Chuyện phím “Từ khi trăng là nguyệt”
“đèn thắp sáng trong tôi,
từ khi trăng là nguyệt,
em mang tim bối rối…”
(Trịnh Công Công Sơn – Nguyệt Ca)
(1P 4: 7-8)
Trăng là nguyệt, hay
nguyệt là trăng. Là chị Hằng, đều là một nỗi. Nỗi và niềm, có trăng luôn thắp
sáng hoặc có nguyệt làm bối rối tim em mỗi tháng hay mỗi ngày vào nguyệt tận?
Tức, tháng ngày chỉ leo lét ánh sáng đâu đó, cứ tưởng chị Hằng ghé thăm, thì cũng
lầm. Lầm, như đêm 30 lại nghe có niềm vui đến từ lời ca của nghệ sĩ, một thời
từng hát:
“Từ khi trăng là
nguyệt
tôi như từng cánh diều
vui,
Từ khi em là nguyệt,
trong tôi có những mặt
trời.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Chỉ mới hát, “Khi
em là nguyệt” thôi, mà người nghệ sĩ đã như “có những mặt trời”.
À thì ra, người người ở mọi thời, vẫn cần đến ánh sáng của nguyệt là
trăng/trăng là nguyệt như của mặt trời, khiến chị Hằng thấy nguội lạnh, cần
thắp sáng bằng ơn trên.
Bởi thế nên, dù có là ánh sáng của Ơn Trên, hay là mặt trời/mặt
trăng rất chị Hằng như câu chuyện Mẹ Têrêsa thành Calcutta từng nhắc đến như
sau:
“Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như
sau:
Ở Úc, có thổ dân nọ
giống giòng Aborigines từng sống trong hoàn cảnh thật đáng thương. Ông là đấng
bậc cao niên, nhưng vẫn sống trong túp lều xiêu vẹo. Bắt đầu chuyện vãn với
ông, tôi có nói:
-Để tôi dọn dẹp nhà
cửa và sửa soạn giường chiếu cho ông.
Ông trả lời cách hững hờ:
-Tôi quen sống vậy
rồi, Bà đừng phiền.
-Nhưng tôi nghĩ, ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nếu nhà mình sạch
sẽ, ngăn nắp, chứ?
Sau cùng, ông bằng
lòng để tôi dọn dẹp lại cho ông. Khi quét dọn, tôi phát hiện ra cây đèn cũ tuy
rất đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm bồ hóng. Tôi mới hỏi:
-Có khi nào ông thắp cây đèn này lên không?
-Thắp đèn để làm gì,
nào ai thấy! Có ai bước vào nhà này bao giờ đâu mà thắp nó. Đã lâu, tôi vẫn
quen sống như thế cũng chẳng cần thấy mặt mũi của người nào.
Tôi hỏi tiếp:
-Nếu nữ tu của tôi
thường xuyên đến thăm ông, ông có vui lòng để họ thắp đèn không?
-Dĩ nhiên rồi. Ai mà
chả vui lòng đón tiếp nhìn mặt các chị ấy chứ…
Từ ngày đó, các nữ tu
quyết định mỗi chiều sẽ ghé thăm nhà ông. Và cũng từ đó, ông bắt đầu thắp đèn
lên và dọn dẹp nhà cửa trông sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa, mới
qua đời. Trước khi chết, ông có nhờ các nữ tu về nhắn với tôi rằng: Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, người bạn quý của tôi
rằng: ngọn đèn mà Bà thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng đấy. Đó chỉ là
một việc rất nhỏ Bà làm, nhưng trong bóng cô đơn đời tôi, ánh sáng hy vọng đã
loé sáng đời của tôi, vào giờ cuối. Và nó sẽ còn tiếp tục loé sáng mãi, với mọi
người.”
Với vị nữ tu Bề Trên là Đấng thánh lập dòng,
thì như thế. Với nghệ sĩ ở đời, thì như sau:
“Từ đêm khuya, khi
nắng sớm trong những cơn mưa,
Từ bao la, em đã đến
xua tan những nghi ngờ,
Từ trăng xưa là
nguyệt, lòng tôi có đôi khi,
Tựa bông hoa vừa mọc,
hân hoan giây xuống thế.
Từ khi trăng là
nguyệt, tôi nghe đời gõ nhịp ca,
Từ khi em là nguyệt,
cho tôi bóng mát thật là.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Tựa “nắng sớm trong
những cơn mưa”, “em đã xua tan những nghi ngờ.” Tựa “bông hoa vừa mọc”, em “cho
bóng mát thật là”. Bông hoa ấy. Bóng mát nọ. Có là nguyệt? Là trăng? Để rồi,
tôi và em sẽ lại hát thêm:
“Từ khi trăng là
nguyệt, vường xưa lá xanh tươi,
Đàn chim non lần hạt,
cho câu kinh bước tới.
Từ khi trăng là
nguyệt, tôi nghe đời vỗ về tôi.
Từ khi em là nguyệt,
câu kinh đã bước vào đời.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Chim non hôm nay, chưa
kịp lọt lòng mẹ để “lần hạt”, “cho câu kinh bước tới”, lại cũng đã bị đời người
và người đời tìm khai thác bóp nghẹt cả sự sống, từ trứng nước. Quả là ngày
nay, người đời và đời người vẫn cứ bóp nghẹt và bóp chẹt sự sống của con người
bằng nhiều cách. Có những cách vẫn nhân danh Khoa học và Sự sống, như lời hỏi
của dân thường ở huyện Sydney, sau đây:
“Tôi có người bạn cũng
là bà mẹ trẻ như tôi, vừa đưa ra câu hỏi về một vấn đề khá hóc búa. Bạn hỏi
rằng: có hợp đạo lý chăng, khi con người tự hào là văn minh hôm nay lại đang khai
thác các tế bào phôi nhi rút ra từ bào thai bị nạo phá để làm thuốc chủng ngừa
các bệnh tật ở trẻ em. Phải chăng con người đang mạo danh khoa học để làm những
việc tày trời, phản đạo đức? Điều này quá mới mẻ, đối với tôi. Vậy xin hỏi linh
mục: giáo huấn của Hội thánh có đả động gì đến vấn đề này hay không? (Một người
mẹ đang có thắc mắc rất thực xin ghi ơn)
Cũng chẳng biết, câu hỏi có thật của bà mẹ trẻ
ở Sydney hay không? Nhưng thôi, cứ có hỏi là tốt rồi. Bởi, hỏi hay
không, đấng bậc nhà Đạo ở Sydney nay lại cũng làm cái công việc rất
bình thường của nhà luân lý rất Đạo, để trả lời. Như sau:
“Cũng như chị, có
nhiều bạn hiện vẫn không biết là trên thực tế, lâu nay một số thuốc chủng được
chế biến từ các giây tế bào sống lấy từ mô động vật ở thai nhi bị nạo phá. Điều
này chắc chắn dấy lên nhiều thắc mắc vấn nạn hỏi rằng việc sử dụng các thuốc
chủng để chữa bệnh cho trẻ em có hợp đạo lý không?
Thật ra thì, Hội thánh
lâu nay cũng đối đầu với nhiều thắc mắc cho rằng ta có thể sử dụng một cách hợp
pháp các thuốc chủng như thế với một số điều kiện nào đó. Qui định về những gì
được phép hoặc trái phép đã được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đề cập đến trong một
số vấn đề về đạo đức sinh lý có liên quan đến Phẩm giá Con người, ban hành vào
ngày 8/9/2008.
Giáo huấn của Thánh Bộ
Giáo lý Đức tin đã phân định rõ thế nào là sử dụng “chất liệu sinh lý” lấy gốc
từ các bào thai bị nạo phá được nghiên cứu gia và bậc cha mẹ dùng mà chủng ngừa
cho trẻ em .
Theo tiêu chuẩn mà
Thánh Bộ dùng để giáo huấn dân con trong Đạo có nhấn mạnh đến “bổn phận phải
làm sao tránh hợp tác với ác thần sự dữ cũng như các hành động gây tai
tiếng”(#32). Về hợp tác với ác thần/sự dữ, trường hợp này là sự dữ rất nghiêm
trọng liên quan đến chuyện nạo phá thai nhi, tức có nối kếp hoặc hợp tác trực
tiếp với sự dữ ngay lúc ấy. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu chỉ sử dụng các
chất liệu sinh lý lấy từ việc nạo phá thai nhi, cũng có thể là hợp tác hợp lực,
nhưng ở mức độ rất nhỏ.
Dù sao đi nữa, các nhà
nghiên cứu tuy không không dính phần trực tiếp vào chuyện nạo phá thai nhi, họ
cũng không hưởng được lợi lộc gì từ việc sử dụng chất liệu lấy từ đó, mà chỉ
ngầm hiểu là họ chấp thuận hành động nạo phá thái nhi, thôi. Giáo huấn của
Thánh Bộ cũng dạy rằng “điều này “kéo theo mâu thuẫn trong thái độ của người
từng quyết đoán là mình không dính dự gì đến chuyện chấp thuận việc bất chính
do người khác làm. Nhưng, cùng lúc chấp thuận để cho công việc của chính mình
được thành công nhận sử dụng “chất liệu sinh lý” mà người khác đạt được từ
phương tiện bất chính như thế”. (#34)
Điều này xem ra, ngay
từ đầu, đã bác bỏ việc các nhà nghiên cứu được phép sử dụng các chất liệu này
để sản xuất thuốc chủng ngừa. Tuy nhiên, theo Lm John Flemming, trong cuốn
“Giải thích Phẩm giá Con người” (Connor Court 2010) ông có viết rằng: “Trong trường hợp các mô được trữ lạnh một
thời gian nào đó từ các lần nạo phá thai nhi trong quá khứ, thì cũng có thể
được phép sử dụng chất liệu ấy vì tính cách nhỏ nhoi rất xa vời mà các nhà
nghiên cứu dính dự vào hành động nạo phá thai nhi bất chính.” (tr. 70-71). Thật
thế, các giây tế bào sử dụng để làm thuốc chủng ngừa, đặc biệt để ngừa bệnh đậu
mùa, là lấy từ thai nhi bị nạo phá hơn 40 năm trước.
Thế, còn các bậc cha
mẹ nào sử dụng thuốc chủng ngừa lấy từ chất liệu này, thì sao? Rõ ràng là, việc
cha mẹ hợp tác vào việc nạo phá thai nhi như thế cũng rất nhỏ nhoi/xa vời, với
điều kiện là các bậc cha mẹ phải chống đối lại tính cách vô luân của nạo phá
thai. Do đó, theo tiêu chuẩn thông thường về chuyện hợp tác với ác thần sự dữ,
nếu như việc hợp tác là nhỏ nhoi/xa vời và đương sự chống đối sự dữ ngay tận
gốc –tức, việc hợp tác chỉ mang tính chất liệu chứ không công khai- các vị này
có thể hợp lực với điều kiện có lý do thật xứng hợp để biện minh.
Trường hợp này, có
nghĩa là: nhu cầu chủng ngừa cho con trẻ khỏi bị các bệnh có tiềm năng gây nguy
cơ cho tính mạng của các em, thì có thể biện minh cho việc sử dụng thuốc chủng
làm từ các thai nhi bị nạo phá, nếu như không có sẵn thuốc chủng nào khác hiệu
nghiệm. Theo ngôn từ của giáo huấn do Thánh Bộ đưa ra, thì: ”Các lý do nghiêm
túc khả dĩ tương xứng về luân lý đạo đức có thể biện minh cho việc sử dụng các
“chất liệu sinh lý” như thế. Thành ra, lấy ví dụ như: vì có nguy hiểm đến tính
mạng của trẻ bé, thì có thể cho phép bậc cha mẹ sử dụng thuốc chủng ngừa được
phát huy từ các giây tế bào có nguồn gốc trái phép, nhưng vẫn phải luôn phải
giữ trong đầu để hiểu rõ là ai cũng có bổn phận phải tỏ cho mọi người biết là
mình đả phá chuyện nạo thai và cũng đã yêu cầu hệ thống ytế sản xuất các loại
thuốc chủng nào khác để sử dụng cho công minh chính trực.” (#34)
Dù mình có thể sử dụng
các loại thuốc chủng như thế, các bậc cha mẹ cũng phải nói cho bác sĩ hoặc hãng
bảo hiểm y tế của mình biết là mình những muốn chọn thuốc chủng nào không lấy
từ thai nhi bị nạo phá trước đó.
Cha mẹ nào không để
cho con cái mình được chủng ngừa vì lý do luân lý/đạo đức như thế hoặc vì sợ
nguy hiểm đến tính mạng của trẻ do chính thuốc chủng ấy tạo ra, thì các vị này
cũng nên biết rằng nguy cơ tử vong về sau do không chủng ngừa, có thể còn cao
hơn là không cho chủng. Chí ít, là con em mình có thể tạo lây lan bệnh ngặt
nghèo qua các trẻ em hoặc người lớn khác vì quyết định không cho con mình chủng
ngừa, cũng rất lớn.” (x.
Lm John Flader, The Catholic Weekly, 8/5/2011, tr. 12)
Nói như đấng bậc nhà Đạo ở trên, là như ngồi
trên cao mà nói xuống. Tức, nói về giáo huấn của nhà Đạo xuống cho người khác
biết thi hành, cho đúng luật. Hay còn gọi, là nói theo cách lý luận về luận lý
cũng như luân lý, và giáo luật. Rất khó hiểu. Với dân gian. Nói như dân gian ngoài
đời, có thơ và có nhạc, như người nghệ sĩ trích dẫn ở trên có lần cũng có nói
bằng tiếng hát, rất như sau:
“Từ trăng thôi là
nguyệt, là trăng với bao la.
Từ trăng kia vừa mọc,
trong tôi không trí nhớ.
Từ trăng thôi là
nguyệt, hôm nao chợt có lời thưa,
Rằng em thôi là
nguyệt, tôi như đứa bé dại khờ.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)
“Như bé dại khờ”, cũng có thể vì tôi đây
bần đạo là người “đi” Đạo, nhưng rất “bần cùng”. Bần thần. Bần đạo, tựa như “bé
dại khờ”, nên chẳng dám “có lời thưa” hôm nào khi chợt
thấy “trăng thôi là nguyệt”. Thấy, “trăng kia vừa mọc”,
đã khiến “trong tôi không trí nhớ”. Nên rất hay quên. Hay quên, đến
độ chỉ nhớ đôi truyện kể của em nhỏ, như truyện dưới:
Truyện rằng,
Bé em vì dại khờ, nên
hay thắc mắc. Thắc mắc, cả chuyện rắc rối sau đây:
-Mẹ à, Dì Tám “nhiều
chuyện” nói với con rằng: sở dĩ Ba mẹ sanh ra con là do “ắc-xi-đăng”, muốn đi
bệnh viện để tống khứ, nhưng sợ tội. Thế nên, sau này con lớn khôn có làm gì
cũng phải cẩn thận… Dì còn nói nhiều chuyện lắm, nhưng “ắc-xi-đăng” là gì hả mẹ?
-Là, “đụng chuyện” dễ
vỡ bể.
-Đụng chuyện là đụng
thế nào? Và, vỡ bể là vỡ cái gì vậy mẹ?
-Là vỡ kế hoạch nên
đành chịu. Cũng như người bị “ắc-xi-đăng”, lỡ bể đồ rồi đành chịu thôi.
-À thì ra, tại vì ba
mẹ “đụng chuyện” nên nay con mới bị rầy là hay “nhiều chuyện”, có phải vậy
không?...
Chưa hẳn là như vậy. Nhiều lúc, thiên hạ dù
vẫn “đụng chuyện”, toàn những chuyện không chắc là do “ắc-xi-đăng” gây “vỡ bể”,
cũng đâu thành “nhiều chuyện”. Đôi lúc, do có “nhiều chuyện” nên mới thành
chuyện. Thành câu chuyện, nên người người mới chịu tìm để hiểu, và nghĩ suy.
Nghĩ và suy, như suy về lời khuyên của thánh nhân xưa được coi như Lời của
Chúa. Lời ấy, dẫy đầy trong Kinh Sách. Nay, trích dẫn đôi lời để rồi “thành
chuyện” ta đề cập, làm kết cục bài phiếm khô khan. Cô đọng. Gây nhức nhối:
“Tiên vàn mọi sự,
hãy có lòng yêu mến
nhau khắng khít,
vì đức mến phủ lấp vô
vàn tội lỗi…
Mỗi người tuỳ theo ân
lộc đã được,
hãy lợi dụng mà phục
vụ nhau,
như người quản lý giỏi
giang về ân sủng muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa.
Ai nói, (hãy nói) như
Lời của Thiên Chúa;
ai phục vụ (hãy phục
vụ) như do mãnh lực Thiên Chúa cấp cho,
ngõ hầu trong mọi sự,
Thiên Chúa được tôn vinh, nhờ Đức Yêsu Kitô.”
(1P 4: 8-11)
Cuối cùng, chuyện sống Đạo ở đời, không chỉ để
phiếm mà thôi. Nhưng còn để, nhân lúc phiếm, bạn và tôi, ta nhớ mà sống cho
đúng tinh thần yêu thương và phục vụ, của Hội thánh.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn thường tự kỷ ám
thị
những lập trường
ra như thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét