Cảm hứng Thiền trong thơ thiên nhiên đời Trần [1]
Trầm Thanh Tuấn [2]
Thơ ca đời Trần là một nền
thơ ca phát triển, đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành nền thơ ca cổ điển
Việt Nam, nói như Phạm Thế Ngũ thì đây là đỉnh cao thứ nhất của thơ ca Hán học
nước ta. Trong tiến trình văn học trung đại, thơ ca đời Trần có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Ngay từ các công trình khảo cứu của các nhà nghiên cứu từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XIX đã có những đánh giá rất cao về nền thi ca của giai đoạn
này. Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút đã nhận định "Thơ
đời Trần tinh vi trong trẻo, đều có sở trường tột bật cũng như đời Hán, đời Đường
bên Trung Hoa" ([3]) hay
Lê Quý Đôn trong Quần thư khảo biện và Thư kinh diễn nghĩa đã
tự hào rằng: "Nước Nam ta, hai triều nhà Lý, nhà Trần ngang vào khoảng
triều nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy tinh hoa, nhân tài cốt cách văn chương,
không khác gì Trung Hoa" ([4]) .
Như vậy chúng ta đang tiếp cận với một giai đoạn văn học có nhiều thành tựu.
Trong đó mảng thơ thiên nhiên là mảng đề tài có vai trò quan trọng trong việc
góp phần khẳng định vị trí đặc biệt của thơ ca đời Trần trong diễn trình văn học
cổ điển dân tộc.
1. Thơ thiên nhiên đời
Trần
Thời trung đại con người sống
bằng nông nghiệp là chủ yếu, nên con người dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên
mà sống. Do đó con người hoà nhập vào thiên nhiên, xem thiên nhiên với con người
là một "Vạn vật nhất thể". Con người chưa xem mình là một
chủ thể đối lập với tự nhiên là khách thể để chiêm nghiệm, phân tích, lí giải...
Như vậy đặc trưng của thế giới tự nhiên trong cái nhìn của con người trung đại
là chúng có tính toàn vẹn không phân hoá, không tách bạch. Thế nên thơ ca
phương Đông rất chú ý đến hình ảnh của thiên nhiên và xem đây là một đối tượng
thẩm mĩ. Chúng tôi hiểu "thơ thiên nhiên" là một thể tài độc lập của
thơ ca lấy thiên nhiên làm đối tượng thẩm mĩ chủ yếu, thông qua miêu tả cảnh vật
để bộc lộ tâm tình.
Thiên nhiên trong thơ ca đời
Lý đa phần là những biểu tượng, là phương tiện để nói lên nội dung triết lí hay
cảm quan Thiền đạo. Những hình ảnh thiên nhiên thường tượng trưng cho những thực
tế siêu nhiên, trừu tượng của triết lí. Thiên nhiên trong thơ ca đời Trần có
khác. Đầu đời Trần thiên nhiên còn có nét biểu hiện triết lí như trong thơ Trần
Thái Tông, Tuệ Trung. Nhưng từ giữa đời Trần về sau, thiên nhiên đã trở thành đối
tượng thẩm mĩ đích thực. Càng về cuối đời Trần, thi nhân tiếp xúc với thiên
nhiên ngoại cảnh với nhiều cảm xúc, phong phú, đa dạng: từ tâm trạng bình lắng
trước cảnh thiên nhiên cô tịch, xa vắng, đến những cảm khái nhẹ nhàng rồi bất
mãn với thời cuộc. Thiên nhiên lúc này vừa là sự rung động của thi nhân biểu lộ
cảm quan Thiền học vừa có cái phóng khoáng của tư tưởng Nho gia và cái nhàn dật
của Lão Trang.
Có thể nói thơ thiên
nhiên đời Trần ảnh hưởng sâu sắc từ thơ sơn thuỷ của Trung Quốc, đặc biệt là
thơ sơn thuỷ đời Đường. Không phải ngẫu nhiên mà Phan Huy Chú đã có hàng loạt
những nhận xét thi phẩm của các thi nhân trong giai đoạn này trong thế đối sánh
với Đường thi như: thơ của Trần Thánh Tông "các bài đều có phong vị
thơ Đường" còn thơ của Trần Minh Tông thì "lời thơ phần nhiều
hào mại phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ - Lăng"và "thơ
tứ tuyệt lại càng hay, không kém gì thời thịnh Đường" ([5])…
Thi nhân xưa thường cảm nhận
thiên nhiên bằng thính giác và thị giác nên yếu tố nhạc và hoạ phát triển "thi
trung hữu nhạc", "thi trung hữu hoạ". Thiên nhiên trong thơ
đời Trần chỉ hiện lên như những nét phác hoạ của tranh thủy mặc. Đó là những
nét bút chấm phá giản lược chứ không phải là nét cụ thể, tỉ mỉ. Nó không đáp ứng
yêu cầu phân tích miêu tả nhưng lại gợi khả năng liên tưởng và đặc biệt gợi
tình cảm sâu sắc hơn. Thiên nhiên ở đây không hoàn toàn câm lặng nhưng cũng
không ồn ã. Đó là những tiếng chim khuya, tiếng đỗ quyên khắc khoải canh trường,
tiếng trùng nỉ non, tiếng mưa rơi ngoài hiên vắng,…Thi nhân mở lòng đón nhận
cái vang vọng của những âm thanh thiên nhiên vào tận cõi sâu thẳm tâm hồn để
cùng đồng điệu, cùng rung cảm chứ ít khi thấy họ miêu tả cụ thể những âm thanh ấy.
Thi nhân đời Trần hầu hết đều
chịu ảnh hưởng tư tưởng triết học của Nho - Phật - Lão (Tam giáo đồng
nguyên), thiên nhiên trong cái nhìn của Nho gia quan trọng hơn cả là đức sinh.
Sự sống của thiên nhiên với muôn hình vạn trạng, vạn vật sinh sôi nảy nở: hoa nở,
chim kêu, mưa tưới, cỏ tươi. Nó mang ý nghĩa tuyệt đối trong lành, vô tư, thanh
cao, khác với cuộc sống phàm tục. Các nhà Nho quan niệm Đức lớn nhất của vũ trụ
là đức sinh cho vạn vật, sự sinh hoá hanh thông của vạn vật là niềm vui lớn nhất
của con người. Thiền gia cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên,
bởi họ cho rằng Bản thể của vũ trụ là trống không khi tâm đạt tới độ tĩnh tại
tuyệt đối, tâm trong suốt vắng lặng thì có thể hòa nhập vào bản thể của vũ trụ vạn
vật. Đạo gia tìm thấy thiên nhiên là nơi di dưỡng tinh thần. Họ có khát vọng muốn
hòa nhập vĩnh viễn với thiên nhiên.
Thơ thiên nhiên đời Trần tập
trung vào thể hiện cảm hứng thế sự, cảm hứng công dân và cảm hứng Thiền. Trong
khuôn khổ một bài viết ngắn chúng tôi xin bàn sâu vào một khía cạnh tiêu biểu cảm
hứng Thiền trong thơ thiên nhiên đời Trần.
2. Cảm hứng Thiền trong
thơ thiên nhiên đời Trần
Khác với thời Lý, những hình
ảnh thiên nhiên xuất hiện trong thơ như là những biểu tượng của lẽ Thiền, chất lí
trí còn đậm. Đến thời Trần thì đa phần trong sáng tác của các thi nhân, thiền
sư, thiên nhiên đã thực sự trở thành đối tượng thẩm mĩ thật sự. Các thi
nhân, Thiền sư đã thật sự trải lòng với cảnh núi cao sông dài, với ánh trăng
trên đoá mộc tê, trải tầm mắt với cánh bạch âu lưng trời, theo đàn cò liệng xuống
cánh đồng chiều vãn, rồi ngắm cảnh bướm xuân phơi phới trên những đoá hoa thắm
tươi đầy hương sắc. Con người Thiền sống giữa thiên nhiên để thấy tâm hồn mình
về với Chân Như, với những cảm xúc hồn nhiên không gợn niềm trần tục.
2.1. Thiền gia cảm
nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, bởi họ cho rằng Bản thể của
vũ trụ là trống không khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt vắng
lặng thì có thể hòa nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật. Thiên nhiên qua cái
nhìn của Thiền gia mặc dù bình dị nhưng lại thấm đẫm hơi hướng mỹ cảm Thiền. Đọc
bài thơ Nguyệt của Trần Nhân Tông chúng ta có thể dể dàng nhận ra điều
đó:
半窗登影滿床書
露滴秋庭夜氣虛
睡起砧聲無覓處
木棲花上月來初
Bán song đăng ảnh mãn sàng
thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch
xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai
sơ.
(Bóng đèn soi nửa cửa sổ,
sách đầy giường - Móc rơi trên sân thu, hơi trống không - Tỉnh giấc tiếng
chày nện không còn nghe thấy - Trên chùm hoa quế, trăng vừa mọc).
Bài thơ mở đầu bằng không
gian hẹp - không gian của đời sống thường nhật từ đó mở rộng ra không gian vũ
trụ. Một đêm thu lặng có thể nghe được tiếng sương rơi. Cái động nhờ cái tĩnh
mà sinh ra. Âm thanh của tiếng sương rơi hẳn là rất nhỏ, không gian phải rất
tĩnh lặng thì mới có thể nghe được. Ngược lại cái động nhờ cái tĩnh mà hiện hữu,
không gian tĩnh mịch vắng lặng được nhận thức bởi tiếng sương rơi ngoài sân
thu. Đây chẳng phải là thủ pháp dựng dậy những mối quan hệ đối lập gợi liên tưởng
được dùng phổ biến trong Đường thi đó sao? Có thể nói không gian của bài thơ là
không gian đặc trưng của thơ Thiền, một không gian bao la, khoáng đạt, trong trẻo
và tĩnh lặng. Tất cả điều đó càng làm tăng cảm giác về sự bao la vô hạn của
không gian. Đặc biệt là cái cảm giác về sự trống không, hư không. Nó biểu trưng
cho cái "Không" của Thiền. Tâm Thiền là cái trống không,
bình đạm, trong trẻo và lặng lẽ. Đây là không gian được lọc qua con mắt Thiền,
là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Ta có thể bắt gặp cái không gian này ở
nhiều câu thơ khác
-
Dạ khí phân lương nhập hoạ bình ([6])
(Khí đêm chia hơi mát vào bức
rèm vẽ);
- Tâm
kỳ phong cảnh cộng thê thanh ([7])
(Lòng thẹn với phong cảnh
cùng trong trẻo, lạnh lẽo).
- Khách khứ
tăng vô ngữ
Tùng hoa mãn địa hương([8])
(Mưa tạnh trời một màu biếc
Không gian của bài thơ này
được bao trùm bởi trạng thái "hư" trống không - trạng thái
tương thông giữa tâm Thiền tĩnh tại an nhiên với cái trống không của bản thể vũ
trụ. Trong bài thơ này thi nhân - Thiền nhân tỉnh dậy, "thuỵ", không
phải bởi sự chi phối của những âm thanh thế tục mà đó là cái tỉnh giấc tự nhiên
- sự ngộ lẽ Thiền. Thế nên thi nhân mới cảm nhận được ánh sáng của vầng trăng
ngộ đạo toả chiếu trên đóa mộc tê. Bài thơ thể hiện cảm hứng Thiền qua những
hình ảnh thiên nhiên rất đỗi bình dị: trên nền không gian hư tịch ánh trăng nhẹ
đến trên đoá mộc tê - Một chi tiết nhỏ, rất bình thường của đời sống tự nhiên bổng
trở nên huyền diệu, bừng lên ánh sáng của Thiền cảm. Trước thiên nhiên tươi đẹp,
Thiền nhân chỉ"cảm" mà không trực tiếp "giãi bày" bằng
lời. Con người Thiền thường "vô ngôn" trước cảnh sắc ngoại
giới. Lời nói hữu hạn không thể nào diễn tả được hết cái biến thiên, cái hằng
thường. Cái Hữu của lời nói không thể nào chiếm lĩnh cái Vô, cái Không tuyệt đối
mang tính vĩnh hằng của Bản thể. Một trong những đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của
thơ ca phương Đông là nghệ thuật biểu diễn cái không lời "Thư bất tận
ngôn, ngôn bất tận ý" (Kinh Dịch), "ngôn vô ngôn" (Đạo
đức kinh - Lão Tử), "Thính hồ vô thanh" (Nam hoa
kinh - Trang Tử). Trong quy luật tâm lí cái không lời, vô ngôn bao giờ
cũng dễ tác động đến chiều sâu tâm thức, cảm xúc con người hơn là cái phô bày,
cái có lời. Cho nên tiếng đàn của người ca kĩ trên bến Tầm Dương đã đạt đến chỗ
vi diệu "Thử thời vô thanh thắng hữu thanh" (Tỳ bà hành -
Bạch Cư Dị). Ta còn bắt gặp hình ảnh "con người vô ngôn" trước
thiên nhiên ở những bài thơ khác.
客去僧無語
松花滿地香
Khách khứ tăng vô ngữ,
Tùng hoa mãn địa hương ([9]) .
(Khách [chỉ ta] ra về, sư ở
chùa trầm ngâm không nói - Hoa thông đầy đất ngát mùi hương).
Cảnh ấy tình ấy, còn cần gì
phải nói nhiều hơn nữa. Vả lại, không gian đang hết sức trong sáng, yên tĩnh
mát mẻ - một sự thanh khiết đến vô cùng vô tận. Trước không gian tuyệt diệu đó
của đất trời con người tự nhiên lọc sạch hết mọi nghĩ ngợi ưu phiền, tự nhiên
quên hết những lời cần tâm sự. Bởi khi chia tay kẻ ở, người về đều lặng yên. Sự
yên lặng càng làm dậy lên mùi hương thông thơm ngát mặt đất "Tùng hoa
mãn địa hương". Bài thơ kết thúc bằng sự mở ra vô biên một trường giao cảm
giữa con người - cảnh vật trong một mùi hương nhẹ nhàng lan toả - một
thông điệp không lời. Đến đây ta lại nhớ nhiều đến mấy câu thơ của Nguyễn Trãi:
日暮猿聲急
山空竹影長
箇中真有意
欲語不還忘
Nhật mộ viên thanh cấp,
Sơn không trúc ảnh đường.
Cá trung chân hữu ý,
Dục ngữ bất hoàn vương
(vong) ([10]).
Trong bài Tảo thu của
Thiền sư Huyền Quang viết :
竹堂忘適香初盡
Trúc đường vong thích hương
sơ tận
(Mái tranh quên bẵng hương vừa
tắt).
Ở đây ta có thể khái quát
thành mô hình ngữ pháp của câu thơ:
|
Câu thơ đã khuyết chủ ngữ
(hay nói cách khác đại danh từ chủ thể trong câu đã bị tỉnh lược) nên khiến cho
người đọc có thể có nhiều cách hiểu. Bởi vì trạng ngữ phía trước đại danh từ
cũng là một danh từ "trúc đường". Như vậy nếu hiểu câu thơ
bị tỉnh lược đại danh từ chủ thể thì ta có cấu trúc (1). Còn nếu như xem "trúc
đường" là chủ ngữ thì ta có cấu trúc (2) Chủ ngữ
/ Vị ngữ.
Nói như vậy để cho thấy sự tỉnh
lược ở đây đã tạo cho câu thơ cái tính mơ hồ và đa nghĩa làm cho người đọc
không xác định được đây là khoảnh khắc "quên" của thi nhân
hay của chính mái tranh? Chúng ta vẫn biết "trúc đường" thường
biểu trưng cho chốn ẩn dật của Thiền nhân. Liên hội với những câu thơ trước nó
và sau nó, chúng ta chỉ thấy hình ảnh "trúc đường"là hình ảnh
duy nhất biểu thị sự có mặt của con người trong bức tranh thiên nhiên này.
Nhưng con người đã ẩn đi, đã hoà nhập vào "trúc đường", hoà nhập
vào tạo vật. Hơn thế nữa, nếu câu thơ đưa vào đó đầy đủ đại danh từ nhân xưng,
thì câu thơ sẽ trở nên ồn ào và cái khoảnh khắc đốn ngộ ấy chỉ là đặc quyền của
Thiền nhân thôi. Nhưng ở đây bằng việc tỉnh lược, thi nhân đã góp phần khắc hoạ
cái tĩnh lặng tuyệt đối của "trúc đường"- không gian Thiền.
Đồng thời cùng với ánh trăng trên cây tùng "nhất nhất tùng chi võng
nguyệt minh" đã thể hiện sự hoà nhập trọn vẹn giữa con người và ngoại
vật: tâm con người tĩnh - cảnh vật tĩnh. Cảnh vật và con người tương thông với
nhau trong khoảnh khắc tâm linh kì diệu.
2.2. Thơ
thiên nhiên mang cảm hứng Thiền còn bộc lộ cái xao xuyến của tâm hồn trước cảnh
sắc thiên nhiên lung linh, huyền ảo, mơ hồ. Cái đẹp của thiên nhiên được tạo dựng
bởi cái mơ hồ giữa Thực và Hư, giữa Sắc và Không, giữa Hữu và Vô, giữa Động và
Tĩnh. Đăng Bảo Đài sơn của Trần Nhân Tông là một bức tranh thiên
nhiên được khắc hoạ bởi những yếu tố đối lập đó:
地寂臺逾古
時來春未深
雲山相遠近
花徑半晴陰
萬事水流水
百年心語心
倚欄橫玉笛
明月滿胸襟
Địa tịch đài du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận,
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm ngữ tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
(Đất vắng vũ đài thêm cổ
kính - Theo thời tiết mưa xuân chưa về lâu - Ngọn núi phủ mây khi xa khi gần -
Con đường hoa nửa sáng nửa tối - Muôn việc như nước trôi theo nước - Trăm năm
lòng nói tới lòng - Đứng tựa lan can cầm ngang ống sáo ngọc - Trăng sáng rọi đầy
cả ngực và bụng)
Về thời gian, bài thơ có sự
đối lập giữa xưa (du cổ) - nay (thời lai). Về không gian là đối lập giữa xa (viễn)
- gần (cận), sáng (tình) - tối (âm). Cảnh vật vừa như thực vừa như hư trong
không gian cao rộng cô tịch. Nó tạo cảm giác về sự hiện hữu vô thường của vạn vật
trong cái hằng thường của bản thể vũ trụ, trước bức tranh thiên nhiên ấy Thiền
nhân đã lĩnh hội được chân lí:
Muôn việc như nước trôi theo
nước,
Trăm năm lòng nói với lòng.
Từ chỗ ngộ được chân lí, Thiền
nhân đứng lặng lẽ chiêm ngưỡng cảnh vật bằng cái tâm bình thản được phủ chiếu bởi
ánh trăng huyền diệu - Ánh trăng của tâm linh đã được giác ngộ - đang chiếm
lĩnh không gian ngoại cảnh. Như vậy, ở đây tâm cảnh - ngoại cảnh đã có sự tương
thông đồng điệu, hòa nhập. Ta có thể nhận thấy Thiền quan, Thiền cảm đặc biệt
này ở nhiều bài thơ khác:
村後村前淡似煙
半無半有夕陽邊
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự
yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương
biên ([11]).
(Thôn trước, thôn sau, lờ mờ
dường như khói phủ - Nửa có, nửa không, trong bóng chiều hôm)
Đặc biệt, thơ thiên nhiên đời
Trần thường sử dụng Vô - Hữu nhằm để xác lập sự tồn tại. Khi giải
thích bản thể của vũ trụ, Lão Tử đã sáng tạo ra cặp phạm trù Hữu - Vô và
nó đã trở thành cặp phạm trù cơ bản nhất của lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại: "Thiên
hạ vạn vật sinh ưhữu, hữu sinh ư vô" ([12]).
Đồng thời đây cũng là cặp phạm trù trong Thiền học thời Lý - Trần:
月無事照人無事
水有秋涵天有秋
Nguyệt vô sự chiếu
nhân vô sự,
Thủy hữu thu hàm
thiên hữu thu.
(Hạnh Thiên Trường hành cung -
Trần Nhân Tông)
Câu thơ trên ta nhận thấy,
tác giả đã dùng phép lặp (lặp từ vô - hữu), phép đối liên, tiểu
đối để tạo nên sự liên kết cả chiều ngang và chiều dọc mà có thể xem hai từ vô ở
câu trên và hai từ hữu ở hai câu dưới như là bốn đỉnh của hình vuông
liên kết ấy. Bên cạnh đó cùng với sự tương tác ngữ nghĩa của hai từ đối lập hữu - vô đã
tạo nên trường liên tưởng thú vị: khi con người và thiên nhiên đều ở trong trạng
thái tĩnh tại an nhiên: nguyệt - nhân: vô sự, tâm của con người đã bình lặng,
đã cởi bỏ hết những mê kiến, vọng niệm thì con người sẽ đạt tới sự hoà điệu với
bản thể và từ đó sẽ phát hiện cái đẹp hằng thường của tạo vật, cái đẹp của bản
thể: Trời mùa thu in sắc xuống dòng sông thu. Câu thơ đã thể hiện đặc sắc tinh
thần mĩ học phương Đông: lấy hư diễn thực, cái có phát sinh từ cái không.
2.3. Thiền
nhân trong thời Trần, có những khoảnh khắc "quên". Họ không muốn tìm
quên trong tụng niệm mõ chuông mà tìm quên trong thiên nhiên:
夜氣分涼入畫屏
簫簫庭樹報秋聲
竹堂忘適香初盡
一一松之網月明
Dạ khí phân lương nhập họa
bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu
thanh.
Trúc đình vong thích hương
sơ tận,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt
minh ([13]) .
(Khí đêm chia hơi mát vào bức
rèm vẽ - Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu - Dưới mái tranh quên bẳng hương vừa
tắt - Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng sáng).
Nếu hơi đêm lạnh, tiếng cây
lá thu nhắc nhở mọi người về sự trôi đi không ngừng của thời gian vô thuỷ vô
chung, thì trạng thái "quên" bẳng nén hương vừa tắt là một
sự hoà nhập trọn vẹn giữa tâm hồn người Thiền và ánh trăng sáng đã tràn ngập cỏ
cây, hoa lá, tạo vật. Trạng thái "quên" này ta còn thường
thấy ở nhiều bài thơ của các Thiền sư núi Yên Tử, các thi nhân của thi xã Bích
Động:
木棲窗外千鳩寂
Mộc tê song ngoại thiên cưu
tịch,
Nhất chẩm thanh phong trú mộng
dư ([14]).
(Trên cây quế ngoài cửa sổ,
ngàn con chim cưu vắng tiếng - Một chiếc gối trong gió mát, giấc mộng ban ngày
chưa tàn)
忘身忘世以都忘
坐久簫然一榻涼
Vương thân, vương thế dĩ đô
vương (vong),
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp
lương ([15]).
(Quên mình, quên đời, quên hết
cả - Yên lặng ngồi lâu, lạnh cả giường)
2.4. Thơ
thiên nhiên đời Trần có những vần thơ kết hợp giữa những rung cảm cá nhân
và tư tưởng Thiền học. Đó là những lời tâm sự, một nỗi xao động giữa cảnh đời cảnh
đạo, tâm hồn đơn côi và hoang lạnh giữa mịt mờ trời đất rộng lớn. Ý vị Thiền
toát ra từ cảm giác hư không của cuộc đời con người. Tiêu biểu cho đặc điểm
này trong thơ thiên nhiên mang cảm hứng Thiền là phong cách thơ của Huyền
Quang, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm. Thơ ca ông có cái "bay
bướm, phóng khoáng" ([16]) và
thể hiện cái tôi đầy say đắm trước cảnh sắc thiên nhiên. Đến nỗi có lời dị nghị
về ông và Lê Quý Đôn cũng nhận định: " Tựa hồ chẳng phải lời nói của
nhà tu hành" (Thi tuy giai phi tăng gia ngữ)([17]).
Tuy nhiên dù gì đi nữa thì cội Thiền trong ông vẫn còn bền chặt do đó thơ ca của
ông dù đậm dù nhạt vẫn phảng phất Thiền vị. Bài Phiếm chu là một
trong những bài đặc sắc, tiểu biểu cho phong cách thơ của ông:
小艇乘風泛渺茫
山青水綠又秋光
數聲漁笛櫨花外
月落波心江滿霜
Tiểu đỉnh thừa phong phiếm
diễu mang,
Sơn thanh, thủy lục, hựu thu
quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn
sương.
(Chiếc thuyền theo gió lướt
trên mặt nước bát ngát -Non xanh nước biếc lại thêm cảnh sắc mùa thu - Vài tiếng
sáo chài văng vẳng ngoài rặng hoa lau - Trăng rơi vào lòng sông mặt sông phủ đầy
sương)
Bài thơ là cả một không gian
rộng lớn bao trùm, con thuyền như trở nên lẻ loi giữa cái không gian rộng lớn ấy.
Núi xanh nước biếc như đang tô điểm thêm cho sắc thu, hay nó tạo thành sắc thu?
Mấy tiếng sáo chài trong đám lau thưa, là thứ âm thanh duy nhất đánh động không
gian, đánh động vào tâm hồn của cô nhân. Bài thơ được tạo dựng nên bởi những
nét phác họa đặc trưng của cấu tứ Đường thi. Thoáng đọc ba câu thơ đầu, chúng
ta những tưởng đấy là tâm sự của một thi nhân đang mang niềm trắc ẩn, đau đáu một
nỗi niềm. Tuy nhiên đến câu cuối thì cảm hứng Thiền đã thăng hoa. Nếu mô hình
hoá, chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy bài thơ có ba tầng hình ảnh:
Ánh trăng thực
Màn sương bao phủ trên mặt
sông
|
Ánh trăng trong đáy nước.
Hình ảnh con người cô đơn
đang nằm trong khoảng sương phủ đầy mặt sông phía nửa trên là không gian lồng lộng
trong sáng, nửa dưới là không gian mờ ảo. Sự kết hợp giữa ánh trăng đáy nước và "sương
mãn giang" phủ màu sương tĩnh mịch hư ảo lên không gian rộng lớn của
lòng sông thu. Ta vẫn nhận thấy trong thơ mang cảm hứng Thiền vì giữa hai yếu tố:
hư - thực luôn hoà quyện chuyển hoá lẫn nhau. Đó là một trong những đặc trưng
thẩm mĩ của thơ Thiền.
3. Kết luận
Mảng thơ thiên nhiên đời Trần
đã để lại nhiều áng thơ vào hàng tuyệt tác trong nền thơ ca cổ điển dân tộc. Đằng
sau những bài thơ ấy là những tâm tình với khát khao hoà nhập vào thiên nhiên,
vào cuộc sống. Đồng thời các thi nhân cũng đã gửi gắm vào đó những chiêm nghiệm
về lẽ vô thường của con người trước cái hằng thường của vũ trụ. Đó là chẳng phải
là cái nhìn mang cảm hứng Thiền, tâm trạng Thiền, ý vị Thiền nhưng cũng thấm đẫm
chất thế sự với những cung bậc tình cảm hết sức phong phú của con người đời thường
đó sao?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Huy Chú, Lịch
triều hiến chương loại chí (tập IV, phần Văn tịch chí), NXB Sử học,
Hà Nội, 1961.
Nguyễn Công Lý, Văn học
Phật giáo thời Lý -Trần diện mạo và đặc điểm, NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2003
Bùi Văn Nguyên, Lịch sử
văn học Việt Nam từ thế kỉ X -thế kỉ XVII, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978
Trần Lê Sáng (chủ biên), Tổng
tập văn học Việt Nam (tập 2), NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1997
Đoàn Thị Thu Vân, Khảo
sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam từ thế kỉ thứ X - thế kỉ thứ XIV,
Trung tâm nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, Hà Nội, 1996
Đoàn Thị Thu Vân, Thơ
thiền Lý -Trần, NXB Văn nghệ TPHCM, 1998
([1]) Bài viết được
đăng trên Kiến thức ngày nay - số 710
[2] Cựu
sinh viên (Lớp Sư phạm Ngữ văn K 28), nay là Giáo viên Trường THPT Long Hiệp,
huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh
([3]) Phạm Đình Hổ, Vũ
Trung tùy bút, NXB Văn nghệ TPHCM, 1998.
([4]) Nguyễn Minh Tấn
(chủ biên), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981.
([5]) Lịch triều hiến
chương loại chí (tập IV, phần Văn tịch chí), NXB Sử học, Hà Nội, 1961
([6]) Tảo thu -
Huyền Quang
([7]) Ký thanh phong am
tăng Đức Sơn - Trần Thái Tông
([8]) Đề Gia Lâm Tự -
Trần Quang Triều
([9]) Đề Gia Lâm Tự -
Trần Quang Triều
([10]) Tiên Du Tự
([11]) Thiên Trường vãn
vọng - Trần Nhân Tông
([12]) Dịch nghĩa: Vạn
vật trong thiên hạ đều sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vô - Đạo đức
kinh (Chương 4)
([13]) Tảo thu -
Huyền Quang
([14]) Trú miên –
Huyền Quang
([15]) Cúc – Huyền
Quang
([16]) Phan Huy
Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập IV, phần Văn tịch
chí), NXB Sử học, Hà Nội, 1961
([17]) Chuyển dẫn Bùi
Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam từ thế kỉ X -thế kỉ XVII, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 1978
eva air
vé máy bay đi california
hang may bay korean air tai tphcm
giá vé máy bay đi mỹ khứ hồi
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich