Phong trào Thơ mới
Đầu thập niên 1930, văn hoá Việt Nam diễn ra
một cuộc vận động đổi mới thơ ca mạnh mẽ với sự xuất hiện một làn sóng thơ mới
với cá tính sáng tác độc đáo. Cuộc cách tân này đi vào lịch sử văn học với tên
gọi Phong trào Thơ mới.
Lịch
sử
Việc chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào Việt Nam
và sau Thế chiến thứ nhất, cùng với việc người Pháp đẩy mạnh phong trào khai
phá thuộc địa đã vô tình đẩy nhanh làn gió của văn hóa phương Tây vào Việt Nam.
Giới trí thức trẻ nhanh chóng tiếp thu văn hóa
Pháp và nhận ra vần luật, niêm luật của Nho gia đã quá gò bó trong việc thể
hiện tiếng thơ của con người. Năm 1917 trên báo Nam Phong (số 5), Phạm Quỳnh,
nổi tiếng là người bảo thủ, cũng phải thú nhận sự gò bó của các luật thơ cũ:
"Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của
con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại,
sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng
tự nhiên vậy."
Sau đó, Phan Khôi cũng viết nhiều bài báo chỉ
trích những trói buộc của thơ văn cũ và đòi hỏi cởi trói cho sáng tác thơ ca.
Trong khoảng 1924-1925, cuốn tiều thuyết của
Hoàng Ngọc Phách kể về mối tình Đạm Thủy-Tố Tâm đã gây sóng gió trong giới học
sinh và thanh niên thành thị, dù tình yêu ấy chưa vượt qua được rào cản của đại
gia đình phong kiến. Tiếp theo đó, năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã phá vỡ vần
điệu niêm luật, số câu, số chữ của "thơ cũ" khi dịch bài La cigale et
la fourmi (Con ve và con kiến) của La Fontaine sang tiếng Việt. Năm 1929, Trịnh
Đình Rư tiếp tục viết trên báo Phụ nữ tân văn (số 26):
"Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế,
khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra
lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành
bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ
Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì
nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy."[1]
Ngày 10 tháng 3 năm 1932, bài thơ Tình già của
Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu
mang tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ,
được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ mới. Ngay sau đó, cuộc tranh luận
giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc
tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm
thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn
ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ mới.
Khuynh
hướng chung
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ mới những
năm 1930-1945 là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái "tôi"
của tác giả, thẩm mỹ hóa cái cuộc sống rối ren, tơi bời của xã hội nửa thực
dân, nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lõng giữa vòng đời.
Tính khuynh hướng của nghệ thuật lãng mạn rất
đa dạng, có khi lãng mạn, mộng mơ, ai ca, thần bí, anh hùng, triết học, cũng có
khi lãng mạn anh hùng, lãng mạn công dân hay lãng mạn xã hội,... Nhưng nét bao
trùm chủ nghĩa lãng mạn là mộng mơ. Các nhà thơ muốn thoát khỏi những điều kiện
ngột ngạt của xã hội bảo hộ thời thơ mới bằng cách tưởng tượng, trốn vào trong
cái thế giới vô cùng lý tưởng ấy. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, chỉ có cái gì
khác thường, khác người, khác đời, và sự đối lập giữa mộng và thực là đáng kể.
Trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa cái xã hội hủ lậu, ngột ngạt ấy thì sự đối
lập là dễ hiểu.
Trong văn học thời kỳ này, thơ cũng như văn
xuôi, cá nhân tự khẳng định, tự biểu hiện ra niềm vui, mơ ước, khát vọng. Cảm
hứng sáng tác gắn liền với ý thức cá nhân; thơ mới là thơ của cái
"tôi", một cái "tôi" chưa bao giờ được biết đến trong thơ
cổ điển. Cái "tôi" bấy giờ không làm việc "tải đạo" nữa mà
vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định
Buồn, cô đơn là tâm trạng của một cá thể thi
nhân nhưng lại là nét chung của các nhà thơ trong trường phái này. Đây không
phải là một hiện tượng lạ mà do những nguyên nhân khách quan chung. Họ không
biết phải làm gì, phải đi theo hướng nào giữa cái xã hội tan tác ấy. Họ cũng
không chấp nhận được cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt như mọi người xung quanh. Do
đó, họ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội.
Trong thơ mới có nhiều rạo rực, âu lo, có
nhiều khát vọng một cách vội vã, căng thẳng, chính cái mới này đã quyết định sự
ra đời của thơ mới.
Những tác phẩm ra đời đầu tiên được chính nhóm
Tự lực văn đoàn chê là "đọc lên nó lủng củng, trục trặc, lại có vẻ ngơ
ngẩn" và giáo sư Hoàng Như Mai cho rằng "bây giờ không ai kể nó ra
nữa, không phải vì bội bạc mà vì nó dở"[2]
Một đoạn trong bài "Tình già" của
Phan Khôi viết:
...Ôi đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng, mà
lấy nhau hẳn đà không đặng.
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng
sớm liệu mà buông nhau...
Một đoạn trong bài "Trên đường đời"
của Lưu Trọng Lư viết:
Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi
thủi.
Lẳng lặng với sương đeo im lìm cùng gió thổi
Không tiếng không tăm không thưa không hỏi...
Một đoạn trong bài "Hai cô thiếu nữ"
của Nguyễn Thị Manh Manh:
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
(Một cô ở chợ, một cô ở đồng)
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
(Cô đi chân không, cô đi dép đầm)
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
Bóng lụa hồng tách bóng vải thâm...
Tác
giả, tác phẩm tiêu biểu
Thơ
Thế Lữ: Nhớ rừng, Cây đàn muôn điệu...
Xuân Diệu: Vội vàng, Nguyệt cầm, Lời kỹ nữ...
Huy Cận: Ngậm ngùi, Tràng giang...
Lưu Trọng Lư: Tiếng thu, ...
Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vĩ Dạ,Mùa xuân chín...
Nam Trân: Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông...
Chế Lan Viên: Thu...
Phạm Huy Thông: Tiếng địch sông Ô...
Vũ Đình Liên: Ông đồ...
Nguyễn Nhược Pháp: Chùa Hương...
Tế Hanh: Quê hương...
Nguyễn Bính: Mưa xuân...
Đoàn Phú Tứ: Màu thời gian...
Thâm Tâm: Tống biệt hành...
Vũ Hoàng Chương: Say đi em...
T.T.Kh: Hai sắc hoa Tigôn...
Phê bình
Hoài Thanh: Thi nhân Việt Nam
Trả lờiXóahãng eva
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
ve may bay hang korean air
mua vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich