Hai năm tại trường Sư phạm Quy Nhơn 1962-1964
Tôi học chung một khóa sư phạm với Trịnh Công Sơn, khóa I, ngày
22-4-1962 khóa đầu tiên mở ra ở Quy Nhơn. Tên gọi là khóa Thường xuyên 2 năm.
Tiêu chuẩn thi vào ít nhất phải có Tú tài I.
Tuy nhiên, khóa ấy đa số thí sinh đều đã có Tú Tài II, một số đã
có một hoặc hai chứng chỉ Đại học. Trong số 300 giáo sinh được chấm đậu đa phần
đều là người Huế, chiếm khoảng 60 phần trăm, 40 phần trăm còn lại rải rác các
tỉnh Bình Định, Phú Yên, Nha Trang lên tận các tỉnh cao nguyên như Đà Lạt, Lâm
Đồng, Pleiku, Kon Tum...
Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo, hoặc học hành dở dang
hoặc không đủ khả năng tài chánh vào Sài Gòn hoặc ra Huế để vào Đại học. Cho
nên cố thi vào Sư phạm để chắc chắn trong hai năm sẽ có công ăn việc làm nuôi
bản thân và giúp gia đình. Nhắc lại ở đây, lúc ấy, Bộ Giáo dục và Bộ Y tế rất
thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm liền, lương lại
tương đối cao. Trong khi những ngành khác như Công chánh, Nông Lâm Súc tốt
nghiệp ra trường, nằm nhà nhiều năm vẫn chưa được tuyển dụng.
Trịnh Công Sơn theo ban Pháp văn, tôi theo ban Anh văn. Những ngày
mưa gió ủ ê, không đi ra ngoài được vì đất nhão, chúng tôi nằm khoèo ở nhà, Sơn
kể cho tôi nghe về cuộc đời Sơn, nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn. Chuyện gia đình
Sơn là một trong những chuyện buồn. Cha mất sớm gia đình khánh kiệt, má Sơn
phải chật vật lắm mới nuôi nổi bầy con. Sơn phải bỏ học, về lại Huế, phụ giúp
mẹ. Sư phạm Quy Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ý nguyện
này. Đơn giản vậy thôi!
Để giới thiệu và quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết tiếng về
trường Sư phạm, Ban Giám đốc trường cho thành lập Ban văn nghệ, sẽ trình diễn
một chương trình độc đáo chưa từng có ở Quy Nhơn từ trước đến giờ. Trịnh Công
Sơn được bầu làm trưởng ban chịu trách nhiệm tổng quát, Thanh Hải phó ban thứ
nhất chịu trách nhiệm về nhạc, Võ Văn Phòng phó ban thứ hai chịu trách nhiệm
một vở kịch thơ nhan đề Tiếng cười Bao Tự. Tôi được chọn phụ trách phần thổi sáo đệm thơ
trong suốt vở kịch dài hơn 45 phút. Trong dịp này tôi mới biết và quen Trịnh
Công Sơn. Buổi trình diễn được dự trù đúng vào ngày Song Thất năm (7/7/1962)
chứ không phải đợi đến ngày mãn khóa như Đinh Cường nói.
Trong thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca Tiếng hát Dã Tràng hay gọi ngắn hơn là Dã Tràng ca là tiết mục mở màn mà cũng là tiết mục đặc sắc
nhất, công phu nhất. Nhạc trưởng Trịnh Công Sơn với ban hợp xướng do anh tuyển
chọn gần 50 người, khổ công trong ba tháng trời tập luyện đã thành công tuyệt
vời trước sự ngạc nhiên đầy thích thú của quan khách và khán giả. Tôi không ở
trong ban hợp xưởng đó nên không thuộc bài này chỉ nhớ lõm bõm câu được, câu
mất xin ghi ra đây:
Dã tràng. . . Dã tràng. . . Dã tràng. . .
Dã tràng xe cát biển Đông, Dã tràng xe cát hoài công.
Trùng dương ơi. . . Trùng dương ơi vỗ sóng
vào bờ. . .
Thôi còn gì nữa đâu, còn gì nữa đâu. Đời lên cơn đau...
Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt. . .
Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn....
Cũng trong thời gian học Sư phạm, anh còn sáng tác những nhạc phẩm
khác như Biển nhớ, Nhìn những mùa
thu đi, Nắng thủy tinh và một số nhạc thiếu nhi
cho chúng tôi sử dụng đi thực tập, dạy các em nhỏ. Những bản nhạc ngắn, dễ hát,
dễ nhớ như ông Tiên vui, Ông mặt
trời. Tôi xin ghi lại một bài
tượng trưng:
Ông Tiên vui, ông có cái râu dài.
Đêm ông về nằm yên trên đỉnh mây.
Hôm em lên ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về, em buồn đến ngẩn ngơ.
Ông Tiên vui ông có cái căn nhà,
Trên ngọn đồi hằng đêm ông ghé qua
Hôm em lên ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ.
Xin nhắc lại ở đây, Quy Nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành phố có
mỗi một quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê thuốc lá, bia, trà. Đó
là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Quy
Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ. Mỗi buổi chiều hoặc tối, anh chị em nào có
tiền thì vào quán kêu một bình trà ngồi với nhau nhâm nhi nghe nhạc. Khá một
chút nữa thì kêu chai bia với một tô bò viên gân, ngầu pín của ông ba tàu đậu
cái xe phở trước quán. Thế là sang lắm rồi. Còn những anh chị nào "bô xu”
thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Quy Nhơn là biển bùn nên cát ở đó màu
vàng xỉn trong dơ dáy, không trắng như biển Nha Trang. Dọc theo bãi biển là một
hàng dương, chạy dài đến bênh viện Nguyễn Huệ là xóm chài. Tuyệt nhiên không có
một lều quán hay kiosque nào bán cà phê, bia rượu gì cả. Trịnh Công Sơn và Tôn
Nữ Bích Khê có hẹn hò ra đó với ông Đinh Cường thì cũng chỉ để ngắm trăng vàng
vỡ vụn trên sóng biển mà thôi.
Ba năm tại Blao, tức Bảo Lộc
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và
Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Nguyễn Thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn
Văn Sang, Trương khắc Nhượng, Đỗ Thị Nghiễn (Nha Trang) cùng được bỗ nhiệm
chung một Sự vụ lệnh đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu học Lâm Đồng.
Tôi từ Nha Trang lên theo đường Nha Trang – Đà Lạt - Bảo Lộc.
Trịnh Công Sơn từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi xe đò lên Bảo Lộc.
Không hẹn mà gặp nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Blao - Bảo Lộc
là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu hắt. Trời
lại mưa lâm thâm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va li quần áo nhẹ
tênh. Lang thang tìm người hỏi thăm đường đến Ty Tiểu học Lâm Đồng. Lúc bấy
giờ, Thị xã Đà Lạt biệt lập với tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh Lâm Đồng chỉ có vỏn vẹn hai
quận: Blao (Bảo-lộc) và Djiring ( Di Linh). Trước năm 1960, Tòa hành chánh Tỉnh
đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc mới mấy năm khi chúng tôi đến, nên trông nó
như một thị trấn nhỏ vừa mới bắt đầu tạo dựng. Chúng tôi tìm được đến Ty thì
trời đã sụp tối mặc dù chưa tới 6 giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là đà
dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang
khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân
cần mời về ở tạm tại nhà bác qua đêm.
Đêm đó chúng tôi trải chiếu, chăn dưới thềm nhà, năm người bạn
trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi chỉ từ hai bốn đến hai sáu, cùng nhau
trao đổi những câu chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào
giấc ngủ. Lúc bừng thức dậy là đã 9 giờ sáng.
Đến sáng thứ hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng tôi gặp
hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ ngày thứ bảy, chủ nhật. Trịnh
Công Sơn được bổ về một trường Sơ cấp Thượng, ở sát nách Ty chừng non cây số,
với chức Trưởng giáo. Sau khi phân bổ xong, chúng tôi được Ty cho phép một tuần
ở nhà để lo thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới.
Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng giáo của Sơn. Vì
lần đầu mới được nghe cái chức này, ai cũng liên tưởng tới các chức Trưởng lão
hay Giáo chủ trong Ma giáo của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung.
Mấy ngày thong thả, chúng tôi đi dạo khắp nơi để tìm nhà trọ nhưng
không nơi nào vừa ý. Cuối cùng, tôi và Sơn rủ thêm hai người bạn nữa thuê được
nhà bà Trần Thị Phi.
Những ngày chúng tôi sống trong ngôi "biệt thự" của bà
Trần Thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khuôn cửa sổ ngó
ra con đường đất đỏ trước mặt của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các
nhạc phẩm: Chiều một mình qua phố,
Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và Ca khúc da vàng.
Ngày lãnh lương đầu đời
Mới ngày nào vừa trình diện để nhận nhiệm sở, thoáng cái đã đến
cuối tháng lãnh lương. Ngày lãnh lương đầu tiên, chúng tôi ai nấy đều háo hức
đến Ty thật sớm để ký tên vào sổ lương, lãnh một món tiền lớn do chính tay mình
làm ra.
Lãnh lương xong, ra khỏi cửa, Sơn sải chân đi thật lẹ. Sơn vốn
cao, chân dài. Tôi thấp, chỉ tới tai Sơn, chân ngắn, nên phải nhảy ba bước một,
mới bắt kịp. Vừa thở, vừa kêu Sơn đợi. Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng. Vừa
vào phòng, Sơn khóa ngay cửa lại. Tôi ngạc nhiên coi anh chàng làm cái trò gì
đây. Sơn để nguyên quần áo, giầy vớ nằm ngửa ra đi văng, tay rút trong túi quần
ra cái phong bì lương lúc nãy, xé phong bì, nắm hết nắm tiền 5200$ gồm giấy 5$,
10$, 50$ tung lên trần nhà. Giấy bạc mới tinh, phát ngân viên Thành vừa lãnh từ
kho bạc ra, rơi lả tả xuống người Sơn, rơi xuống đi văng. Sơn hốt lên, tung trở
lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm
vui và nỗi phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề: “Đù mạ mi! Đù mạ mi! Tiền! Tiền".
Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chữi thề. Và cũng là lần duy nhất suốt ba năm
sống chung với nhau. Tôi để mặc Sơn tự do trong những giây phút ấy. Tôi không
muốn xen vào để quấy rầy Sơn đang đắm chìm trong thế giới riêng tư của mình.
Chiều hôm đó chúng tôi không ăn cơm. Phải tự khao một chầu linh
đình mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây giờ ông bà chủ quen mặt chúng tôi
quá rồi) có mặt đông đủ những ông giáo trẻ vừa mới có được thành tích: một
tháng công vụ. Đêm đó chúng tôi tưng bừng ăn uống, cười nói hả hê. Ôi! Một thời
tuổi trẻ vô tư hồn nhiên.
Nhìn cái cảnh ông Trưởng giáo Trịnh Công Sơn ngồi dạy học ở ngôi
trường Sơ cấp Thượng thì thật là vừa bi vừa hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh
ông đi dạy đã là buồn cười rồi.
Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không bao giờ đeo đồng hồ. Tôi
dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng trên giường. Sơn phải dậy sớm lúc bảy giờ
để đến trường. Những ngày có mặt trời thì nhìn bóng nắng mà đi. Những ngày
sương mù hay mưa dầm thì lắng nghe tiếng kèn lính chào cờ ở một đồn lính nào đó
rất xa vọng lại văng vẳng. Te te... Tò tí te... Tò tí te... Sơn xỏ vội chiếc áo ka
ki màu vàng cộc tay (chiếc áo này tôi thấy mặc từ lúc còn ở trường Sư phạm),
đôi giầy ba-ta màu nâu, nách trái kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tròn, miệng ngậm
ống vố, chân sải bươn bả đến trường. Trường không xa lắm, non nửa cây số, Sơn
lội bộ hằng ngày, trên con đường đất đỏ, càng lúc càng lên dốc. Ngày nắng thì
bụi đỏ mù trời, ngày mưa thì nhèm nhẹp. Đi một lúc phải tìm chỗ nào có cây hay
cục đá để gạt bớt đất nhão dính vào đế giày càng lúc càng nặng. Có hôm Sơn ngồi
chờ mãi mà vẫn không nghe thấy tiếng Kèn đồng giục giã tò te, tí te, cứ ngồi ôm
đàn tìm nốt nhạc. Đến khi sương tan hết, mặt trời ló ra thì đã gần đứng bóng. Ba
chân, bốn cẳng Sơn vội vã như ngựa phi nước đại đến trường.
Một hôm tôi bỗng nảy ý định đến xem ngôi trường của ông Trưởng
giáo nó ra làm sao. Leo hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên một khoảng
đất trống, xung quanh trơ trọi không một cây cối gì cả. Trường được ngăn đôi
thành hai lớp. Mái tranh, vách đất, không cửa neo. Trong lớp, một bàn vuông cho
thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho trò. Trên vách treo một bảng đen, màu đen bạc
thếch ở giữa. Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp
nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn trò. Tôi đến đó khoảng mười giờ. Học trò hầu
hết là các em bé người Thượng, chỉ xen lẫn vài em người Kinh, có lẽ con của một
vài gia đình lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc
chiếc quần xà lỏn. Có đứa cũng đủ bộ nhưng màu đất đỏ đã nhuộm từ ống quần trở
lên nên không còn nhận ra được màu nguyên thủy của nó là màu gì. Thầy Sơn đang
ngồi tư lự, miệng ngậm ống vố, mắt nhìn lơ đãng về phía cánh rừng xa xa mặc cho
đám học trò làm gì thì làm. Một túm đang gò lưng trên bàn, méo mồm méo miệng
nắn nót viết bài theo trên bảng. Một túm đang bò lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp
vài đứa đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ.
Thấy tôi vào, Sơn cười miệng: - Tới coi ông Trưởng giáo làm ăn ra
sao cho biết, tôi cười cười - Còn ông già Thống đâu? - Ông Thống dạy buổi
chiều. - Có mấy lớp anh Sơn - Ba, tôi dạy lớp ba, ông già Thống dạy lớp một và
hai. sinh đông không? - Thì ông thấy đó, bữa nào không đi hái trà thì được hai
chục, bữa nào cha mẹ nó cần thêm công nhân thì mươi, mười lăm đứa.
Những đứa học trò thấy có người lạ thì cứ trố mắt nhìn. Sơn gõ gõ
cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học trò ngưng hẳn cuộc chơi chờ lệnh thầy. Sơn
nói: "Hôm nay thầy có khách, cho các em về sớm". Đám trẻ con mừng hớn
hở ra mặt, vội thu xếp sách vở, ùa ra khỏi cửa. Trong giây lát, tất cả trở về
trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán lại thêm chút nữa, đảo mắt nhìn quanh
một vòng rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm
tâm có lẽ mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ khác nhau.
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương Cảnh Ngôn về
hưu, ông Lê Cao Lợi, thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp ở Mỹ một thời gian, được Bộ
đề cử chức Ty trưởng thay ông Ngôn. Đây là thời gian vàng son của Trịnh Công
Sơn. Ty trưởng Lợi, trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ, nhạc, nên đối
với một người như Sơn ông dành cho nhiều dễ dãi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ cho
Sơn dùng thì giờ dạy học làm việc riêng của mình.
Những tháng đầu hãy còn lạ nước, lạ cái, không biết đi đâu, làm gì
để hết thì giờ vì chỉ phải dạy có một buổi; chúng tôi có suốt những buổi chiều
lang thang. Cứ hết “những bước chân âm thầm" trong khuôn viên trường Nông
Lâm Súc im lìm vắng vẻ với những tàn cây sao, cây gõ, cây gụ cao vút tận trời
xanh, lại đến đoạn đường quốc lộ I chạy xuyên qua con phố Blao lèo tèo vài quán
ăn dọc đường ngắn củn. Chúng tôi lại đi vòng bờ hồ cho đến khi chiều xuống hẳn,
sương mù bắt đầu xuất hiện trên mặt hồ, ban đầu mỏng rồi dầy dần cho đến lúc
che khuất một chòm cây khô giữa hồ, chỉ còn thấy một thân cây khô với những
cành khẳng khiu vươn lên trơ trọi giữa khoảng trời mây. Đến lúc đó ai cũng cảm
thấy mỏi chân và muốn vào quán ngồi uống cà phê, hoặc uống bia nghe nhạc, chờ
tối để về nhà tìm giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian đó, Trịnh Công
Sơn cảm hứng sáng tác nhạc phẩm Chiều một mình qua phố. Cái lạ là suốt thời gian gần ba năm làm nhạc tại
Bảo Lộc, những bản Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và tập Ca khúc da vàng, mặc dù đã có tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nổi cây đàn (hay Sơn
không muốn mua?). Sơn dùng cây đàn ghi ta của cô Đỗ Thị Nghiễn. Cây đàn này đã
giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong những lúc đi dạy hoặc
lang thang với chúng tôi ban ngày, tối về chúng tôi say sưa trong giấc ngủ thì
Sơn ôm đàn say sưa dò lại những âm thanh đang chập chờn ẩn hiện trong đầu. Sau
những đêm như thế, Sơn phờ phạc hẳn. Một giỏ rác đầy tràn những tờ giấy bản
dùng để quay ronéo Sơn chép vội những dòng nhạc vừa xuất hiện trong đầu rồi
chợt biến, vo tròn, ném lại dò tìm. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của bạn, nên phải
chận phím để tạo những âm thanh câm.
° Nhạc phẩm đầu tiên được
ấn hành
Mặc dù trước đó Trịnh Công Sơn đã có nhiều nhạc phẩm rất hay như Ướt mi, Thương một người, Biển nhớ, Nhìn những
mùa thu đi... nhưng chỉ chuyền tay
nhau hát trong chốn bạn bè, không có điều kiện hay vì những lý do nào đó Sơn
không thể xuất bản để phổ biến rộng rãi. Đến khi ở tại Blao, sau khi hoàn chỉnh
nhạc phẩm Chiều một mình qua phố, Sơn quyết định mang đứa con của mình về Sài Gòn
tìm nhà xuất bản. Sơn ở rịt tại Sài Gòn gần ba tuần lễ.
Mấy ngày sau Sơn về. Phờ phạc, hốc hác. Tôi kể chuyện ông già
Thống đi tìm. Sơn nói là sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó. Ngày
hôm sau Sơn kể cho tôi nghe mọi việc về nhạc phẩm Chiều một mình qua phố.
Sơn nói: "Mình bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba ngàn đồng
bạc, mình nài thêm, chả nói, nhạc Phạm Duy là đắt nhất mà cũng chỉ tới năm ngàn
là cùng, ông là nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi". Sơn tặc lưỡi nói
tiếp: "Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả làm hư bài hát của mình.
Mình bán đứt bản quyền rồi đâu có ý kiến chi được”. Tôi thắc mắc: “Hư là hư làm
sao?". Sơn nói: "Nhạc của mình êm, nhẹ để diễn tả nỗi buồn của những
ngày lang thang trên phố vắng, đìu hiu, quạnh quẽ mà chả cứ rống lên như bò
rống”. Sơn giả giọng Duy Khánh, tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt, miệng rống
lên “Chiều một mình qua phố...ố...ố ố”. Tôi không sao nín cười được. Từ đó Sơn
giải nghĩa cho tôi nghe về việc in ấn, tác quyền, phát hành, đại lý, gom
tiền... rất nhiều, nhiều giai đoạn nhiêu khê, tác giả một nhạc phẩm hay một
tiểu thuyết không thể nào tự mình làm được các việc đó, nên bị các nhà xuất bản
bắt chẹt, đành phải bán bản quyền cho họ. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ ra. Bấy lâu nay
tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ có sách, có nhạc được in ra, đem bán khắp
nơi chắc lại giàu lắm.
° Cô nữ sinh tên Ngà,
tiếng kèn đồng và Lời buồn thánh
Khoảng đầu tháng tư năm 1965, chúng tôi đau buồn tiễn biệt người
bạn trẻ Nguyễn Văn Ba về bên kia thế giới. Cái chết của Nguyễn Văn Ba phần nào
giúp Sơn hoàn thành một bản nhạc bất hủ khác: Lời buồn thánh. Số là trước đó, cứ trưa thứ sáu, sau khi bãi
học, Sơn đi thẳng ra bến xe, lấy vé về Sài Gòn. Xe nhỏ Minh Tâm chỉ bốn tiếng
đồng hồ là Sơn đã tiếu ngạo ở thành phố hoa lệ. Mười hai giờ trưa chủ nhật, Sơn
lại leo lên xe đò, đánh một giấc. Năm giờ chiều đã có mặt tại bàn bi da Cà phê
Ngọc Trang. Sau cái chết của Nguyễn Văn Ba, Sơn rét, không dám về Sài Gòn hằng
tuần nữa. Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư lự trước bàn viết duy
nhất dành cho cả hai soạn bài dạy, nhìn ra con đường đất đỏ. Mùa này, bông lau
nở trắng xóa khắp nơi, dọc theo con đường dốc chạy dài từ trong buôn ra tới
quốc lộ, băng ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, những cơn gió nồm thổi nhẹ
tới từng cơn, lướt qua rừng bông lau, xô chúng ngả nghiêng xuống, rồi chúng bật
dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ, đều đều, buồn buồn. Chiều xuống
dần, những vạt nắng cuối cùng chiếu xiên trên ngọn bông lau, lấp lánh sáng
ngời. Gió lắng dần, không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch. Chợt tiếng kèn đồng
xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất thật hiu hắt buồn. Đó là lúc cô nữ sinh hàng
xóm, cô Ngà, đúng giờ đi lễ. Chuông nhà thờ đang dồn dập từng hồi thúc giục con
chiên đến giáo đường. Thật đúng như tên đặt, da cô trắng ngà, người mảnh mai
với mái tóc thề chấm ngang vai, khuôn mặt phảng phất như Đức mẹ Maria. Rất dịu
dàng trong dáng đi, mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang nhà chúng tôi. Hai
tay ấp quyển Kinh Thánh trước ngực, đầu hơi cúi xuống, lặng lẽ, khoan thai
bước. Đã bao lâu rồi, cái hình ảnh rất đẹp ấy, cái mầu áo dài trắng nổi bật
trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, đã đi ngang nhà chúng
tôi bao nhiêu chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật uổng phí? Chẳng
là, cứ ba giờ chiều là chúng tôi đã túc trực quanh mấy cái bàn bi da để dành
chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới mò về, thì làm sao có thì giờ để biết bên
hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà mãi về sau, theo dõi, lắng nghe mấy đứa em
cô gọi mới biết. Từ ngày Nguyễn Văn Ba chết chúng tôi buồn vì thiếu vắng một
người bạn, nên không còn hứng thú trong những buổi lang thang nữa. Ngồi nhà
suốt một tuần nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có người ngọc. Cả ba: Sơn, Tâm
và tôi bắt đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều không thành công. Lý do: tuổi trẻ ham
chơi nên không bỏ hết thì giờ để đeo đuổi, thứ nữa là sĩ diện, quan trên trông
xuống người ta trông vào, thầy giáo mà đi chọc gái thì ê càng quá. Tuy nhiên
với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Sơn đã thành công khi đưa tất cả những
âm thanh mơ hồ của ngàn lau, của tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ cùng dáng
yểu điệu của cô Ngà hòa nhập với gió chiều nhè nhẹ để cấu thành chất liệu tuyệt
vời tạo nên nhạc phẩm Lời buồn thánh.
xuất xứ vài nhạc phẩm - những mối tình một
thoáng mây bay
Ngoài những nhạc phẩm như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Dã tràng ca... Sơn sáng tác ở Quy Nhơn năm 62-64, Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn
trầm...
Sơn làm tại Bảo Lộc thì tôi biết rõ xuất xứ vào thời gian như đã
lướt qua ở trên, tôi còn biết thêm một vài nhạc phẩm khá hay liên quan đến
những mối tình, mà anh gọi là "một thoáng mây bay" do anh kể lại, nay
một chuyện, mai một chuyện. Thường thường những chuyện này được kể trong những chiều
trời mây u ám, mưa rả rích, dai dẳng. Hai anh em chúng tôi đem đàn, sáo ra hòa
điệu. Rồi cũng chán. Lại cà phê. Khói thuốc mịt mù, mờ khuôn cửa kính. Anh kể
chuyện hấp dẫn, có duyên. Bất cứ chuyện gì anh kể tôi cũng đều thấy hay. Có khi
khôi hài cũng rất dí dỏm. Vừa nói, vừa diễn ra điệu bộ, làm cho câu chuyện rất
sống động, lôi cuốn người nghe từ đầu đến cuối.
°Diễm của Diễm xưa
“Hai chị em, người chị là
Bích Diễm, người em là Dao ánh, - Sơn kể, - hai chị em đều đẹp và quý phái,
nhưng tôi theo cô chị. Mối tình học trò kéo dài từ khi tôi còn ở Huế cho đến
lúc tôi vào Sài Gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó và không thích tôi. Năm đó tôi thi
trượt Bậc II, Diễm thi đậu, vào Sài Gòn để vào đại học Văn khoa. Còn tôi thì
lại về Huế, bỏ ngang việc học vì gia cảnh. Phần buồn, phần tự ái tôi không còn
liên lạc với Diễm nữa và Diễm có lẽ thấy tôi lâu quá không thư từ, thăm hỏi,
nghĩ rằng tôi đã quên, nên Diễm cũng lơ luôn. Đâu biết rằng đó là thời gian tôi
đau khổ nhất. Tôi đã nén mọi khổ đau trong im lặng. Sự đau khổ và nổi nhớ nhung
dày vò tôi từng đêm, tôi đã viết nên bài Diễm xưa để trút bớt nỗi đau khổ
trong lòng. Nhưng lạ một điều là khi tôi viết xong nhạc phẩm này, lòng tôi lại
thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy vơi đi rất nhiều nỗi nhớ và tình yêu trong
lòng tôi bây giờ chỉ còn một chút mong manh như sương, như khói. Nó không còn
nồng nàn, mãnh liệt như trước. Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá Diễm đang
nội trú với ý định tặng nàng bản nhạc để làm kỷ niệm một thời thơ mộng của tuổi
trẻ, rồi thôi.
Nhưng không gặp, tôi nhờ mấy người bạn gái đang đứng ở cổng trao
lại giùm cho Diễm. Khi tôi đi được một quãng thì nghe tiếng Diễm từ trên ban
công gọi theo “Anh Sơn! Anh Sơn!" Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi
thẳng. Tiếng gọi anh Sơn, anh Sơn vẫn còn nghe văng vẳng sau lưng. Từ ấy đến
nay, tôi tự nhủ lòng sẽ không bao giờ gặp lại.
° Tôn Nữ Bích Khê và Biển
nhớ
Nhóm học sinh Nha Trang khăn gói ra Quy Nhơn học Sư phạm có mười
một người, bảy nam và bốn nữ. Các nữ giáo sinh gồm có Mân Thị Dương (em gái kế
của Mân Thiệu tức nhạc sĩ Thanh Châu, tác giả nhạc phẩm Thư gửi người lính chiến), Nguyễn Thị Tảo, Tảo học chung lớp Đệ nhất B3, Võ
Tánh với tôi; cô Kiều Thị Đợi và Tôn Nữ Bích Khê. Bích Khê có hai người em gái
cũng tên Khê, đó là Thuần Khê và Cẩm Khê. Bích Khê dáng người nhỏ, tròn lẳn,
nước da ngăm đen như Trịnh Công Sơn, thường đánh tóc rối thành một búi lớn
ngược ra sau đỉnh đầu. Mang guốc cao gót, nhọn, hiệu Đakao, đi chân sáo. Đứng
xa nhìn Bích Khê đi trông giống như con sáo nhỏ đang nhảy nhót trong sân. Cái
búi tóc nhảy tưng tưng theo nhịp bước, người ta có cảm tưởng có lúc nó sẽ kéo
người chủ nó té ngửa ra sau. Bích Khê không đẹp nhưng rất có duyên, quyến rũ.
Bích Khê cũng ở trong ban hợp xướng. Người lĩnh xướng là Nguyễn Thị ngọc Trinh ... Tôi không biết rõ chuyện tình của Sơn và Khê bằng ông Đinh Cường,
mặc dù học chung hai năm với nhau. Bởi vì hầu như ngày nào cũng có nhiều cô đến
nhà trọ của Sơn. Sau khi bản Biển nhớ được sáng tác và tập dượt để ra mắt buổi văn
nghệ thì giáo sinh sư phạm mới lưu ý tới Bích Khê và bàn tán, vì tình cờ hay cố
ý, Sơn đã viết "trời cao níu bước sơn khê" trong lời nhạc. Về sau,
1970, tôi được chuyển về Nha Trang, gặp lại Bích Khê nay đã yên bề gia thất,
chồng nàng tên Chương, thợ sửa máy lạnh, có cửa hàng mua, bán - sửa chữa tại
đường Quang Trung, đối diện với hiệu ảnh Photo Vỹ. Sau 1975, hai vợ chồng trở
nên giàu có hơn xưa ở Blao. Tôi có hỏi Sơn về sự liên quan giữa nhạc và người.
Sơn nói chỉ là bạn như những người bạn khác. Chữ sơn khê chỉ là tình cờ.
° Nhìn những mùa thu đi
Bản Nhìn những mùa thu đi cũng trong trường hợp tương tự. Trong lớp tôi đã
có ba cô Thu rồi. Các lớp khác cũng hai hay ba Thu, nên không biết Thu nào đã
đến với Sơn hay Sơn đã yêu Thu nào. Mỗi khi có cô Thu nào đi ngang, bọn chúng
tôi hát ghẹo "Nhìn những lần thu
đi, anh nghe hồn anh đau đớn...". Mãn khóa, chia tay. Không ai có thì giờ để ý đến
chuyện của ai. Chăm chú, hồi hộp đợi danh sách bổ nhiệm, xem cuộc đời đưa đẩy
số phận mình đến phương trời nào.
° Ca khúc da vàng
Sau vụ bị rao tìm trên đài phát thanh Đà Lạt và bị quở trách tại
Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn.
Sơn ít đi lại Sài Gòn - Đà Lạt. Thỉnh thoảng có đi thì về kịp sáng
thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này Sơn nhận được rất nhiều thư. Phong nào
cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu
điện tôi biết thư được gửi từ Huế. Đấy là thư bạn của Sơn... Từ lúc đọc những
lá thư dày cộm đó, Sơn bỗng nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn
chồn, lo lắng. Ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi trước bàn,
thẫn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có
khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc tàn chỉ rít một hai hơi. Chiếc gạt tàn đầy
ứ, tràn ra bên ngoài. Sơn mua khóa về khóa chặt va li để cất những thứ ấy. Có cái
Sơn đem ra đốt ngay sau khi đọc.
Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Khi hai, khi ba ngày
Sơn kể tôi nghe về một trang trại ở Phim Nôm gần Đức Trọng, một quận của Tuyên
Đức. Sơn ở đó với vài người bạn (Sơn không kể tên) bàn chuyện làm ăn. Có lần
Sơn rủ tôi làm chung, mỗi tháng lương là mười ngàn. Hết hè, tôi vẫn còn luyến
tiếc thời gian ba tháng trôi qua quá mau. Trở lại căn phòng trên Bảo Lộc, tôi
hết đỗi ngạc nhiên, khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn
thỉu. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn. Khuôn mặt hốc hác. Người đã ốm lại
càng gầy thêm. Gầy rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, đen xỉn, nhàu
nát. Có lẽ ba tháng nay không giặt! Nhưng nét mặt lại lộ vẻ vui. Vừa xếp dọn
lại chỗ nằm của mình, tôi vừa trò chuyện với Sơn. “Ông làm gì mà nằm ép rệp ở
đây đến ba tháng lận? Không buồn à?”. Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe tôi:
“Công trình ba tháng đó". Tôi cầm xấp bản thảo liếc qua trang đầu có nhan đề Ca khúc da vàng, lật thêm mấy tờ bên dưới lại thấy những tựa rất lạ: Gia tài của mẹ, Đàn bò vào thành phố, Người già và em bé,
Người con gái Việt Nam da vàng v. v... với những lời ca lạ lẫm, khác hẳn những lời
trong tình ca đến 180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người
của Sơn nhưng chưa xác định được rõ ràng nó là cái gì.
Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập Ca khúc da vàng. Đến những đoạn như "gia tài của Mẹ, một bọn lai căng. Gia tài
của Mẹ, một lũ bội tình" hay như “đại
bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe" hoặc như "tôi có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ”, tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động,
nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rung động tâm can, tỏa
lan dần khắp cơ thể làm cho bải hoải tứ chi.
Dần dà trong bọn chúng tôi ai ai cũng biết Sơn vừa sáng tác một
tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ "phản chiến"
để chỉ loại nhạc này. Chúng tôi ngâm nga hát mỗi bài vài ba câu. "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm
đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày".
Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về Sài Gòn – Đà Lạt liên
tục. Thường xuyên bỏ trường hơn trước, nhưng thời gian không lâu. Có khi hai,
có khi ba ngày. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập Ca khúc da vàng và hé cho tôi biết thêm là giới sinh viên thích
lắm, họ đang yêu cầu có những buổi hát ngoài trời gọi là "du ca" và
Sơn cũng nói đến một vài cái tên sinh viên sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những
buổi trình diễn ấy. Những điều Sơn kể cùng những cái tên xa lạ không ăn nhập gì
với đời sống đang tươi đẹp của tôi, nên từ tai này qua tai kia, chốc lát tôi
quên hết. Khi Sơn đi, tôi còn khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Đạo, Bạch,
Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Thao, Hiện, Rầm, Nhượng... Tuần này xuống
Tân Hà, đến nhà ông hiệu trưởng Ngọc, hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam
Sơn, hai bên đường vào ấp, trồng toàn hoa đào, nên còn có cái tên thơ mộng là
Đào Hoa thôn, đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Lại có lúc, cùng các cô, chúng tôi
dạo suối Đại Bình, cách Blao chừng vài cây số. Cứ thế tuổi trẻ của tôi, ngoài
việc dạy dỗ các học sinh, đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống ở
cái quận lỵ bé nhỏ, mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe một buổi chiều cuối
tuần đìu hiu có mưa rả rích, buồn thúi ruột.
Chia tay
Hè 1967, chúng tôi đang mỗi người một nơi nghỉ hè bỗng đồng loạt
nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới còn
bị chú hàng chữ: Nếu trình diện trễ bạn sẽ bị đưa ra trường hạ sĩ quan Đồng Đế.
Thế là chúng tôi không hẹn mà gặp nhau một ngày tại Ty. Tay trái nhận lệnh Tổng
động viên, tay phải nhận phong bì ứng trước một tháng lương để có tiền ăn đi
đường, lên đường nhập ngũ. Không thấy Sơn đâu.
Hỏi anh Thành phát ngân viên, anh cho biết Sơn đến hôm qua lãnh
lương đi rồi. Tối hôm đó chúng tôi gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị, Nhượng, Bạch,
Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét, Thao què giò được miễn) và tôi, uống một bửa thật
say. Ai cũng ví mình là Kinh Kha đang ở bên bờ sông Dịch một đi không trở lại.
Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi đưa khúc sáo lên đường. Chúng tôi đang
lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài Những ngày xưa thân ái của Phạm Thế Mỹ, cứ lặp đi, lặp lại điệp khúc
“Chỉ còn tay súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù, những ngày xưa thân ái xin gửi
lại cho nhau” rồi cùng nhau khóc, khóc
như trẻ thơ, khóc tự nhiên không một chút xấu hổ. Sáng hôm sau tỉnh dậy chỉ còn
lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi, còn bao nhiêu thì đã đi rồi. Tôi ra bến
xe, nhìn lại quang cảnh, vẫn y như cũ, không có gì thay đổi, nhưng hôm nay sao
thấy buồn quá đỗi. Cái gì cũng có vẻ xa vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang bờ hồ,
tôi thì thầm “Giã từ Bảo Lộc mến yêu, biết bao giờ gặp lại nhau!". Xe
khuất dần, tôi cố ngoái lại lần chót, chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước
mắt tôi lại ứa ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét