Niềm ân hận muộn mằn
Kính dâng hương hồn mẹ tôi
Từ quê chồng tôi, tin báo ra cho biết ngày chuyển mộ mẹ chồng
tôi vào khu mộ dòng họ. Chồng tôi đang nằm bệnh viện vì chứng thấp khớp tái
phát. Chúng tôi có cớ để không về. Nhưng tôi quyết định đi thay anh, chẳng phải
chì vì nhìn mắt anh tôi biết anh nghĩ sao. Tự tôi thấy phải về, tôi cần phải về.
Ngày bà mất, chúng tôi đã không về kịp trước lúc đưa bà ra huyệt. Tôi làm dâu
mà không phải hầu hạ mẹ chồng ngày nào; mỗi lần về quê chồng được mẹ quí như
khách. Lần gặp đầu, tôi đã mến mẹ, một người đôn hậu, bao dung. Lòng cảm mến
càng giúp tôi hiểu bà qua chồng tôi. Những gì anh kể về quê hương, nhất là về mẹ,
truyền cho tôi lòng yêu thương của chính anh. Nói khó tin, tình yêu thương ấy
đã một lần góp phần hàn gắn vết rạn giữa chúng tôi, vết rạn có cơ dẫn tới chia
li. Có lẽ tôi hiểu về mẹ chẳng kém gì chồng tôi, trước hết những gì liên quan đến
anh.
Đỗ Sơ-học-yếu-lược xong, muốn học tiếp tiểu học, chồng tôi
ngày ấy phải đến trường huyện cách nhà chừng sáu kilômét. Phải sáng tinh mơ đi,
tối mịt về, vì ngày học hai buổi, sáng và chiều, nghỉ thứ năm và chủ nhật. Dĩ
nhiên là phải cuốc bộ, chân trần. Ngày ấy, anh bảo, ngay cả phố huyện cũng chẳng
thấy bóng chiếc xe đạp nào, nói chi ở chốn nông thôn nghèo như quê anh. Anh còn
quá nhóc, chưa quen đi xa, trừ lần lên huyện để thi có người lớn đưa đi. Nếu
không được mẹ khích lệ, hẳn anh đã bỏ cuộc. "Quá nửa thế kỉ rồi, nay về
già, anh càng nhìn rõ hơn những chăm chút tưởng như là nhỏ nhoi của người mẹ",
có lần anh đã bảo tôi vậy. Gà chưa gáy sáng bà đã dậy nấu cơm. Bà chỉ mới chợp
mắt lúc gà gáy sang canh ba. Cơm nấu trong một cái niêu bé xíu cho riêng anh. Cả
nhà chỉ ăn bữa gần trưa và bữa tối, và cơm bao giờ cũng độn khoai lang khô, trừ
ngày mùa. Cơm chín, bà mới đánh thức con. Trong lúc anh ăn bát cơm lót dạ thì mẹ
nắm cơm trong một cái mo cau, thường có kèm muốn vừng, để anh mang theo ăn
trưa.
Mẹ lo cho anh xong, cả nhà chưa dậy. Bà lại sắp quang gánh để
đi chợ sớm. Phần trên gánh hàng là chè tươi cả nhánh bó thành từng bó nhỏ và trầu
không buộc thành từng xấp hai mươi lá một. Những thứ này được cắt, hái trong vườn
nhà từ chiều hôm trước. Phần dưới là gạo "hàng xáo". Làm hàng xáo, chồng
tôi giải thích, nghĩa là mua thóc về xay giã lấy cám nuôi lợn, lấy tấm cho người
đỡ lòng khi cần, còn gạo đem ra chợ bán lấy lời chút đỉnh. Chợ nhà quê thường họp
rất sớm và chóng tan nên phải tranh thủ xay, giã, sàng, giần từ hôm trước, cả
buổi tối có khi tới khuya. Mẹ ra đi khi còn mờ đất, bất kể trời tạnh ráo hay
mưa dầm gió bấc rét căm căm. Quãng hơn chín giờ sáng bà đã về. Bà ngồi xệp xuống
nền nhà đất trên một cái đôn gỗ thấp sắp xếp thúng mẹt, nhặt nhạnh các đồng tiền.
