I. NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả và thời
điểm ra đời của tác phẩm
Xuân Diệu được coi là “ nhà thơ
mới nhất trong phong trào Thơ Mới” (Hoài Thanh) do chỗ ông hiện diện như một
cái Tôi tự ý thức sâu sắc nhất, mang đến một quan niệm hiện đại về nhân sinh
trong việc đề cao lối sống cao độ, giao cảm, tận hiến và một quan niệm hiện đại
về thẩm mĩ : lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp thay vì lấy thiên nhiên
như trong văn học trung đại.
Thi sĩ được giới trẻ tấn phong là “ ông hoàng của thơ tình yêu” bởi đã đem vào
thơ tình một quan niệm đầy đủ, toàn diện, một cách thể hiện mới mẻ, phong phú
đặc biệt là sự diễn đạt chân thực và táo bạo về tình yêu.
Xuân Diệu còn là một cây bút có nhiều tìm tòi, cách tân trong nghệ thuật ngôn
từ : lối diễn đạt chính xác, những thông tin cụ thể, tỉ mỉ mang tính vi lượng,
thơ giàu nhạc tính và sự sáng tạo trong việc sự dụng những cách nói mới nhờ
phát huy triệt để năng lực cảm nhận của các giác quan.
Xuân Diệu hấp dẫn bởi một phong
cách nghệ thuật độc đáo với ba đặc điểm chính:
- Một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm
trước sự vận động của thời gian
- Một trái tim luôn hướng đến
mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu nơi trần thế bằng niềm yêu đời, yêu sống cuồng
nhiệt, sôi nổi.
- Một nghệ sĩ học tập nhiều ở
cấu trúc câu thơ Tây phương hoàn thiện thơ trữ tình điệu nói để hiện đại hoá
thơ Việt.
Bài thơ Vội vàng được sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ thơ, thi phẩm đầu tay và ngay lập tức vinh danh Xuân Diệu như một đại
diện tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới.
2. Tri thức văn hoá
Vội vàng và nhiều bài thơ khác của Xuân Diệu thường gây ấn tượng với
công chúng bởi những lời kêu gọi kiểu :Nhanh với chứ với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tình
non sắp già rồi! hoặc Gấp lên em! Anh rất sợ ngày mai! Đời trôi chảy, tình
ta không vĩnh viễn!
Khi thi nhân cất cao những lời
kêu gọi : Mau lên thôi! Nhanh với
chứ! Vội vàng lên! mà
Hoài Thanh từng nhận xét một cách hóm hỉnh “là đã làm vang động chốn nước non lặng lẽ” thì không có nghĩa là anh ta đang tuyên truyền cho một triết
lý sống gấp từng bị coi là lai căng và vẫn bị đặt dưới một cái nhìn
không mấy thiện cảm của người phương Đông, một xứ sở vẫn chuộng lối sống khoan
hoà, chậm rãi.
Cần phải thấy rằng, bước vào
thời hiện đại, sự bùng nổ của ý thức cá nhân đã kéo theo những thay đổi trong
quan niệm sống và đánh thức một nhu cầu tự nhiên là cần phải thay đổi điệu
sống. Ý thức xác lập một cách sống mới nói trên càng ngày càng mạnh mẽ và sâu
sắc trong tầng lớp trẻ. Phát ngôn của Xuân Diệu trên phương diện thi ca chỉ có
tính cách như một đại diện.
Nhìn ở một góc độ khác, bài thơ
bộc lộ nét đẹp của một quan niệm nhân sinh mới : sống tự giác và tích cực, sống
với niềm khao khát phát huy hết giá trị bản ngã, tận hiến cho cuộc đời và cũng
là một cách tận hưởng cuộc đời.
3. Tri thức thể loại
Bài Vội vàng được viết theo phong cách chung của một thế hệ thi nhân xuất
thân Tây học, trưởng thành vào những năm 30 của thế kỷ trước được gọi chung là
phong trào Thơ Mới.
Thơ Mới vẫn được coi là một sự
nổi loạn trong sáng tạo nghệ thuật nhằm, một mặt, khước từ luật thơ gò bó, phản
ứng với quan niệm cố định về âm thanh, vần điệu, chống lại thói quen “ đông
cứng” văn bản thơ trong những cấu trúc đã trở thành điển phạm, kiểu ngắt nhịp
đã trở thành công thức, cách dùng từ đã trở nên sáo mòn; mặt khác, nỗ lực đổi
mới tư duy thơ trên nhiều phương diện. Chẳng hạn, mạnh dạn mở rộng diện tích
bài thơ, câu thơ, táo bạo trong việc thể nghiệm cấu trúc mới, cú pháp mới, nhịp
điệu mới, từ ngữ mới khai thác nhiều tiềm năng của tiếng Việt để làm giàu nhạc
tính cho thơ. Nhưng điều quan trọng hơn, nói theo nhận xét của Hoài Thanh, tất
cả chỉ nhằm để bộc lộ “ cái nhu cầu được thành thực” trong xúc cảm và suy tư
của một thế hệ.
IV. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Về nội dung
Sống vội vàng chỉ là một cách
nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm
phát huy cao độ giá trị của cái Tôi cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống
nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “
biện luận” rất riêng của tác giả.
a/ Từ phát hiện mới: cuộc
đời như một thiên đường trên mặt đất.
Bước vào bài
thơ, độc giả ngạc nhiên trước những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho
hương đừng bay đi!
Những lời tuyên bố đó chỉ có vẻ
kì dị, ngông cuồng bề ngoài, thực chất bên trong chứa đựng một khát vọng rất
đẹp : chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hoá vẻ đẹp của cuộc
đời.
Nhưng lý do nào khiến nhà thơ
nảy sinh niềm khao khát đoạt quyền tạo hoá để chặn lại dòng chảy của thời gian?
Trong quan niệm của người xưa,
đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lý do vì sao lánh đời nhiều
khi đã trở thành một cách thế sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ
trương vẫy gọi con người trên hành trình đi tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng
phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi niết bàn, cõi Tây Phương cực
lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Nam đều đề cao tâm
lý hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về với những giá trị trong quá
khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất. Xuân Diệu
thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh
đời là một xử thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao
vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất
không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chẳng phải là cái bể khổ
đầy đoạ con người bằng sinh,
lão, bệnh, tử … những định mệnh đã hàng
ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại, là cả một thế giới tinh khôi, quyến rũ.
Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong
tầm tay với. Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhân vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp
của cuộc đời bằng hàng loạt đại từ chỉ trỏ này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi
sống đầy quyến rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ ngọt ngào, trẻ trung và
đang như vẫn có ý để dành cho những ai đang ở lứa tuổi trẻ trung, ngọt ngào :
đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng
nội (đang) “xanh rì, đây làlá của cành
tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi.
Với đôi mắt xanh non của người trẻ tuổi, qua cái nhìn bằng ánh sáng chớp hàng mi, thi nhân còn phát hiện ra điều tuyệt vời hơn : Tháng Giêng, mùa
Xuân sao ngon như một cặp môi gần!
b….đến nỗi ám ảnh về số
phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi của tuổi
xuân:
Tuy nhiên, trong ý thức mới của
con người thời đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời
cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi,
mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì
trên đời là vĩnh viễn? Niềm ám ảnh đó khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới
bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của âu lo, bàng hoàng, thảng thốt.
Đấy là lý do vì sao mạch cảm
xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi : từ việc xuất hiện các kiểu câu định
nghĩa, tăng cấp : “nghĩa là (3lần/3dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực
chất là để cảm nhận về hiện
hữu và phôi pha đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của
mùa xuân, tuổi xuân nhằm thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời
người rồi cất lên tiếng than đầy khổ não :
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất!
Cũng từ đây thiên nhiên chuyển
hoá từ hợp thành tan:
Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Dường như tất cả đều hoảng sợ
bởi những chảy trôi của thời gian, bởi thời gian trôi đe doạ sẽ mang theo tất
cả, thời gian trôi dự báo cái phai tàn sắp sửa của tạo vật. Thế là từ đây, thời gian không còn là một đại
lượng vô ảnh, vô hình nữa, người ta nhận ra nó trong hương vị đau xót của chia
phôi, người ta phát hiện nó tựa một vết thương rớm máu trong tâm hồn :
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy
miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công đã trở thành một
quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó được
triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa
: lòng người rộng” mà lượng trời chật; Xuân
của thiên nhiên thì tuần
hoàn” mà tuổi trẻ của con người
thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô
thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà
con người, sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “
bất công” này thôi thúc cái tôi cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.
c. Và những giải
pháp điều hoà mâu thuẫn, nghịch lý:
Từ nỗi ám ảnh về số phận mong
manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo bạo. Con
người không thể chặn đứng được bước đi của thời gian, con người chỉ có thể phải
chạy đua với nó bằng một nhịp sống mới mà nhà thơ gọi là vội vàng. Con người
hiện đại không sống bằng số lượng thời gian mà phải sống bằng chất lượng cuộc
sống – sống tận hưởng phần đời có giá trị và ý nghĩa nhất bằng một tốc độ thật
lớn và một cường độ thật lớn.
Đoạn thơ cuối trong bài gây ấn
tượng đặc biệt trước hết bởi nó tựa như những lời giục giã chính mình lại như
lời kêu gọi tha thiết đối với thế nhân được diễn đạt bằng một nhịp thơ gấp gáp
bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, cuồng nhiệt yêu đời và yêu
sống.
Rõ ràng, lẽ sống vội vàng bộc
lộ một khát vọng chính đáng của con người. Như đã nói, đây không phải là sự
tuyên truyền cho triết lý sống gấp mà là ý thức sâu sắc về cuộc sống của con
người khi anh ta đang ở lứa tuổi trẻ trung, sung sức nhất. Xuân Diệu từng tuyên
ngôn : “Thà một phút huy hoàng
rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm chính là tuyên ngôn cho chặng đời đẹp nhất này. Vội vàng, vì
thế là lẽ sống đáng trân trọng mang nét đẹp của một lối sống tiến bộ, hiện đại.
Tuy chưa phải là lẽ sống cao đẹp nhất nhưng dù sao, trong một thời đại mà lối
sống khổ hạnh, “ép xác, diệt dục” là không còn phù hợp nữa, nó là lời cổ động cho một lối sống
tích cực, sống trong ý thức phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của
cái Tôi.
Tuy nhiên, lối sống vội vàng
đang còn dừng lại ở sự khẳng định một chiều. Một lẽ sống đẹp phải toàn diện và
hài hoà : không chỉ tích cực tận hưởng mà còn phải tích cực tận hiến.
2. Về nghệ thuật
Nét độc đáo trong cấu tứ.
Bài thơ có sự kết hợp hài hoà
hai yếu tố : Trữ tình và chính luận. Trong đó, chính luận đóng vai trò chủ yếu.
Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh
kinh hoàng khi phát hiện về sự mong manh của cái Đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ
trước sự huỷ hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập
luận, lí giải về lẽ sống vội vàng, thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến cho độc
giả, được trình bày theo hệ lối qui nạp từ nghịch lý, mâu thuẫn đến giải pháp.
Là cây bút tích cực tiếp thu
thành tựu nghệ thuật thơ trung đại và đặc biệt cái mới trong thơ phương Tây,
Xuân Diệu có nhiều sáng tạo trong cách tạo ra cú pháp mới của câu thơ, cách
diễn đạt mới, hình ảnh mới, ngôn từ mới.
Ví dụ trong đoạn thơ cuối, tác
giả cũng đã mạnh dạn và táo bạo trong việc sử dụng một hệ thống từ ngữ tăng cấp
như : ôm” ( Ta muốn ôm ), riết (
Ta muốn riết ) ,“say” ( Ta muốn say ), thâu (
Ta muốn thâu )…Và đỉnh cao của đam mê cuồng nhiệt là hành động cắn vào mùa xuân của cuộc đời, thể hiện một xúc cảm mãnh liệt và
cháy bỏng. Không dừng lại ở đó, tác giả còn sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả
sự tận hưởng: “chếnh choáng, đã đầy, no nê…diễn tả niềm hạnh phúc được sống cao độ với cuộc đời.
eva air booking
đại lý vé máy bay đi mỹ
korean air vietnam
mua vé máy bay đi mỹ ở đâu
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich