Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2016

Hoàng Nguyên (Trần Anh Kiệt) - Góp với đất trời một chút xanh

Hoàng Nguyên (Trần Anh Kiệt)
 Góp với đất trời một chút xanh 
Hoàng Nguyên (1937-2016)
Anh như một thiên thần đang bỡ ngỡ
Nương vào Em… bay đến cõi trăng sao 
(Cõi vĩnh hằng).
Hoàng Nguyên (Trần Anh Kiệt) vĩnh biệt chúng ta, đi vào “Cõi vĩnh hằng”  đầu giờ Mẹo ngày mồng 9 tháng 5, Bính Thân (13/6/2016). Hai câu thơ này trong bài thơ “Cõi vĩnh hằng” anh đề ngày 12/6. Như vậy, chỉ đúng chưa đầy một ngày trước khi anh rũ “xác phàm” làm “thiên thần” bay đến “cõi trăng sao” - nơi người vợ hiền anh đang đợi sẵn.
Sinh năm 1937 nơi quê nghèo Mộ Đức, anh theo cha tập kết ra Bắc, học hành rồi lại về Nam tham gia kháng chiến. Hòa bình, đoàn tụ lại trở về với quê thực hiện vai trò “kẻ sĩ” và vĩnh viễn ra đi trong thanh thản, nhẹ nhàng. Nghĩa là, cuộc đời Hoàng Nguyên (Trần Anh Kiệt) là chứng nhân đủ mọi phân tán, chia ly, đoàn tụ… của cả một thời kỳ lịch sử, và… trọn vẹn thủy chung với mảnh đất quê nghèo.
Nhưng thôi! Cái cuộc hành trình đời người ấy, anh đã thể hiện trong bài thơ “Tiếc thay” tự điếu mình trước khi rời khỏi phàm trần (mà sẽ được in ở trang thơ này). Giờ đây, nhân tuần 49 ngày của anh, tôi chỉ muốn trở về với “tâm nguyện” của anh (mà cũng là cảm nhận của tôi về anh) để nói về một con người thơ đích thực: Hoàng Nguyên.
Và cũng xin nói thực điều này, ngày anh mất, tôi không viếng anh được, chỉ nhận tin khi đang còn ở nơi xa. Và ngay lúc ấy, tôi thật sự bàng hoàng vì cách đó không lâu, qua cháu ngoại của anh (học trò tôi, con của Anh Thư - bạn đồng môn đại học của tôi), tôi còn nhận được những tâm tư, tình cảm của anh qua những tâm sự và những bài thơ anh gửi ngay trong những ngày bạo bệnh. Giờ, viết về anh, dễ có người nghĩ rằng, sẽ có những lẫn lộn giữa một Trần Anh Kiệt - Chủ tịch tỉnh với một Hoàng Nguyên - thơ. Nhưng không sao, chuyện anh là một kẻ sĩ chính hiệu trong đoạn quan trường (mà tôi ít quan hệ), với tôi, anh là một người thơ.
Dựa theo phân loại giới nhà Nho (kẻ sĩ) của văn học trung đại, vận vào thời hiện đại, tôi không xếp anh vào “kẻ sĩ ẩn dật” mà chỉ là sự đan xen, chồng khít lên nhau giữa “kẻ sĩ hành đạo” và “kẻ sĩ tài tử” mà thôi. Trong đó, “kẻ sĩ tài tử” vẫn chiếm mạch tâm tư chính trong thể hiện của thơ anh. Tâm tình thời cuộc trong chặng đường “hành đạo” được anh sẻ chia ngay trong tâm sự riêng tư của tâm hồn “tài tử” khi “Gửi về em”:
Thù chất chồng bọn đế quốc thực dân
Nước mắt trào, răng anh cắn chặt răng
Ôi quê hương! Nơi muôn đời bất khuất
Con muốn bùng sôi giông bão hôm nay 
(Gửi về em).
Năm 1968, khi về Nam chiến đấu, tâm tình chung ấy, anh vẫn quyện vào trong “nhật ký chiến trường” của “Một tháng xa em”:
Bên đường tạm dừng bước
Anh hái một đóa hoa
Nhờ gió nồm chuyển hộ
Gửi tặng em làm quà 
(Một tháng xa em).
Hòa bình, lại trở về Nam xây dựng quê hương, bước đi trên con đường chính sự, anh vẫn nhìn nhận chính trường bằng những mảng suy tư lắng đọng bằng những lời thơ rút ra từ tâm huyết:
Ta tìm về với hạnh phúc nào đây
Như chiếc lá giữa vần xoay trời đất
Cảm biết mấy những mảnh đời lưu lạc
Thương quê nghèo da diết gió heo may 
(Tâm nguyện).
Khi quyết định giã từ Hà Nội để về góp phần xây dựng quê hương sau hòa bình thì chính tấm lòng đau đáu nhớ quê của con người thơ cứ như là một hối thúc:
Mỗi chiều về lại nhớ khói lam bay
Chỉ mấy sải tay là lòng biển rộng
Mà đất cứ nẻ khô da diết từng tiếng sóng
Sao khuôn thiêng vô tình dằn vặt thử thách ai 
(Hạn quê)
Cho dù, anh thừa biết, trước mắt mình sẽ còn lắm nỗi gian truân “giật gấu vá vai” cùng bao nhiêu “bồi lở”:
Mấy dạt dào cho tình nguyên trọn
Bến Tam Thương đôi bận buồn vui
Tự dỗ dành: Nín đi đừng khóc
Giọt rơi bên lở đắp bên bồi 
(Về với bến).
Con người “tài tử” luôn ẩn sau, làm chỗ tựa cho con người “hành đạo”, chính vì thế, thơ anh đầy tâm trạng trong cả những phút lo gánh vác chuyện đời. Đọc lên cứ nghe đăng đắng, ý vị một chút buồn triết lý:
Đừng để khô đi nguồn nước nhỏ
Hãy nghe tiếng gọi của ngàn cây
Hãy khơi mạch sống từ sông biển
Chăm chút tươi xanh mỗi dáng gầy 
(Trăn trở 3).
Đó cũng là nguyên nhân giải thích vì sao anh luôn cống hiến trọn cuộc đời mình cho công việc, luôn tin tưởng mình sẽ “sút trúng khung thành” để đạt đến thành công ngay cả ở những phút cuối cùng:
Ôi thời gian, còn vài phút nữa thôi
Chấp nhận hòa ư? Không, anh phải thắng
Và đẹp thay, vào phút đời tám chín
Từ chân anh, tung lưới, bóng tròn bay 
(Một phút đời).
Anh đã sút trúng đích mà mục tiêu “hành đạo” mình đã đặt ra, đồng thời cũng đã “sút đúng vào khung thành thơ” của một tâm hồn “tài tử”.
Lắng lòng lại sau những chính sự quan trường, anh thổ lộ cùng mẹ cha những lời thơ da diết. “Công cha mẹ như trời như biển” ta đã từng nghe, nhưng xưa nay, khi cặp biểu tượng “thuyền - biển” xuất hiện, hầu hết các nghệ sĩ đều nói chuyện tình yêu đôi lứa. Riêng anh, đặt “thuyền” (người con) trong mối quan hệ với “trời và biển” (cha và mẹ) đã tạo nên một tứ thơ khá độc đáo về mối thâm tình cao rộng này:
Biển trời như cha mẹ
Con là chiếc thuyền trôi
Lời ru của trời biển
Đưa thuyền con trôi xuôi 
(Trời và biển).
Đặc biệt, anh đã có những câu thơ thật sự “quặn lòng” khi nghĩ về đức hi sinh của mẹ:
Chúng con đã vay phút quặn lòng trở dạ
Ngày Mẹ sinh, tinh huyết của yêu thương
Chúng con đã vay bao mòn hao của Mẹ
Để một đời chưa trọn nợ quê hương… 
(Chúng con đã…).
Đó là cảm nghĩa mẹ trong đoạn mới sinh thành. Đến khi đã vượt qua tuổi 50 (năm 1989) “Ngũ thập nhi bất hoặc”, anh lại cảm nghĩa tình của mẹ một cách sâu sắc hơn. Đây là đoạn đời anh lăn thân chốn qua trường, mà cảm nhận tình mẹ đến “mênh mông” dường này thì cũng khiến nhiều nhà thơ phải đi từ ngạc nhiên đến gật gù tâm phục:
Con lại được mẹ gội đầu
Như những ngày còn thơ trẻ
Nỗi đau thoáng mất trong con
Hơi ấm lần theo tay mẹ
Được mẹ vuốt từng sợi tóc
Đầu con sạch bớt dại khờ
Hương lá quê mình thơm mát
Vun hồn con xanh ước mơ 
(Mênh mông…)
Rồi khi xem phim “Mộng đoạn Tử Cấm Thành”, tựa vào mẹ, anh lại thổn thức bật lên hai câu thơ uẩn súc cả một nỗi niềm triết lý:
Mẹ tắm rửa cho ta bao nhiêu năm mà ta vẫn bẩn
Càng lên cao gió càng lạnh ghê người (Lên cao).
\Bên cạnh mẹ, cha, con, cháu, trong đời thơ của “kẻ sĩ tài tử” Hoàng Nguyên, người yêu - người vợ hiền dường như được anh tỏ bày nhiều hơn hết, tình yêu xuyên suốt cả một đời người:
\Nụ yêu từ buổi ban đầu
Tình già thêm thắm một màu thanh xuân 
(Về với em).
Mỗi đoạn chia ly, xa cách người tình là mỗi lần anh “mất bớt” rất nhiều trong trạng thái choáng váng cả linh hồn:
Bao nắng mưa chưa gặt lấy mùa vui
Muôn trang sách được mấy dòng tri kỷ
Gạn trong tim chắt chiu từng giọt quý
Em ra đi… như mất bớt hồn anh 
(Tiễn em)…
Điều này lý giải vì sao, đọc kỹ 5 tập thơ anh (Những khúc tâm tình - 2001, Một chút xanh - 2002, Ai xuôi Trà Khúc - 2004, Sương chiều - 2006  Anh xin lỗi em - 2007)ta dễ phát hiện ra rằng: bài thơ đầu tiên (Gửi về em) anh làm năm 1959 và bài thơ cuối cùng (Cõi vĩnh hằng), anh vẫn chỉ riêng dành tặng người yêu, người vợ mà anh đắm yêu suốt cả một đời người. 
Sự hòa quyện, đan xen giữa con người “hành đạo” và con người “tài tử” khiến những lúc trên bước đường “hành đạo” gập ghềnh, anh lại có nơi chốn để quay về an vui cùng cái gốc “tài tử” mà mình vốn có:
Ngỡ thành lãng tử cùng hoa
Thoảng heo may giọt sương sa chính trường
Vó câu mấy chặng gập ghềnh
Phù vân mấy nấc đượm tình gần xa
Vui về nương gốc mai già
Kẻo héo hon thiếu mặn mà với xuân 
(Với xuân).
Đọc thơ Hoàng Nguyên, ta có cảm giác chính tình yêu của con người tài tử, luôn “lở tay tôi rót giọt buồn mắt em” đã trở thành tâm nguyện, nguồn cội của đời anh. Anh luôn biết tự mình tìm “Một chút xanh” trong những “chiều thu muộn” của cái “bước đời” mãi mãi xanh tươi để yên ủi, động viên mình mỗi khi “lạc bước”. Và chính vì lẽ đó, Hoàng Nguyên đã sống rất “lạc quan” trong suốt cuộc đời mình, ngay trong những tháng ngày lâm bạo bệnh. Điều này cũng lý giải vì sao trong thơ Hoàng Nguyên, cái màu xanh đã trở thành gam màu chính xuyên suốt cả một đời thơ để anh đi trọn lòng mình trên con đường thơ tươi xanh và những gập ghềnh hoạn lộ:
Chút xanh man mác chiều thu muộn
Lạc bước đường quan, nặng bước đời 
(Lạc quan).
Giờ thì anh đã vĩnh viễn về với xa xanh, nhưng những bài thơ anh vẫn luôn mãi còn góp “Một chút xanh” trong cây lá cuộc đời:
Trải bao mưa nắng, bao sương gió
Góp với đất trời một chút xanh… 
(Một chút xanh).
Giờ thì anh đã vĩnh viễn về với xa xanh, nhưng những bài thơ anh vẫn luôn mãi còn góp “Một chút xanh” trong cây lá cuộc đời. Xin được tâm sự đôi điều và giới thiệu trang thơ anh như một nén nhang lòng tưởng niệm. 
TIẾC THAY
(Tự điếu mình)
Dù khoảnh khắc vèo như gió thoảng
Cũng từng được sống giữa nhân gian
Nhớ linh xưa:
Sinh tại gia đình phong kiến
Tầng tầng khoán xuyến khắp vùng
Khởi thủy nguyên cụ Trần Cẩm
Góp phần mở đất phương Nam
Đời Cha vào thời Tây học
Cũng Tú… cũng Cử… như ai
Bản tính không ham quyền lực
Theo nghề Bưu chính đó đây
Mẹ cũng một thời Tây học
Kiếp người nặng nợ chồng con
Vắt đời đến từng giọt cuối
Hương nhà giữ nếp ngàn xưa
Nghỉ hưu từ thời Bưu chính
Cha về chẳng bận ưu phiền
Tiếng xưa vẫn “Ông Tú Đính”
Về trời… xứng “Vãng phần, yên”.
Khá thương thay:
Năm tư (1954) theo Cha tập kết
Tầm dăm ba chữ mai sau
Học theo quy luồng quy tuyến
Ngành kinh tế học “cầu âu”
Đại học kinh tế công nghiệp
Thời “trâu đi trước cái cày”
Học xong về Ban Thống nhất
Mơ màng lo chuyện Miền Nam
Rồi vượt Trường Sơn mấy bận
Rồi làm thư ký mấy phen
Rồi ngồi ghế Chủ tịch tỉnh
Rồi lại điều về Trung ương
Lại đi từ đất Quảng Ngãi
Một tỉnh Miền Trung đói nghèo
Đi từ một vùng quít trắng
Mở cơ đồ… dựng tương lai...
Chập chững làm Cảng Dung Quất
Manh nha Nhà máy Lọc dầu
Tiến lên thành Khu kinh tế
“Thành phố công nghiệp” mai sau
Ý tưởng dần thành sự thật…
Nhà huyên hạnh phúc chan hòa
Con cái làm ăn sum nẫm
Chăm lo luôn giữ nếp nhà
Đoái Sông Trà - Núi Ấn dấu chân còn vướng bụi đường
Nhìn Thiên Bút - Sa Huỳnh dân thương vẫn thường nhắc nhở
Nghĩ cái quê hương nghèo khó
Chẳng nhọc quản công “mài sừng…”
Đôi giọt xanh từng góp sức…
Gọi là… chào buổi hoàng hôn…
Sức già cõi còm trông thấy
Bệnh tật hoành hành đêm ngày
Từng mấy lần vào Chợ Rẫy
Điểm cuối… chập chờn… đâu đây
Thà thác mà đặng câu khảm khái, về theo Tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu cảnh héo hon, đơn độc thân côi rất khổ
Ngang qua Thi Phổ, cỏ cây mấy dặm sầu giăng
Một dãi Lương Nông, Vườn Xanh thấm bao lệ nhỏ (*)
Ôi!
Một nén hương tàn… ngàn năm còn đó
Thác mà xong… Quê cũ vượt lên, thoát khỏi tỉnh nghèo, tỉnh khổ.
Sống nhờ dân, chết cũng vì dân, góp chút mồ hôi còn đó
Kính Trời, kính Đất…
Kính vọng Tổ tiên
Kính bà con gần, kính bà con xa hai bên Nội Ngoại
Hãy vui vẻ mà sống tròn đầy
Đất trời hiểu lòng chăng tá
Tiếc thay…
(*) Dựa theo “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu
TÂM NGUYỆN
Nguyện với lòng giữ trọn vẹn hương quê
Mà sóng gió xôn xao chiều lận đận
Cha mẹ già buồn thương trong thiếu vắng
Em băn khoăn đơn lẻ một thân gầy
Ta tìm về với hạnh phúc nào đây
Như chiếc lá giữa vần xoay trời đất
Cảm biết mấy những mảnh đời lưu lạc
Thương quê nghèo da diết gió heo may
Đoạn đường nào rong ruổi bước chân ai
Mà mỏng mảnh theo sương chiều vời vợi
Nắng chợt tắt như tiếng cười tắt vội
Để hoàng hôn chìm lặng ở sau lưng
Mỗi bước ta đi mỗi bước ngập ngừng
Hướng quê mẹ xa dần, lòng quặng thắt
Đường thiên lý dẫu mai này mải miết
Cũng không đi trọn lời mẹ ru…
Hà Nội gió mùa cứ ngỡ vào thu
Trước đây ta về, nay ta đến
Sóng vẫn mênh mông bao bờ, bao bến…
Nào biết ai… ai biết… có hay không
Mặt trời vẫn mọc đằng đông
Thiên lương vẫn sống mãi trong lòng người
TRỜI VÀ BIỂN
Bầu trời và mặt biển
Cách nhau bao dặm xa
Nhìn vào lòng biển rộng
Trời trong xanh bao la
Biển trời như cha mẹ
Con là chiếc thuyền trôi
Lời ru của trời biển
Đưa thuyền con trôi xuôi
Nếu trời mây vần vũ
Biển nổi sóng bạc đầu
Thuyền dập dềnh chao đảo
Nương níu bến bờ đâu
Mong sao biển và trời
Luôn trong xanh êm ái
Để thuyền con mãi mãi
Ấm áp những lời ru…
… Và hiền hòa trời biển
Xanh đẹp đến thiên thu.
CÕI VĨNH HẰNG
Anh như một thiên thần đang bỡ ngỡ
Nương vào Em... bay đến tận trăng sao
Tìm lại bản tình ca bao năm cũ
Anh và Em chăm chút dệt cùng nhau...
Anh cố nhặt những giọt chiều hôi hổi
Giữ tươi xanh cho từng chút thương yêu
Đôi con tim luôn giao hòa chung nhịp
Để “Hoàng Nguyên” tình luôn mãi vĩnh hằng.
12/6/2016
 MAI BÁ ẤN
 Theo http://www.phongdiep.net/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nhà văn Cao Duy Thảo và câu chuyện thời gian

Nhà văn Cao Duy Thảo và câu chuyện thời gian Với câu chuyện thời gian, tôi và nhiều người khác thường nghĩ ngay tới nhà văn Pháp vĩ đại Ma...