Chồng tôi bảo thời ấy đi chợ còm như mẹ anh thì chỉ gom đồng tiền thôi, đồng
hào là của hiếm, chớ nói đồng bạc. Bà ngồi thần ra nhẩm tính các khoản thu chi
của buổi chợ, chẳng bàn tính cũng chẳng giấy bút mà hầu như chẳng bao giờ sai.
Chồng tôi kể: có lần người ta đố bài toán cổ nổi tiếng khó "trăm trâu,
trăm cỏ…", bà ngồi lẩm nhẩm một hồi rồi nói ra đáp số. Tuy nhiên, bà chỉ
tìm được một trong ba đáp số của bài toán thôi. Hôm nào chợ về có quà - thường
là viên kẹo bột, mẩu bánh đa, bà chia cho các con rồi mới đi ăn cơm, nhà để phần
lại. Sau đó, chẳng nghỉ ngơi bà lại tiếp tục công việc. Nếu không ra chuồng lợn,
nong tằm thì xay lúa, giã gạo. Nếu không ra vườn thì ra ruộng. Vườn nhà là loại
vườn tạp; những thứ bán ra tiền có chè, trầu, cau, bưởi, cam, cả những cây dâu
lâu năm. Việc chăm vườn chủ yếu là cuốc cỏ và bồi đất ải lấy từ đám ruộng phơi ải
gần nhà vào những đêm vãn việc có trăng. Ở quê chồng tôi, đàn bà làm đồng giỏi
song chẳng cầm cày bao giờ. Công việc này, cha mẹ anh tất nhiên phải mướn. Cha
chồng tôi là nhà nho thi mấy khóa cuối cùng của chế độ thi cử cũ không đỗ về dạy
học. Sau này, chán vì người học chữ nho ngày càng thưa, ông ngồi nhà, chỉ giúp
vợ những việc vặt. Thêm một ít ruộng đất cho cấy rẽ, đủ để cha mẹ chồng tôi làm
địa chủ hồi cải-cách-ruộng-đất, một nhà địa chủ không có chăn bông về mùa rét,
không có màn ngày nực và bà chủ quanh năm chân đất. Mấy năm sau, hợp tác xã sản
xuất nông nghiệp thành lập đã nhận mẹ tôi làm xã viên, dẫu bà đã có tuổi. Mấy
chị nông dân chính hiệu, những người đã từng đấu tố bà là ngồi không ăn bám, đã
phải thốt lên: "Cấy, gặt chúng tôi còn mệt mới theo kịp cụ". Chẳng phải
vì bà khỏe hơn, mà bà thạo nghề hơn. Mẹ không có những ngày nông nhàn. Nuôi lợn
quanh năm, chăn tằm theo vụ dâu. Bổ và phơi cau theo mùa. Làm hàng xáo thường
xuyên. Hai chị chồng tôi có phụ giúp nhưng chẳng mấy lúc đều đã là người của
nhà người ta. Mỗi khi nhớ lại, chồng tôi thường lắc đầu: không hiểu mẹ lấy đâu
ra sức lực, một người nhỏ nhắn và gầy yếu như vậy.
Mẹ lấy chồng sớm. Bà kém chồng gần chục tuổi. Ông nội chồng
tôi vào loại "tiếng cả, nhà thanh", được nể vì do có chữ nghĩa và đức
độ. Mẹ là con nhà khá giả được giáo dục theo nếp "tam tòng, tứ đức",
con út song không hề được cưng chiều. Về nhà chồng, bà chỉ được cha mẹ cho một
chút của gọi là. Theo tục lệ, một thứ "luật" truyền đời, con gái
không bao giờ được chia phần gia tài. Về nhà chồng, mẹ phải ra ở riêng với một
gian nhà tranh và một mảnh vườn cằn đầy sỏi đá. Một cô gái mười bảy tuổi vừa rời
tổ ấm gia đình quen thuộc đã phải gánh việc nuôi chồng ăn học. Đến bữa, người nấu
trong một niêu đất dưới là cơm, trên là khoai lang. Vợ nhặt khoai lang ăn trước
khi chồng đi học về. Khi đàn con ra đời rồi vẫn gần như một tay bà chèo chống
nuôi cả nhà, lại còn cho các con trai ăn học. Cha chồng tôi vẫn là chủ gia
đình. Việc gì mà ông không ưng là bà thôi ngay. Những việc trọng đại như dựng vợ,
gả chồng, ông "chuẩn y" và bà "triển khai kế hoạch". Rất ít
khi có sự bất đồng giữa hai người, từ việc lớn đến việc nhỏ.
Sau khi thi đỗ tiểu học, chồng tôi phải thôi học. Bấy giờ muốn
học lên phải đến thành phố thuộc tỉnh bạn bên cạnh ở trọ, lại còn phải sắm sanh
đủ thứ. Mẹ chỉ lo được cho một người anh của chồng tôi. Sau cách mạng tháng
Tám, huyện bên mở trường trung học (thời thuộc Pháp là trường cao đẳng tiểu học,
nay là trường trung học cơ sở hay quen gọi là trường cấp hai). Một buổi tối, chồng
tôi đến bên mẹ đang sàng gạo rụt rè nói: "Con đi học mẹ nhé!". Bà lặng
thinh giây lâu rồi bảo: "Học lên tốn lắm con ạ". Anh trấn an bà:
"Bây giờ chỉ tốn cái ăn thôi. Con sẽ mang gạo nhà đi. Được chứ mẹ?".
Mẹ không nói gì nhưng sáng hôm sau cho anh đồng bạc để anh đi nộp đơn. Anh bỏ học
đã một năm nhưng thi vào vẫn được xếp thứ năm trong số hai trăm người trúng tuyển
và được một phần thưởng nhỏ. Mẹ vui, sắm cho anh một cái áo sơ-mi bằng vải thô
trắng và cái quần "soóc" bằng vải dệt tay nhuộm nâu. Ở làng, thế đã
là "diện" nhưng nếu không phải là "trong không khí cách mạng vừa
thành công" thì chắc chắn anh chẳng dám mặc đến trường. Chỉ có vậy, mẹ đã
phải bán non một con lợn thịt. Việc học lúc này đã rẻ hơn rất nhiều so với trước
song vẫn làm nặng thêm cái gánh trên vai mẹ. Nếu không có lần "đi học lại"
ấy, đời chồng tôi ắt rẽ sang hướng khác, và tôi đã không là vợ anh.
Có thể nói toàn bộ sức lực và thời gian mẹ chồng tôi dành cho
gia đình. Vậy mà sau ngày nước nhà độc lập, bà vẫn còn bớt ra được để tham gia
công việc của hội Phụ nữ và hội Mẹ chiến sĩ. Chồng tôi bảo ngày ấy anh cho là
bà tham gia vậy thôi chứ chẳng hiểu gì về chính trị. Song có một lần anh nghe
bà bảo cha anh: "Ông ở hội Phụ lão tránh đừng để cho người ta rủ rê. Con
làm bí thư, không lẽ cha lại theo phản động". Hồi ấy đảng Cộng sản chưa trở
lại công khai. Người anh lại ở riêng. Chính anh cũng không biết anh mình làm
gì, vậy mà mẹ, một người chỉ biết lo chuyện gà lợn, ruộng vườn lại tường. Thế mới
lạ! Lại nữa, trong vùng có phong trào tôn giáo đang tìm cách phát triển trong
"tầng lớp trên" dường như là bề nổi của một phong trào ngầm có quân
xâm lược Pháp đứng đằng sau. Chẳng biết mẹ lấy tin ở đâu mà nói chắc như vậy! Đến
bây giờ chồng tôi vẫn lấy làm lạ.
Các con đều đã ra ở riêng hoặc đi làm xa, hai ông bà già, cha
mẹ chồng tôi, sống với nhau những ngày gian khó nhất về vật chất và tinh thần,
trước hết là về tinh thần. Điều kì diệu là không ai bị chết đói mà chẳng phải
đi ăn xin, dù có hôm phải ăn lá khoai lang luộc thay bữa. Nhưng cha chồng tôi
đã tới ngày về cõi. Ông đã ngoài bảy mươi. Lúc người lâm chung, chỉ có mỗi bà
bên cạnh. Ông mở mắt nhìn bà lần cuối, thều thào: "Tôi muốn cùng bà sống
qua đận này, trời không cho, đành vậy..." - Ông nghỉ lấy hơi: "Cả đời,
tôi làm khổ bà, giờ để bà lại một mình...". Khó mà hình dung nỗi những gì
mà mẹ đã phải chịu đựng, những thời khắc ấy. Chẳng đứa con nào ở bên để san sẻ
cùng bà. Chẳng bà con, xóm giềng nào dám đến viếng. Ông được mấy người cùng cảnh
ngộ còn chút sức đưa ra huyệt trong một cỗ áo quan gỗ tạp để mộc. Sau này, bà
cũng sắm sẵn một cỗ như thế. Các con muốn thay một cỗ tốt hơn hoặc ít nhất cũng
sơn cỗ ấy cho tươm tất nhưng bà không chịu, bảo: "Cha các anh chị ra đi
cũng chỉ có vậy. Mẹ không muốn..." - bà nghẹn lời.
Từ bấy, mẹ sống một mình. Bà không muốn đến ở với đứa con
nào. Có phải bà lường trước mức độ hiếu thảo của các con mình một khi phải phiền
lụy? Mẹ cha lo cho con như một lẽ tự nhiên, mà sao người già chẳng mấy thảnh
thơi khi nghĩ đến chuyện phải nhờ cậy con cái? Mẹ chồng tôi dĩ nhiên chẳng muốn
rời quê. Thị thành không hợp với bà. Mẹ vẫn tự nuôi sống bằng sức lao động già
cỗi của mình. Các con có đưa chút ít chẳng đáng gì cả. Bà bảo: "Mẹ giờ ăn
chẳng bao nhiêu. Các con, các cháu về chơi cho mẹ thấy mặt là quí rồi".
Hàng năm, thường chúng tôi chỉ về với mẹ được một lần, có khi chỉ mình chồng
tôi. Bây giờ nghĩ lại thấy sự quan tâm quá đỗi hời hợt. Lòng thương kính mẹ nặng
phần "lí thuyết". Dường như hoàn cảnh khách quan biện minh cho tất thảy.
Để mà khỏi đối mặt với lương tâm! Có một dịp, chúng tôi có thể xin chuyển công
tác cho cả hai vợ chồng về thành phố gần nơi mẹ ở, tôi đã viện cớ lần lữa, và dịp
hiếm qua đi. Sao tôi chẳng nghĩ? Một bà già còm cõi trong một nếp nhà tranh hai
gian trên một mảnh vườn hẹp sống dè lặng và thanh đạm, nói nghèo khó thì đúng
hơn, không oán trách ai, chẳng phiền giận con cháu, kể cả những người từng xử tệ
trong những ngày bão táp. Có bà con, hàng xóm đấy nhưng nỗi cô quạnh chỉ khỏa lấp
được một phần. Mỗi lần con cháu về, mẹ vui lộ ra mặt, lọm cọm lo cho bữa ăn
tươm tươm một chút; có những thứ mẹ đã nhịn dùng dành lại. Con cháu ra đi, mẹ tựa
cửa ngó theo móm mém cười cho con an lòng. Chỉ một lần, lần ấy đang trong thời
kì Mĩ bắn phá ác liệt nhất, chúng tôi về thăm mẹ vì e mẹ đã già mà chiến tranh
thì chưa biết bao giờ dứt; lúc chúng tôi đi, mẹ không nén được đã ứa nước mắt
thương tôi. Ôi! Những giọt nước mắt tằn tiện của một cuộc đời tần tảo, vị tha.
Trong phút giây ấy, tôi cảm nhận được mẹ thương tôi còn hơn thương chồng tôi.
Tôi, cả chồng tôi, nhận sự chăm chút của mẹ mà chằng làm được gì cho mẹ. Sinh
thời mẹ tự bằng lòng rằng "các con đều nên người". Cái "nên người"
ấy, than ôi, hão biết mấy! Hình như có nhà văn nào đó đã viết: trong mắt người
mẹ, các con lúc nào cũng bé thơ. Không hẳn vậy. Lòng mẹ bao la ấp iu con mọi
lúc, nhưng mắt mẹ có thể ngợp trước con mình nếu chúng quá "khôn lớn".
Đầu năm 1975, tôi được tin mẹ chồng bị đau. Lúc này chồng tôi
đang lên Bộ để tham gia một đoàn công tác nước ngoài ngắn ngày. Thời đó, được
đi nước ngoài là một thứ "hạnh phúc". Tôi không muốn anh phải bỏ lỡ dịp
may khó lặp lại. Chuyến công tác chỉ gói gọn trong một tuần, cả đi và về, - tôi
tự biện minh, chắc mẹ bị se mình của tuổi già. Nhưng rồi bà mất! Mẹ qua đời
không kịp thấy, chỉ mấy tháng nữa, "đất nước hết giặc giã" như bà hằng
sở nguyện, thường vẫn nói ra miệng. Chồng tôi vừa về nước thì được báo tin chẳng
lành. Anh lặng người. Tôi bàng hoàng. Tôi thật có lỗi với anh, nhất là có tội với
mẹ.
Về quê chịu tang xong, chồng tôi như thể đổi khác. Anh hay đi
dạo nơi công viên vắng. Và rất lạ: anh thôi hút thuốc lá. "Mẹ mất rồi, anh
mới thật hiểu thế nào là mất mẹ" - anh bảo tôi. Năm xưa, anh về quê sau mấy
năm xa. Mẹ đi chợ về thấy anh đang đứng đợi trước thềm nhà, bà mếu máo:
"Con về thì không còn cha nữa, con ơi!". Anh đã biết cha mất, đứng
trước mẹ nỗi mất mát vợi đi. Anh còn mẹ, anh còn nhà để về. Dẫu đã có gia đình
riêng, mỗi lần về thăm mẹ anh vẫn nói "về nhà". Đúng là về nhà, chẳng
phải giữ kẽ gì hết. Mẹ không còn, về quê được những người ruột thịt đón tiếp
thân tình, anh thấy mình chỉ là khách.
Ai chẳng một lần mất mẹ, mất cha. Nỗi đau sẽ không kéo dài, không đè nặng nếu không mang niềm ân hận. “Một người hiền thuở trước, lúc hàn vi phải đội gạo thuê nuôi mẹ; ông ta làm nên thì mẹ đã mất, ông ta than: "Bây giờ dẫu muốn đội gạo nuôi mẹ cũng không sao được nữa". Tôi biết chuyện này, câu nói này từ rất sớm, song tôi đã không làm theo được. Phải đâu ngày nay không còn là ngày xưa! Xưa hay nay, Đông hay Tây, lòng mẹ cha bao giờ vẫn vậy. Có chăng là lòng con cái ấm lạnh theo thói đời. Phải vậy không, mẹ ơi!”. Tôi đọc những dòng nhật kí của anh, thương anh và hận mình. Ngay cả khi đã làm mẹ rồi, tôi vẫn không thấu lòng một người mẹ.
Khải Nguyên
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét