Thần đồng âm nhạc MÔ DA
Lê Ngọc Thùy Trâm
Vôn-gang A-ma-đơ Mô-da
là nhạc sĩ thiên tài, một ngôi sao chói lọi, một thần đồng trong lịch sử âm
nhạc thế giới. Tất cả những từ đẹp đẽ nhất để nói về tài năng âm nhạc đều xứng
đáng có thể dành cho ông. Mô-da được mệnh danh là “Mặt trời âm nhạc” do tài
năng kiệt xuất, độc nhất vô nhị, cũng như tính chất âm nhạc rất trong trẻo, rực
rỡ, tươi sáng. Ngay từ khi còn sống, cuộc đời của Mô-da đã có nhiều chi tiết
đặc biệt. Vì thế, theo dòng thời gian, cuộc đời ông được tô điểm bằng nhiều câu
chuyện mang nét huyền thoại, không rõ hư hay thực.
Mô-da sinh ngày
27/1/1756 trong một gia đình âm nhạc ở thị trấn San-buốc, nước Áo. Cha là
Lê-ô-pôn, một nghệ sĩ chơi đàn violon có tiếng trong dàn nhạc của nhà quí tộc ở
San-buốc, ông cũng là người dạy dỗ âm nhạc cho Mô-da. Gia đình Mô-da có 2 người
con, đó là Nan-nếc, chị gái và Mô-da. Hai chị em cùng tỏ ra có năng khiếu đặc
biệt về âm nhạc. Nan-nếc nhiều hơn em trai năm tuổi, từ khi 4 tuổi, cô đã có
biểu hiện của một tài năng âm nhạc, chỉ sau một năm luyện tập đã đánh được
những bản nhạc khá hóc búa. Tuy nhiên, tài năng của người em còn vượt xa hơn.
Sở dĩ, người ta gọi Mô-da là thần đồng âm nhạc vì tài năng của ông đặc biệt và
được bộc lộ từ lúc còn rất nhỏ.
Một buổi sáng mùa thu
năm 1758, bà Anna Maria- mẹ của Môda ở nhà cùng cậu con trai, ông
Lê-ô-pôn đã đi làm, còn Nan-nếc thì đi học. Như lệ thường, bà ngồi vào đàn
clavơxanh (đàn piano cổ) và bắt đầu chơi những bản nhạc mà hàng ngày Nan-nếc
vẫn luyện tập. Trước đó, bà cẩn thận đặt Mô-da ngồi trên chiếc ghế, phía bên
phải cây đàn, để vừa đánh đàn vừa dễ dàng quay sang nói chuyện và trông nom cậu
bé.
Trong khi mẹ chơi đàn,
Mô-da rất chăm chú nghe và quan sát những ngón tay đang di chuyển của bà mẹ, có
vẻ như những bản nhạc đang thu hút được sự chú ý của cậu. Không lâu, sau khi đã
chơi một số bản nhạc ngắn, bà Maria đứng lên, đi vào bếp để lấy một cốc nước.
Trước khi đi, bà đẩy chiếc ghế mà Mô-da đang ngồi sát lại cây đàn, cho cậu bé
bám vào thành đàn đề phòng cậu có thể bị ngã.
Khi đang rót nước vào
cốc, bà Maria chợt nghe thấy bản nhạc vừa chơi vang lên từ phòng khách, thầm
ngạc nhiên nghĩ rằng cô con gái hôm nay lại đi học về sớm, bà hỏi vọng ra ngoài
phòng khách: “ Sao về học sớm vậy, Nan-nếc ? ”. Không có tiếng trả lời, bà liền
nghiêng người nhìn ra phía ngoài. Bỗng nhiên bà sững người, suýt đánh rơi
cả chiếc cốc trên tay, khi nhìn thấy cậu con trai bé nhỏ của mình đang mải miết
đánh lại bản nhạc mà lúc trước bà đã tập. Tuy mức độ thuần thục và tốc độ của
bản nhạc chưa thật chính xác, nhưng đó chính là bản nhạc mà bà vừa chơi. Không
tin được ở mắt mình, sau giây lát định thần, bà Maria tiến gần lại cây đàn, nơi
cậu bé vẫn đang say sưa chơi nhạc, bà hỏi:
-Con trai của mẹ, tại
sao con đánh được bài này ? Chị Nan-nec đã dạy con từ khi nào vậy ?
-Không, chị đã dạy con
đâu, vừa nghe mẹ chơi đàn, con chỉ đánh lại thôi. Bà mẹ càng ngạc nhiên :
-Con nói gì? Vừa nghe
mẹ chơi mà con đã đánh được như vậy sao? Không thể tin nổi ? Thấy cậu con trai
tỏ vẻ chú ý và rất thích thú với cây đàn, bà Maria hỏi:
-Nếu con muốn tiếp tục
được đánh đàn, hãy nghe mẹ chơi đoạn nhạc ngắn này, rồi con thử đánh lại xem.
Tay trái giữ vai
Mô-da, còn tay phải bà chạy trên những phím đàn một giai điệu ngắn. Ngay khi
giai điệu vừa kết thúc, bàn tay bé xíu của cậu bé đặt lên phím đàn, không
hề có chút ngập ngừng, cậu đánh lại giai điệu vừa xuất hiện. Cậu chơi chính xác
cứ như đã từng tập nó nhiều lần. Bà Maria lại chuyển sang một giai điệu khác,
lần này đó là một câu nhạc do bà tự nghĩ ra, Mô-da cũng đánh lại chính xác. Rồi
những câu tiếp theo, ngày càng trở nên dài hơn, khó nhớ hơn, cậu bé cũng
đánh lại được gần như là hoàn hảo. Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác,
càng thử, bà Maria càng thấy được khả năng đặc biệt của con trai mình.
Đến trưa, khi ông
Lê-ô-pôn về nhà, việc đầu tiên, bà Maria gọi ông đến bên cây đàn để cho ông
chứng kiến khả năng đặc biệt của cậu con trai. Bây giờ đến lượt ông bố ngỡ
ngàng khi thấy con trai mình, mọi ngày chỉ bình thường như những cậu bé khác,
bỗng nhiên có những biểu hiện đặc biệt của một thiên tài âm nhạc. Sau khi kiểm
tra kỹ năng khiếu của con trai bằng những đoạn nhạc khá hóc búa, ông tự hào nói
với vợ: “ Đó là một tài năng đặc biệt, rồi em xem, mai đây, mọi người sẽ nhắc
đến thằng bé nhà mình nhiều đấy”.
Điều đó đã sớm xảy ra,
chỉ ít lâu sau, dưới sự hướng dẫn của ông Lê-ô-pôn, hai đứa con của ông đã cùng
nhau luyện tập đồng thời hai loại nhạc cụ là violon và clavơxanh, chúng có thể
biểu diễn độc tấu cũng như hoà tấu một cách khá thuần thục. Trong khi người khác
phải mất nhiều năm mới có thể học để hoàn thiện kỹ thuật chơi một trong hai
nhạc cụ này, thì chỉ trong hai năm, những đứa con ông đã nắm được kỹ thuật
trình diễn thành thạo, đặc biệt là Mô-da. Cậu vừa có kỹ thuật tốt, có nhạc cảm
và tỏ ra có tâm lý vững vàng trong khi biểu diễn. Chính vì thế Mô-da thường
được ông Lê-ô-pôn giới thiệu trong các cuộc trình diễn âm nhạc ở San-buốc, sau
đó là thành phố Viên- thủ đô nước Áo, và khắp các thành phố lớn của Châu Âu.
Một buổi sáng trước
khi đi làm, ông Lê-ô-pôn gọi Mô-da đến và trao cho cậu một bản nhạc. Ông muốn
con trai mang bản nhạc tới nhà ông chủ rạp hát, đó là món quà của ông Lê-ô-pôn
tặng con gái ông chủ rạp hát nhân dịp sinh nhật cô bé.
Mô-da hiếm khi được ra
khỏi nhà một mình, mọi cảnh vật trên đường đều rất mới lạ với cậu bé. Trên
đường tới nhà ông chủ rạp hát phải qua dòng kênh nhỏ, Mô-da dừng lại trên thành
cầu và ngắm nhìn không chán mắt cảnh những chiếc thuyền trôi dưới dòng kênh.
Bỗng làn gió mạnh thổi tới, bản nhạc rời khỏi tay Mô-da và bay nhanh xuống dòng
kênh.
Mô-da buồn bã quay về
nhà, cậu chưa biết sẽ nói gì với cha về chuyện vừa xảy ra. Ông Lê-ô-pôn đi làm
chưa về. Mô-da ngồi vào đàn và chơi những khúc nhạc ngắn, trong đầu cậu chợt
loé lên một suy nghĩ. Mô-da liền sáng tác một bản nhạc và mang nó đến nhà ông
chủ rạp hát, thay cho bản nhạc đã rơi xuống dòng nước.
Hôm sau, ông Lê-ô-pôn
tới chơi nhà ông chủ rạp. Trước khách mời, ông này tươi cười nói với ông
Lê-ô-pôn:
- Bản nhạc của bác hay
tuyệt. Bác có muốn nghe lại không?
Lê-ô-pôn nhã nhặn cảm
ơn. Con gái ông chủ rạp đàn những nốt nhạc đầu tiên. Ông Lê-ô-pôn thoáng giật
mình vì thấy đó không phải là khúc nhạc của mình. Ông tiến lại gần cây đàn và
nhìn vào bản nhạc. Quả thật như vậy, đó không phải là bản nhạc của ông sáng
tác, ông nhận ra những nốt nhạc được viết bởi cậu con trai mình.
Bản nhạc kết thúc,
những tiếng vỗ tay vang lên. Ông chủ rạp hồ hởi nói:
- Đó là một khúc nhạc
thật trong sáng và đáng yêu. Tôi và con gái rất hài lòng khi nhận được món quà
này của bác.
Khi về tới nhà, ông
Lê-ô-pôn gọi Mô-da tới và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Cậu bé kể lại câu chuyện
về bản nhạc rơi xuống dòng nước. Ông Lê-ô-pôn không mắng cậu bé, ông chỉ xoa
đầu con trai và nói:
- Con đã viết được
khúc nhạc thật hay, cha tự hào vì điều đó. Cha tin sau này con sẽ trở thành một
nhạc sĩ lớn.
Lời tiên đoán của ông Lê-ô-pôn đã sớm trở thành sự thật. Ít năm sau, Mô-da đã
trở thành nhạc sĩ nổi tiếng khắp châu Âu và thế giới.
Câu chuyện trên xảy ra
khi Mô-da mới 6 tuổi.
Vào thời kỳ đó, thành
Viên là nơi tập trung của những nhạc sĩ giỏi nhất thế giới, họ tìm đến đây để
học tập, sáng tác âm nhạc và muốn khẳng định khả năng, danh tiếng của mình. Vì
thế Viên được coi là thủ đô của nền âm nhạc Châu Âu, ở đây người dân rất yêu âm
nhạc, thành phố có nhiều nhà hát, nhiều dàn nhạc xuất sắc và các nhạc sĩ tài
ba. Tuy nhiên nhờ tiếng tăm nổi như cồn của thần đồng âm nhạc San-buốc, khi mới
sáu tuổi, Mô-da đã cùng với chị gái được biểu diễn âm nhạc trong hoàng cung của
nước Áo. Buổi diễn này có mặt rất đông cận thần, đại sứ các nước, có hoàng tử
và công chúa tham dự và đặc biệt là sự có mặt của nữ hoàng của nước Áo
thời bấy giờ là Ma-ri-a Tê-rê-da. Phần đầu của buổi hoà nhạc do hai chị em cùng
chơi, hoà tấu bốn tay trên cây đàn clavơxanh, trình độ biểu diễn của hai chị em
đã đạt tới trình độ xuất sắc và nhận được sự tán thưởng rất nhiệt tình của giới
thượng lưu nước. Điều này không hề đơn giản, vì những người ở đó đều có sự am
hiểu về âm nhạc. Phần tiếp theo, Mô-da biểu diễn một mình những khúc nhạc tuỳ
hứng mà cậu ưa thích. Những âm thanh vang lên, một làn âm thanh hoà quyện nhau
như một dòng suối ùa ra tưởng chừng như bất tận, cung điện như tràn ngập ánh sáng,
tràn ngập hương thơm và màu sắc của vô vàn loài hoa trên thế gian.
Khi tiếng đàn cuối
cùng của Mô-da vừa tắt, nữ hoàng Tê-rê-da giơ cao hai bàn tay lên, cả cung điện
như thừa lệnh của nữ hoàng, cùng rền lên những đợt vỗ tay tưng bừng, những lời
ngợi khen ùa ra, tưởng như không thể dứt. Một nhạc sĩ già, vóc người nhỏ nhắn,
ăn mặc trang trọng, bước đến gần cậu, đặt tay lên vai, nhìn thật lâu vào đôi
mắt đang tập trung và gương mặt hơi tái đi vì cảm xúc của cậu bé. Ông khẽ kêu
lên:
- Không thể ngờ được !
Thật là siêu phàm !
Nữ hoàng quay lại phía
ông, nói gần như đáp lại lời ông:
-Đúng thế, ông
Hay-đơn ! Đây thật sự là một hiện tượng siêu phàm !
Người đàn ông đứng đó,
chính là nhạc sĩ Hay-đơn nổi tiếng và vĩ đại của thành Viên, Ông cúi đầu, nói
với Mô-da bằng một giọng trầm, như nói với một người bạn tâm tình:
- Ta ngày xưa cũng đã
sáng tác âm nhạc từ năm lên sáu đấy, cháu ạ. Nhưng ta khổ cực lắm ! Ta là đứa
trẻ mồ côi, cháu hiểu không, tức là không còn cha mẹ nữa ấy mà ! Cháu giỏi lắm,
nhất định cháu còn có khả năng tiến rất xa.
Đúng lúc đó, hoàng tử
Giô-dép, là con trai cả của Tê-rê-da, một người cũng có nhiều năm học tập âm
nhạc, tiến lại trao cho Mô-da một cây violon và nói giọng thách thức:
- Cậu bé quê mùa,
còn đủ sức chơi thêm một bản nữa không ?
Mô-da nhìn thẳng vào
mắt Giô-dép và đỡ lấy cây đàn. Sau khi biểu diễn nhiều, cậu đã rất mệt. Lướt
nhìn quanh như muốn tìm một hình ảnh nào đó quen thuộc, ánh mắt cậu dừng lại
trước công chúa út đang ngồi ngoan ngoãn trên chiếc đệm gần nữ hoàng. Cô bé mặc
áo xa-tanh mầu hồng, thêu thùa rất đẹp. Cô có đôi mắt đầy thiện cảm, đang mở to
nhìn Mô-da, trông cô giống như Lu-i-da, người bạn thân thiết nhất của Mô-da
đang sống ở San-buốc. Cảm giác đó làm Mô-da vui hẳn lên, cậu nhắm mắt lại,
nghiêng người, đưa chiếc ác-sê lướt trên dây đàn, một dòng âm thanh óng mượt và
trong vắt như từ trên trời buông xuống, trong giây lát, căn phòng bỗng trở nên
lặng tờ. Mô-da đã ứng tác bản nhạc thật hay, thật bất ngờ mà không hề chuẩn bị
trước. Khi tiếng nhạc dứt, cậu phải nghiêng mình đáp lễ đến bốn năm lần mà
tiếng hoan hô vẫn vang lên. Quay người lại phía nữ hoàng định chào lần cuối,
bỗng nhiên, Mô-da thấy choáng váng, mọi vật chao đảo, cậu bước thêm một bước và
ngã nhào xuống tấm thảm trên sàn.
Viên quan hầu đứng ở
gần cửa kêu lên, vội bước tới, nhưng công chúa út đã nhanh hơn, cô vụt nhảy
khỏi chỗ ngồi, chạy lại đỡ Mô-da dậy. Mô-da ngẩng đầu lên và nhìn thấy ánh mắt
đầy ân cần, trìu mến đang nhìn mình tha thiết.
- Lu-i-da !- Mô-da
buột miệng kêu lên.
- Không phải Lu-i-da
đâu ! Tôi là Tô-ni ! Mà thôi, cậu đừng xấu hổ nhé ! Cái sàn này trơn lắm. Mọi
ngày chơi ở đây, tôi vẫn bị ngã luôn ấy mà !
Những lời an ủi giản
dị, thân tình ấy làm Mô-da muốn khóc lên vì cảm động. Cậu lập cập đứng thẳng
dậy, không biết nói gì, nước mắt cứ định trào ra. Công chúa nắm tay Mô-da dắt
cậu lại gần chiếc ghế của Tê-rê-da, nữ hoàng hỏi:
- Con có đau không ?
Mô-da nhìn công chúa
Tô-ni với ánh mắt biết ơn, trả lời:
- Con không sao ạ !
Công chúa thật tốt bụng ! Khi lớn lên, lệnh bà cho cô ấy kết bạn với con được
không ạ ? Con thích sẽ được chơi thân với cô ấy !
Tô-ni nói ngay:
- Sao lại không ? Thưa
mẫu hậu, con cũng thích được chơi với cậu nhạc sĩ này. Mẫu hậu sẽ đồng ý chứ ?
Nữ hoàng Tê-rê-da
trong lúc đang có tâm trạng phấn chấn liền cười và nói vui:
- Để sau này ta nhận
nó vào cung dạy nhạc cho con nhé ! Sẽ tha hồ mà kết thân với nhau !
Tức thì, công chúa Tô-ni vòng tay ôm hôn mẹ, trông cô bé có vẻ rất sung sướng,
còn Mô-da thì đứng ngây người không biết sao.
Nhưng về sau,
tình bạn ấy chẳng bao giờ diễn ra, Mô-da không thể hình dung nổi, công chúa
Tô-ni xinh đẹp và tốt bụng ngày ấy, sau này lại trở thành một hoàng hậu hết sức
thâm hiểm của nước Pháp. Công chúa Tô-ni lớn lên, trở thành hoàng hậu Ma-ri
Ăng-toan-nét, một người có nhiều tham vọng, đầy quyền hành và những mưu mô ghê
gớm. Hai năm sau khi Mô-da qua đời, hoàng hậu Ma-ri Ăng-toan-nét bị Toà án Cách
mạng Pháp xử tử vào năm 1793, cùng với chồng là nhà vua Lu-y thứ 16.
Những ngày tháng Hai
năm 1790 ở Viên rất lạnh giá. Gió rét căm căm. Buổi tối, một làn sương
mỏng bao trùm lên thành phố, càng tăng vẻ u ám. Một cỗ xe ngựa mang biểu trưng
hoàng gia nước Áo dừng lại trước cửa nhà Mô-da, trong xe không thắp đèn, hai vị
quan hầu của hoàng cung vội vã bước xuống, chạy vội vào phòng Mô-da, gõ cửa.
Mô-da đang ngồi sáng tác bên cây đàn dương cầm, một ngọn nến lớn toả sáng trước
mặt.
-Thưa nhạc sư- Viên
quan hầu nói- Thánh thượng mệt nặng, Người sai chúng tôi đến triệu ngài, xin
hãy đi ngay cùng chúng tôi.
Mô-da ngạc nhiên đứng
dậy, vội vàng mặc áo khoác, trở vào dặn vợ- Công-xtăng mấy câu, rồi bước ra xe.
Anh được đưa tới Suên-brun, lâu đài của hoàng gia nước Áo.
Đêm lạnh lẽo mù mịt.
Lối sỏi quen thuộc như đưa anh trở về quá khứ của mình. Lòng buồn vui lẫn lộn,
xen cả chút mệt mỏi, lo âu. Giô-dép cần gì đến anh, một nhạc sĩ nghèo nàn, quẫn
bách, trong đêm giá rét buồn bã này ?
Mô-da được đưa tới một
căn phòng lớn, có thắp những ngọn nến to. Một chiếc giường rộng trải đệm màu
trắng, trên đó là một người đàn ông khổ người to lớn nhưng gầy guộc, khuôn mặt
lúc thì đỏ vì sốt cao, lúc lại tái vì những cơn đau. Mấy vị ngự y chăm sóc sức
khoẻ cho nhà vua, đang ngồi trên những chiếc ghế nhỏ ở một góc, thì thầm trao
đổi gì với nhau. Thấy Mô-da bước vào, họ đứng dậy chào. Một người đến bên hoàng
đế, thông báo, Mô-da được lệnh cho tiến lại gần.
Hướng về phía Mô-da,
vua Giô-dép nói thều thào:
- Ta muốn anh đánh cho
ta nghe những bản nhạc của anh, bản nhạc nào thật ấm áp, yêu đời, bởi vì lúc
này, ta đang phải đơn độc chiến đấu với thần chết !
Mô-da cúi thấp người,
tỏ ý tuân lệnh, những người hầu cận đẩy chiếc đàn piano vào phòng. Ngồi xuống
ghế, anh đặt tay lên phím đàn, nhớ lại khúc nhạc tuổi thơ ấu mình hay dạo.
Ngẩng mặt lên, anh thấy những bức chân dung rất lớn treo trên tường. Có cả chân
dung nữ hoàng Tê-rê-da và công chúa út Tô-ni thời con gái. Anh bỗng quên đi
không khí bệnh tật xung quanh, vẻ mặt khắc khổ của nhà vua, quên đi những ánh nến
lung linh như ma quái trên tường, quên đi cả bao điều cay cực, bất công mà đời
anh đã phải gánh chịu. Anh chìm vào khúc nhạc tuyệt vời của mình. Âm thanh tràn
khắp phòng như những tia lửa rực sáng, ấm áp. Khúc nhạc tươi rói, mạnh mẽ, tuôn
trào từ trong tâm hồn, lướt trên những ngón tay, chứa đầy sức sống tuổi thanh
xuân. Mô-da như đang nhìn thấy mùa xuân đã xa rồi ở Viên, hoa táo và hoa mận nở
trắng trong các khu vườn xanh mát, màu nắng mai trên những ngọn tùng cao óng
ánh, như những ngọn tháp nhọn dát đầy vàng. Anh nhớ lại tuổi thơ kỳ diệu
của mình, một thần đồng âm nhạc, khi ấy Giô-dép đang còn là một thái tử đầy
hiếu thắng, đã thách thức đưa cho anh cây đàn violon để thử tài. Anh đã thắng
cuộc, nhưng rồi chóng mặt ngã nhào xuống thảm, và cô bé Tô-ni dịu dàng hồi ấy
chưa là hoàng hậu nước Pháp, đã chạy đến nâng anh dậy. Trí tưởng tượng và âm
nhạc đưa anh đi mãi. Mô-da thấy lại mẹ anh, vẻ mặt hiền hậu, thường thích ủ tay
cho con bằng những củ khoai tây nướng nóng, trước khi anh dạo đàn. Anh thấy lại
chị Nan-nếc, hồi đó còn xinh đẹp, thông minh, còn tài năng biết bao nhiêu ! Và
ông bố anh, ngày ấy đang tràn đầy nghị lực, vui vẻ tự tin, dắt tay anh, đưa anh
đi tới những ngả đường rộng mở trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Mô-da chợt choàng tỉnh
khi nghe tiếng thở mạnh của vua Giô-dép. Anh quay sang và nhìn thấy những giọt
nước mắt đang lăn trên khuôn mặt gầy guộc của đức vua.
- Hãy dừng lại, Mô-da,
ta xin cảm ơn anh- Nhà vua nói chậm rãi, nhưng rõ ràng, ngừng một lát, ông nói
tiếp- Anh là người đã biết sống xứng đáng, vì cái đẹp của cuộc đời ! Còn ta, ta
chỉ biết sống vì trật tự của nó ! Ta đã làm hết sức, nhưng tới phút này, trước
khi nằm xuống, ta cũng chưa rõ đã đạt tới mục đích hay chưa ? Ta có tất cả,
quyền lực, triều đình, quân đội, đất đai. Còn anh, anh có trái tim và đôi tay
như bao người khác. Nhưng biết đâu, những thế kỷ sau, dân tộc áo sẽ đánh giá
anh hơn cả ta ! Ta chưa bao giờ có cảm giác nhỏ bé trước quyền lực, những có
những giây phút, ta thấy mình thật nhỏ bé trước cái đẹp vĩnh cửu của cuộc đời.
Mô-da giữ yên đôi tay
trên phím đàn, xung quanh là một sự im lặng thiêng liêng. Anh hiểu là nhà vua
đang thốt ra những lời tự thú của một người đang hấp hối, không còn là lời nói
của một ông vua, với kẻ thần dân nghèo hèn. Trong thâm tâm anh vẫn kính trọng
Giô-dép, đó là một ông vua có ý chí, có hiểu biết và khao khát làm được những
công việc vĩ đại. Ông muốn trở thành minh quân, những có lẽ đã không đạt được.
Hơn bao giờ hết, anh cảm thấy buồn rầu sâu sắc, thậm chí còn thương hại ông ta,
mặc dù đối với anh, đó là con người đang có địa vị cao sang tột đỉnh.
Nhà vua Giô-dép qua
đời ngày 20/2/1790. Những lời nói của Giô-dép ngày ấy, đến nay đã trở thành sự
thật, lịch sử đánh giá rất cao vai trò của Mô-da. Mô-da là con người của cả
nhân loại, trong khi Giô-dép chỉ là một ông vua của nước Áo.
Vào một đêm tháng Năm,
năm 1791, có một cơn mưa giông dữ dội đổ xuống thành Viên. Ngôi nhà của Mô-da
chìm trong im lặng khi mọi người đều đã đi ngủ, anh bước xuống phòng khách để
tắt ngọn nến cuối cùng. Chợt nghe thấy tiếng gõ cửa khá mạnh, Mô-da thầm ngạc
nhiên vì không hiểu trong đêm mưa to, gió lớn lại rất khuya khuắt như thế này,
người nào có việc gì mà tìm đến anh. Dừng ở giữa phòng, nghe tiếng gõ vẫn vang
lên, Mô-da do dự bước đến gần cánh cửa, tay cầm ngọn nến, anh cất tiếng:
- Ai thế ?
Lẫn trong tiếng mưa
rơi, Mô-da vẫn nghe rõ tiếng người rành rọt:
- Xin hãy mở cửa ? Tôi
muốn gặp ngài Mô-da.
- Tôi đây, nhưng xin
ông đi cho, đã khuya rồi lắm. Nếu có việc gì, ngày mai mời ông quay lại.
- Thưa ngài, việc của
tôi rất gấp, chỉ xin gặp ngài ít phút thôi, tôi hứa sẽ không dám làm phiền ngài
lâu.
Mô-da rất do dự những
nghe lời nói khẩn thiết của người lạ, anh kéo then cài, hé cánh cửa, nhìn ra
bên ngoài. Đúng lúc ấy, một ánh chớp loé lên, làm Mô-da nhìn rõ hình dáng người
lạ mặt, khiến anh rùng mình lùi lại. Đó là một người cao lớn, chắc phải là đàn
ông, ông ta đội chiếc mũ che mưa rộng vành, mặc trang phục toàn bộ bằng vải mầu
đen. Ghê gớm hơn, nhờ ngọn nến và ánh chớp loé sáng, Mô-da còn thấy ông ta che
mặt bằng chiếc khăn đen, dáng vẻ thật lạ lùng, đặc biệt. Định khép cửa lại,
nhưng không kịp, người lạ mặt đã giơ tay giữ lấy cánh cửa, giọng nói của ông ta
trầm xuống:
- Thưa ngài, xin đừng
sợ, tôi có lí do để mang trang phục như thế này. Nhưng đảm bảo với ngài, tôi sẽ
không làm điều gì khiến ngài phải phật ý. Hãy để tôi vào phòng, xin ngài hãy
nghe tôi nói.
Nghe những lời này,
Mô-da đã bình tâm lại đôi chút, khép cánh cửa lại. Mô-da quay vào phòng và đối
mặt với con người lạ lùng đó.
- Tôi xin được trao
đổi với ngài câu chuyện của tôi trong phòng riêng được không ? Tôi muốn được
giữ kín chuyện này.
- Tôi không có phòng
riêng, vả lại mọi người trong nhà đã ngủ hết rồi, có chuyện gì, xin ông nói
ngay cho- Ngập ngừng rồi Mô-da hỏi- Ông có muốn ngồi không ?
Người lạ mặt quay
người nhìn xung quanh, những giọt nước mưa từ chiếc mũ rộng vành của ông ta bắn
ra thành một vòng. Tiến lại gần hơn một bước, ông ta nói khẽ :
- Tôi xin được vào
ngay câu chuyện của tôi.- Dừng lại, ông ta nói tiếp - Để giữ bí mật cho việc
này, xin ngài đừng để ý đến cách ăn mặc của tôi. Thưa nhạc sĩ, tôi cũng làm
nghề sáng tác âm nhạc, tôi làm việc đó cho một nhà thờ ở cách xa vùng này. Thưa
ngài, tôi có một gia tài lớn, nhưng tôi mới mắc phải một căn bệnh nguy hiểm,
căn bệnh đã đến giai đoạn cuối và thời đại này chưa có cách chữa. Bác sĩ nói,
có thể tôi chỉ sống được ít ngày nữa. Vậy là tôi sẽ chết mà không để lại dấu ấn
gì cho cuộc đời, những bản nhạc tôi viết, chưa bao giờ gây được tiếng vang nào
cả. Xin hãy nhận lời cho tôi việc này. Hãy viết một bản nhạc và bán nó cho tôi,
tôi biết ngài đang rất khó khăn, nhưng với số tiền của tôi, ngài sẽ vượt qua
được những khó khăn đó.
- Tại sao ông lại chọn
tôi ? Ông cần bản nhạc như thế nào ?
- Bởi vì ngài đang là
người giỏi nhất ? Tôi cần một Khúc cầu hồn (Requiem).
Hãy viết một bản cầu hồn thật đặc biệt, có 12 chương. Làm nhanh cho tôi, đừng
để bất kỳ ai biết và ngài sẽ nhận được những gì xứng đáng.
Trên bàn tay đi găng
tay mẫu đen của người đàn ông kia, từ lúc nào đã xuất hiện một túi tiền, bước
thêm vài bước, ông ta đặt nó lên bàn. Rồi ông ta đi ra cửa, quay lại, nói bằng
giọng nhẹ nhàng, nhưng rất rõ:
- Xin hãy giữ kín cho.
Một bản cầu hồn có 12 chương. Ông ta kéo cửa và bước vào màn đêm.
Gió lạnh thổi ùa vào,
Mô-da vội bước lại, đóng cánh cửa, anh nhìn ra ngoài, thấy cỗ xe ngựa đang lăn
bánh rất nhanh giữa trời mưa, anh ngạc nhiên vì chẳng nghe thấy cả tiếng vó
ngựa.
Mô-da quay vào và ngồi
xuống ghế, im lặng hồi lâu, anh bỗng cảm thấy mệt mỏi rã rời, mọi việc diễn ra
như một giấc mơ, Mô-da thầm nghĩ. Nhưng nhìn thấy túi tiền nằm nghiêng trên
bàn, anh thở dài, vì hiểu rằng đó không phải là giấc mơ mà là sự thật.
Với khoản tiền 50
đuy-ca đó, gia đình Mô-da đã có điều kiện trang trải, mua sắm những vật dụng
cần thiết. Nhưng kể từ hôm đó, hình ảnh về con người lạ mặt và yêu cầu lạ lùng
của ông ta cứ ám ảnh Mô-da mãi. Vội vàng hoàn thành xong những bản nhạc khác
đang viết dở, Mô-da suy nghĩ và bắt đầu viết khúc nhạc cầu hồn, với cảm giác
như mình đang mắc vào một món nợ rất lớn. Hình ảnh người đàn ông lạ mặt thường
xuyên xuất hiện trong tâm trí của Mô-da và anh liên tưởng đến ông ta giống như
thần chết đang đến đòi nợ mình. Rồi có những khi anh tự hỏi, mình đang viết
khúc cầu hồn này cho ai, cho con người lạ lùng đó hay để cầu hồn cho chính
mình. Sức khoẻ của anh trước đây đã rất yếu, lại càng suy sụp đi từ đó.
Người lạ mặt còn quay
lại thêm hai lần nữa, vẫn vào những lúc đêm rất khuya, và vẫn với bộ trang phục
kỳ quái của mình. Ông ta tỏ vẻ hài lòng với những ý tưởng và những khúc
nhạc Mô-da đã viết xong, nhưng vẫn hối thúc anh phải làm nhanh hơn nữa. Mô-da
nhận được số tiền lớn hơn so với lần trước, và nhờ thế, vợ anh là Công-xtăng có
điều kiện đi chữa bệnh.
Những ngày cuối đời,
Mô-da đã làm việc với mức độ phi thường, anh dồn sức vào việc hoàn thành bản
cầu hồn, anh muốn đó sẽ là một bản nhạc vĩ đại. Tuy mang tính chất cầu hồn,
nhưng bản nhạc phải toát lên tấm lòng yêu cuộc sống, yêu con người bi thiết,
bản nhạc mà Mô-da có dự cảm là đang đang dành cho chính bản thân mình.
Đêm 19/11/1791, khi
Mô-da mới chỉ viết hết chương thứ tám trong bản cầu hồn, một cơn sốt nặng ập
đến, tay và chân anh cứng lại, cử động rất khó khăn, nhưng trí tuệ vẫn rất minh
mẫn. Ý nghĩ đau khổ và bất lực vì phải bỏ lại trên đời một gia đình nghèo
túng, bơ vơ, làm Mô-da day dứt không nguôi.
Ngày 3/12, biết mình
đã đi đến chặng cuối của cuộc đời, nằm trên giường bệnh trong nhà, Mô-da cho
gọi Đuy-xmay-ê là người học trò thông minh và đáng tin cậy nhất đến. Đưa
Đuy-xmay-ê tập bản thảo khúc cầu hồn, anh đã kể lại cho người học trò
nghe toàn bộ câu chuyện về sự ra đời của bản nhạc này. Mô-da nhờ Đuy-xmay-ê
viết nốt bốn chương còn lại để hoàn tất bản nhạc, anh hướng dẫn Đuy-xmay-ê viết
theo phác thảo và ý đồ của mình và dặn, nếu người lạ mặt đó tìm đến, hãy đưa
trả bản nhạc và không nhận thêm tiền của ông ta nữa.
Mô-da qua đời vào ngày 5/12/1791. Nhớ lời thầy dặn, sau đó Đuy-xmay-ê đã
viết tiếp bốn chương còn lại của bản nhạc này một cách khá xuất sắc. Giữ bản
nhạc này một thời gian, Đuy-xmay-ê dặn vợ Mô-da rằng, nếu thấy người đàn ông
nào đến đòi bản cầu hồn, hãy chỉ ông ta tới gặp Đuy-xmay-ê. Chờ đợi mãi, nhưng
con người bí ẩn đó đã không xuất hiện, có thể ông ta sợ câu chuyện bị vỡ lở,
hoặc có thể ông ta đã chết trước Mô-da. Cuối cùng, Đuy-xmay-ê đưa trả bản nhạc
cho vợ Mô-da là Công-xtăng, và kể lại tất cả. Về sau, bản nhạc được gửi tới nhà
in và vẫn giữ tên tác giả là Mô-da. Câu chuyện từ đó lan rộng ra và người ta
thường đặt câu hỏi. Trong cuộc đời mình, Mô-da đã bán bản nhạc nào chưa,
hay Khúc cầu hồn là bản duy nhất Mô-da định bán và chưa thực
hiện được. Dù sao, bản Khúc cầu hồn vẫn là sáng tác cuối
cùng của nhạc sĩ vĩ đại, và nó xứng đáng là một kiệt tác trong nền âm nhạc thế
giới.
Đến những phút cuối
trong đời, Mô-da vẫn khăng khăng từ chối không để thầy tu đến rửa tội. Trái lại
ông chỉ ao ước: “ Trời ơi ! Giá có ai kịp đánh cho tôi được nghe một đoạn nhạc
trong vở Cây sáo thần của tôi, thì hay quá ! “
Nhạc trưởng Rô-xne là
bạn của Mô-da, đêm ấy, mới ở buổi biểu diễn vở nhạc kịch Cây sáo thần,
từ nhà hát trở về, rẽ vào thăm Mô-da và kể cho ông nghe kết quả của đêm biểu
diễn. Mô-da nhắc lại đề nghị và Rô-xne ngồi ngay xuống chiếc piano, đánh cho
ông nghe bản tình ca của chàng Pa-pa-ghê-nô, chàng nông dân hiền lành và vui
tính. Tiếng đàn vang lên, những âm thanh ríu rít, vui vẻ như nhảy nhót trong
thinh không, và Mô-da hài lòng thiếp đi trong nụ cười. Đêm ấy, ông mê sảng
trong cơn sốt cao và không tỉnh lại được nữa. Lúc mười hai giờ đêm, khi tiếng
chuông nhà thờ Xanh Ê-chiên vẳng lại, ông bừng tỉnh, mở mắt, nhưng cái nhìn đã
trở nên trống rỗng, như nhìn vào cõi hư vô. Ông nhắm mắt lại như ngủ, yên
lặng, không kêu rên một lời, và lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng vào rạng
sáng ngày 5/12/1791.
Cái chết của Mô-da là
một tổn thất nặng nề với nền âm nhạc của nước Áo và với thành Viên, nhạc sĩ vĩ
đại này qua đời khi đang trong giai đoạn sung sức nhất của sự nghiệp sáng tác
âm nhạc. Tuy nhiên, do không cộng tác và có những bất đồng với giáo hội lúc còn
sống, vị tổng giám mục nhất định không cho phép chôn thi hài của Mô-da ở nghĩa
trang chính trong thành phố. Gia đình buộc phải an táng thi hài của ông ở nghĩa
trang Xanh Mac, một nghĩa trang dành cho người nghèo, nôi chôn cất những kẻ
lang thang, cơ nhỡ. Đó lại là một sự bất công nữa dành cho Mô-da, sau bao nhiêu
điều tốt đẹp ông đã để lại cho cuộc sống.
Buổi chiều ngày 6/12,
mây đen và giá lạnh bao phủ khắp bầu trời, không khí u tối và ảm đạm lạ lùng.
Vì rất yếu, nên vợ Mô-da không thể đi đưa tang chồng. Bà phải nhờ những người
bạn và học trò của Mô-da lo liệu giúp. Lúc đầu, khi đám tang rời khỏi ngôi nhà
của Mô-da, chầm chậm đi trên các đường phố, có rất đông người đi theo
linh cữu, họ muốn được tiễn biệt người nhạc sĩ tài năng nhất của thành
Viên, con người mà họ mến mộ, yêu quí. Nhưng thời tiết hôm đó quá khắc
nghiệt, trước khi cỗ xe bắt đầu chuyển bánh, bão tuyết đã nổi lên. Vì thế, cỗ
xe tang do ngựa kéo, càng tiến về phía ngoại ô, số người đi theo ngày càng thưa
dần. Khi chiếc xe vượt qua chiếc cầu, ranh giới giữa nội thành và ngoại thành,
Đuy-xmay-ê và những học trò khác của Mô-da quay đầu nhìn lại, họ thấy số
người đi theo chỉ còn rất ít. Sang tới ngoại ô, cỗ xe phải tiếp tục lăn bánh trên
con đường lầy lội, gập ghềnh, hai bên đường chỉ có những cánh đồng hoang, hiu
quạnh. Giông bão ở đây còn dữ dội hơn nhiều so với trong thành phố, tuyết bay
mù mịt khắp nơi, đến nỗi chỉ đứng cách nhau vài mét đã không nhìn rõ mặt. Chỉ
còn một đoạn đường ngắn nữa là vào tới nghĩa trang, bỗng nhiên chiếc xe sa
xuống vũng lầy, không thể đi tiếp được nữa. Người thì đẩy, người thì kéo, người
thì thúc ngựa, nhưng đường quá trơn nên cỗ xe chẳng hề nhúc nhích. Có ai đó
chợt nghĩ ra, đề nghị mọi người tạm tìm chỗ trú mưa, đợi mưa gió ngớt đi, sẽ
mang thi hài của Mô-da vào trong nghĩa trang chôn cất.
Tất cả nhanh chóng tản
ra tìm chỗ trú mưa, để lại cỗ xe nằm giữa đường, nhưng quanh đó chẳng có chỗ
nào có thể dừng chân được. Trời bắt đầu sâm sẩm tối, tiếng gió rít và
tiếng tru của những con chó hoang vẳng lại nghe ghê rợn, ngay cả những cái cây
mà mọi người chạy đến để trú chân cũng bị vặn vẹo, nghiêng ngả. Không thể tiếp
tục đứng như thế được nữa, họ bảo nhau chuyển thi hài Mô-da vào trong nghĩa
trang chôn cất, để có thể sớm quay về thành phố. Mọi người cất tiếng gọi nhau
và cùng chạy lại cỗ xe ngựa. Đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu bằng
cách nào, cỗ xe đã vượt qua vũng lầy và để tới cổng nghĩa trang, nhưng trên xe
ngựa, thi hài của Mô-da không còn nữa. Chỉ thấy đôi ngựa đang dậm chân, vùng
vẫy, có vẻ rất bồn chồn, sợ sệt. Những người phu đào huyệt hỏi nhau, xem ai
mang quan tài vào nghĩa trang hay chưa. Nhưng tất cả cùng quả quyết, không ai
làm việc đó, vả lại trong lúc mưa bão dữ dội như thế thì chẳng ai có thể làm
nổi. Hai người học trò của Mô-da chạy vào trong nghĩa trang để tìm kiếm, sau ít
phút họ quay ra và nói, không phát hiện ra điều gì trong đó.
Cuối cùng thì mọi
người cũng chẳng muốn ở lại, để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Họ giục nhau
mau chóng quay trở về, giống như tháo chạy khỏi nơi mưa gió, quạnh hiu và
bí ẩn này. Những ngày tiếp theo, bão tuyết và giông tố liên miên, chẳng ai lai
vãng đến nghĩa địa nữa. ít lâu sau, vài học trò thân tín của Mô-da cùng vợ ông
có quay lại nghĩa trang để tìm hiểu thêm, họ có hỏi những người phu đào huyệt,
những tất cả đều lắc đầu, không thể giải thích được điều gì đã xảy ra.
Từ đó đến nay, đã có
bao nhiêu cuộc tìm kiếm ngôi mộ của Mô-da, nhưng không đạt được kết quả. Thi
hài của Mô-da có thể đã được trả về với đất, hoà lẫn với cát bụi, hoàn toàn vô
danh, vô tăm tích, giống như bao nhiêu người chết nằm trong nghĩa địa này.
Sau này, khi tên tuổi
Mô-da ngày càng trở nên nổi tiếng, tại nghĩa trang Xanh Mac, người ta đã xây
dựng một ngôi mộ rất đẹp để tỏ lòng biết ơn nhạc sĩ tài năng này. Ngày ngày,
những người từ khắp nơi trên thế giới đến đây, họ đặt lên mộ ông những bó hoa
tươi thắm và cùng im lặng, như muốn để nghe thấy những điệu nhạc tuyệt vời của
ông. Tuy nhiên, trong ngôi mộ trang trọng đó không có thi hài của Mô-da. Ngôi
mộ đặc biệt đó cũng giống như bao nhiêu điều đặc biệt khác trong cuộc đời
Mô-da, mãi nhắc nhở chúng ta không quên được một tài năng âm nhạc kiệt
xuất trong lịch sử nhân loại.
đại lý vé máy bay eva air
vé máy bay đi mỹ hạng thương gia
mua ve may bay hang korean air
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch