Truyện khó đặt tên
Khách chơi vừa ngồi yên chỗ, tay kép đã so dây đàn: tằng tằng,
tằng tằng, tằng tằng, tức là có ý hỏi nắn gân: “thằng nào? thằng nào? thằng
nào?”. Tức thì mình vớ ngay lấy cái trống chầu, loại trống con để cho khách cầm
chầu ấy mà, vung dùi nện luôn ba tiếng: tom, tom, tom, ý là đáp lời: “tao! tao!
tao!”.
Ông Thà tợp ngụm rượu, đặt chén xuống chiếu, xoa cầm cười
khà. Ấy là lúc rượu vào ông đã đủ. Ít khi ông bét nhè. Theo tôi biết thì chỉ
duy nhất một lần ông bị “cho vào xiếc” sao đó nên quá chén đến rò rỉ ra quần.
Hôm sau, truyền trong đoàn bài thơ nói là ông tự trào, nhưng có thể là của mấy
tướng đầu têu “làm hộ” ông:
“Xưa nay ruợu thánh men thần
“Đố ai bĩnh được ra quần như ta!
“Cứ cười cho hở răng ra
“Có say tới số mới là biết uông (uống)”
Lúc này ông đang kể chuyện ngày trước bọn ông đi hát ả đào.
-Đi hát ả đào là như đi hát karaôkê ôm bây giờ, phải không ạ?
-Cậu lém nhất bọn hỏi- Cũng là một kiểu “tươi mát” chứ gì?
-Không phải. –Ông Thà lim dim mắt đáp- Đi hát ả đào, ngưòi ta
hay gọi một cách khinh thị là “đi chơi cô đầu”, đúng ra là đi thưởng thức hát
ca trù, về sau biến tướng đi với nhiều tay chơi tân học nhập nhằng cô đầu hát với
cô đầu rượu, nhưng chưa đến mức như bây giờ. Có đâu mượn cớ hát hổng để ôm, sờ,
bậy bạ. Cứ xì tiền ra rồi “nhăng cuội”, đâu phải thưởng thức hay giải trí. Đến
nhà cô đầu không phải cứ ăn mặc sang, chi tiền hậu là được trọng vọng đâu. Phải
là tay sành biết thẩm lời ca, điệu ca, giọng ca bằng tiếng trống cầm chầu; nó
thể hiện trình độ am hiểu, trình độ thưởng thức của anh. Anh chẳng hiểu gì cứ nện
trống bừa thì ngoài mặt họ vẫn thưa gửi mà trong bụng thì “coi khinh vài mươi
phút”. Không chỉ trong bụng, nhiều khi lộ ra ở ánh mắt, khóe môi, cả ở câu hát
của đào, tiếng đàn của kép, có khi là miếng phủ đầu trộ khách.
Ông Thà không nói ra, nhưng bọn chúng tôi hiểu ngầm rằng xưa
ông từng là tay phong lưu sành điệu.. Xưa, phải rồi, hồi chưa Cách mạng. Còn
nay, tức là sau này, khi ông là thành viên đoàn nghệ thuật tổng hợp thành phố,
thì những gì người ta được biết về ông có khác.
Ông là nghệ nhân đa tài, cổ nhạc, tân nhạc đều rành, cả hát,
cả múa. Lương ông xấp xỉ lương trưởng đoàn; ông có phiếu mua cung cấp để bồi dưỡng
nghề nghiệp hàng tháng 6 hộp sữa, 4 kg đường, 5 kg thịt, một lít nước mắm,... xấp
xỉ tiêu chuẩn tem phiếu đãi ngộ chủ tịch thành phố. Thời “bao cấp” mà được vậy
thì đàng hoàng quá. Mà nom ông đàng hoàng thật. Mỗi lần lên sân khấu hoặc đi giảng
cho bọn đàn em hay cho lớp nhạc tư gia, ông đều lên “com-lê”, xoàng ra cũng sơ
mi cổ cứng về mùa nực, đeo ca-vát hoặc nơ, đi giày da. Song, ông sống lại xuê
xoa Một lần, lĩnh lương tháng xong, tôi và đứa bạn ra chợ mua chút gì về cùng
nhau nấu nướng “cải thiện” bữa ăn cho tươi một chút sau nửa tháng ròng xài cơm
“bếp tập thể” đã thấy ông đánh bộ cánh của dân đánh xe bò chừng một tháng chưa
giặt đang ung dung trong quán thịt cầy. Ông vẫy chúng tôi lại, sốt sắng kéo ghế
cho chúng tôi và gọi thêm chén uống rượu, thêm đũa, thêm bát. Thời bấy giờ, con
gái ăn quà chợ chẳng còn là chuyện khó coi., kể cả đánh rượu- thit chó. Tuy
nhiên, chúng tôi cố từ chối. Chúng tôi vừa đi thì một anh cùng cơ quan lảng vảng
đến. Ông Thà vẫy anh ta, và anh ta chẳng hề khách khí sà ngay vào khi lời mời
chưa nói hết. Sau này tôi mới biết: đã thành lệ, hễ có tiền rủng rỉnh trong túi
là ông Thà đến “thăm” các quán nhậu và hễ gặp ai quen là kéo vào.[font=.vntime]
Ẩm thực phải có bạn mới thú, ông bảo vậy. Một số kẻ biết thóp cung cách ấy của
ông thường “tình cờ” đi qua nơi ông đang nghiền ngẫm mấy món, hoặc lòng lợn tiết
canh, hoặc bê thui, chim rán, vân vân... Cần phải công bằng với ông: ông chẳng
sa đà. Lần ấy, đoàn đi phục vụ một địa phương được người ta mổ bò thết. Nửa
đêm, cả đoàn, chẳng chừa đoàn trưởng, ôm bụng xếp hàng trước buồng vệ sinh
chung của nhà khách (thành quả của quan điểm xây dựng một thời!), trừ ông Thà.
Đánh chén, với ông, là sự khoái hơn là đẫy bụng. cái khoái ấy làm hại ông, cái
tính hào phóng dở hơi(!) làm hại ông thêm. Lương ông chỉ mươi ngày nhẵn. Tiền
ông dạy ngoài cũng khá nhưng cũng sớm rời bỏ ông. Ông bán “non” các phiếu bồi
dưỡng sữa, đường, thịt (còn thiếu nước bán sổ gạo!). Đến bộ cánh phát riêng cho
nghệ nhân biểu diễn cũng bán nốt. Người ta bảo ông chỉ có mỗi “nhất bộ nhất
bái(!)”để trưng thôi. Sơ mi cũng chỉ có mỗi cái là tươm. Người tinh ý nhìn quần
áo ông có thể đoán “tuổi” của chúng. Phải công nhận ông thu xếp việc mặc cũng
tài, chẳng thành vấn đề nhiêu khê như lũ chúng tôi.. Điều này kích thích óc tò
mò chẳng bao giờ vơi của chúng tôi, bọn con gái ngự phòng tập thể, sung sức mà
thì giờ rỗi thì nhiều. Đứa bạn tôi kể: “Tao và con Bê đến chơi nhà chị Lạc, cái
chị ở cạnh phòng bố Thà có chồng đi B, mày biết rồi. Chuyện tào lao chán, chị Lạc
vào giường dỗ con ngủ, hai đứa tao mới đến bên cửa sổ hé cánh cửa rình... “
Trời tối đã lâu, các phòng ở khu nhà tập thể cấp bốn còn ánh
đèn. Cửa phòng ông Thà hé mở, ông thò đầu ngó quanh quất rồi bước ra.. Tay phải
ông cầm cái ống bơ sắt tây, loại thường dùng để đong gạo, và cái bàn chải đánh
răng. Tay kia thu thu sau lưng. Cái gì nhỉ? Cái sơ mi ông vẫn mặc kèm cái
“vét”. Ông ta định làm gì vậy? Ông muốn giặt. cái áo mặc đã khá lâu rồi; phần bị
che khuất chẳng nói làm gì, chứ cổ áo và tay áo thò ra để ghét bám thấy rõ thì
thật là không tiện. Bể nước công cộng nằm trong khu vực cơ quan, ban đêm cổng
khoá. Ông không nước dự trữ. Được cấp phát cái xô hai mươi lít, ông đã bán cho
chú bảo vệ mất rồi.Thường ông vẫn phải xin nước các nhà láng giềng. Xin mãi để
giặt giũ cũng cảm thấy khó coi. Vậy nên ông làm ra vẻ chỉ xin nước đánh răng
thôi.. Trong sân chung chỉ có một ngọn đèn điện song cũng đủ sáng. Ông Thà đến
bên thùng nước của nhà hàng xóm. Ông hắng giọng đánh tiếng “cho xin tí nước” hẳn
hoi rồi mới múc. “Đối tượng” giặt chủ yếu là cổ áo và cửa tay áo, những thứ cần
được chăm sóc kĩ. Ông ém thân áo trên đùi trái, cùi tay trái đè giữ. Các việc dấp
nước, xát xà phòng, giũ nước, bàn tay phải “đảm trách.”. Các khoản vò, vắt thì
tay trái phò trợ. Thường ông giặt vào tối hôm mà đài phát thanh dự báo ngày mai
sẽ nắng. Khi đem phơi, ông dùng hai cái kẹp kéo căng vải ra từng nơi cần thiết.
Khô rồi, cổ áo và tay áo đều khá phẳng phiu, coi như được là. Hồi ấy, điện dùng
khoán, lại do cơ quan trả tiền, có thể phóng tay mà xài. Bàn là Liên-xô tuy hiếm
song một số gia đình trong chung cư vẫn có, nhưng ông ngại mượn. Mà việc gì phải
lôi thôi, làm như ông cũng xong, sáng kiến quá đi chứ!
Nghe những chuyện như vậy, chúng tôi cười thật sướng miệng.
Dường như lúc rỗi hơi, người ta cần ai đó có chuyện gì đó, thậm chí bất hạnh, để
mà kháo nhau, để mà đàm tiếu. Nhưng rồi biết thêm, thấy cười khó hơn, ít ra là
với riêng tôi.
Ông Thà ở trong một căn phòng hơn chục mét vuông, một mình. Vợ
con ông ở thành phố quê hương. Những người độc thân trong khu nhà của cơ quan
tôi đều vào hộ tập thể, chung ba, bốn người một phòng chừng 16 mét vuông. Ông
Thà được chiếu cố hơn là ưu tiên. Chúng tôi vẫn “quan tâm” đến cái phòng ở “nghệ
sĩ” của ông. Đập vào mắt trước tiên là rất nhiều tranh ảnh cắt từ hoạ báo các
loại dán trên vách, dường như là theo đồ án trang trí riêng hoặc theo một phong
cách thẩm mĩ độc đáo sao đó. Con bé bạn thân của tôi chỉ nhòm qua, phán tỉnh
bơ: “Che các vết ố, vết nứt và chắn gió mùa đông-bắc, mày ạ”. Trong góc, một
chiếc giường đơn suốt ngày buông màn. Màn ấy khó giặt đã đành mà vắt hay cuộn
cũng rầy, bởi có đến mấy chục lỗ dán giấy đụng đến không nhẹ tay là bong. Mùa
rét, giường ông trải hai lớp chiếu, giữa lót giấy báo. Ông chỉ có một cái chăn
chiên Nam Định tàng tàng. Phải hôm rét đậm,có nhà hàng xóm đem cho mượn chăn
bông, ông kiên quyết trả lại. “Không. Tôi khoẻ lắm. Rét này mùi gì”. Nhiều đêm,
có bao nhiêu quần áo cũ, quần áo rách ông đều mang ra mặc độn. Cũng có hôm ông
chơi đàn chống rét thật khuya. Khí lạnh dương như cũng xiết vào giọng đàn.
Trong phòng ông Thà còn một vật trứ danh: cái điếu cày. Chẳng
phải điếu thường! Trước hết, nó được làm bằng loại tre chỉ vùng Tây-Bắc mới có.
Hai, nó là điếu theo kiểu người Mông ống rất to, khi hút miệng điếu trùm ra hai
bên má; người hóp má khó mà hút được. Ba, đây là vật lưu niệm của ngườì bạn thiết
của ông từng công tác lâu năm tại Lai Châu, nay đã quá cố. Cái điếu được giữ
gìn cẩn thận, lên nước nâu bóng, thật trái ngược với cái vẻ ngoài luộm thuộm của
chủ nhân.. Còn trứ danh hơn nữa là sự hút của ông Thà. Ông chỉ hút thuốc lào,
và chỉ hút bằng điếu ấy, do vậy chỉ hút ở nhà..Trước khi hút, ông trải chiếu ra
nền nhà, ngồi xệp lên đó, rót sẵn chén nước chè ngon đặt vừa tầm tay với; sau
dó mới nạp thuốc, xoè diêm, ướm một hơi ngắn trước khi kéo một hơi thật dài, thả
điếu vào sọt đính bên vách, chiêu một ngụm nước chè rồi nằm thẳng cẳng, mắt lờ
đờ, mặt tái xạm, nom rất hãi. Một người hàng xóm lần đầu ngó thấy hoảng lên gọi
người cấp cứu. Ông chỉ nằm dăm phút là ngồi dậy tỉnh táo như không, xem chừng
còn sảng khoái nữa. Mỗi ngày, ông chỉ làm ba “phát” như thế, rải đều ra. Có vẻ
như mỗi lần hút ông xua sạch được những phàm ý trong đầu làm vướng sự thông
linh với nàng Nghệ thuật.
Ông Thà không ăn cơm ở bếp chung. Ông tự nấu lấy với cái bếp
dầu. Đồ nấu nướng có giá trị nhất là cái niêu nhôm vừa để nấu cơm, vừa để nấu
nước. Hôm nào nhớ ra thì nấu nước trước; hôm nào nhỡ quên thì phải kì công cạo
rửa nồi mới nấu nước được. Ông là người sành trà, có mùi tạp trong nước để pha
thì còn ra cái “tiết mục” gì nữa!
Người ta không nghĩ ông Thà nghèo, -quả tình ông chẳng nghèo,
nói đúng ra là ông chẳng kiết, trước hết là trong tính cách.
Ông Thà là tay phong tình, nhưng là phong tình … mồm. Lũ văn
công chúng tôi “em” nào chẳng hấp dẫn, hay biết cách làm cho hấp dẫn. Tiện em
nào ông tán em nấy ; chỉ tán thôi, không biết hoặc không dám “đi xa”. Tán và
cho quà. Dạo miền Nam mới được giải phóng, ông vào thăm một bà cô dạy tiểu học ở
Sài Gòn. Khi ra, túi ông có vẻ xủng xoẻng. Bọn chúng nó xúm lại phỉnh. Chắc
cũng chỉ định mua vui hoặc giải xui khi ế khách xem. Ông khoái. Với em này:”Cho
dì chiếc nhẫn đây” ; với em kia: “Biếu dì cái đồng hồ đây”. Nhẫn vàng, đồng hồ
Nhật thời ấy có thể làm dịu vẻ mặt của cô gái kiêu sa nhất. Vợ ông nghe tin đến
tìm hiểu thì chỉ còn cái kính dâm. “Chậc! Có mấy thứ tôi còn gửi người ta giữ hộ.
Dành cái này cho bà nó, đi đường khỏi hại mắt”.
Người ta chê ông Thà vô tâm với vợ con, không biết thu vén
cho gia đình. Cậu con trai độc nhất của ông thi vào đại học trượt, ông bảo:”Học
ôn lại một năm cho chắc, con a. Học mà đuối, theo mệt, mà khổ lắm đấy. Hay gì
cái chuyện cứ mỗi lần sát hạch lại dựa dẫm bạn, xin xỏ thầy”. Con nghe ông,
nhưng vợ thì chì chiết: “Vậy sao ông chạy chọt cho thằng Thảo?”. Thảo là “nhân
vật” thoát thai từ phong trào văn nghệ quần chúng. Anh ta “lo được” cái bằng tốt
nghiệp cấp ba bổ túc, thi vào trường đại học văn hoá hai lần đều không nổi, bèn
chạy đến “thầy Thà”. Anh ta có học ít lâu ở lớp nhạc hoạ quần chúng khu phố,
nơi ông Thà có dạy. Trước, anh ta thường tránh gặp ông để tránh chào “thầy”.
Ông Thà có bạn dạy ở đại học này. “Thằng ấy không vào đại học thì biết làm gì.
Cho nó kiếm mảnh bằng để khỏi lo thất nghiệp (Hồi đó, tốt nghiệp đại học là được
bổ dụng. có được chỗ “thơm” hay không là chuyện khác). Nó chỉ múa may trong cái
bị tri thức hạn hẹp của nó, chẳng hại gì cho ai”. Mãi về sau ông mới tỉnh ra là
mình đã nhầm nặng.
Thủ trưởng cũ của chúng tôi hay kể lại:
-Lão ấy vô tâm kiểu các nhà bác học hơn là kiểu các nghệ sĩ.
Được cái cũng chịu khó đi thăm vợ con, thường là sau một đợt biểu diễn của
đoàn. Hầu như lần nào đi thăm về cũng trễ. Ông ta đến gặp tôi: “Báo cáo anh,buồn
quá”. Tôi nói: “Đến muộn nên buồn à?”. Ông ta nghiêm trang: “Cái… vợ tôi nó… đi
cúng. Tôi về tôi phải đấu tranh chống duy tâm mê tín, gay lắm”. Ông ta nói dối
không chuẩn bị, mà cũng không biết cách nói dối. Lần khác, ra trễ gần hai ngày
ông ta tự nhiên khoe: “Tôi đã giết mười ba con ngan ăn”, làm như tôi quan tâm đến
chuyện ăn của ông ta lắm. Tôi bảo: “Anh hãy nói vì sao đến muộn đã!”. “Báo cáo
anh, con tôi bị rắn cắn phải đi bệnh viện”. “Lần trước anh cũng bảo chị nhà bị
rắn cắn”. “Lần ấy là chó cắn”. Thật là nói bốc, nói phịa vụng hơn cả con trẻ.
Người như thế chẳng phải là ngây ngô, song cũng làm cho người
ta yên tâm, trước hết là các vị lãnh đạo. Ông chẳng tranh hành gì trong cơ
quan, ngay cả những quyền lợi trước mắt. Các đoàn văn nghệ thường hay xin được
những món hàng cuing cấp ngoài tiêu chuẩn thường kì, nhất là những khi đi lưu
diễn. Những món này thường hiếm, song giá nhà nước rẻ như cho. Người ta phân
cho cái gì ông được cái đó, lẳng lặng nhận hoặc đôi khi pha trò một câu,-có lẽ
do cảm động chăng?. Một lần, cấp trên phân phối cho đoàn một số áo lót dệt kim
ba lỗ (áo may-ô) ít hơn số đàn ông có mặt trong đoàn. Ông Thà được ưu tiên (hoặc
chiếu cố!) một chiếc. Nghe tin, ông “tức cảnh” tập Kiều: “Bắt phanh trần phải
phanh trần / Cho may ô mới được phần may ô”. Chiếc áo dự định của ông rơi vào
tay người khác. Ông lắc đầu cười trừ. Bọn con gái chúng tôi cho là ông đụt, là
không đáng mặt nam nhi. Ấy! cứ tưởng vậy.
Lần đó, ông Thà tham gia dàn dựng một vở múa. Tập tành công
phu. Biểu diễn tổng duyệt được đánh giá ngoài lề là tốt. Song le, dư luận đánh
giá là một chuyện, vở có được chào đời hay không phụ thuộc vào lời phán của mấy
vị chức sắc nắm quyền năng, trong đó có cả những vị “ngoại đạo”, tỉ như đại diện
cơ quan tài chính.. Tôi hơi lấy làm lạ là trong cuộc họp đánh giá để quyết định,
các ý kiến phát ra có chiều hướng xấu, nghiêng về phủ định. Lâm, tổ phó trang
trí, người ở cuộc họp nào cũng lựa cơ hội để “tôi có ý kiến” khéo léo lèo qua
mình và làm vừa lòng ai đó,-cả người vắng mặt, vốn rất khen vở múa, “khai hoả”
đầu tiên. Anh ta khen theo lệ một câu khá chung chung, sau đó “tiếc rằng… “. Thảo,
người đang “Q” phụ trách trường sơ cấp nghệ thuật của thành phố, dướn người lên
qua cái bàn hẹp cung kính lắng nghe một vị chức sắc đang quay nghiêg đầu bảo nhỏ
gì đó, hẳn gợi ý cho anh ta “phát”. Con bạn thạo tin rỉ tai tôi: “Hôm trước, một
vị chủ chốt đã hé ra sự không hài lòng thế nào ấy”. Ông Thà ngồi một nơi khuất
im lặng nghe. Ông vẫn vậy, hay phán tào lao với bọn chúng tôi mà khi họp hành lại
rất kiệm lời. Biên đạo chính thì chịu khó lên tiếng, khi tình bày, khi phản
bác. Tôi không sành múa nhưng cũng “phê” là ở đoạn cao trào động tác của vai
chính hơi cứng. Ông Thà đưa mát qua tôi hơi gật gật đầu.
Vị chủ chốt để cho mọi người phát biểu chán mới đứng lên:
-Xét theo tuyệt đại đa số ý kiến tại đây hôm nay, vở này
không đứng được. Thú với các đồng chí, tôi không ưa nhất cái cảnh huơ gậy chọc
chọc như Tây đoan khám rượu lậu, nó…
(Tôi được giảng giải cho biết Tây đoan là bọn thuế quan Pháp
thời ta còn mất nước. Chứa rượu lậu mà bị bắt quả tang thì bị đi tù, khỏi nói
trường hợp chính mình nấu. Tây đoan dùng cái thuốn sắt chọc trong vườn, trong
ruộng, những nơi nghi chôn các vò rượu).
Ông Thà đang ngồi cù rù trong góc đứng bật dậy chỉ tay vào mặt
người đang nói:
-Anh chẳng hiểu cái cóc khô gì cả, cứ phán tùm lum!
Ông bỏ đi ra. Vị chức sắc khựng lại, mặt tái đi, song chỉ
trong nháy mắt, vị cười xoà nói sang nội dung tư tưởng và tính đại chúng. Lâm,
Thảo và nhiều người vỗ tay. Mặc biên đạo và trưởng đoàn cố sức vớt vát, vở múa
không được duyệt. Người ta bảo ông Thà đã làm hỏng bét cả. Hừ! Ông ta cay cú, lần
đầu tiên được tham gia dàn dựng, cũng lần đầu tiên nhạc ông ta độc tấu có dàn
nhạc đệm được dùng làm nền cho một vở múa qui mô mà! Trước nay, người ta biết
ông có tài nhưng chỉ sử dụng như một nhạc công giỏi trong dàn nhạc vậy thôi.
Con bạn tôi lí sự: “Con người ta có khi cương cường cả đời mà cũng có thể có một
phút yếu hèn, thì người suốt đời nhũn cũng có lúc vùng lên được chứ!”. Tôi
không cho là vậy. Nghĩ đơn giản về ông Thà thì dễ quá đi. Không nói các vị có
vai vế của đoàn, của sở văn hoá,… hầu như mọi người chẳng ai đồng tình với ông
Thà. Ngay như tôi, người tự cho là không xu phụ cấp trên, cũng thấy chướng. Nói
vỗ mặt lãnh đạo là không tôn trọng kỷ cương, thiếu ý thức xây dựng. Kể cũng lạ,
trong thâm tâm tôi thấy những lí lẽ bác bỏ bở múa là không thoả đáng. Cũng như
tôi từng nghĩ các vị chức sắc quyết định những chuyện oái oăm, ví như cấm địa
phương mình chiếu phim “Đi bước nữa”, một bộ phim Việt Nam bảo vệ nữ quyền; ví
như không cho lên sân khấu thành phố vở kịch “Bạch đàn liễu”, một vở kịch lên
án tệ cường hào mới đồng thời tôn vinh gia đình người ra trận; ví như chỉ cho
những ai có phiếu D (phiếu cung cấp lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm)
trở lên mới được xem bộ phim “Chiến tranh và hoà bình” nổi tiếng, làm như chỉ
những người có mức lương tương đối cao mới đủ trình độ thưởng thức, trong khi
không ít người trong số họ chưa từng sờ đến bộ tiểu thuyết của Tôn-xtôi, không
biết Cutudốp, Napôlêông là ai, Bôrôđinô ở đâu, v.v… Tôi không thông mà không
dám có ý kiến chỉ im lặng buồn và bực, thế nhưng khi một người cương vị cũng
làng nhàng như tôi (không kể năng lực, tư cách) dám lên tiếng thì tôi lại cảm
thấy khó chịu như là mình bị xúc phạm vậy.
Tôi tưởng ông Thà sẽ bị kiểm thảo, nhưng không, người ta chỉ
đưa ông vào tốp văn nghệ “đánh lẻ” thường phải đi khỏi thành phố. Khi nào cần
“đánh lớn” người ta mới triệu ông về. Ít ra thì ông là một trong số không nhiều
cây diễn tấu chủ chốt, ông lại đã có tuổi, ông có quyền thoái thác một sự điều
động như vậy. Song ông chẳng tỏ ý gì. Chẳng biết ông thu xếp với các lớp dạy
ngoài ra sao. Riêng với trường của giám hiệu Thảo thì “Anh hãy tạm nghỉ, khi
nào tôi bố trí đựoc thời khoá biểu thích hợp với tình hình mới của anh hãy
hay”. Trước đây, khi được làm phó cho hiệu trưởng trường sơ cấp nghệ thuật, Thảo
đã đến nài ông Thà: “Anh giúp em mấy lớp đầu đàn. Em sẽ lo bố trí giờ giấc lên
lớp thật thuận tiện cho anh”. Không “thầy” nữa nhưng giọng vẫn nể trọng. Bấy giờ
là lúc anh ta cần thể hiện sự năng động trước sở. Hiệu trưởng đương nhiệm chuẩn
bị về vườn mà phó hiệu không chỉ một, lại còn một số cán bộ sở chán “chạy phong
trào”, chán cảnh “cuối trâu” muốn lên “đầu gà” vừa có tiếng, vừa có miếng.
Thời thế mới, thị trường hoá, các đoàn nghệ thuật có khó
khăn. Ông Thà được cho về hưu. Dẫu có sống giản tiện đến mức khôi hài như người
ta đồn đại thì ông vẫn phải lo sống. Bà vợ đã về ở hẳn với ông, ngày ngày bán
xôi sáng thêm vào đồng lương hưu tạm giải quyết được sự chi tiêu vặt trong nhà.
Còn những cái “thú” của ông? Người ta mải đàm tiếu thú “nhậu” của ông, lờ đi hoặc
chẳng biết đến những thú tinh thần vẫn giúp ông “sống” dược. Mà có phải thú
tinh thần nào cũng chỉ xài bằng tinh thần đâu! Anh con trai ông trước đây nghe
lời ông đã cố gắng học và đỗ loại giỏi vào đại học được đi du học, ra trường dược
nhận bằng đỏ,-tự lực chứ chẳng phải mua. Về nước, anh mang theo sách chứ không
phải “hàng” như bao người khác cùng cảnh. Anh lê la kiếm việc; thiếu cái khoản
“đầu tiên” nên “rách” một thời gian dài, đến nỗi người yêu “đã ngỏ lời rồi đành
lỗi hẹn”. Cho đến lúc anh gặp một xí nghiệp do nước ngoài đầu tư. Bây giờ anh
ta vợ con đề huề, ngự trong một biệt thự tại một thành phố phía nam. Ông chẳng
dính gì đến chuyện kiếm ăn của con. Cơ ngơi của ông bà vẫn là gian pgòng được
phân ngày nọ. chung quanh hầu hết các căn hộ đều đã được cơi nới, tôn tạo làm
biến dạng khu nhà đến mức người cũ đi xa dăm năm trở về e bị lạc. Ông bảo, vui
vẻ: “Tôi giữ căn hộ của tôi y nguyên để làm chứng tích lịch sử một thời cho mai
sau”. Mai sau thế nào thì chưa biết, trước mắt, ông đang có nhu cầu làm thêm.. Ầy!
thiếu gì nhà hàng, quán nhậu cần nhạc sống. Khốn nỗi, nhạc dường như chỉ để khuấy
động, hoặc náo động, cái chính thu hút khách là ở chỗ “sống”. Bộ dạng ông bây
giờ chỉ xua khách đi thì có. Còn các lớp nhạc tại gia? Các lớp loại này nay nằm
dưới sự quản lí của “Công ti dịch vụ phụng sự tại gia”, nó bao thầu mọi thứ:
gia sư, vú em, bếp, bồi, coi vườn, vệ sĩ,… mà giám đốc là giáo sư Thảo nào đó.
À, hẳn là tay Thảo bên May-xuất-khẩu sang kiêm. Ông Thà ghét “thằng cha” này.
Làm tôi tớ cho người nước ngoài hành hạ công nhân mình,-[font=.vntime] đã có mấy
cô thợ ngất bên máy, mà đến đâu cũng xì tiền làm phúc dưới mĩ từ “làm việc thiện”.
Vả lại, ai muốn xin việc phải đến văn phòng công ti đặt cọc trước; ông đào đâu
ra “cọc”? Nghe người mách trường đại học dân lập nọ cần một người hướng dẫn văn
nghệ theo vụ, ông lập tức tìm đến. Người bảo vệ, sau khi căn vặn, cho ông vào
phòng chờ.. Một người đeo kính trắng, loại không số, tóc xõa xuống trùm tai và
lưng chừng cái cổ ngẳng, ôm cái cặp to sù bước vào. Ông Thà ngửng nhìn ngờ ngợ:
“Thảo phải không?” Người kia giương mắt sau cặp kính ngắm một lúc vừa đủ: “À,
anh!”. Đúng là Thảo, mới điểm trang thêm cái kính. Anh ta đường bệ bước tới
chìa tay ra. Ông Thà đúng là “vào cửa quan gặp người quen”, vồ vập: “Cậu đến
liên hệ công tác à?” Thảo khịt mũi: “Tôi là giáo sư ở đây”. Ông Thà giật mình,
nhả vội bàn tay mình ra. Giáo sư ư? Đúng vậy. “Giáo sư” luật hẳn hoi nhá! Có gì
đáng lạ đâu, thời buổi này. Anh ta đã kiếm được tấm bằng thạc sĩ… tâm lí học.
Anh ta vẫn là hiệu trưởng trường nghệ thuật, giữ một chân bên này phòng khi phải
“hạ cánh an toàn” bên kia. Hôm nào, một thanh niên đã cứng tuổi bảo bạn trong một
quán nước: “Tao học thêm luật để bắt chúng nó tuân luật, còn tao thì tìm kẽ hở
của luật”. Hừm! Trò ấy cặp với thầy này mới xứng đôi. Thảo, giọng ái ngại, cho
ông Thà biết cái chân văn nghệ ở đây anh ta đang giới thiệu cho một người học
trò cũ của mình. Và, trong một sự cảm thông chan chứa, như vũ trụ nguyên thủy vẫn
vậy, anh ta nhân tiện nói thêm rằng trường nghệ thuật của anh ta bớt lớp, số
giáo viên có cơ thừa. Ông Thà hiểu ngay không còn giờ dạy cho người ngoài. Ông
sực nghĩ ra: “của giáo sư Thảo”, cái công ti phụng sự tại gia trong tay thằng
này. Chắc rồi. Thảo này hay Thảo kia thì cũng rứa. Ngày trước mình đã tưởng “chẳng
hại gì cho ai”(!).
° ° °
ĐÃ lâu tôi không gặp ông Thà, cũng không được tin ông. Tôi mường tượng ông đã già lắm song tóc chưa bạc hết, dáng đi vẫn thẳng. Cái chuyện xin lén nước để giặt cổ áo là chuyện đời xưa, như mọi chuyện khác người ta đồn thổi về ông. Hẳn ông không ra ngoài nhậu nữa. Thôi, thế cũng là phải. Các hàng quán bây giờ, chuyện vệ sinh thực phẩm, vệ sinh đồ uống rất chi là lôi thôi. Thêm nữa, nhậu ở ngoài ngày nay hiếm ai vì sự khoái khẩu đơn thuần, cả khi họ tiêu vung những đồng tiền bất chính. Thế nào bà chẳng thỉnh thoảng sửa cho ông bữa nhậu, nhẹ mà ngon,-bà vốn khéo tay nội trợ. Ông có thể rủ bà cùng nâng chén, nâng đũa. Và người bạn nào đó đủ thân. Tôi tin ông Thà vẫn giữ được cái cười khà khà thật rộng miệng như hồi ông kể lại chuyện ba tiếng trống chầu “tao! tao! tao!”.
Khải Nguyên
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét