Thi nhân Việt Nam - từ góc nhìn văn hóa
Mai Anh
Tuấn
1. Trên
bìa sau của Tạp chí Tri Tân số xuân Quí Mùi (số 81+82, tháng
1+2 năm 1943) có đăng một quảng cáo rất thú vị: “Đã có bán Thi nhân
Việt Nam (1932-1941) của Hoài Thanh và Hoài Chân, in lần thứ 2” với
lời chua của tờ Điện tín Saigon phía dưới: “Tết năm nay anh em nào ưa
thích văn chương nếu chẳng có quyển Thi nhân Việt Nam bên ấm
trà sen, đĩa mứt ngọt hay bên mâm đèn, Tết ấy mất phần hứng thú hết năm bảy phần”,
kèm thông tin giá cả tương ứng với ba loại giấy sách khác nhau: loại thường,
loại bouffant hảo hạng và loại versé baroque crème hoa mĩ cầu kì [[1]].
Gạt bỏ những
mục đích thương mại mà sự chỉnh chu, chuyên nghiệp của nhà in tư nhân Nguyễn
Đức Phiên đã hiển thị rõ và xứng đáng đồng tiền bát gạo trong lời chào hàng này
thì, ai cũng thấy Thi nhân Việt Nam [TNVN] đang là cuốn
sách bán chạy, vừa in năm trước (1942) đã tái bản liền sau đó, khiến một tạp
chí chủ trương “ôn cố” là Tri Tân, giữa lúc nồng nhiệt mời mọc
những cuốn khảo cứu đậm chất quá vãng của cử nhân Dương Bá Trạc (Chữ Nho học
lấy và Gia lễ giản yếu) đã không thể thờ ơ với cuốn
sách đầy tính kim thời như thế. Còn lời chua phía dưới thì đã đặt TNVN –
một vật phẩm văn chương đơn thuần, bên cạnh hai thức phẩm quen thuộc mà trang
nhã – trà sen, mứt ngọt và thú ăn chơi dẫu ngày nay là trụy lạc nhưng phổ biến
bấy giờ – hút thuốc phiện, như bộ ba chân kiềng tạo nên giá trị cái Tết mẫu mực
của con nhà chữ nghĩa. Vậy là, ngay từ lúc tuổi thôi nôi, TNVN đã
sớm xác lập tiếng nói của mình, bước vào đời sống với tư cách quí tử trong thập
niên mà cái mới, cái hiện đại đã xác lập được quyền thế của mình trên cơ địa
cái cũ, cái truyền thống đang dần hồi tỉnh lại. Nhưng chừng mười năm sau
(1951), người cha của cậu quí tử ấy, Hoài Thanh, với thái độ không gì quyết
liệt hơn, bắt đầu gạch tên nó bởi lí do “đồng minh của giặc”, còn chính mình
thì bắt đầu lộ trình Xây dựng văn hóa nhân dân, Nói chuyện
thơ kháng chiến… Rồi lại mười năm sau (1962), giữa lúc Hoài Thanh vừa ráo
mực lời phán quyết “cần phải bôi vôi” vào “những câu thơ rầu rĩ… bám vào đầu óc
như đỉa”, thì với không ít người, bản in roneo TNVN xuất
hiện rụt rè có thể là điểm tựa tinh thần cho những tuổi đôi mươi vào chiến
trường. Bởi thế khi mọi nỗ lực “lèn cho đau” không làm đứa con tuổi tứ
tuần (1982) quị ngã, thì Hoài Thanh mới dám trăng trối rằng, nhờ nó
mình “mới thực sự là một nhà văn”[[2]], danh hiệu cả đời ông phụng sự,
rồi đem theo tên TNVN gắn lên mộ chí, một kết thúc có hậu để
càng thấm thía hơn cái mệnh đề một lời là vận vào thân lâu nay
chưa mấy ai ngẫm nghĩ thấu đáo: của tin, gọi một chút này làm ghi. Kể từ đó, TNVN chu
du sang tận Paris, rực rỡ với đôi cánh mạnh mẽ mà họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung đã
khoác lên hôm nào, rồi được long trọng kỉ niệm ngày lên lão (1992)
và cho đến nay, dù ở tuổi thất thập, đã ai dám tiên đoán rằng nó sẽ
mất sức hấp dẫn, dẻo dai khi mà số lần tái bản lên đến hàng chục, với sự chen
chân liên tiếp của giới đầu nậu sách ? Đặc biệt hơn, TNVN còn
được diễn giải không ngừng bởi các cây bút nghiên cứu phê bình thế hệ sau[3],
một thế hệ đã/đang tạo nên ít nhiều giá trị mới/khác với Hoài Thanh, để càng
củng cố vị trí và thế giá cổ lai hi xưa nay hiếm của nó. Những
diễn biến phức tạp và có phần kì lạ bất thường ấy, thiển nghĩ, sẽ gây hứng thú
bàn luận hơn khi đưa TNVN vượt khỏi phạm vi tác phẩm phê bình
thi ca thuần túy, đặng đặt trong lòng diễn biến văn hóa Việt trong suốt hành
trình mà nó được tạo tác, chung sống, trải nghiệm. Cũng bởi thế, bài viết này
bắt đầu từ một thôi thúc cá nhân: có gì để viết về TNVN nữa
khi im lặng chiêm bái nó cũng đã được xem là hành động thông minh, đáng phục?
2. Sự
đắt hàng của TNVN giai đoạn đầu có một nguyên nhân rõ ràng: sự
thắng lợi tất yếu của Thơ Mới. Nên khi cả báo chí và nói chung, đa phần các
sinh hoạt văn chương thời đó, kể cả của những đương sự tạo nên thơ Mới, lẫn
chứng nhân quan sát, đều đang thỏa mãn với thành quả mình tạo ra, thì có một
bản tổng kết với tinh thần chủ yếu là ca ngợi nó, sẽ đáp ứng sự đồng cảm, chia
sẻ của số đông. Hơn nữa, với bố cục rõ ràng, lối viết ngắn gọn, sự tuyển lựa kĩ
càng cùng dàn ghế đại biểu chính thức (45) và đại biểu danh dự (01) khá cởi mở
cả về giới tính, TNVN, hơn bất kì công trình nào lúc đó, cho thấy
gương mặt, bước đi giọng nói tổng quát của thơ Mới; những bài thơ hay và tác
giả tiêu biểu của trào lưu này. Sự khẳng định của Hoài Thanh vừa hợp thời vừa
vượt thời bởi, nếu có công trình nào đi ngược lại nhằm hạ bệ thơ Mới, thì nó
thường bị yểu mệnh. Đành rằng, không ai nghĩ Hoài Thanh “hôi danh” thơ Mới mà ông
đã nói rất thực lòng nhưng lẽ nào TNVN đứng ngoài những dư
vang lẫn hệ lụy của thơ Mới đương thời và ngày sau ? Thăng trầm của TNVN,
sẽ không mất công chứng minh, gắn với thăng trầm thơ Mới và ngược lại. Cả hai,
trong suốt thời gian song hành, đã là nhị trùng tính cách lẫn số phận.
Nhìn
một cách khái quát TNVN không duy nhất và đặc biệt đến
mức khó lòng nhận ra vùng giao thoa văn học văn hóa của thời đại trong nó. Nói
cách khác, Hoài Thanh đã ngẫu nhiên (hoặc tất nhiên) chịu ảnh hưởng hoặc sử dụng
các diễn ngôn phê bình thơ Mới đương thời để bổ sung, phát triển, xây dựng một
số luận điểm ở TNVN. Về điểm này, Hoài Thanh có lợi thế người
trong cuộc, từng tham gia tranh đấu giành ưu thế cho thơ Mới, sẽ từ đại cảnh
vừa diễn ra, cận cảnh những điểm nhấn, điểm nổi bật. Cái “lịch sử vấn đề thơ
Mới” với Hoài Thanh là từ cuối 1934 trên Tiểu thuyết thứ Bảynhưng ở TNVN,
có thể nói, là sự chiết xuất ít nhiều từ các bài báo bênh vực thơ Mới dồn dập,
các bài tựa tập thơ Mới liên tục ra đời. Một đồng nghiệp của Hoài Thanh, Lê
Tràng Kiều, từ giữa năm 1936 đã liên tục đăng bài giới thiệu, bình phẩm thơ Mới
trên Hà Nội báo với thái độ nhiệt thành không ngừng nghỉ.
Trong khối tư liệu chưa thể nói đầy đủ nhất về thơ Mới lúc đó nhưng chính Lê
Tràng Kiều đã gọi đây là “cuộc cách mệnh về thi ca” và đưa ra một loạt mệnh đề
khá rõ ràng: “Từ bao giờ đến bây giờ, người ta đã có mấy lần một tâm hồn: Hùng
tráng như Huy Thông; Dồi dào như Thế Lữ; Huyền diệu như Thái Can; Âm thầm như
Đông Hồ; Trong sáng như Nhược Pháp…;Và một tâm hồn đầy âm nhạc, đầy mộng ảnh
như Lưu Trọng Lư” (Hà Nội báo, 4/1936). Cả về cấu trúc lẫn ý tứ trong
đoạn này đã được Hoài Thanh tái sử dụng, nâng cấp thành kết luận kinh điển bắt
đầu bằng “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần…”. Chưa hết, cũng
chính Lê Tràng Kiều lần lượt định danh thơ Mới Đông Hồ “là tình yêu, tình yêu
trẻ trung đẹp đẽ, ngây thơ với bao nhiêu cái đức tính và đặc tính của tuổi trẻ”
[TNVN: Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ]; thơ
Mới Nhược Pháp “đã dựng lại một thế giới: ngày xưa” [TNVN: Với đôi ba
nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa]… Xúc cảm và tuyển
lựa những bài thơ hay của Lê Tràng Kiều, trong trường hợp Thế Lữ (Bên sông
đưa khách, Vẻ đẹp thoáng qua), Lưu Trọng Lư (Tiếng thu),
Vũ Đình Liên (Ông đồ) cũng có điểm tương đồng với TNVN.[4] Ở khía cạnh khác, đóng vai gợi dẫn,
định hướng cho bình phẩm của Hoài Thanh còn có lời tựa đi kèm trong các tập: Thơ
thơ, Lửa thiêng, Mùa cổ điển, Điêu tàn.
Vì thế, phát hiện thi sĩ mới Xuân Diệu “một linh hồn rạng rỡ và say mê, đằm
thắm hiện ở trong những điệu thơ êm dịu và ái ân, thiết tha và bồng bột” của
Thế Lữ; thơ Huy Cận “bay dậy tiếng địch buồn” của Xuân Diệu hay lẩy ra “cả một
bầu không khí Tống, Đường” trong thơ Quách Tấn của Chế Lan Viên, sẽ
được phục hồi, lưu dấu trong TNVN về sau. Hoài Thanh đủ tinh
tế và nhanh nhạy để lĩnh nhận những tiên cảm mà người đi trước phác thảo, bao
gồm cả những lá thư hẳn có chứa lời tự bình nhất định của chính các thi sĩ gửi
cho tác giả TNVN, góp phần khả dĩ “điểm mặt” khi tuyển lựa. Nếu “có
những tên chẳng gợi trong trí người ta chút kí ức nào cả” như Đinh Gia Trinh
phát hiện [Thanh Nghị, 1942][[5]]thì
được Hoài Thanh nhỏ to rằng bản thân có “rộng rãi” với mình nên “bài
hay vừa tôi cũng trích” cốt để nói lên “cái đời bây giờ”. Nhưng một khi thời
đại không thấy đó là thơ hay thì mặc lòng, TNVN có rung động
thành thực tiến cử bao nhiêu, trong con mắt văn đàn, chủ nhân những bài thơ ấy
vẫn làm “mất điểm” các thi sĩ có tiếng khi bị/được đứng chung, khiến mấy chục
năm sau [1970], Nguyễn Vỹ vẫn lắc đầu khó hiểu trước sự chênh lệch đẳng cấp
này. Nguyễn Vỹ cũng như vài “kẻ xa lạ” khác đã không được TNVN chào
đón nồng nhiệt [[6]].
Vì chính Hoài Thanh rất thành thực chấp nhận “đứng ngoài” những “tâm hồn không
lối vào” – một thế ứng xử không quá ngạc nhiên, vì, với bối cảnh lúc đó, thấu
hiểu được những hồn thơ “bưng bít” như cách ông diễn đạt, mới là đáng ngạc
nhiên… TNVNhẳn đã dự sẵn trong nó bản hợp đồng ngầm với cảm nghĩ
của đại đa số lúc đó.
Đương
khi ấy, trong năm 1942, cuốn Việt Nam thi ca luận [[7]] của Lương Đức Thiệp do Khuê
Văn xuất bản, cũng đã dành nhiều dung lượng để bàn về “Thơ Việt Nam hiện đại”
gắn với các thi sĩ thơ Mới vừa xuất hiện. Lương Đức Thiệp mở đầu bằng nhận xét
rất đồng thuận với TNVN: “Muốn nhận rõ xu hướng thi sĩ Việt Nam
hiện đại, ta tưởng cũng cần phải biết một vài điều sơ lược về lịch trình tiến
triển của thi ca Pháp mà lớp thi sĩ chúng ta đã chịu ảnh hưởng gần hay xa, mờ
hay tỏ, trực tiếp hay gián tiếp”. Kế đó, Lương Đức Thiệp chủ trương trật tự của
thơ “phải là trật tự của nguồn cảm xúc. Mà trí tuệ là dải đê, dãy đồi hướng dẫn
cảm xúc xuôi dòng”. Bởi thế, tuy không bỏ qua Nguyễn Xuân Sanh như một trường
hợp đặc biệt của lối thơ “cô đặc”, “thuần túy” nhưng diễn giải của Lương Đức
Thiệp vẫn coi thơ của đại diện Xuân thu nhã tập là “tối tăm”
“nguồn rung động chưa lan truyền” “giết chết một phần chân cảm”. Lương Đức
Thiệp cởi mở song chưa thể dự trù thấu đáo lối đi, khúc ngoặt của thơ Mới đã
chuyển sang tượng trưng, siêu thực. Lối viết thiên về luận đôi khi rườm rà đã
cản trở sức mạnh phát tán của các ý tưởng chính trong công trình. Rút cuộc, tuy
cùng năm sinh nhưng Việt Nam thi ca luận thật vắn số, không đủ
sức cạnh tranh với TNVN đã đành, lại bị đời sau quên lãng.
“Luận” đã thất thế trước “bình” là một thực tế văn hóa: tư duy lí tính, lí
thuyết, dù ở mức độ sơ khai, đều không phải là điểm mạnh và có khả năng chỉ đạo
tâm lí tiếp nhận văn học ở Việt Nam.
Sức
hấp dẫn của TNVN, như nhiều người ái mộ luận bàn, là ở lối viết
giàu chất trữ tình, khơi gợi, cảm xúc tràn đầy. Cách thức “lấy hồn tôi để hiểu
hồn người” không chỉ diễn tả trọn vẹn quan điểm tuyển lựa TNVN mà
còn chi phối hệ lời của Hoài Thanh khi bình phẩm. Hệ lời ấy,
không đâu khác, là sản phẩm văn hóa thời đại mà khu biệt hơn, là dòng chảy thẩm
mĩ lãng mạn đã len vào mọi sinh hoạt tư tưởng tinh thần, đặc biệt là sáng tác
thơ ca. Với thẩm mĩ lãng mạn thì “hồn” là cội nguồn cảm xúc, vui buồn, rung
động, yêu thích; cũng đồng thời là nấc thang giá trị quan trọng … nên, như Hoài
Thanh thú nhận, “làm sao lời nói của tôi không đượm chút bâng khuâng lúc xem
thơ”. Bâng khuâng là một lối ra của “hồn” vậy. Khi các lối ra nhận được mã tín
hiệu phù hợp, nó trở nên thăng hoa. Dễ hiểu vì sao Hoài Thanh đồng điệu và viết
rất nồng nhiệt về Xuân Diệu, bởi thi sĩ họ Ngô này là người cung cấp dồi dào
các chứng từ về “hồn”: 7/15 bài được trích đều nhắc đến “hồn”, “linh hồn”. Từ
đó, Hoài Thanh giải mã nó theo lối thẩm mĩ hóa tính từ trạng thái: cái ngạc
nhiên, cái cốt cách, cái vẻ đài các, cái xôn xao, cái gì rung rinh, cái náo
nức… Chúng là bằng cớ sinh động cho một giai đoạn cả cộng đồng say mê miêu
thuật các trạng thái tình cảm bằng lối trang trọng, vượt ngưỡng từ loại để cho
thấy tính thiêng liêng, cao vời của nó mà ngày nay nhìn/đọc lại, chúng ta không
khỏi ngạc nhiên, thậm chí giễu nhại. Điều lạ lùng ở chỗ, có thể do tính duy cảm
và trực giác đã tiếp tay cho lối phê bình dễ dãi nên nhiều người tỏ ra sùng
kính quan điểm phê bình của Hoài Thanh rồi trưng dụng luôn hệ lời TNVN,
biến không ít bài phê bình chỉ là bài phát biểu cảm tưởng kéo dài. Cũng phải
nói thêm rằng, không ai ngoài Hoài Thanh có thể trả lời đầy đủ vì sao ông lại
hắt hủi TNVN đến thế. Cũng khó có thể khẳng định chắc như đinh
đóng cột rằng vì sao TNVN được minh oan chiêu tuyết nhiều đến
thế. Nhưng giữa hai động thái gần như trái ngược và tồn tại suốt nửa thế kỉ qua
về/của TNVN như một trường hợp tiêu biểu cho phép chúng ta
bước đầu cảm nhận: Ngữ cảnh văn hóa Việt Nam khiến rất nhiều cá nhân
không an tâm trước sản phẩm mình làm ra và trong nhiều trường hợp, đã dùng đến
những “biện pháp mạnh” để tiêu khử nó với một hi vọng không lời rằng đó cũng là
cách để quẳng nó vào tương lai, hồi sau xem xét.
3.
Trong khi Hoài Thanh, vào bối cảnh xã hội thay đổi, đã tự phê phán chính hệ lời
mình từng say mê và sử dụng thì việc nhiều người đời sau suy tôn TNVN như
một điển phạm, có lẽ, cần tỉnh táo. Nếu hàng ngàn bài viết, từ phổ thông đến
đại học, đều trích dẫn TNVN mỗi khi nói về thơ Mới và nếu ai
từng giảng dạy lâu năm, sẽ bắt gặp câu cửa miệng (đơn cử) “nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ Mới” mà nhiều thế hệ học sinh lặp lại một cách vô cảm khi
nhắc tới Xuân Diệu thì chúng ta sẽ trưng đáp án nào cho câu hỏi về bước phát
triển hay sự thay đổi của [khoa] học phê bình văn học, hay ít nhất, phê bình
thơ Mới ? Chúng ta sẽ không coi biểu hiện trên là giá trị TNVN luôn
“sống trong lòng công chúng” mà phải đối diện với một thực tế chắc chắn diễn ra
nhiều năm: ít có công trình, thông tin nghiên cứu về thơ Mới nào được cập nhật
kĩ càng ngoại trừ một TNVN đã “chắc suất” tại vị liên tục
trong các bài giảng; hoặc, giả định đã giới thiệu nhưng phần đông đã quen khẩu
vị TNVN nên không (thể) coi những công trình khác được tiếp
cận và xây dựng bởi phương pháp khác là giá trị, là cứ liệu quan trọng để đối
sánh, hậu bổ thêm những tri nhận về thơ Mới. Thực tế này xuất phát từ một
nguyên nhân sâu xa, ấy là khi Hoài Thanh, nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Hưng
Quốc, “đủ tinh tế để thấy hoa nhưng không đủ tinh tế để thấy mầm”[[8]] thì đa số độc giả đương thời
và về sau sẽ tri âm với TNVN, nghĩa là tri âm với thơ Mới, nghĩa là
tri âm với mĩ học chủ nghĩa lãng mạn. Kéo dài sự tri âm đó, vô hình chung,
không kịp phát hiện và cổ vũ những đường hướng tuy khác lạ nhưng có thể báo
hiệu giá trị mới. Hơn nữa, lối viết ngắn gọn, cảm xúc của TNVN làm
an tâm độc giả khi đó vốn là những chủ thể háo của - ăn tình cảm lãng mạn.
Nhưng độc giả hiện đại muốn có cách viết diễn ngôn, nơi các phán đoán thẩm mĩ
là một thử thách trí tuệ. TNVN đã qui phạm hóa cái đẹp trong
thơ Mới qua những tên tuổi nổi bật nhưng sẽ là ảo tưởng nếu hiện nay, ai đó
muốn lặp lại kì tích như Hoài Thanh. Chờ đợi một Hoài Thanh đương đại sẽ phủ
nhận vai trò độc giả hôm nay, những người có sức hấp thụ thẩm mĩ đa dạng và
phức tạp, bị/chủ động phân hóa theo nhiều khuynh hướng khác nhau trước một bối
cảnh văn học văn hóa toàn cầu muôn vẻ muôn màu.
Ở
trên, tạp chí Tri Tân đã không mất nhiều lời để thương hiệu
hóa một vật phẩm văn chương. Ngày nay, trong các hiệu sách, TNVN,
thay vì đôi cánh lãng mạn, là những cành tre cành trúc dân dã ngoài trang bìa
nhưng hấp dẫn ở lời chua “tái bản có chỉnh lí bổ sung”. Song không một ai giải
thích rõ “chỉnh lí bổ sung” ở điểm nào, do ai, dựa vào đâu [ít ra phải nói dựa
vào bản 1988] để độc giả khỏi lần hồi năm Hoài Thanh mất và xác tín đó không phải
là việc làm đáng quí của người đã về thiên cổ gần ba mươi năm. TNVN đã
được/bị đại chúng hóa, giải thiêng hoàn tất. Mâm đèn, trà sen, mứt ngọt, hỏi có
đau lòng không ?!
Đã đăng trên Văn
nghệ Trẻ, ra ngày 25/9/2011. Đây là bản đầy đủ.
[2] Những diễn biến về Hoài Thanh và Thi
nhân Việt Nam sử dụng trong đoạn này có thể xem thêm ở bài“Lời cuối
sách” của Từ Sơn, đăng lần đầu trong Thi nhân Việt Nam,
bản in 1988. Nxb Văn học.
[3] Có thể kể, gần đây, những diễn giải của:
Hoàng Ngọc Hiến với bài ‘Phê bình văn học của Hoài Thanh và phê bình văn học
hiện nay’ trong tạp chí Hợp Lưu số 49. 1999; Đỗ Đức Hiểu trả lời phỏng
vấn ‘Về phê bình hiện nay ở Việt Nam’ trong cuốn Thi pháp
hiện đại [2000]; ]; Trần Đình Sử với bài ‘Về phương pháp phê
bình văn học của Hoài Thanh’ trong cuốn , Lí luận và phê bình
văn học [2006]; Nguyễn Đăng Điệp với bài ‘Văn chương, cái đẹp và
một triết lí phê bình’ trong cuốn Vọng từ con chữ [2004]; Đỗ
Lai Thúy với bài ‘Hoài Thanh – tôi lấy hồn tôi để hiểu hồn người’ trong cuốn Phê
bình văn học, con vật lưỡng thê ấy [2011]
[4] Những trích dẫn bài viết của Lê Tràng Kiều
lấy từ sách 10 thế kỉ bàn luận về văn chương; tập III. Nxb GD,
H.2007, tr.393-444.
[5] Trong năm 1942, Đinh Gia Trinh đã có hai
bài viết nhắc đến Thi nhân Việt Nam. Bài thứ nhất, Những
hoạt động văn chương Việt Nam trong năm vừa qua [tức năm 1941 –
M.A.T], đăng trên Thanh Nghị số 10, sau khi nhận xét “các sách
phê bình văn chương có thể coi là hiếm” đã lấy ‘cuốn sách phê bình về thi sĩ
Việt Nam hiện đại (Thi nhân Việt Nam)” làm bằng cớ “một khuynh hướng mới trong
sự khảo xét các hiện tượng ở văn chương và rất đáng để ta chú ý”. Bài thứ hai, Nói
chuyện thơ nhân quyển Thi nhân Việt Nam 1932-1941 đăng ở Thanh
Nghị số 19, một cách kĩ càng và có đối thoại, Đinh Gia Trinh đã phân
tích thêm một số hiện tượng thơ, vấn đề thơ ca mà Thi nhân Việt Nam chưa
bàn luận thấu đáo. Nhìn chung, cả hai bài viết đều cho thấy Đinh Gia Trinh có
tinh thần phân tích nghiêm ngặt.
[7] Trích từ sách 10 thế kỉ bàn luận
về văn chương; tập II; tr 787 - 871; Trong sách này, tiểu sử của
Lương Đức Thiệp chưa được đầy đủ. Theo tìm hiểu của chúng tôi, có thể bổ sung
những nét cơ bản sau: Lương Đức Thiệp (1904-1946), quê quán: thôn Vệ Dương, xã
Tân Phúc, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông từng cộng tác với các báo Tri Tân,
Tao Đàn, Thanh Nghị, Văn Mới..., đóng góp nhiều chuyên đề về văn học Việt Nam,
nhất là xã hội học Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Các tác phẩm chính: Việt
Nam thi ca luận (1942); Việt Nam tiến hóa sử (1943); Xã hội Việt Nam (1943);
Văn chương và xã hội (1944); Nghệ thuật thi ca (1945); Duy vật sử quan (1945)
[8] Nguyễn Hưng Quốc cũng có nhiều bài viết
nhắc đến Thi nhân Việt Nam, tiêu biểu như các bài “Chức
năng chính của phê bình trong thời điểm hiện nay”; “Điển phạm: một
trung tâm của lịch sử và phê bình văn học”; “Phê bình phê bình”…[trên
www.tienve.org] Thiển nghĩ, mục đích của Nguyễn Hưng Quốc không nằm ở việc đánh
giá phương pháp phê bình Hoài Thanh đúng hay không đúng mà ở việc, qua cách
diễn giải một điển phạm, cho độc giả cách đọc mới về đọc và viết.
Mục đích ấy triển khai theo mấy hướng: thứ nhất, thừa nhận tính chủ quan trong
việc chọn đối tượng ở Thi nhân Việt Nam và coi đó là quyền của
nhà phê bình được tôn trọng, nên không thể phê bình sự lựa chọn ấy. Nhưng độc
giả hoàn toàn có quyền phê bình chúng như “một cách thức thể hiện quan điểm mĩ
học của nhà phê bình”, nghĩa là nên đặt câu hỏi: “sự yêu thích ấy tiết lộ điều
gì trong cái gu thẩm mĩ của nhà phê bình ?” Chỉ như vậy, độc giả
mới có thể tiến hành so sánh tính chất mới/ cũ của từng quan điểm, trong khi
bất lực đánh giá sự yêu thích.
Trả lờiXóaeva air ticket
mua vé máy bay đi mỹ ở đâu
hãng máy bay korean air
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich