnh tượng có phần kỳ quái. Đá chồng thành một đập thiên nhiên, từ bờ phía hữu chạy xiêng xiêng ra đến hai phần ba sông. Nước đương xuống thác đã mạnh lại còn bị đập đá cản lại thành mạnh thêm. Đã vậy tại chỗ nước chảy lại có một dây rừng giăng ngang qua từ bờ phía tả đến đập đá như một cái võng đưa em. Dây ấy là một dây sống, lớn bằng bắp vế và giăng sà sà trên mặt nước. Nước thác chảy đánh tung dây lên cao. Dây tung lên rồi rớt xuống. Rớt xuống lại bị đánh tung lên. Cứ tung lên rớt xuống như dây của trẻ em tung để cùng nhảy với nhau. Ghe bè lên xuống, phải canh cho đúng lúc dây tung lên để lướt nhanh qua thác. Nếu qua không kịp thì bị dây quất xuống, ghe bè không vỡ cũng chìm, còn người không hộc máu chết tại chỗ, khi về nhà cũng bị sưng mình mẩy mà chết. Tai nạn xảy ra luôn. Người địa phương tin là dây thiêng, không ai dám xúc phạm.
Một nho sinh quyết liều chết để cởi ách cho đồng bào. Chàng mài một lưỡi rựa thật bén, rồi đến chặt đứt hai đầu dây. Nhựa cây như huyết heo tuôn đỏ cả mặt nước. Thấy vậy kẻ mê tín càng tin rằng đó là huyết của cây thành tinh, và chắc thế nào nho sinh cũng bị yêu ma bắt chết. Chàng nho sinh sau khi về nhà, kẻ thì đồn rằng bị hộc máu chết, người thì cười bảo « chàng bị Diêm Vương đòi hỏi tội lúc tuổi đã quá cao ». Không biết lời nào phải. Chỉ biết rằng nhờ lòng nghĩa hiệp của chàng nho sinh mà võng tinh không còn và ghe bè qua thác được dễ dàng, yên ổn. Một nhà nho nghe chuyện nho sinh, đắc ý vỗ đùi ngâm:
Trên đời chẳng có nhà Nho,
Thời nơi Thác Võng mối lo mãi còn.
Cho hay giấy trắng lòng son,
Nghìn thu tô điểm nước non thêm tình. 34
12) THÁC NHÉT
Giữa thác có nhiều đá nằm như thúng úp. Dưới thác có một lỗ to lớn lõm sâu vào vách núi, tục gọi là Lỗ Đoi. Nước thác chảy rất mạnh, và bị đá chận thành có nhiều nơi chảy vòng nong theo kẽ đá. Ghe bè xuống thác, nếu không cẩn thận thường bị nước tống vào kẹt đá hoặc vào Lỗ Đoi, mắc cứng như bị nhét. Vì vậy mà thác mệnh danh là Thác Nhét.
Để qua thác được bình an, mỗi khi đi ngang qua Lỗ Đoi, người cầm sào lấy sào thọc vào lỗ mấy cái. Đó là tục lệ xưa nay. Các nhà văn nhà thơ thấy vậy cũng đặt cho Thác Nhét một mỹ hiệu là « Mỹ Nhân quan». Và những khách anh hùng muốn được « dị quá » phải « tùng tục». 35
Đến viếng Lỗ Đoi, du khách không khỏi liên tưởng đến hồ Lỗ Đĩ và miếu Lỗ Lườn ở Vạn Ninh. Có lẽ đó là tục thờ Lingam và Yoni của người 36 Chàm còn truyền lại. Lỗ Đoi cũng là một đề tài của khách ngâm vịnh. Được truyền tụng là bài của cụ tú Phan duy Tuần họa vận bài của cụ Đông Giả:
Trèo lên thì dễ, xuống mà coi,
Ghe nhét nhiều lần tại Lỗ Đoi.
Nước chảy vòng nong gành rậm rịt,
Đá hàng úp thúng lạch thoi loi.
Hiểm sâu quen thói chôn đồ đạc,
Lăn lóc cam phần ngủ bãi doi.
Ai bảo rằng linh? Dâm tợ đĩ!
Bao nhiêu sào chọt với dầm moi. 37
Nhà thơ trào phúng Định Phong lại nhập cả ba cảnh vào mấy vần, nghe cũng ngộ nghĩnh:
Phải chăng vì giống vì nòi,
Trời sanh Lỗ Đĩ Lỗ Đoi Lỗ Lườn.
Làm trai đầu cuống chưa tường,
Muốn xem tận mặt tìm đường đến xem.
Khỏi cần hỏi chị hỏi em,
Chẳng lo mất gạo nõ thèm giả đui…
Lượng xuân vốn chẳng hẹp hòi,
Chứa chan tình nghĩa mặn mòi ái ân.
Còn các thác khác, không có gì đặc biệt.
Và các thác kể trên, hầu hết nguy hiểm. Nhưng nguy hiểm nhất vẫn là Ngựa Lồng, Trâu Đụng và Dằng Xay. Cho nên ca dao địa phương có câu:
Ngựa Lồng Trâu Đụng Dằng Xay,
Khỏi ba thác ấy khoanh tay mà ngồi.
Đó là nói việc đi xuống. Chớ đi lên thì ai cũng ngán Thác Ngựa, vì quá dài. Trường Xuyên thời Tiền Chiến đã mượn Thác Ngựa để gởi chút lòng nhắn cùng người « đồng hội đồng thuyền »:
Anh muốn tìm nguồn trong,
Nên đi ngược dòng Sông Cái?
Hay bị bùa bị ngải,
Nên anh bỏ bãi lên nguồn?
Thuyền anh dù thuận gió đi luôn,
Đến đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn buồm trở lui.
Thề xưa lời đã nặng lời,
Anh cố xa em đi nữa,
Chẳng phải ý trời thời cũng khó xa.
Anh đi em ở lại nhà,
Biển sâu lặn lội,
Em nuôi mẹ già thay anh.
Trên các nhánh sông, nhánh nào cũng có nhiều thác. Song có tiếng nhất là Thác Giang Lo, vì rất nguy hiểm.
13) THÁC GIANG LO
Nằm trên Sông Giang. Cao đến hai thước và đứng sững như vách. Cách chân thác chừng mười lăm hai mươi thước lại có một hòn đá to lớn nằm ló đầu lên mặt nước. Bè ghe xuống thác thường bị tột vào đá vỡ tan. Cho nên những tay sào đi trên Sông Cái, dù tài giỏi đến đâu cũng không dám đi trên Sông Giang.
Ghe đi trên Sông Giang, hễ gần đến Thác Giang Lo thì phải lo cất hết hàng hóa xuống để cho ghe qua thác rồi mới chất trở lên. Còn bè thì người chống phải ngồi bám vào bè cho thật chặt và ngọn sào phải để sẵn một bên. Bè xuống khỏi thác thì chìm sâu lút đầu người. Đến khi nổi lên thì tay sào phải sẵn sàng để chống vào đá, cho bè thuận theo dòng nước mà xuôi.
Người ta bảo rằng: « Vì đi trên Sông Giang, đến thác nầy ai nấy đều lo sợ, cho nên gọi là Thác Giang Lo ». Nhưng sự thiệt thì Giang Lo là tiếng Thượng, đọc và viết theo tiếng Kinh. Còn các thác khác cũng có nhiều cảnh lạ, nhưng khó mà đi đến, nên du khách tạm dừng chân nơi Giang Lo, để lấy sức trở lui xuống Sông Cái.
Từ nguồn chí biển, Sông Cái là tức sông Nha Trang, vượt qua nào núi nào rừng, vào ruộng nương thôn ấp. Nếu sẵn tài Tống Địch, thì thế nào cũng có ít nhất là tám cảnh Tiêu Tương. 38
Trong khi chờ mộng Giang Yêm 39, thì xin giới thiệu « thực chất » của sông Nha Trang, để khi mộng thành thì được « văn chất bân bân » cho khoái tâm khoái khẩu:
Sông Nha Trang có nhiều cá. Nhưng có một giống cá mà các bà nội trợ nặng tình Mạnh Quang thường mua về để « cử án » 40. Đó là cá Đục. Thứ cá nầy không phải riêng sông Nha Trang mới có. Song cá đục Nha Trang đặc biệt hơn cá các sông khác là thịt đã ngọt lại thơm.
Nhân vị đặc biệt ấy mà thời Nhật Pháp tranh quyền trên lãnh thổ Việt Nam (1940-1944), một người trong Việt Nam Ái Quốc Đảng ở Nha Trang 41 đã mượn con cá Đục để gởi tâm sự cùng bạn đồng chí:
Sông Nha Trang,
Cát vàng nước lục,
Thảnh thơi con cá đục
Lội dọc lội ngang,
Đã nguyền cùng em giữ dạ đá vàng,
Quí chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng,
Anh nỡ phụ phàng nước non?
Đó, Sông Nha Trang, tức Cù Giang, tức Sông Cái, mới ngó qua tưởng không có gì đặc sắc. Nhưng nếu rõ được ngọn nguồn lạch sông, thì hưởng được không biết bao nhiêu thú vị, thú vị về phong cảnh, về lịch sử, về truyền thuyết… mà muốn hưởng được trọn phải chịu khó đến tận nơi.
C) CÁC CON SÔNG NHỎ ĐÁNG KỂ
Ngoài hai con sông lớn thượng dẫn, Khánh Hòa còn một số sông nhỏ. Đáng để ý là những sông sau đây:
1) SÔNG TÔ HA
Phát nguyên ở các núi nơi ranh giới Phú Khánh. Chảy qua Tu Bông rồi chảy xuống vũng Trâu Nằm thuộc vịnh Vân Phong. Trên thượng lưu có đập ngăn nước gọi Đập Sổ.
2) SÔNG BÌNH SƠN
Đây là một cái suối thường gọi là suối Bình Trung. Phát nguyên từ hòn Giúp, chảy qua Từ Chánh, Trung Dõng, Bình Trung rồi chảy xuống cửa Giã, vịnh Vân Phong.
3) SÔNG VẠN GIÃ
Tục gọi là sông Hâu. Có hai nguồn: một từ vùng núi Tam Phong ngoài ranh giới Phú Khánh chảy vào ; một từ Hòn Chảo chảy xuống, qua Hiền Lương, rồi cùng nhánh kia hợp lại chảy xuống Cửa Giã, vịnh Vân Phong. Sông nầy nằm phía trong Vạn Giã. Quận NINH HÒA có một con sông nhỏ, bên cạnh Sông Dinh. Đó là:
4) SÔNG CẦU LẤM
Tên chữ là Ngọc Sơn, phát nguyên từ Hòn Bà: Có hai phụ lưu là hai thắng cảnh của Khánh Hòa. Suối Cát và Suối Đá Chẻ 42. Sông chảy xuống vũng Nha Phu. Quận VĨNH XƯƠNG có:
5) SÔNG PHÚ HỮU
Do nước Ba Hồ, một thắng cảnh của Khánh Hòa 43 chảy ra rồi chảy xuống vịnh Nha Phu.
6) SÔNG ĐỒNG BÒ
Đây là nhánh Nam phái cũ của sông Nha Trang. Ngọn nước bị lấp, dòng nước nhiều khúc cạn thành đồng bằng, nhiều khúc còn đọng thành bàu, chỉ khi mưa lụt mới thấy lại dạng sông cũ. Mùa nắng sông nhờ nước ở Suối Dầu do một suối nhỏ, tục gọi là sông Dinh, chảy xuống Đồng Bò, đến Trường Đông, để ra Cửa Bé. Do đó mà sông cũng thường gọi là Sông Trường Đông hay Sông Cửa Bé. Ở quận Diên Khánh, có một con sông vừa nhỏ vừa cạn, không có gì đặc biệt, thế mà nổi danh, vì hành khách đi trên đường Quốc Lộ phải đi ngang qua một cái cầu bắc trên sông và mang tên sông. Đó là:
7) SÔNG CẠN
Một nhánh nhỏ của Sông Cái tức sông Nha Trang.
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là Hạc Giang 44 và chép rằng sông nầy do mương ngòi trong các đồng ruộng chảy dồn lại chớ không có nguồn.
Sự thật thì « nguồn » ở tại bờ sông cái phía Nam, cách đầu cầu Chợ Thành qua Phú Lộc chừng trăm thước. Nhưng nước ở sông Cái chỉ khi nhiều lắm mới tràn vào Sông Cạn. Ngoài nước Sông Cái, Sông Cạn còn nhận nước các đồng ruộng, như Đại Nam đã chép, nhiều nhất là nước Cầu Lùng. Cầu Lùng ở phía Nam thành Diên Khánh, trên con đường Quốc Lộ số 1. Tại bến xe Thành đi vào thì tới Cầu Lùng rồi tới cầu Sông Dinh. Dưới Cầu Lùng có một lỗ nước rộng lớn và rất sâu, mùa hạ nắng mấy cũng không cạn. Cũng có thể gọi vũng Cầu Lùng là « ngọn nguồn » thứ hai của Sông Cạn.
Sông Cạn chảy qua Phước Thạnh, Võ Kiện, Võ Cạnh, xuống Phú Vinh để cùng các mương rãnh dồn nước chảy vào Cửa Bé những lúc trời mưa to. Phong cảnh của con sông cũng như của cầu Sông Cạn, không có gì ngoạn mục. Nhưng cầu Sông Cạn là một cầu lịch sử.
Năm Bính Tuất (1886) dưới triều Đồng Khánh hai nhà lãnh đạo nghĩa binh Cần Vương là Trịnh Phong và Nguyễn Khanh tuẫn quốc nơi gò bên cầu 45. Và 24 năm sau đến lượt chí sỹ Trần quí Cáp.
Nguyên cuối triều Thành Thái đầu triều Duy Tân, cụ Trần quí Cáp, hiệu Thái Xuyên, người làng Bất Nhị, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, đậu Tiến Sỹ, vào ngồi giáo thọ huyện Tân Định, tỉnh Khánh Hòa. Cụ là một nhà chí sĩ cùng các cụ Phan bội Châu, Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng là chỗ thâm giao. Khi ngồi giáo thọ Tân Định, Trần chí sỹ ngấm ngầm tuyên truyền chống nào khoa cử, bài trừ hủ tục, hô hào chấn hưng công thương… Biết rằng chí sỹ là một nhà cách mạng nguy hiểm, bọn thực dân và bọn quan An Nam, tay sai của chúng, luôn luôn theo dõi. Để tránh sự dòm giỏ ngó treo của bọn chó săn, các thơ từ của chí sỹ, thơ nhà cũng như thơ ngoài, đều gởi cho quan huyện Tân Định. Quan huyện Tân Định lúc bấy giờ là cụ Tấn Sỹ Hồ Sỹ Tạo, người Hòa Cư, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định, bạn đồng khoa cùng chí sĩ. Nhờ vậy mà chữ thánh hiền không bị mắt cú vọ rây nhơ.
Năm Mậu Thân (1908) ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định nổi phong trào « xin xâu xin thuế ». Đồng bào hớt tóc ngắn kéo nhau đến Tỉnh yêu cầu Chánh phủ giảm bớt xâu thuế. Phong trào rất sôi nổi. Để trấn an nhân tâm bọn thực dân phong kiến, sau khi thấy bắn giết không đi tới đâu, bèn hứa hẹn thỏa mãn lời yêu cầu. Đồng bào giải tán, chúng lùng bắt những người cầm đầu, lớp bỏ tù lớp xử tử. Trong khi phong trào đương sôi nổi, gia đình cụ Trần gởi thư vào nói rõ tình hình và thỉnh ý cụ. Theo thường lệ, thư gởi cho quan huyện Tân Định. Chẳng may lúc bấy giờ cụ Hồ Sỹ Tạo về Bình Định linh gian cho bà cụ thân sinh. Quyền tri huyện là Phan bá Hoành mở thư ra xem, liền đem trình cho Tỉnh để lập công hầu mong được thực thụ chức tri huyện Tân Định. Quan tỉnh Khánh Hòa lúc bấy giờ là Phạm ngọc Quát làm Tuần Vũ và Nguyễn Mại làm án sát. Gặp được dịp tỏ lòng trung thành cùng chủ, Phạm ngọc Quát cùng Nguyễn Mại, một mặt tư Sứ và Bộ, một mặt bắt tống lao nhà chí sỹ. Cụ Hồ Sỹ Tạo đương ở nhà cư tang cũng bị liên lụy. Hai cụ bị kết án tử hình về tội mưu đồ phản loạn. Cụ Trần bị xử lăng trì. Cụ Hồ bị trảm quyết. Triều đình Huế xét « không có gì nặng » giảm án cụ Trần xuống trảm quyết và cụ Hồ khổ sai chung thân! Cụ Hồ bị nhốt ở ngục Bình Định. Trong ngục cụ có câu:
Thảo mẹ ba năm lòng cỏ thẹn,
Chăn dân tám tháng vận cầm rơi.
Cụ Trần bị hành quyết tại cầu sông Cạn. Cụ bước ra pháp trường với thái độ thản nhiên. Cụ lấy chiếc khăn nhiễu bịt đầu đưa cho tên đao phủ: « Sự nghiệp của tôi chỉ có chừng nớ. Chú cầm lấy và chém tôi một đao cho mát ». Trời đương nắng bỗng kéo mây và gió lạnh thổi! Đồng bào không cầm lòng được, khóc rống! Bọn thực dân cũng tỏ vẻ bùi ngùi. Riêng bọn quan An Nam, tay sai của chúng, lấy làm đắc ý vì đã tỏ được lòng khuyển mã cùng quan thầy lại trừ được cái đinh chính nghĩa ở trước đôi mắt tà nịnh. Chúng lại còn buộc gia đình phải mai táng cụ Trần tại Khánh Hòa! Mãi mười lăm năm sau, trung cốt mới được đưa về cố thổ. Người có tâm trong nước, ai cũng căm giận phường gian nịnh, vì danh lợi mà bán tâm hồn cho giặc, phản quốc phản dân.
Và người Khánh Hòa in sâu cảnh tượng thương tâm vào lòng vào não. Cho nên mùa xuân năm Ất Mão, sau khi Nhật lật đổ Pháp (1945), nhân trong thành phố Nha Trang có mấy con đường mới cần đặt tên, các thân hào nhân sỹ Khánh Hòa liền đề nghị đặt tên Trần quí Cáp cho con đường chạy trước mặt nhà của hậu duệ Phạm ngọc Quát, để kẻ qua người lại lấy đó mà làm gương. Và các ông già bà cả đã chứng kiến thảm cảnh năm Mậu Thân (1908) còn sống sót đến nay, hễ nhắc đến chuyện xưa đều không cầm được nước mắt!
Còn con sông Cạn đến mùa nắng thì nước khô. Nhưng nơi cầu, nước không bao giờ ráo. Phải chăng đó là giọt lệ khóc anh hùng tích tụ, dòng hận của khách « quốc thù vị báo » còn lưu? Từ Nha Trang đi lên, trước khi đến Chợ Thành Diên Khánh thì phải qua cầu sông Cạn. Qua cầu sông Cạn, nghĩ đến chuyện chí sỹ Trần quí Cáp, đến hai vị anh hùng họ Trịnh họ Nguyễn, người hữu tâm không thể hững hờ đi qua.
Khánh Hòa còn một ít sông con khác, nhưng không đáng kể. Có một điểm đáng lưu ý là sông Khánh Hòa, mặc dù phát nguyên ở nội địa, sông nhỏ cũng như sông lớn, mùa nắng, cạn thì có cạn chớ ít khi khô rốc. Vì núi nhiều cây, trời thường mưa, khe suối luôn luôn trữ nước. Cho nên có câu:
Sông không khô nhờ nguồn trữ nước,
Con cháu sang giàu nhờ phước cha ông.
IV. ĐỒNG BẰNG
Tỉnh Khánh Hòa, núi rừng chiếm hết 15/16 diện tích. Đồng bằng chỉ còn 1/16 tức 33.950 ha. Đất đã khai hiện nay trên 32.000 mẫu tây.
Từ Gia Long đến Tự Đức ruộng đất Khánh Hòa, theo bộ thuế điền thổ, gần 12.600 mẫu ta, tức 6.800 mẫu tây. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) số ruộng đất lên được gần 29.155 mẫu, năm thứ 11 (1899) lên 30.828 mẫu dư, đến năm thứ 18 (1906) lại lên đến 31.260 mẫu ta tức 15.630 mẫu tây. Đem so với diện tích trồng tỉa hiện thời thì nay ruộng đất rộng gấp đôi xưa.
Đó là theo giấy tờ. Trên thực tế thì từ trước đến giờ, ruộng đất Khánh Hòa, trừ những đồn điền của người Pháp mới khai khẩn thời Pháp thuộc, không tăng cũng không giảm. Diện tích ghi trong bộ thuế điền thổ không đúng sự thật. Từ đời Thành Thái trở xuống thuế má luôn luôn tăng. Để đủ số thuế Nhà Nước ấn định cho mỗi tỉnh, Chánh quyền địa phương không gia tăng giá biểu mà lại gia tăng diện tích trồng tỉa, mặc dù trên thực tế ruộng đất không hề tăng một tấc nào. Cho nên từ Thành Thái thứ 10 đến thứ 18 mà diện tích tăng gấp bốn lần!
Con số 32.100 mẫu tây cũng là con số trong sổ bộ hiện thời. Có sai chăng cũng chỉ sai chút ít thôi. Ruộng đất Khánh Hòa đã hẹp mà còn bị núi đồi chia cắt từng vùng, từng khoảnh, thành thử ít nơi có cảnh « cò bay thẳng cánh », có cảnh « lúa ngập ngút mây ». Nhiều ruộng đất nhất và ruộng đất tốt nhất là Ninh Hòa, thứ đến Diên Khánh. Vạn Ninh, Vĩnh Xương và Cam Lâm, đất trồng tỉa không được nhiều bằng hai quận kia. Còn Khánh Dương thì đất núi chỉ thích hợp với cỏ và tranh săng. Ruộng rất ít.
Người xưa đã đặt cho những cánh đồng Khánh Hòa nhiều tên rất « thực tế » và rất « bình dân »:
- Ở Vạn Ninh có: Đồng Găng, Đồng Mốc, Đồng Đáy, Đồng Miễu, Đồng Gáo, Đồng Bà Chỉ, Đồng Lớn, Đồng Bé, Đồng Đụt…
- Ở Ninh Hòa có: Đồng Cháy ở phía Đông quận lỵ ; Đồng Nay, Đồng Chuôm ở vùng phía Tây quận lỵ.
- Ở Vĩnh Xương có: Đồng Đế ở phía Bắc thành phố Nha Trang và gần quận lỵ Vĩnh Xương ; Đồng Bò ở phía Nam thành phố Nha Trang.
- Ở Diên Khánh có: Đồng Nga, đồng Lũy, đồng Dài, ở phía Bắc ngạn Sông Cái ; Đồng Trăng, đồng Sậy, đồng Cọ, đồng Lớn… ở phía Nam ngạn.
- Ở Cam Lâm có: Đồng Lác, nay đã thuộc về thị xã Cam Ranh.
Đó là những cánh đồng thường được nhắc nhở đến. Và tên đồng đã dựa theo những đặc điểm của đồng mà đặt. Nhưng cảnh sắc đã nhiều thay đổi, nên hiện nay có nhiều cánh đồng, không hiểu tại sao lại mang tên như thế. Ví dụ: Đồng Đế, Đồng Bò, Đồng Cọ, Đồng Nga… Hỏi thăm, một ông lão cười:
Người đâu khỏi chuyện khùng khiên
Xưa đặt nay truyền chớ biết vì sao!
Hiện nay, để tiện lợi trong việc thực hiện chính sách xây dựng nông thôn, cơ quan hữu trách chia ruộng đất Khánh Hòa ra thành nhiều cánh đồng, và tên đồng gọi theo tên những thôn ấp quan trọng:
- Vạn Ninh có những đồng: Tu Bông (Tân Phước, Hội Khánh) ; Vạn Giã (Tứ Chánh, Bình Trung, Phú Cang, Quảng Hội) ; Mỹ Đồng, v.v…
- Ninh Hòa có: Đồng Xuân (Đồng Thân, Nghi Xuân) ; Vĩnh Thịnh ; Ninh Ích ; Đại Tập, Đại Mỹ ; Ninh Hòa (Hà Thanh, Vĩnh Phước, Thanh Châu) ; Tân Hưng, Trường Lộc, v.v…
- Vĩnh Xương có: Phú Hữu, Xuân Phong, Phú Vinh, v.v…
- Diên Khánh có: Tứ thôn Đại Điền (Đ.Đ Trung, Đ.Đ Nam, Tây, Đông) ; Phú Khánh, Nghiệp Thành ; Thanh Minh ; Đồng Trăng (Khánh Xuân, Xuân Lâm), v.v…
- Cam Lâm có: Hội Xương ; Vĩnh Phú, v.v…
Ruộng gần nước thì làm hai mùa. Ruộng xa nước thì làm một mùa. Ruộng rộc thì cấy ruộng gò thì gieo. Ở Trung Việt, ruộng đất Khánh Hòa đứng vào hàng ưu tú. Nhưng đối với đồng Nam Việt thì chẳng khác Việt Nam đối với Huê Kỳ. Tuy vậy, đồng Khánh Hòa thời bình vẫn đủ nuôi nhân dân Khánh Hòa. Cho nên người nông dân Khánh Hòa vẫn cao giọng hát:
Mẹ người áo gấm người yêu,
Mẹ ta áo vải ta chiều ta thương.
V. BIỂN VÀ BỜ BIỂN
Biển Khánh Hòa chạy từ Vũng Rô đến Cam Ranh, dài chừng 100 cây số đường thẳng. Có bốn Vịnh:
- Vịnh Vân Phong chạy từ chân núi Mã Cảnh đến chân phía Bắc núi Phước Hà.
- Vịnh Nha Phu chạy từ chân núi phía Nam Phước Hà đến chân đèo Rù Rỳ.
- Vịnh Cù Huân chạy từ đèo Rù Rỳ đến chân núi Cầu Hùm trong dãy Hoàng Ngưu Sơn.
- Vịnh Cam Ranh, nay thuộc về thị xã Cam Ranh.
Trong mỗi vịnh đều có vũng và cửa biển.
1) VỊNH VÂN PHONG
Rộng lớn nhưng rất kín đáo. Bán đảo Bàn Sơn dài gần 30 cây số, chạy từ đèo Cổ Mã xiêng xiêng theo hướng Đông Nam làm cánh cửa che gió Bấc. Bán đảo Phước Hà dài trên 20 cây số, cũng chạy xiêng xiêng theo hướng Đông Nam, làm cánh cửa che gió Nam. Tàu bè gặp bão thường ghé vào đụt. Trong vịnh có vũng Trâu Nằm ở Tu Bông, vũng Hòn Khói ở Ninh Hòa, đối diện nhau. Và ở gần cuối dãy Phước Hà có vũng Cây Bàn. Những vũng nầy là những nơi sinh nhai của đồng bào ngư phủ. Vịnh có hai cửa biển là cửa Vạn và cửa Giã.
- CỬA VẠN, Pháp gọi là Port Dayot ở tại Đầm Môn, dưới chân bán đảo Bàn Sơn 46. Trước cửa có một hòn đảo lớn, tục gọi là Hòn Lớn, tên chữ là Đại Dự, đứng che. Cho nên cửa rất kín đáo. Chính nơi đây là nơi tàu bè núp bão tố. Vào ra cửa có hai lạch ở giữa Hòn Lớn và hai nhánh núi của bán đảo Bàn Sơn. Lạch phía Đông gọi là Lạch Cửa Bé, lạch phía Tây gọi là Lạch Cửa Lớn hay Lạch Cổ Cò.
- CỬA GIÃ nằm tại Vạn Giã. Nước sông Hậu chảy ra cửa nầy. Cửa Giã là nơi ghe thuyền buôn bán ra vào. Cá tôm ở các vũng phần nhiều cũng dồn về Cửa để phân phối đi các nơi. Cho nên dân cư đông đúc. Vạn Ninh thịnh vượng nhờ cửa Giã một phần, và ruộng đất một phần. Tên Vạn Giã là do tên hai cửa biển ghép lại.
2) VỊNH NHA PHU
Bề ngang gần sáu cây số, bề dài chừng vài chục cây số. Gần bằng một góc tư vịnh Vân Phong. Trong vịnh có cửa Hà Liên và cửa sông Dinh ở Ninh Hòa chảy xuống. Thuyền ghe lên xuống cửa nầy để buôn bán cùng Ninh Hòa.
3) VỊNH CÙ HUÂN
Đây là một vịnh quan trọng nhất của tỉnh Khánh Hòa. Vịnh trống trải. Gió Nam gió Bấc thổi qua đều không có sức ngăn cản. Cho nên không được thuận lợi cho tàu thuyền trong những lúc gió to sóng dữ. Trong vịnh có hai cửa biển: Cửa Lớn tức cửa Nha Trang và Cửa Bé tức cửa Trường Đông. Tuy trống trải, Cửa Lớn tức cửa Nha Trang là một hải cảng quan trọng ở Trung Việt. Tàu buôn, tàu chiến đều thả neo, không ngày nào không có. Đây vừa là một nguồn lợi cho thành phố Nha Trang vừa là một máy điều hòa không khí, vừa là một cảnh dưỡng mục dưỡng thần. Còn Cửa Bé rất có lợi cho việc chài lưới. Nhân dân ở Trường Đông đều sống nhờ Cửa Bé. Và nước mắm ngon trong tỉnh, một phần lớn do Cửa Bé mà ra. Cho nên Cửa Bé tuy nhỏ mà nổi tiếng từ xưa. Cửa Lớn tên chữ là Đại Cù Huân, Cửa Bé gọi là Tiểu Cù Huân.
4) VỊNH CAM RANH
Vừa rộng rãi vừa kín đáo, vịnh Cam Ranh là một hải cảng đứng vào hàng hải cảng tốt nhất Á Đông, về mặt quân sự cũng như về mặt thương mãi. Nhưng trước kia, nhân dân Khánh Hòa chưa được hưởng lợi, ngày nay lại cắt giao cho thị xã Cam Ranh và người Việt Nam không được tới lui nếu không có giấy phép của người Mỹ. Tuy Cam Ranh không còn hệ thuộc Khánh Hòa, nhưng nhân dân Khánh Hòa không quên Cam Ranh và không quên câu chuyện năm Ất Tỵ (1905).
Năm ấy Nhật thắng Nga. Tàu chiến của Nga chạy ngang qua phần biển Khánh Hòa, chạy vào trốn tại vịnh Cam Ranh. Nhân đi vào Nam, qua Khánh Hòa, ba nhà chí sỹ Phan châu Trinh, Trần quí Cáp, Huỳnh thúc Kháng ghé lại Cam Ranh xem tàu Nga. Đi thăm, sự thật không phải cốt để thỏa mãn tánh tò mò, mà chính để mừng chiến thắng oanh liệt của một dân tộc da vàng, để thêm phần tin tưởng ở sự thành công sau nầy của cuộc cách mạng dân tộc do những nhà chí sỹ ái quốc lãnh đạo, trong đó có hai cụ. Bọn chó săn của Pháp theo dõi, biết được. Và bọn quan An Nam, khi kết án hai cụ về tội « mưu đồ phản loạn », đã vin vào việc đi thăm tàu Nga làm một bằng cớ để múa bút tà ngụy buộc tội cho thêm nặng nề!
Đồng bào Khánh Hòa cũng không quên bãi cát Cam Ranh là nơi đày những chiến sỹ Cần Vương, sau khi phong trào đã bị tan rã (1887), và nhiều người đã vùi thây nơi cát trắng biển xanh. Sau nầy Cam Ranh dù có thay đổi hẳn bộ mặt, người Khánh Hòa nói riêng, người Việt Nam nói chung, chắc không nỡ quên những hàng lịch sử đã in sâu vào bia miệng nhân dân địa phương.
Bờ biển Khánh Hòa hình cong cong như lưỡi liềm, lưng trở vào đất, lưỡi trở ra biển. Nhưng không phải trơn liền và bằng mặt như lưỡi liềm, mà chỗ cao chỗ thấp, nơi lõm nơi lồi, đoạn thì ghềnh đá chông chênh, đoạn thì bãi cát êm dịu. Sơn mạch từ Đại Lãnh, Mã Cảnh chạy thẳng ra biển, xiêng xiêng theo hướng Đông Nam tạo thành một bán đảo. Đó là bán đảo Bàn Sơn. Bán đảo Bàn Sơn, dài gần 30 cây số. Trong nhỏ ngoài to, hình giống một chiếc chìa khóa sửa xe đạp mà răng day vào Vạn Ninh, cán trở ra Bắc. Hai « răng chìa khóa » như hai cánh tay ôm lấy Cửa Vạn mà hòn Đại Dự đứng trước làm bức bình phong.
Từ Ninh Mã, dưới chân Đèo Cổ Mã đến mũi Hòn Ngang, dài 13 cây số, bờ biển cao nhưng ngay ngắn. Qua khỏi mũi Hòn Ngang, đi vào chừng trên 3 cây số nữa thì núi nổi lên làm cho bờ biển trở nên gập ghềnh khúc khuỷu, cao thấp lõm lồi, mặt ngoài cũng như mặt trong. Từ Ninh Mã đến Vĩnh Giật phía Tây, mũi Hòn Ngang phía Đông, là cán chìa khóa. Từ Vĩnh Giật Hòn Ngang đến Khải Lương, là răng chìa khóa. Trong khoảng răng chìa khóa có nhiều mũi đá, ngoài mũi Hòn Ngang, như mũi Đá Chôn, mũi Đôi, Mũi Hòn Chò, mũi Cột Buồm, ở phía Đông bán đảo. Mũi Gành ở cuối bán đảo về phía Nam, mũi Nai Ba Kèn ở phía Nam Cửa Vạn, mũi Cổ Cô, mũi Đá Sơn… ở phía Tây bán đảo.
Bán đảo Bàn Sơn là bờ phía Đông của vịnh Vân Phong. Bờ phía Tây của vịnh, tức là một đoạn bờ biển « chính thức » của Khánh Hòa, chạy từ Vũng Trâu Nằm đến cuối dãy Phước Hà Sơn của Ninh Hòa. Đoạn này chia làm hai phần:
- Từ Vũng Trâu Nằm đến Vũng Hòn Khói, bờ biển thấp và toàn cát hình lưỡi liềm. Những sông những suối chảy vào biển, chia bãi cát thành nhiều khoảnh, khiến cho lưỡi liềm bị mẻ nhiều nơi.
- Từ Hòn Khói trở vào Nam, núi nằm sát biển, nên bờ biển thường thường cao và dốc. Nhiều nơi ghềnh đá chênh vênh, dưới chân ghềnh có nhiều hang nhiều hố. Có một số hang hố ăn sâu vào lòng núi, làm ngõ ra vào cho những « thạch thất » tức những động đá ở bên trong.
Đoạn nầy nằm hẳn dưới chân dãy Phước Hà, mặt Đông Bắc. Bờ biển nhô ra nhiều mũi nhọn. Đáng kể là mũi Bàn Thang, mũi Bãi Chướng, mũi Bắt Tay. Mũi Hòn Thị là cùng điểm (terminus) của dãy Phước Hà.
Dãy Phước Hà là cánh cửa phía Nam của vịnh Vân Phong và là cánh cửa phía Bắc của vịnh Nha Phu. Cũng như phía bên Vân Phong, phía bên Nha Phu núi cũng chạy sát biển. Bờ biển cao nhưng có phần thẳng, ít nơi lồi lõm hơn phía bên Vân Phong. Song dưới chân ghềnh cũng có nhiều hang hố ăn thông vào động bên trong của Hòn Hèo.
Cho nên nếu có binh đóng trong lòng dãy Phước Hà thì không sợ bị phong tỏa. Vì ngoài những đường vô ra ở trên núi, còn nhiều ngõ thông thương ở ngoài biển.
Bờ biển phía Đông Bắc vịnh Nha Phu cao. Bờ biển phía Tây, từ của Hà Liên chạy vào tới Rù Rỳ, thấp, vì núi chạy có hơi xa biển. Nhưng thỉnh thoảng núi đột khởi hoặc chạy thọc ra biển, khiến bờ biển đương bằng vụt nổi, đương liền lặng vụt chông chênh. Như ở Tân Thủy có Hòn Hoài, ở ranh giới Ninh Hòa Vĩnh Xương có đèo Ruột Tượng và nhất là qua khỏi Lương Sơn có đèo Rù Rỳ, làm thay đổi hình thế và sắc thái bờ biển. Qua hải phận vịnh Cù Huân, bờ biển vẫn không nhất trí, và có núi thỉnh thoảng chạy ra biển chỗ ít chỗ nhiều:
- Từ Rù Rỳ đến Cù Lao, bờ biển toàn cát trắng, thấp và bằng phẳng mịn màn, dài độ ba cây số.
- Tại vùng Cù lao, núi lòi ra biển, bờ biển toàn đá và nổi lên cao ở phía Bắc và phía Đông, cong cong chừng một cây số.
- Phía Nam Cù Lao, cửa sông Nha Trang cắt ngang bờ biển làm đôi. Nếu không có cầu Xóm Bóng nối liền Bắc Nam, thì kẻ bên nầy người bên kia không khỏi nặng tình trông đợi.
- Từ cửa sông Nha Trang đến Trường Tây thì bãi rộng cát bằng, hình giống chiếc yển nguyệt đao bằng bạc mà lưỡi sắc bén dao sóng mài. Dài sáu cây số.
- Từ Trường Tây đến Trường Đông, dài hai cây số, hòn Cảnh Long như con rồng xanh, nằm sát biển, làm cho bờ biển nổi cao.
- Nếu không có Cửa Bé cắt ngang, thì hòn Cảnh Long nối liền với dãy Hoàng Ngưu Sơn vào thẳng Cam Ranh, thì bờ biển là một bức trường thành cản sóng gió tràn vô đất.
- Bờ biển thuộc hải phận Cam Ranh là một bán đảo chạy từ chân Hoàng Ngưu Sơn ra biển, xiêng xiêng theo hướng đông nam. Cát trắng chen núi xanh, chạy dài hơn 30 cây số, làm cánh cửa che cho vũng Thủy Triều và vịnh Cam Ranh, suốt mặt phía Đông. Đi ngoài biển nhìn vào chỉ thấy núi xanh cát trắng.
Bờ Biển Khánh Hòa đại khái là thế. Hình trạng bất nhất, khí sắc bất nhất. Nhờ vậy mà phong cảnh luôn luôn thay đổi. Hành khách đi đường hàng không trông xuống, đi đường hàng hải trông vào luôn luôn tìm thấy cảnh mới lạ, khiến mặt cũng như lòng, không chán không nhàm. Bờ Biển Khánh Hòa có nhiều Bãi Cát rất đẹp, rất quyến rũ, như:
- Bãi Đại Lãnh ở dưới chân đèo Cả. Bãi dài chừng hai cây số. Cát trắng mịn. Trên bãi trồng dương liễu thành rừng, tàn xanh bóng mát. Biển xanh tắm cát trắng. Liễu lục che cát trắng. Gió biển thổi vào, tiếng dương vi vút, tiếng sóng xào xạc. Một bên cao mà dài. Một bên thấp và ngắn. Dường như trái nhau, mà thật hết sức ăn nhịp với nhau, như tiếng sáo tiếng trống hòa điệu. Khách du quan thường kéo nhau đến thưởng thức.
- Bãi Đồng Đế ở phía Bắc Cù Lao. Dài chừng một cây số. Bằng thẳng sạch sẽ. Khách phong lưu thường kéo nhau ra tắm mát phơi nắng.
- Bãi Nha Trang, một thắng cảnh của Khánh Hòa, một nơi đã làm cho Nha Trang nổi tiếng là « miền cát trắng dương xanh » khắp toàn quốc. 47
- Bãi Dài chạy từ Hải Triều, đến Cam Ranh, dài trên 16, 17 cây số. Cát trắng phau phau, trắng hơn cả cát bãi Nha Trang, Đồng Đế. Nhưng vì ở xa nơi thị tứ nên du khách ít vãng lai. Sau nầy khi Cam Ranh đã trở thành nơi đô hội phồn hoa thì Bãi Dài nhất định sẽ trở nên bãi biển quyến rũ khách thừa lương hơn bãi nào hết.
Dọc theo bờ biển, Khánh Hòa có rất nhiều Đảo. Lớn nhỏ, tất cả là 71 hòn. Trong vịnh Vân Phong có:
- Hòn Điệp Sơn, trên cao trông xuống giống hình con nòng nọc, đuôi trở vào Nam, tục gọi là Hòn Bịp.
- Hòn Đại Dư, tức Hòn Lớn, dài đến 14, 15 cây số, và rộng từ 2 đến 6 cây số, chận ngang Cửa Vạn. Chung quanh có nhiều hòn đảo nhỏ, trông như những con gà con chạy chung quanh con gà mẹ.
- Hòn Mỹ Giang ở phía Đông bán đảo Phước Hà. Trước mặt có hai hòn đảo nhỏ là hòn Theo và hòn Khô. Và ngoài xa có Hòn Đỏ (cũng gọi là hòn Hèo) và hòn Cứt Chim. Đó là những hòn đảo phụ thuộc.
Trong vịnh Nha Phu có:
- Hòn Trà La tức là hòn Chà Là, bên cạnh có hòn Hố và hòn Rồng. Ba hòn nầy là ba hòn yến và nằm ở ngoài khơi.
- Hòn Thị Sơn gọi tắt là hòn Thị, phía Đông có bán đảo Phước Hà che, phía Tây có nhiều đảo nhỏ chầu hầu, như hòn Nứa, hòn Rêu, hòn Trồng, hòn Sấm.
Trong vịnh Cù Huân có:
- Hòn Qui Đảo tức hòn Rùa vì hình tương tợ con rùa bò vào Nam. Đứng nơi bãi Nha Trang trông ra, ném về phía Bắc.
- Hòn Bút Sơn hình giống một chiếc nón Huế úp sấp. Pháp gọi là Pyramide. Tục gọi là hòm Dụm. Ở trên đảo có yến sào, nên cũng gọi là Hòn Yến.
Ca dao Khánh Hòa có câu:
Anh đứng Hòn Chuồng,
Trông sang Hòn Yến.
Lên thăm Tháp Bà,
Về viếng Sinh Trung.
Non xanh nước biếc trập trùng,
Biết bao liệt nữ anh hùng, em ơi!
Em hay nhận lời,
Cùng anh kết ngãi.
Đầu nguồn cuối bãi,
Ta hãy nương nhau.
Biển Cù nước mãi còn sâu,
Công linh chẳng trước thời sau cũng thành.
Những cảnh trong bài ca là những cảnh ở trong phạm vi vịnh Cù Huân, và hòn Yến nói trong bài là Hòn Dụm, hòn Bút vậy. Phía Bắc hòn Dụm có một hòn đảo nhỏ nữa gọi là hòn Câu. Ở khoảng giữa hòn Dụm và hòn Câu, có hai cụm đá trụi đứng song song. Vì hòn Dụm là hòn Bút, nên hòn Câu gọi là hòn Nghiên và hai cụm đá nhỏ gọi là hòn Mực. Biển có bút có nghiên có mực, trời trải mây ra làm giấy, để cho bầy én tía bầy nhạn trắng làm chữ viết nên bài thơ nghìn ý muôn lời, điểm trang Cửa Lớn thành một bức tranh tuyệt mỹ. Thời Tiền Chiến có câu:
Sóng mài nghiên biển ngòi non chấm,
Gió trải tờ mây chữ nhạn đề.
Là do cảnh của Nha Trang gợi hứng. Hòn Bút nằm ngay thôn Cù Lao, cách bờ biển 17 cây số. Đứng nơi bãi biển Nha Trang nhìn ra thấy dường như ở chính trước mặt. Xiêng xiêng về hướng Đông Nam, và cách bờ biển ba cây số, có một hòn đảo to lớn, nứt nhiều nhánh xa trông như những con cá sấu bò xuống nước. Đó là:
- Đảo Đàm Mông, tục gọi là Hòn Trẻ 48. Trên đảo có thôn Bích Đầm, người ở đông đúc. Phía Đông có mấy hòn đảo nhỏ, hình cá óc nóc tục gọi là Hòn Nọc. Có hải đăng. Đảo nầy nằm ngay trước mặt Cầu Đá xã Trường Tây.
- Nằm ngay trước Cửa Bé xã Trường Đông, có: Đảo Bồng Nguyên tục gọi Hòn miếu. Trên đảo có thôn Trí Nguyên. Phía Đông có ba hòn đảo đứng thành hàng dọc, hợp cùng đảo Bồng Nguyên thành bốn trụ ba biểu đứng trước ngôi đình là đảo Đàm Mông.
Ba hòn đảo nầy tục gọi là: Đảo Tầm, đảo Một và đảo Mùn. Qua hải phận Cam Ranh có: Hòn Nội và Hòn Ngoại. Đó là hai hòn đảo có nhiều yến sào nhất tỉnh Khánh Hòa. Trong những hòn đảo có yến sào, hang hóc nhiều lắm. Cái thì ăn bồng bênh vào lòng núi, cái thì chạy dài như dãy hành lang. Vách đá bị sóng gió mài cọ, trơn láng như gương. Chim yến bám vào những nơi cao để làm tổ.
Khánh Hòa có tất cả bảy hòn đảo có tổ yến (yến sào). Nhưng sản xuất nhiều nhất là hòn Ngoại (4.000 tổ mỗi mùa). Hòn Ngoại nhỏ hơn hòn Nội lại đứng phía trong Nam. Có lẽ nội ngoại đây không có nghĩa là trong ngoài, mà là phía nội phía ngoại. Phía nội trọng hơn phía ngoại, nên hòn lớn gọi hòn Nội, hòn nhỏ gọi hòn Ngoại. Đó là ức đoán. Người đương thời không ai giải thích được chính xác. Đảo nầy có một đường hầm vừa cao vừa dài chạy suốt từ triền phía Nam sang triền phía Bắc. Đường đi ngoắt ngoéo, lúc thẳng lúc cong. Ánh sáng lờ mờ từ những kẽ đá trên đỉnh lọt xuống.
Muốn vào hang phải dùng thuyền nhẹ, thon và dài. Người chèo thuyền phải thông thạo đường lối và phải thật lanh tay chèo. Miệng hang thường bị sóng khỏa lấp. Nhưng nếu đầu hang này bị sóng lớn thì vào đầu hang bên kia. Vì lúc nào cũng có một đầu động, một đầu tĩnh. Vào hang phải hết sức cẩn thận. Nhiều nơi quá hẹp, lắm nơi đá mọc ngầm dưới nước, người chèo thuyền phải xuống khỏi thuyền, để vừa bơi vừa đẩy thuyền qua những nơi hiểm trở. Đến giữa hang, thuyền dừng nơi một bến đầy sạn sỏi và đá tảng. Sóng vỗ vào đá, bọt bắn như tuyết, tiếng nghe bập bùng và vang rền như tiếng sấm đất. Gió thổi vun vút và hơi nước hơi đá bốc lên lạnh buốt cả người.
Từ cửa vào đến bến mới là hàng ngoài, đúng hơn, mới là đường hang. Đến bến rồi mới trông thấy hang yến. Hòn Ngoại có ba hang. Các hang đều chạy lên cao. Vách nhẵn thin. Chim yến lớp bay lượn thoăn thoắt trong hang, lớp bám vào vách vào tổ. Tiếng kêu chin chít, hòa cùng tiếng sóng tiếng gió thành những bản nhạc không tiết tấu cũng không đầu đuôi.
Còn tổ yến thì dính vào vách hang, dính nơi vòm hang. Ngửa mặt trông lên thấy từng điểm trăng trắng như sao trên trời một đêm sương.
Quang cảnh trong hang thật khác biệt cảnh bên ngoài cả thanh lẫn sắc. Và tuy ở trong hang, chúng ta vẫn không thấy ngột ngạt vì gió thổi không ngừng. Đến chơi hang yến hòn Ngoại, ông Bạch Vân ở Nha Trang có một vịnh rằng:
Hòn Yến lâu nay ngỏ ý mời,
Dong thuyền lướt sóng đến xem chơi.
Quanh co đường nước xuyên gành đá,
Thăm thẳm lòng hang khuất dạng khơi.
Chim trổi tiếng vàng hòa nhạc biển,
Tổ treo giá ngọc đựng sao trời,
Cho hay Cù Hải giàu sang thật,
Ngọc chứa vàng chôn khắp mọi nơi.
« Bạc chứa vàng chôn » là giá trị của tổ yến. Vì mỗi năm yến sào làm lợi cho tỉnh Khánh Hòa hàng ức hàng triệu. Tổ yến Tàu gọi là Yến sào. Do chất nhựa trong cổ họng chim khạc ra. Yến làm tổ cũng như tằm làm kén. Hai bên đều đem « tinh huyết » của mình ra mà làm việc. Yến ở Khánh Hòa hầu hết sắc tía. Giống yến vàng rất ít.
Yến bắt đầu làm tổ từ tháng chạp âm lịch. Nhưng đến tháng hai, gió nồm thổi ấm, mới dốc hết sức hết công. Làm tổ xong thì lo đẻ. Song người lấy tổ không để chim kịp đẻ đã lo làm mùa, nghĩa là lấy tổ. Tổ lấy xong độ năm ba hôm sau thì chim làm tổ khác, nơi chỗ cũ. Kỳ nầy thì chim được phép đẻ tự do. Và người lấy tổ đợi chim con biết bay rồi mới làm mùa thứ hai. Không phải họ thương gì chim, mà chính không muốn chim tuyệt giống, không muốn sang năm sau lợi tức kém thua.
Lấy tổ yến không phải dễ. Phải làm giàn tre để leo, hoặc dùng dây thừng để lên xuống. Nhiều khi phải leo thật cao, rồi nắm dây tụt xuống tận vực thẳm, trong những hang tối om và không hơi gió lọt. Nhiều hang chỉ vào được lúc thủy triều xuống để lộ cửa hang. Cửa hang lắm nơi chỉ vào lọt một em bé. Người vào hang phải hết sức lanh lẹ để trở ra kịp lúc nước triều chưa lên.
Vào xem hang yến phải đợi mùa lấy tổ yến, mới thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp và thú vị trong hang. Sự lanh lẹ, khéo léo, dẻo dai của người thợ, cảnh nguy hiểm, vẻ lắt léo của những con đường xuống lên để lấy tổ, cảnh rộn rịp nhưng không ồn ào của bầy yến bị mất tổ… gây những cảm giác vừa vui vừa lo, vừa êm đềm vừa rạo rực… những cảm giác giông giống khi ngồi xem cirque, nhưng thanh thoát trong trẻo hơn.
Người thợ lấy tổ yến, chỉ hưởng tiền công hết sức ít đối với số lợi của chủ thầu tổ yến thu vào. Ngoài tiền công ra, người thợ cũng không mấy khi được nếm một miếng yến thượng hảo hạng xem hương vị như sao! Vì khi ra khỏi hang, người thợ bị lục soát tận kẽ lông chân tóc!
Chủ thầu kiểm soát chặt chẽ như vậy vì một tổ yến (thường gọi là tai yến) hiện thời giá từ hai trăm đồng đến năm trăm đồng! 49
Hòn Ngoại làm tiêu biểu cho các hòn Yến ở Nha Trang. Và bờ biển Khánh Hòa tạm dừng ở Hòn Ngoại, để nhìn về tương lai của bờ biển Cam Ranh, với hy vọng:
Nước non vốn nước non nhà,
Dẫu thay đổi mới vẫn là nước non.
VI. KHÍ HẬU
Các sách giáo khoa, cấp Trung Học Phổ Thông, dạy về Địa Lý, bằng theo địa thế mà chia khí hậu Việt Nam làm: Khí hậu Bắc phần, Khí hậu Trung Phần, Khí hậu Nam Phần. Lại chia khí hậu Trung Phần ra làm bốn:
- Khí hậu Bắc Trung Phần gồm ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
- Khí hậu khu Trung Ương gồm các tỉnh từ Quảng Bình đến Phú Yên.
- Khí hậu Nam Trung Phần gồm ba tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. 50 Khánh Hòa Cao Nguyên Trung Phần.
Chia như vậy là để cho học sinh dễ học đó thôi. Chớ khí hậu cũng như con người, do ảnh hưởng núi sông, mỗi tỉnh mỗi khác.
A) ĐẶC TÍNH CỦA KHÁNH HÒA
Cũng có thể theo sách giáo khoa chia khí hậu Khánh Hòa ra làm hai mùa là mùa nắng và mùa mưa. Bởi vì là cảnh tượng dễ thấy. Chớ nếu sống hòa mình cùng vũ trụ thì nhận thấy rõ rệt xuân hạ thu đông ở Khánh Hòa. Mỗi mùa có một hương vị một sắc thái đặc biệt và mỗi khi sang mùa trong người đều cảm thấy sự thay đổi về thể chất cũng như về tinh thần. Ở tỉnh nào cũng vậy. Song ở Khánh Hòa dễ nhận thấy hơn, dễ phân biệt hơn. Nói về hai mùa mưa nắng: Khánh Hòa mưa nắng rất « điều độ ». Và mùa nắng không có (nắng sém da) như ở Qui Nhơn, Phan Rang, mùa mưa không « lạnh cắt ruột », « lạnh nhức xương » như ở Huế, ở Cao Nguyên. Trong mưa có khí ấm. Trong nắng có khí mát. Nha Trang là nơi tiêu biểu cho khí hậu Khánh Hòa.
1) NHIỆT ĐỘ
Nhờ ở gần biển, khí hậu Khánh Hòa rất ôn hòa. Từ tháng giêng đến tháng sáu âm lịch, tức vào khoảng tháng hai tháng ba đến tháng bảy tháng tám dương lịch, hàn thử biểu thấp nhất là 21 độ và cao nhất là 33 độ. Từ tháng bảy đến tháng chạp âm lịch, tức từ khoảng tháng tám tháng chín đến tháng giêng tháng hai dương lịch, cao nhất là 24 độ và thấp nhất là 19 độ. Năm nào lạnh lắm thì xuống đến 16 độ là cùng, còn nóng lắm thì lên đến 35, 36 độ là cùng. Vì vậy mùa hè hoa hường hoa huệ vẫn nở, mùa đông vẫn thấy dưới hồ nở lác đác đôi đóa sen hồng. Cho nên khí hậu Khánh Hòa là lý tưởng của anh chị em bình dân và hạng thường thường bậc trung, nghĩa là thích hợp cho đại đa số nhân dân Việt Nam hơn Dalat, Bạch Mã dành riêng cho hạng giàu sang.
2) MƯA
Khánh Hòa mùa nào cũng có mưa:
- Tháng giêng tháng hai âm lịch, thỉnh thoảng mưa từng trận nhỏ. Tục gọi là mưa xuân.
- Tháng ba tháng tư tháng năm thường có mưa dông, sấm sét dữ tợn. Mưa ào ào một vài giờ rồi dứt. 51
- Tháng sáu tháng bảy ít mưa, nhiều nắng và nắng hơi gắt hơn tháng năm tháng sáu, mặc dù đã sang thu.
- Tháng tám ở các tỉnh nắng gắt nhất. Tục có câu « nắng tháng tám nám trái bưởi ». Nhưng ở Khánh Hòa nắng đã dịu và ban đêm ngủ phải đắp mền lúc về khuya.
- Từ tháng chín trở đi mới thật là mùa mưa.
- Mưa nhiều nhất là tháng 10 tháng 11, tức là mạnh đông và trọng đông. Mỗi tháng đổ đồng cũng đến 20 ngày mưa. Thỉnh thoảng mới mưa suốt ngày, hoặc nhiều ngày liên tiếp. Chớ thường thường cứ mưa một cơn tầm tã rồi xửng một vài giờ, hoặc một vài buổi rồi lại mưa lại.
Ai đã từng sống ở Huế ở Bình Định… trong những ngày mưa dầm gió bấc, thì thấy mùa mưa ở Khánh Hòa, nhất là ở Nha Trang « dễ thương » vô cùng. Đương mưa sụt sùi, nước tung lạnh gió tung lạnh, mà hễ xửng « một cái » thì vẻ u ám liền tan và bên mình cảm thấy âm ấm như có hơi lửa dành sẵn trong không gian.
Một nhà thơ ví mùa mưa Khánh Hòa như một cô tình nhân ưa làm nũng, nhưng khi dỗ nín thì liền nhoẻn nụ cười làm ấm lòng người yêu.
Nói về mực nước, theo quyển Climat de l’indochine của Brujon xuất bản năm 1950, thì mùa nắng nước cao từ 22 m đến 64 m, mùa mưa lụt cao từ 174 m đến 399 m. Nghĩa là không thấp lắm mà cũng không cao lắm, mùa nắng không đến nỗi rốc ráo, mùa mưa không đến nỗi tràn trề và canh nươm, ăm ắp.
3) GIÓ BÃO
Khánh hòa có hai mùa gió: Mùa gió Nồm, Mùa gió Bấc.
- Gió Nồm thổi từ tháng Giêng cho đến tháng 8 âm lịch, tức là thổi về mùa nắng. Thổi theo hướng Đông Nam Tây Bắc, mang khí nước biển vào đất liền, mát mẻ dễ chịu.
- Gió Bấc thổi từ tháng 9 đến tháng chạp âm lịch, tức là thổi về mùa mưa. Theo hướng Tây Bắc Đông Nam, mang khí núi xuống đồng bằng, lạnh lẽo khó chịu.
Trong mùa gió Bấc thường có bão, nhưng ít khi có bão lớn. Những trận bão lớn xưa nay đều từ nơi xa tạt vào. Trừ vùng Tu Bông ra, Khánh Hòa không chịu ảnh hưởng gió Lào, như Phú Yên, Bình Định, vì nhờ núi phía Tây che kín từ Bắc chí Nam. Cho nên tháng 4, 5, 6 không nóng bức. Còn mùa Bấc thì nhờ khí ấm ở biển pha vào, nên không có hơi lạnh « nhức đầu sổ mũi », không đến nỗi đi đâu cũng phải mang pardessus trùm foulard như ở Dalat, ngồi đâu cũng phải ôm lồng ấp như ở Huế.
4) THỜI TIẾT
Nhờ mưa gió điều hòa, nhờ nhiệt độ giữa hai mùa nóng lạnh không chênh lệch mấy, nên khí hậu Khánh Hòa tốt hơn cả các tỉnh Trung Nguyên Trung Phần. Mức lên xuống của nhiệt độ cũng đi từ từ chớ không bao giờ nhảy vọt.
Tháng mưa nhiều nhất là tháng 9 tháng 10 âm lịch. Cảnh trời thường u ám, khí trời thường lạnh lùng. Có nhiều năm đến tháng 11 cũng còn mưa gió. Qua đến tháng chạp mưa đã ngớt nhưng trời còn lạnh. Cây cối buồn bã nhiều giống cây úa lá rụng theo gió theo mưa. Dễ nhận thấy nhất là giống bàng, nửa vàng nửa xanh và thỉnh thoảng rơi năm bảy lá vàng ánh. Đến giờ giao thừa, khí trời thoảng ấm, bầu trời vụt 52 trong. Và lòng người tự nhiên cảm thấy khoan khoái. Giờ phút chuyển tiếp giữa đông và xuân, ở Khánh Hòa, nhất là Nha Trang, dễ thấy hơn đâu hết.
Hoa xuân ở Khánh Hòa cũng rất nhiều. Lan, huệ, cúc, hường, thược dược… đủ màu đủ giống. Nhưng đặc biệt nhất là hoàng mai. Hoàng mai ở đâu cũng có. Song hầu hết đều là giống mai đơn, năm cánh, và thường thường mọc từng khóm lẻ tẻ hoặc từng chòm ba bốn cây, năm bảy cây. Hoàng mai ở Khánh Hòa phần nhiều là mai kép, cánh nở từ bảy trở lên và vun như hoa mai của các sĩ quan cấp úy. Mai Khánh Hòa ít khi mọc đơn chiếc, mai trời cũng như mai trồng, mà mọc từng rừng, từng đám. Lớp mai núi, lớp mai biển. Đến giống mai tứ quí cũng làm cho những người không thích « tánh tạp nhạp mùa nào cũng ra hoa » phải để ý. Ánh vàng của hoa hừng hừng trong ánh nắng mới, lộng lẫy huy hoàng. Ngày xưa rừng mai Phước Hải ở Nha Trang thịnh nhất 53. Hiện nay mai dồn vào Cam Lâm. Mỗi bận xuân về, những người « chuyên môn bán hoa » thu bạc vạn. Cho nên khách phong tao gọi Khánh Hòa là Mai Thành.
Bên cạnh màu vàng của mai, còn có màu đỏ của lá: Lá bàng. Ở các nơi lá bàng thường thường rụng về mùa đông. Mùa đông rụng trụi. Qua xuân thì cành hoặc trùm lục hoặc trơ xương. Bàng Khánh Hòa mùa đông chỉ rụng cho có lệ. Qua xuân thì xanh trở vàng, vàng trở đỏ. Đỏ thắm như son tàu, đỏ tươi như môi người thiếu nữ trinh trắng. Vàng son trong cung điện vua chúa thời phong kiến thịnh hành cũng không rực rỡ bằng. Câu thơ Xuân Nha Trang của Trường Xuyên:
Bàng son nhuộm thắm trời Xuân,
Sao vàng xuống đậu sáng rừng hoa mai.
Diễn tả được phần nào cảnh xuân của Khánh Hòa vậy. Khi vàng của hoa son của lá đã nhường chỗ cho màu ngọc bích của cành, thì hoa sứ mới xuất hiện một cách đường hoàng, một cách viên mãn. Lòng vàng cành trắng, mịn màng thanh nhã, trông vừa khiêm tốn vừa nghiêm trang. Màu đỏ màu vàng của lá bàng hoa mai tượng trưng cho sức sống mãnh liệt của một dân tộc mới phục hưng. Màu dịu dàng của hoa sứ tiêu biểu cho thời thạnh trị thái bình, kéo dài ngót hai phần ba mùa xuân đầm ấm.
Sang mùa hè, Khánh Hòa lại trông thấy cảnh vàng son trở lại: Vàng của hoa muồng hòe, son của hoa phượng vỹ. Rực rỡ không kém mùa xuân. Mùa hè ở Khánh Hòa cũng là mùa của hoa sen, hoa lài, hoa trúc đào, hoa huệ đỏ… Nhưng tất cả đều bị phai mờ dưới ánh huy hoàng của hoa phượng hoa hòe. Hai thứ hoa nầy nơi nào cũng có. Song nơi thì nhiều phượng ít hòe, hoặc không có hòe, nơi thì nhiều hòe ít phượng, hoặc không có phượng. Ở Khánh Hòa hễ hòe đâu thì phượng đó. Hoặc đứng chen nhau, hoặc chiếm mỗi thứ mỗi vùng độc lập độc lập nhưng vẫn tương ỷ tương y.
Ở thôn quê thì tự do mọc tự do lớn. Ở Nha Trang thì sắp đặt do tay người. Đường thì trồng toàn hòe, như con đường Quốc lộ số 1 chẳng hạn. Đường thì trồng toàn phượng như đường Yersin chẳng hạn. Đường lại trồng hòe chen với phượng như những con đường trước tòa sứ ngày trước tức tòa Hành Chánh hiện thời… 54 Mỗi lúc hè sang thì dù đến những người chỉ sống trong phòng có máy điều hòa không khí cũng nhận thấy được sự thay đổi của thời tiết.
Các giống hoa, hầu hết đều có tánh cách quí phái, tánh cách tiểu tư sản. Phải xem từng đóa từng cành mới nhận thấy tài khéo léo của hóa công, mới thưởng thức đầy đủ vẻ đẹp. Hoa hòe hoa phượng là hoa bình dân. Phải nhìn vào tập thể mới thấy đẹp, một vẻ đẹp hùng vỹ, một vẻ đẹp hiên ngang. Và nắng càng gắt, sắc vàng càng tươi, sắc đỏ càng thắm, chẳng khác lửa đổ dầu thêm.
Vẻ đẹp của hoa mai của lá bàng là vẻ đẹp của buổi mai buổi chiều, rực rỡ nhưng dịu. Vẻ đẹp của hoa hòe hoa phượng là vẻ đẹp của buổi trưa buổi xế, vừa sáng lạn vừa nghiêm. Một bên là vẻ đẹp khuyên mời. Một bên là vẻ đẹp khiêu khích. Mỗi bên một vẻ, nhưng mười phân vẹn mười.
Rồi nắng dịu lần và vàng son của hoa cũng thưa lần và lợt lần, trong màu xanh của trời biển núi sông.
Gió Bấc thổi nhẹ. Lá me lá chành ruột lác đác bay. Chiều chiều chim én lượn từng bầy đớp chuồn chuồn trong sương mỏng. Và một khí buồn phất nhẹ vào nội tâm, êm êm dìu dịu.
Thu đã bắt đầu. Và trái thanh long đỏ tía, những quả cam nửa vàng nửa xanh, xuất hiện để đại diện cho màu thu Khánh Hòa, màu đặc biệt của thu Khánh Hòa.
Cam Khánh Hòa không bì nổi với cam Xa Đoài, nhưng hơn hẳn cam ở các nơi khác cả chất lẫn lượng. Còn thanh long thì ít nơi có, mà có cũng có ít hơn Khánh Hòa. Ở Khánh hòa vì khí hậu mát nên trồng đâu sống đó và ra trái sum sê. Cam cũng như thanh long bắt đầu có trái từ mùa hè và chín từ đầu thu đến mạnh đông mới hết.
Cho nên người Khánh Hòa, xuân hạ thưởng hoa, thu đông hưởng quả. Mỗi mùa có một phong vị riêng.
Và mùa đông của Khánh Hòa không phải chỉ có mưa và lá vàng. Mận – ở Bắc Việt gọi là roi, ở Huế gọi là đào – cuối tháng 9 bắt đầu trỗ bông, tháng 10 tháng 11 nở và kết quả để tháng chạp chín cho kịp tết. Hoa trắng như tuyết. Quả đỏ như son và ngọt như đường phèn. Vì vậy mùa đông của Khánh Hòa không đến nỗi u ám, buồn tẻ. Và có thể gọi màu hoa mận là màu tượng trưng cho màu đông của Khánh Hòa.
Nói tóm lại, bốn mùa của Khánh Hòa có bốn màu sắc đặc biệt, không thể lẫn lộn. Và quang cảnh mùa nào cũng đẹp và cũng thú như trong văn chương. Sắc thái và thú vị của thời tiết lại còn thể hiện trên mùa màng, một cách rõ rệt. Đại khái: mùa đông mùa hạ là mùa cày cấy, mùa xuân mùa thu là mùa gặt hái. Mỗi mùa lại có một tính chất riêng biệt. Cày cấy về mùa đông không giống mùa hạ, gặt hái mùa xuân không giống mùa thu. Nắng mưa mỗi mùa mỗi khác, thảo mộc mỗi mùa mỗi khác, mùa màng mỗi mùa mỗi khác. Như thế bốn mùa của Khánh Hòa, cũng như phần nhiều tỉnh miền Nam Trung Việt, đã được trời chia, đất chia người chia, một cách phân minh rành mạch. Chớ đâu phải chỉ có hai mùa là nắng và mưa.
B) KHÍ HẬU NHA TRANG
Khí hậu Khánh Hòa, thời tiết Khánh Hòa, đại khái là thế. Chớ không phải quận nào cũng thế, miền nào cũng thế. Vẫn có sự thay đổi, sự khác biệt theo vị trí. Có nhiều nơi khí hậu không được tốt, không được điều hòa, như Khánh Dương, Cam Lâm mà công chức hễ nghe đổi tới là sợ. Nói tóm lại những nơi ở gần núi rừng, hầu hết đều bị sơn chướng đầu độc không khí, không nhiều thì ít chớ không hoàn toàn không. Còn ở vùng biển thì tuyệt.
Tuyệt nhất là Nha Trang. Xuân và thu ở Nha Trang thật đúng như lời sách tả: ôn và lương rõ ràng. Còn đông và hạ nhờ có khí biển điều hòa, nên vẫn có thu có xuân ẩn hiện. Mùa nào cũng vậy, nhưng dễ nhận thấy nhất là mùa hạ, hễ đi đường mệt mỏi, từ Nam ra mà qua khỏi thành Diên Khánh, từ Bắc vào mà qua khỏi đèo Rù Rỳ, thì trong người liền thấy khỏe khoắn, và sau một đêm nghỉ ngơi, thân tâm yên vui như vừa uống một liều thuốc bổ. 55
Cho nên những người ở các nơi ưng đến Nha Trang và những người đã từng sống ở Nha Trang không muốn đi nơi khác. Thi nại Thị thời kháng chiến chống Pháp phải rời Nha Trang, có những vần thơ tha thiết:
I.
Nha Trang trăng ngọc gió trầm,
Anh về Bình Định lệ dầm nhớ thương!
Trách ai rấp nẻo ngăn đường,
Non Sông gởi gắm can trường lại em.
Hòn Chử chưa chìm,
Hòn Chồng chưa ngã,
Ngoài còn Vạn Giã,
Trong còn Cam Lâm,
Vẫn còn trăng ngọc gió trầm,
Nghìn thu nghĩa nặng tình thâm mãi còn.
II.
Nha Trang! Nha Trang!
Chút nghĩa cũ càng:
Vì hường mận trắng,
Mai vàng cúc vàng…
Cùng ai âu yếm?
Vì ai điểm trang?
Tình ơi! Xa cách!
Duyên ơi! Bẽ bàng!
Lưng trời bóng nhạn
Mơ chừng xuân sang.
Và đến khi tái ngộ sau 9 năm thương nhớ, lòng vui mừng thích thú không kém lòng Kim Trọng khi gặp lại Thúy Kiều:
Đời chia mưa nắng chín năm qua,
Vườn cũ thêm thương khóm mận già.
Ba nhánh tình thâm tâm sự gởi,
Không vì ly cách phụ phàng hoa.
Chú thích:
[1] Hòn Mẫu Tử lại có tên nữa là núi Mồng Công vì hai tảng đá trên núi xa trông giống mồng con Công.
[2] Có người bảo rằng tiếng «Bồng Con» do tiếng «Mồng Công» đọc trại.
[3] Ở Bình Định có Đá Vọng Phu (xem nước non Bình Định) sự tích cũng rất ly kỳ song khác hẳn sự tích hòn Mẫu Tử. Đá Vọng Phu ở gần biển nên có chuyện «chồng ra khơi». Hòn Mẫu Tử ở nơi có nhiều trầm nên có chuyện «ngậm ngải». Có người đem sự tích Đá Vọng Phu gán cho hòn Mẫu Tử ở cách xa biển. Như thế là không để ý đến tình tiết trong câu chuyện.
[4] Chử nghĩa là Núi.
[5] Người Thượng vùng Diên Khánh và vùng Cam Lâm không đồng ngôn ngữ.
[6] Trong vùng nầy xưa kia có nhiều thiền sư đến lập chùa tu hành. Cho nên nhiều ngọn núi lấy tên theo nhà Phật. Như núi Bồ Đà gọi là núi Phổ Đà, và ngoài núi Chùa còn có núi Ông Sư ở Xuân Tự bên cạnh hòn Dốc Thị.
[7] Xem Nước Non Bình Định, có nói rõ chuyển Khổng Lồ.
[8] Sẽ nói ở chương «Thắng cảnh».
[9] Xem «Phong Trào Cần Vương» ở phần V.
[10] Không biết vịnh do tên núi mà ra hay núi theo tên vịnh mà cải.
[11] Chương «Thắng Cảnh Cổ Tích» ở sau.
[12] Hòn Thị ở Diên Khánh, sẽ nói ở đoạn sau.
[13] Đã nói ở mục Lịch Sử, sẽ nói rõ ở mục Sông Ngòi.
[14] Đã nói ở mục Lịch Sử, sẽ nói rõ ở mục Sông Ngòi.
[15] Chuyện bắt mãnh hổ, sách Đại Nam Nhất Thống Chí có chép, nhưng nơi bắt được hổ lại nói là «Núi Diễn». Miếu thờ bà Thiên Y tại Cầu Hùm lâu ngày bị gió mưa tàn phá, không còn tìm thấy dấu tích. Ở Khánh Hòa trước đây đền thờ bà Thiên Y có nhiều nơi lắm. Nay chỉ còn hai nơi là Tháp Poh Naga và Núi Chúa.
[16] Sự tích sẽ nói kỹ ở mục Cổ Tích (Tháp Bà).
[17] Trước chùa Kim Liên tại ấp Đông Dinh, quận Diên Khánh có một cổ mộ bia khắc là «Tổ khảo chi mộ» hai bên có câu đối: «Thiên sanh tàng bạch cốt (nghìn đời chôn cốt trắng); Vạn cổ giám trung trinh (muôn thuở soi lòng trong)». Cổ mộ nầy lấy hòn Dữ làm hậu đầu, hòn Đồng Bò làm tiền áng. Mộ nằm gối ngay giữa hai ngọn của đỉnh Hòn Dữ.
18-Có nhiều cụ già bảo rằng chính mình có thấy lúc nhỏ.
19- Mấy vị phụ lão ở Phú Lộc bảo rằng gần đây có người lên núi vẫn còn thấy trấu.
20- Kẻ đi tìm trầm gọi là đi điệu
21- Trong Đại Nam Nhất Thống Chí có chép: «Có người cho biết rằng vì mùa thu mùa đông thường có mưa. Nước trên núi chảy xuống làm cho bùn lầy nổi lên thành nửa nước phía gần núi phải đục đi chớ không có gì lạ».
22- Ở Vạn Ninh cũng có Đồng Cọ, song phần lớn nằm về Phú yên. Phú Mỹ có lẽ là tên cũ của tên Mỹ Lộc. Núi mượn tên thôn, rồi thôn đổi tên, núi không đổi.
23- Ở Ninh Hòa cũng có Hòn Bà. Đã nói rõ ở đoạn trước.
24- Xem mục «Bác sĩ Yersin» ở phần V.
25- Phỏng theo lời của Bác sĩ Noel Bernard trong tập Truyện ký về Bác sĩ Yersin.
26- Tục có câu: «Trói voi bỏ rọ».
27- Có tên như thế vì nước sông thường có chất nhựa cây ráy ở hai bên bờ tiết ra sắc đỏ như máu. Rất độc.
28- Trong các bản đồ đều ghi là sông Ky.
29- Chữ Giang trong tên Sông Giang, nghĩa là thần. Tiếng của người Thượng. Sãi Me trong các bản địa đồ Pháp Mỹ ghi là Sẩy Me và Sông Cầu ghi là Sông Cao.
30- Thơ của Chế Lan Viên làm thời Kháng Chiến (1945-1954).
31- Xem phần «Thắng Cảnh» ở sau.
32- Cũng như Quy Nhơn, Pháp lấy tên Phủ ngày xưa mà đặt.
33- Cũng gọi là thác Ngựa Oằng, vì nước chảy qua ba tảng đá trông giống như lưng ngựa bị oằng xuống.
34- Dây rừng giăng qua thác Võng, có người thì bảo là dây tràm, có người bảo là rễ cây ráy. Có lẽ là rễ cây ráy, vì giống cây nầy rất độc, và nhựa màu nâu nâu, hễ dính vào người thì ngứa ngáy, gãi lở rồi làm độc.
35- Cổ thi có câu «Anh hùng nan quá mỹ nhân quan».
36- Xem phần III, mục nói về cổ miếu.
37- Bài thơ nầy tả chung cả cảnh tượng Thác Nhét và Lỗ Đoi. Việc thọc sào vào lỗ là một cách chống cho ghe bè khỏi chui vào đó mà bị kẹt. Sau thành ra tục lệ. Nhưng sao ở miếu Lỗ Lườn ngoài Vạn Ninh cũng có lệ « thọc » như thế mỗi lần cúng tế?
38- Tống Địch người đời Tống có tám bức họa những cảnh vùng Hồ Nam gọi là Tiêu Tương bát cảnh.
39- Giang Yêm cũng người đời Tống, nằm mộng thấy bút trỗ bông, văn chương trở nên lỗi lạc, thi đỗ trạng nguyên.
40- Mạnh Quang đời Hán thờ chồng hết lòng. Đưa vật gì cho chồng cũng nâng cao ngang mày (cử án tề mi).
41- Xem phần IV, mục nói về Chánh Trị.
42- Xem chương Thắng Cảnh.
43- Xem chương Thắng Cảnh.
44- Hạc là Cạn, Hạc giang: Sông cạn.
45- Xem phần «Lịch sử» ở trước và mục «Phong trào Cần Vương» trong phần V ở sau.
46- Sẽ nói ở sau.
47- Sẽ nói kỹ ở chương «Thắng cảnh cổ tích».
48- Đàm Mông (đứa trẻ của đầm) dịch tiếng hòn Trẻ ra. Các bản đồ mới cũ đều ghi hòn Tre. Vì theo bản đồ Pháp. Mà chữ Pháp không có dấu. Trong đảo có nhiều núi. Hai ngọn cao lớn nhất là hòn Trẻ (482 thước) và lớn Lớn (414 thước) cho nên Đảo khi gọi là hòn Trẻ khi gọi là hòn Lớn.
49- Giá trị của Yến sào sẽ nói rõ ở chương «Kinh tế».
50- Trong sách Địa Lý lớp Đệ Tứ của ông bà Tăng xuân An chép là ba tỉnh Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết. Có lẽ lộn vì Phan Rí không phải một tỉnh. Thêm nữa tác giả lấy Mũi Nậy, thuộc Phú Yên, làm khởi điểm cho vùng khí hậu nầy.
51- Dông đã có từ tháng chạp và đến tháng mười năm sau mới dứt. Cho nên tục có câu: «Tháng mười sấm rạp tháng chạp sấm ra». Nhưng chỉ mùa hè sấm sét mới dữ dội.
52- Sẽ nói kỹ ở chương « Thắng cảnh cổ tích » đoạn nói về cảnh giao thừa đi thăm Tháp Bà.
53- Sẽ nói kỹ ở chương «Thắng cảnh cổ tích» mục nói về Nha Trang.
54- Từ ngày có chiến tranh, thuốc khai quang làm chết hết cây cối. Vẻ đẹp của phong cảnh kém sút quá nhiều.
55- Xem thêm ở chương «Thắng cảnh cổ tích», mục nói về Nha Trang.
Quách Tấn
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ​ Bài Thơ Trước năm 1975, giai đoạn miền Bắc vẫn còn là một bí mật, đối với những người lớn lên và trưởng thành tại miền Nam, thì cứ...