Những con đường trăng tròn là những con đường trăng khuyết. Vẫn là
những con đường cũ em đi qua và tôi đi qua. Thế rồi, có lúc tôi đi qua những
con đường mù mịt không trăng. Những tro tàn quá khứ bỗng dậy lên một cơn lốc
cuốn tôi về với những con đường ma quái ảo ảo chập chờn.
Cái chập chờn của một thân thể phiền não không biết mai này mốt nọ
ra sao, cứ thắc thỏm muốn gửi gắm vào cuộc đời một linh hồn phiêu lạc. Tôi
phiêu lạc bao nhiêu năm rồi trên một dòng đời không bờ bến. Có khi tưởng bờ là
bến. Có khi tưởng bến là bờ. Cái tạm và cái thường hằng lắm khi là một. Thế mà
cứ lại là khác nhau. Cái bờ mỏng manh khoảnh khắc ra đi. Cái bến nhiều khi bền
bền ở lại. Bờ mở ra những bến. Có dâu bể cho bờ. Nên định mệnh bờ thường trói
buộc thân phận bến.
Tôi là bờ em ra đi. Em là bến tôi ghé lại.
Con đò ghé qua bờ này bờ nọ nhưng sẽ đậu lại ở một bên kia.
Mùa xuân là bờ hay là bến? Than ôi, mùa xuân chỉ là bờ. Ai ai
trong đời này cũng có lần ghé qua cái bến tạm mùa xuân. Cái bờ bến mùa xuân
nhập nhằng những dặm trường lận đận. Thoắt nhiên bến xuân chỉ còn lại là bờ.
Cái bến đi qua, rồi cái bờ ở lại. Cái bến hiu hắt của một thuở tưởng rằng thời
hoàng kim bến sẽ mãi mãi không bao giờ là bờ. Thế rồi tuổi đời người người -
đến đến - đi đi cứ mộng vớ, hoang tưởng hão huyền một thứ bờ bờ - bến bến,
không biết nơi nao để neo lại một thân thể phiêu bồng.
Có thể bến cho em và bờ cho tôi. Tôi cứ mãi đi và em ở lại. Cái
thân phận thuyền quyên ấy đừng làm đau xót đời. Cuối cùng, trong cõi mông lùng
mờ mờ ảo ảo, em vẫn chính là cái bến hư ảo một cách vẹn toàn mà tôi có lúc mỏi
mệt sẽ tìm về nương tựa.
“Ru đời đi nhé cho ta nương nhờ lúc thở than”...
Cái bờ ru lời hiu quạnh lau lách. Cái bến ru chập chờn một đốm lửa
chiều . . .
Trong một giấc ngủ bồng bềnh không giờ giấc của mùa xuân, tôi
thảng thốt thấy bờ bến bỗng rã tan thành những cánh bèo mông lung vô định. Em
không bến và tôi không bờ. Em trôi đi và tôi cũng trôi đi. Em và tôi cùng là
bến. Em và tôi cùng là bờ. Chúng ta tan biến vào nhau thành một khối bến - bờ
không còn chia lìa nữa. Trong em không còn trí nhớ về bến. Trong tôi cũng mất
hết những ký ức về bờ.
Bến ở đâu? Và bờ ở đâu?.
Báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 6/2/1994.
Bài Hát Đầu Tiên - Bài Hát Cuối Cùng
Ngạn ngừ Pháp có nói rằng cái gì bắt đầu tốt thì sẽ kết thúc tốt. Tôi không hiểu trong những địa hạt như kinh tế, xã hội, khoa học như thế nào nhưng trên lĩnh vực văn nghệ đôi khi hoặc nhiều khi nó không hoàn toàn như thế....Có không ít những trường hợp người nghệ sĩ đã khởi đầu rất hay và kết thúc rất tệ.
Tôi bước chân vào đất đai của nghệ thuật tương đối sớm. Từ tuổi mười ba mười bốn tuổi đã làm những lưỡi sóng liếm láp mạn thuyền văn nghệ. Trong huyết quản tôi có thể thời ấy đã luân lưu những lượng máu bất bình thường.
Sau một vài biến cố lớn của gia đình, tôi bắt đầu một cuộc sống riêng tư không phẳng lặng.
Và từ đó tôi rơi vào một cơn mộng mị triền miên.
Có một câu hỏi, với tôi, đã trở thành nỗi ám ảnh: Bài hát đầu tiên của anh là bài gì?
Câu hỏi buộc tôi phải trở về những năm tháng xa xôi.
Nhưng khi về đến nơi ấy, trong thời điểm ấy, thì vô tình tôi lạc mình về một quá khứ khác xa xăm hơn nữa. Và rồi tự hỏi: Cái đầu tiên ở nơi nào mà có và điều gì đã sinh thành ra cái đầu tiên kia?
Bài hát Ướt mi được Nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sài Gòn năm 1959, Thanh Thúy hát quanh những phòng trà và nổi tiếng. Thời ấy hình như Nguyễn ánh 9 đã có lúc đệm đàn piano cho Thanh Thúy hát. Thanh Thúy trở thành giọng hát liêu trai. Anh Nguyễn Văn Trung, giáo sư triết thời ấy ở Văn khoa cũng đã từng có bài viết về một tiếng hát liêu trai Thanh Thúy.
Thế thì, cố nhớ lại và tôi đã nhớ một lần nào đó, trong phòng trà, năm 1958, tôi thấy Thanh Thúy hát Giọt mưa thu và khóc. Bà mẹ Thanh Thúy dạo ấy lao phổi hằng đêm nằm hát Giọt mưa thuchờ Thúy về. Nhưng những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ trên tâm hồn mỏng manh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời nào còn xa xôi hơn đã từng làm tôi nhỏ lệ...
Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tôi không ngừng dan díu với những giọt nước mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống thành hình. Tôi e cũng đã từng nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình nói về những giọt nước mắt kia.
Rất nhiều bài hát đã được viết trước bài Ướt mi nhưng riêng bài Ướt mi thì tồn tại như một số phận của nó và của tôi. Hình như người Nhật rất thích nó vì dàn nhạc giao hưởng Nhật đã thu bài hát này. Riêng tôi không thích lắm.
Dù sao thì trong những năm 1959 - 1960 trong thành phố này nhiều người đã thích và hát.
Người ta có nhiều lý do để thích một bài hát đầu tiên của một tác giả để rồi không quên thắc mắc: Thế thì bài hát cuối cùng của anh là gì? Sẽ như thế nào? v.v...
Sự kết thúc của mọi câu chuyện đời đều không giống nhau. Tôi vẫn thường muốn trầm mình trong cái lẽ vô thủy vô chung nhưng người đời cứ thích níu kéo tôi về trong cái lề thói hữu hạn.
Trên đường băng chạy có cái đích để mình đến. Trong nghệ thuật thì khác. Cái cuối cùng cũng có thể là cái vô hạn và biết đâu, nó đã từng có trước thời hạn mà mình không ngờ.
Sự bất tử không có trước có sau mà thường nó nằm ở điểm mà mọi cơ duyên cùng hội tụ.
Tôi không hề có ý định viết bài hát cuối cùng bởi vì tôi nghĩ rằng thời điểm cuối cùng là điều mà mình không thể nào bắt gặp được. Nếu vì một lý do nào đó tôi buộc mình phải lên đường để viết những ý nghĩ cuối cùng của mình trong một ca khúc thì tôi tin rằng vào lúc đó tôi sẽ cố gắng cởi trói mình thoát khỏi mọi hệ lụy của đời để sống chứ không cần phải nói thêm một điều gì nữa.
Bài hát cuối cùng có lẽ sẽ chỉ mãi mãi là một giấc mơ. Một giấc mơ buồn thảm mà chúng ta cần phải quên đi để mọi thứ biên giới trong cuộc đời trở thành vô nghĩa và nó sẽ không còn tồn tại như một lời thách thức kiêu hãnh nữa.
Bài hát đầu tiên và bài hát cuối cùng, ngẫm ra cũng chỉ là những bọt bèo vô hình vô tướng. Chúng ta vui chơi với nó và chúng ta quên đi. Có kẻ gieo cầu có người nhặt được. Kẻ nhặt được không chắc là vui mãi. Kẻ không được cũng chẳng nên lấy đó làm điều.
Hơn ba mươi năm trước có một bài hát đầu tiên, như một trái cầu gieo, có chắc gì hạnh phúc? Không chắc gì hạnh phúc thì sao lại cần phải có bài hát cuối cùng?.
Báo Lao Động, Xuân Tân Mùi, 1991.
Vết Thương Tỉnh Thức
Những ngày tháng này tình bạn và tình yêu mang đến một mềm vui sống lạ kỳ. "Hãy yêu như đang sống và hãy sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại và sống cho tình yêu có mặt".
Có những cánh cửa mở vào hư vô và cũng có những cánh cửa mở ra những cảnh đời nhộn nhịp. Ta không khước từ hư vô và cũng không xa lìa cảnh nhộn nhịp của đời. Ta đã may mắn đi qua những tuyến đường đưa đến hạnh ngộ. Hạnh ngộ trong tình bạn. Hạnh ngộ trong tình yêu.
Nếu đã có một ngày sinh nhật dĩ nhiên sẽ có rất nhiều ngày sinh nhật nữa. Mà hình như trong cảnh ngộ cuộc đời riêng - chung của chúng ta ngày nào mà không là ngày sinh nhật, bởi vì cái màu sắc của lễ lạc đã tự bao giờ khoác lên trên mỗi ngày chúng ta đang sống.
Xin cảm ơn cuộc đời và cảm ơn tất cả mỗi chúng ta đang có mặt mỗi ngày bên nhau. Ly rượu nồng nàn của đời biết bao giờ uống hết được.
Tình yêu thường mang đến khổ đau nhưng đồng thời tình yêu cũng mang đến hạnh phúc. Có một lá cờ bay trên hạnh phúc và có một đoá hoa quỳnh héo úa ngủ trong khổ đau. Cố gắng tránh đừng than thở. Thử thở dài một mình và quên lãng. Ta không thể níu kéo một cái gì đã mất. Tình yêu khi muốn ra đi thì không có một tiếng kèn nào đủ mầu nhiệm để lôi về lại được. Tình yêu là tình yêu. Trong nó đã sẵn có mầm mống và sự hủy diệt.
Tình yêu tự đến và tự đi, không cần ai dìu dắt. Nó hoàn toàn tự do. Muốn giam cầm nó thì nó sẽ bay đi. Muốn thả nó bay đi có khi nó ở lại.
Vì có tình yêu nên có lễ hội. Người ta bắt đầu bằng những cuộc viếng thăm, lui tới, áo mũ xênh xang, bánh trái, lồng đèn, heo ngỗng. . . Những cuộc rước dâu pháo nổ đì đùng, trống kèn inh ỏi. Lễ hội mở ra trên đường, trong làng, trong xóm: Lễ hội mở ra cả trong lòng người.
Thường vào mùa Thu là mùa lễ hội kéo dài suốt cả một đời người. Có những lễ hội có một đời sống đôi khi quá ngắn ngủi.
Đến một lứa tuổi nào đó, chia vui và chia buồn đều có một nỗi mệt nhọc như nhau.
Có những người yêu đã ra đi bỗng một ngày nào đó trở lại. Vì sao? Không vì sao cả. Vì một chọn lựa tưởng rằng đã đúng cuối cùng sai. Và trở lại với một người mình đã phụ bạc để muốn hàn gắn lại một vết thương. Một vết thương nhiều khi đã lành lặn lâu rồi bất chợt vỡ òa như một sự tỉnh thức. Tỉnh thức trên vết thương. Trên một nỗi đau tưởng rằng đã thuộc về quá khứ. Nhưng không. Không có gì thuộc về quá khứ cả. Thời gian trôi đi và vết thương vẫn còn đó.
Nó nằm chờ được thức dậy một lúc nào đó để sống lại như chính bản thân nó là một vết thương.
Nhưng vết thương khi đã được đánh thức thì nó không còn là vết thương cũ vì giờ đây nó là một vết thương tỉnh thức. Một vết thương tỉnh thức là một vết thương biết rõ nó là một vết thương. Nó thức dậy và nó nhận ra rằng nó đã được khai sinh trên tâm hồn một con người và đã có một thời gian dài làm đau đớn con người đó. Vết thương tỉnh thức là một con mắt sáng ngời. Nó nhìn ngược về quá khứ và ngó thẳng tương lai. Nó mách bảo cho chủ nhân của nó là không có một vết thương nào vô tư mà được sinh thành cả. Nó là một nỗi đớn đau như khi trời đất trở dạ làm thành một cơn giông bão.
May thay trong cuộc đời này vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có một khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có nhưng không nhiều.
Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa.
Cuối cùng không có gì khác hơn là sống và chết. Sống làm thế nào cho tròn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi hư không. Phải đi đến tận cùng hai cõi sống chết để làm tan biến tất cả những giấc mộng đời không thực.
Báo Phụ Nữ TP. HCM Xuân Kỷ Mão, 1999.
Nhật Ký
Huế
Đã lâu lắm tôi không ra khỏi nhà để thực hiện những chuyến đi xa.
Thế rồi nó trở thành một thói quen. Một thói quen không hiểu là tốt hay xấu.
Nhưng dù sao đó cũng là thói quen của một người không có sức khỏe tốt hoặc đã
đạt đến một thứ tuổi lười. Đã từng có những cuộc mời mọc trong vài năm nay để
ra nước ngoài nhưng tôi đều từ chối. Và khi kiếm được một cớ nào đó để từ chối
mà không phụ lòng người mời, tôi bỗng thấy lòng thảnh thơi, nhẹ nhõm.
Tháng 4 năm nay ở Huế có tổ chức Festival 2000. Tôi không được
mời, nhưng điều đó không có gì quan trọng. Bởi vì rất nhiều người khác cần được
mời hơn tôi cũng không được mời. Đã hiểu lý do làm sao mà có một sự thiếu sót
như thế thì cần phải viện đến những cơ sự rất phức tạp, thậm chí lạ lùng khó
hiểu. Thành phố Huế là thành phố của những đứa con thân yêu của Huế, chứ không
phải chỉ để dành riêng cho một số người. Càng không phải chỉ để dành cho một
thế lực nào đó. Quê hương là quê hương chung chứ không phải quê hương của riêng
ai. Vì thế cho nên muốn làm đẹp cho quê hương cũng phải được chia đều.
Thế mà cuối cùng tôi cũng đến Huế trong những ngày nằm giữa bề dài
của cuộc Festival. Tôi đã sẵn sàng tham dự một vài buổi trình diễn không lấy gì
làm hứng thú. Những bữa ăn không mùi vị, thậm chí là nhạt nhẽo. Nhưng tôi không
mất nụ cười và sự vui tươi hồn nhiên, vì tôi là thằng con của Huế. Tôi an ủi
đám bạn bè cùng đi là hãy vui đi, vì đây là xứ sở của tôi.
Khi bạn có một xứ sở để trở về hoặc là để thỉnh thoảng trở về, thì
bạn có hạnh phúc nhiều lắm. Ở đó bạn có một dòng sông, một ngọn núi, và bạn tìm
lại được những đứa bạn một thời tóc xanh nay đã lốm đốm bạc đầu. Bạn sẽ gặp một
cô gái Huế bất chợt trên đường và hỏi rằng: Huế bây giờ có gì lạ không em? thì
lập tức, hoặc tình cờ cô gái ấy sẽ đọc lại hai câu thơ của Bùi Giáng:
Dạ thưa phố Huế bây giờ
Ngự Bình vẫn đứng bên bờ sông Hương
Huế trăm năm trước và trăm năm sau không có gì thay đổi. Nó hình
như muốn giữ trọn một lời thề sắt son, không bao giờ thay lòng đổi dạ. Đó là
nét đáng yêu của một thành phố, nhất là một thành phố rất cổ kính. Tuy nhiên
thời đại này người ta không cho phép một thành phố với những con người cứ mải
mê ngủ hoài trên những vàng son của quá khứ hoặc ôm mãi những giấc mộng huyễn
hoặc trên những tàng kính các.
Huế lần này đã kéo tôi ra khỏi cái góc nhà nhỏ hẹp của tôi. Nếu
không có Huế trong dịp Festival này, chưa chắc tôi đã rời được nơi ẩn trú của
mình. Tuy vậy, xét cho cùng, không phải vì Festival lôi cuốn sự tò mò của tôi,
mà chỉ đơn giản chính là Huế. Tôi về chính Huế chứ không phải vì Festival Huế
2000. Nếu nói một cách chính danh, thì đây không phải là một Festival trong
đúng nghĩa của nó. Tổ chức luộm thuộm, không có một không khí hội hè đúng như
yêu cầu, và thực sự nhìn chung, người dân của Huế không tích cực lắm trong việc
chia sẻ một niềm vui chung.
Dù sao tôi cũng cảm ơn một cái cớ nhỏ để tôi đi giang hồ vặt trong
vài ngày ở Đà Nẵng, Hội An và Huế. Ngày xưa, thời còn trẻ lắm, những chuyến đi
chơi nhỏ mọn này không thể nào đủ để làm nguội bớt máu giang hồ trong tôi. Bây
giờ thì những chuyến đi ngắn cùng đông đảo bạn bè cũng tạm an ủi cho những giấc
mộng phiêu lưu không còn thực hiện được nữa .
Huế là người yêu của tôi, là giấc mộng của tôi. Nhưng bây giờ tôi
còn Sài Gòn và Hà Nội. Tôi thấy đâu cũng là quê nhà. Ở đâu tôi cũng có giấc
mộng và tình yêu. Và vì vậy, đôi lúc tôi không còn cảm thấy mình thuộc về một
xứ sở nào nữa. Nhưng ngẫm cho cùng, thì Huế vẫn là quê nhà của tôi, và ngày nào
Huế chưa phụ bạc tôi, thì tôi vẫn là đứa con không bị từ chối của Huế.
Phác Thảo Chân Dung Tôi
Mỗi Sáng nhìn vào mặt gương soi lại thấy thêm rất nhiều những sợi
tóc bạc...
Thuở ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège,
chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc.
Mười hai tuổi có cây đàn guitar đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar như
một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã
viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc
bên trong... Đó là những năm 1956 - 1957, thời của những giấc mộng ngổn ngang,
của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái
quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi
lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ ...
Dạo ấy ba tôi đã mất, mẹ tôi ở xa, tôi một mình giữa Sài Gòn này
phải tự quyết định mọi chuyện về đời mình. Cái gánh đời tuổi tác còn quá nhẹ.
Có lúc tôi đã bỏ dở cái trò lãng mạn viết lách này với nỗi ám ảnh ngu ngốc
“xướng ca vô loài”. Tôi trằn trọc đêm này qua đêm khác, ray rứt ngày này qua
tháng nọ. Nhưng càng cố lãng quên thì tiếng hát trong tôi càng vang lên rõ rệt,
tràn ngập cả lúc đứng ngồi, cả trong giấc ngủ.
Dần dà những năm về sau, mới bắt đầu hình thành trong tôi một quan
niệm rõ rệt: Sống là sống với người khác và muốn có cảm thông chúng ta phải
luôn luôn diễn đạt mình. Trong những cách diễn đạt bằng tiếng nói, bằng chữ
viết và nhiều phương tiện khác, tôi thấy tâm hồn mình có khuynh hướng nghiêng
về phía ca khúc. Trên mảnh đất nghệ thuật nhỏ nhắn này, tôi tìm thấy tự do và
tôi nghĩ rằng ở đây tôi có thể bày tỏ được với người khác về những niềm vui nỗi
buồn của cuộc sống.
Nhìn lại quãng đường mình đã đi, tôi cảm thấy không có gì phải ân
hận. Tôi vẫn là đứa trẻ thơ trong nghệ thuật, lòng còn tràn đầy cảm hứng. Tôi
vẫn còn ham mê học hỏi quanh mình và còn đủ hào hứng mở ra những cuộc đối
thoại, độc thoại với cây cỏ thiên nhiên, với con người qua ca khúc dưới ánh
sáng hiền hòa nhân hậu của những ngày tôi đang sống.
Phải chờ đến lúc soi gương nhìn thấy tóc không còn mang mầu xanh
cũ nữa, mới nhận ra được hết nỗi khát khao được yêu thương mãi mãi con người và
cuộc sống. Yêu thương con người cũng là yêu thương tiếng hát bởi vì tiếng hát
mang trong nó tâm hồn của con người. Tiếng hát sẽ mọc lên xanh tươi trên cuộc
đời này như những cây tử đinh hương mọc tràn thơm tho trên những cánh đồng vô
tận.
Với ca khúc, tôi là người tình của thiên nhiên, là người bạn của
những em bé. Qua ca khúc, tôi đã đến gần và đã đi xa những chuyện tình, đã tham
dự những nỗi hân hoan của đời người và cũng đã gánh nhẹ giùm những phiền muộn.
Ca khúc là đời sống thứ hai sau cái thân thể mà cha mẹ đã sinh
thành...
Trích từ Nhạc và đời - NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Đây là một đoạn nhật ký Trịnh Công Sơn viết năm
1969, khi vừa tròn 30 tuổi, lúc anh đã có nhiều sáng tác được công chúng biết
đến và yêu mến...
Vào đầu mùa xuân này tôi ba mươi tuổi chẵn. Câu nói đã xưa lặp lại
mãi âm thầm trong trí tôi: "Tam thập nhi lập," Riêng tôi, chưa lập
được gì cả.
Tôi đang ở trong một thành phố có những vết tích cổ xưa của đền
đài thành quách. Bây giờ những thứ đó cũng không nói lên được điều gì. Thỉnh
thoảng nhìn lại cũng có gợn lên trong lòng một chút buồn bâng quơ vậy thôi.
Người ta chỉ còn chú ý đến những đổ nát quanh thành phố và ngay trên những đền
đài đó. Có lần tôi cùng vài người bạn đưa một cô bạn từ xa đến, đi thăm những
đền đài này, cô bạn thắc mắc hỏi sao người ta chưa lo sửa sang lại những nơi
này. Người bạn tôi cười bảo: lo gì, cứ làm một cuộc cách mạng, lo cho mọi việc
khác xong thì một trăm cái đền đài này xây cũng nổi. Đó là câu chuyện nhỏ của
năm vừa qua, vào khoảng đầu mùa hạ. Bây giờ là mùa xuân của một năm mới. Mùa
xuân mà tôi vừa đến tuổi ba mươi.
Tôi đã dự định sẽ tổ chức sinh nhật của mình thật lớn để mừng tuổi
khởi đầu cho sự trưởng thành thật sự. Tôi có nói điều đó với mấy đứa em, cả với
mẹ tôi nữa. Những đứa em gái có vẻ mừng, nhắc nhở luôn và chờ đợi. Chúng nó hỏi
tôi tổ chức như thế nào, dọn ăn ra sao và mời những ai đến. Tôi cũng vẽ ra một
không khí thật rực rỡ và bảo thôi chờ đến đó hẵng hay.
Ngày sinh nhật cuối cùng đã đến cùng với mùa xuân. Hàng cây trước
nhà đã thay lá xanh nõn. Và tôi, cũng như những đứa em đã quên hẳn ngày sinh
nhật vẽ ra từ năm ngoái. Hai ngày sau ngày sinh nhật, tôi nhận được một điện
tín. Đó là điện tín của một người con gái dễ thương nhưng không yêu gửi về một
lời chúc mừng sinh nhật.
Tôi đã bỏ một buổi chiều để nghĩ về ngày sinh của mình cách đây ba
mươi năm. Làm sao còn nhớ được cái ngày khởi đầu cho một đời người xa heo hút
như thế. Tôi thử kiểm điểm lại xem mình đã làm được gì. Tôi nhớ năm mười lăm
tuổi có lần tôi đã mơ ước được đến tuổi hai mươi để làm người lớn, để được hút
thuốc, được tự do đi chơi nơi này nơi nọ, được làm tất cả những gì mà với tuổi
15 tôi chưa có quyền làm.
Như thế mà đã 15 năm nữa. Tuổi mơ ước làm người lớn cũng đã đi
qua. Đi qua với một số kỷ niệm buồn vui có khi không còn nhớ rõ.
Thời gian mơ ước được làm người lớn cũng là thời gian của mối tình
đầu tiên. Cũng là thời gian đã được yêu và được nhìn người yêu mình đi lấy
chồng. Cuộc tình duyên này không cân xứng về tuổi tác nhưng cân xứng về danh vọng
và nhan sắc. Điều này đã trở thành cổ điển và không gây thêm được một chút ngạc
nhiên nào trong xã hội nho nhỏ của thành phố. Tuy thế, riêng tôi là một thất
vọng lớn không lường được. Sau đó là những mối tình khác nhưng tôi vẫn khó xóa
được mặc cảm (tuy càng ngày càng mỏng dần trong tôi) đối với thành phố này.
Bây giờ tôi đã 30 tuổi.
Ba mươi cây nến không cây nào được đốt lên. Buổi chiều trong căn
phòng chỉ còn lại mình tôi, những đứa em gái đã đi học. Một thằng em trai làm
ăn ở xa. Một dứa khác đang hành quân trên đỉnh một ngọn núi cao mà có lần nó
bảo là sương mù quanh năm lạnh lắm. Mẹ tôi thì sang phố từ sau bữa cơm trưa.
Tôi nhớ đến tên những thằng bạn thân, bây giờ mỗi đứa đang ăn,
ngủ, nhậu hay hiểm nguy trên những địa thế khác nhau của mặt đất này. Ví dụ lúc
này có thằng Tường° ở đây thì nó sẽ uống thật cạn một ly rượu và mang cái ly ra
dòng sông bên cạnh nhà để vứt xuống. Không hiểu nó đã vứt được bao nhiêu cái ly
xuống biển, xuống sông, xuống đèo cho những sinh nhật bạn bè. Đó cũng là một
thói quen làm người khác dễ nhớ đến. Tất cả đều đã phiêu bạt. Như tôi cũng đã
phiêu bạt.
Những lần quay về lại với căn nhà này tới luôn luôn mang cảm giác
sự trở về của một đứa con đi hoang. Thời gian trở về bao giờ cũng là thời gian
để nằm nghỉ và dưỡng sức. Như một con bệnh mệt mỏi, rã rời...
Tuổi trẻ chủ nhật, số 13/2001
(°) Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cuộc
Sống
Không Thể Thiếu Tình Yêu
Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài qui luật cả. Nhưng
tình yêu hình như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con
người nhưng cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những người quá lạc
quan khi nói về tình yêu bằng thể khẳng định. Người ta có thể tin rằng mình
được yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không được yêu. Tôi không thể nói về một
vấn đề mà chính bản thân mình cũng chưa hiểu hết. Chưa hiểu hết là nói theo
kiểu đại ngôn chứ thật sự là hoàn toàn không thể hiểu. Nếu có người nào đó
thách thức tôi một trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà đánh đố.
Tôi e, không ai dám tự xưng mình am tường hết nội dung phong phú và quá phức
tạp của tình yêu.
Có người yêu thì hạnh phúc; có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau
khổ hay hạnh phúc thì con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con
người không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn năm nay con người đã sống và đã
yêu - yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế mà đã có không biết bao nhiêu là
tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời. Sự giả trá đó lúc biết được thì
làm khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể.
Người giả, người thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ ngàng không biết
thế nào nói được. Người thật thì nằm bệnh, người giả thì nói, cười huyên
thuyên. Đời sống vốn không bất công. Người giả trong tình yêu thế nào cũng
thiệt. Người thật thế nào cũng được đền bù.
Tình yêu thời nào cũng có. Nhưng có tình yêu kết thúc bi thảm đến
độ có khi con người không dám yêu. Yêu mà khổ quá thì yêu làm gì. Có người đã
nói như vậy.
Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù sao chăng nữa,
tôi vẫn muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: "Cuộc sống không thể
thiếu tình yêu”.
Viết Và
Thở
Có một thời tôi cần viết nhạc như cần thở vậy. Thời trẻ trung,
vọng động, thở nhiều, viết khỏe. Càng lớn công việc hô hấp càng đề huề, bớt
căng thăng, nhịp viết lách có bề lả lơi lai rai hơn.
Có một bầu không khí dành cho sự hít thở. Vì hô hấp quá cần cho sự
sống nên không mấy ai chịu lười thở. Người ở đồng bằng thở theo kiểu sông rạch
trôi đi miên man lở bồi phù sa, nước phèn, mặn, ngọt. Người thung lũng thở kiểu
ẩm đục sương giăng. Người ở trên non thở hồn nhiên lãng đãng.
Văn Tự
Trên mặt đất này, từ rừng núi, những làng quê đến các đô thị, ở
đâu cũng có các con đường để đi. Con đường có thể rất thô sơ, có lúc rất ngoạn
mục để từ đó con người đi tìm những con người hay tìm đến những chốn những nơi
cần cho những công việc riêng tư.
Có những con đường rừng núi do bàn chân người đi mãi thành một lối
mòn. Có những con đường do sự sắp xếp của đầu óc theo một mô hình để con người
thong dong đi đứng do bàn tay con người làm nên. Dù bằng cách nào thì những con
đường ấy vẫn có bổn phận giúp cho con người tìm đến một nơi nào đó mà mình
thích. Có những ngã ba, ngã tư, ngã năm, sáu, bảy và vào thời đại này những con
đường lại chồng chéo lên nhau từ những tầng rất cao đến những tầng thấp sâu.
Những con đường ấy làm nên một thứ văn tự hay nói nôm na hơn là
một thứ chữ viết báo hiệu sự có mặt của đời sống con người.
Con vật cũng có lối đi riêng. Mỗi loài chim đều có một thứ văn tự
viết bằng đường bay của chúng trên bầu trời. Văn tự của con kiến được con người
đặt tên là "file indienne". Và còn biết bao nhiêu loài vật khác, cả
đến những loài côn trùng vô danh cũng đều có một loại văn tự riêng biệt mà chỉ
có chúng mới tự nhận ra. Đó là một kiểu văn tự viết bằng sự sống riêng biệt của
muôn loài.
Bèo dạt hoa trôi có một kiểu văn tự trên nước. "Ecriture sur
l'eau". Trên những sông ngòi quê ta có đời sống của lục bình, của bèo làm
những cuộc phiêu du không ngừng nghỉ.
Chúng như một bộ lạc du mục cứ mãi ra đi và đã vẽ lên một thứ văn
tự trên dòng nước. Có người ngồi bên dòng sông ngắm nhìn đám lục bình trôi đi
và phút chốc bỗng ngậm ngùi về một thứ văn tự hồn nhiên đã tan biến vào hư
không.
Đó là cuốn bạch thư hùng vĩ mà muôn loài đã để lại cho bầu trời,
mặt đất và sông nước.
Những văn tự hư ảo phiêu bồng đó dù không được lưu trữ nhưng trong
trí nhớ của những người thích suy tưởng về cuộc sống chung, nghĩ lại đôi lúc
cũng bồi hồi.
Thế giới Âm Nhạc - Tháng 3/1997
Sự Vật Con Người
1- Những ngày đầu năm mới tịch dương, sải chân tà tà về những ngày
cuối lịch âm cũ, bầu trời thành phố sớm chiều có một màu sắc khí hậu êm ả dịu dàng.
Trời đất như thế, thường khiến ta tìm một nơi yên tĩnh ngồi uống
rượu, uống trà với bạn.
Buổi chiều chúng tôi thường đến một quán quen vào giờ chưa có
khách. Nói với nhau dăm ba câu chuyện về đời, về người, về nghệ thuật. Tiếng
nói chỉ đủ rơi quanh chỗ chúng tôi ngồi. Quán vẫn cho chúng tôi nghe một thứ âm
nhạc đã chọn kỹ, âm lượng mơ hồ như một thứ tiếng nói khác của thiên nhiên.
Anh bạn họa sĩ của tôi nói: Đôi khi âm nhạc cũng đuổi người ta đi.
Ý muốn nhắc nhở thứ âm nhạc ồn ào không thuận lợi mấy cho một khung cảnh màu
sắc sỗ sàng.
2- Quán có những hàng ghế, bàn mây sơn trắng. Sỏi trắng và bãi cỏ
xanh.
Đèn bật lên, quán bỗng chuyển sang một đời sống khác. Người bạn
tôi nói: Hình như loại cây nào không có hoa thì cũng không có trái. Cây tre chỉ
có lá mà thôi. Tôi nghĩ thầm: mụt măng cũng có thể xem như một loại trái hài
nhi của tre vậy. Tiếc rằng những thứ trái hài nhi ấy chưa kịp manh nha thành
thân, thành lá lại thường oan mệnh trước cuộc hóa thân.
Những âm thanh rời lẻ có khi hóa thân thành những dòng nhạc đẹp,
nhưng lắm khi cũng yểu mệnh vô thường.
3- Những quán hàng cũng có một kiếp sống vô thường.
Nơi đây ngày xưa có quán. Hôm nay có thể không còn. Bóng dáng của
quán ấy ở lại trong trí nhớ của con người. Con người mất đi, trí nhớ về quán ấy
cũng mất đi. Sự vắng bóng đó có khi vô nghĩa, trong cái bề bộn của cuộc sống,
nhưng ngẫu nhiên, ai biết được bỗng rơi tõm vào đời riêng của một người. Câu
chuyện về một cái quán khả ái nào đó tình cờ được nhắc nhở. Và phút chốc cái
quán cũng bàn ghế, cảnh trí, người ngợm của cái ngày nào xa xôi ấy bỗng thức
dậy trong trí nhớ một người xa lạ. Cái quán kia phục sinh trong một đời sống
khác.
Cũng như thế, có những câu hát một thời đã sống, đã lãng quên và
sống lại.
4- Một tác phẩm không bị lãng quên thường được mở rộng đường để đi
đến chốn không bờ bến của những giá trị dường như huyễn hoặc.
Con người bị lãng quên là kẻ đã tự đánh mất mình để rồi xóa nốt
mình trong trí nhớ của kẻ khác.
Cũng như thế, có những dòng nhạc của một đời người đã đứng ngoài
và cao hơn số phận của người đó.
Tôi đã đi qua những bề thế ấy, viết và thở. Có khi viết thở kiểu
hào hoa phong nhã công tử Bạc Liêu. Có khi hồn xiêu phách lạc viết thở theo
phong thái ngỡ ngàng rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Lại có lúc thơ thới hồn
nhiên viết thở tựa hồ như những bước chân hân hoan của "Hoàng tử bé"
rong chơi qua mọi vùng sinh thái tinh cầu.
Thời đại chúng ta đang sống, con người xô đẩy nhau la ó về chuyện
cần làm sạch sẽ môi sinh. Càng văn minh càng ô nhiễm khó thở. Không khí vốn là
một món ăn thiên nhiên tạo hoá đã dành sẵn cho lá phổi. Bỗng một hôm, hai bữa,
ba bốn ngày nọ tiếp nối đổ xô về hàng loạt những thứ bụi bặm kệch cỡm múa may
rối rắm trên trời dưới đất, trên nguồn dưới lũng, không dung tha, không khoan
nhượng. Thứ bụi rác độc hại đã xé toang buồng phổi sự sống của chúng ta. Mọi
thứ sinh linh khác cũng khó bề tồn tại.
Không khí vốn vô tư. Ai muốn thở cũng được.
Tôi vốn viết nhạc cũng như thở vậy.
Có điều khi thở tôi chọn cái không khí trong lành để cho lá phổi
không than phiền và cái sự hô hấp cũng bớt đi phần gian nan.
Một bài hát cũng vậy. Hát để thăng hoa đồng thời cũng để an ủi.
Sản phẩm văn nghệ chỉ đẹp khi có khả năng xoá đi những nỗi giận hờn. Nó có bao
giờ, muốn đèo bòng một thứ khác để tự hủy diệt nó đâu.
“Phải Biết Sống Hết Mình Trong Mỗi Sát Na Của
Hiện Tại"
° Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là
Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé
tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ
tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm
đềm giữa nhũng câu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những
cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hóa Đông Tây góp
nhặt được, còn có lời kinh kệ vô tình nằm ở đấy.
° Không hiểu sao những năm gần đây, tôi thường nghĩ về Phật giáo
như một tôn giáo mang nhiều tính hiện sinh nhất. Bắt đầu bằng chữ sát na, một
đơn vị thời gian siêu nhỏ. Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của thực
tại. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi đứng nằm ngồi. Không làm công việc này mà
nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là thiền, là một cách sống đích thực.
Tôi vẫn tiếp tục thực tập cách sống như thế hàng ngày.
Tôi đang cố gắng quên Phật giáo như một tôn giáo. Tôi muốn đó là
một thứ triết học siêu thoát mà ai cũng cần phải học, ngay cả những người thuộc
tôn giáo khác. Mỗi người phải nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa
tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một
tượng đài vững chắc. Nó sẽ giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác
đi.
° Với tôi, Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu đời hơn chứ
không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống.
° ...Tôi không quan niệm tìm đến với Phật mà là trở về với
Phật tính trong cõi riêng mình. Đó là quê hương, là chiếc ngai
Phật. Tôi ngồi, Phật sẽ tràn ngập tôi và tôi sẽ tràn ngập Phật. Như một cơn lũ
dũng mãnh đầy phù sa, mang theo trong nó những gì có thể nuôi dưỡng được cho
một cõi "Ngộ" ra đời. "Thấy" và biết" và từ đó làm nảy
sinh một nụ cười tủm tỉm, một thoáng cười hàm tiếu mà La Joconde của Léonard de
Vinci mới có thể trong muôn một so sánh được.
° Cuối năm 1995, tôi có viết được một bài hát mà tôi rất thích và
bạn bè ai cũng thích. Đó là bài "Sóng về đâu”. Bài này lấy cảm hứng từ câu
kệ: "Gate Gate. Paragaté. Parasamgaté. Bodhi svaha".
° Tôi đang đi tìm một cách biểu hiện mới. Muốn vậy, khi sáng tác,
tôi phải lãng quên hiện hữu này để đi vào một thực tại, một thực tại phiêu
bồng, ở đó không có những xung đột trần tục của chữ nghĩa và những lý luận ngõ
cụt không đâu.
Tôi đang tập hành Thiền về sự lãng quên. Lãng quên những gì không
cần thiết cho đời và cho chính bản thân mình.
Nguyệt san Giác ngộ 4/2001
Huyên Náo Và Tĩnh Lặng
Trong những ngày nằm bệnh không có gì thích thú bằng sự tĩnh lặng.
Không một ai quấy rầy đến sự nghỉ ngơi. Không có gì làm xao động cái không gian
đã được đóng kín lại cho một cõi riêng tư.
Nằm yên và nghe mình thở. Nằm yên và theo dõi những suy tưởng của
mình trước cuộc đời. Nằm và cảm nhận cùng một lúc sự gần gũi và cả sự xa vắng
đối với tất cả những gì đang cùng tồn tại hay đang vây quanh đời sống của ta.
Đau ốm chỉ là sự tạm dừng chân trong cuộc hành trình về phía
trước.
Vắng bạn đương nhiên là buồn. Nhưng bạn nào và sự có mặt của bạn
như thế nào đó mới thật là một niềm vui. Có những sự có mặt của bạn bè tương
đương với một dấu lặng trong âm nhạc nên sự có mặt đó thường có khả năng mang
đến cho ta một sự thoải mái thảnh thơi tựa hồ như niềm hoan lạc. Đó là những
trường hợp ta không cần phải đối phó, không cần phải cố gắng lấp đầy khoảng
trống bằng những câu chuyện gắng gượng, nhạt nhẽo.
Nếu trong âm nhạc không có những dấu lặng, dấu nghĩ, thì đó là một
tai họa. Đám đông và sự ồn ào không phải luôn luôn là đại diện của sự sống. Ta
cần sự nghỉ ngơi và tĩnh lặng không phải chỉ trong lúc nằm bệnh mà ngay cả
trong lúc đang sinh hoạt bình thường. Tiếng động ầm ĩ cũng giống như sự phát
ngôn huyên thuyên không có cơ may chấm dứt trong những cuộc họp mặt hoặc trong
những buổi trà dư tửu hậu. Đó chỉ là sự phá sản của những não trạng không bình
thường. Nó làm mệt mọi người và cả cuộc sống.
Có sự ồn ào của chợ và sự huyên náo của nghị trường. Nhưng giữa sự
ồn ào của chợ và sự huyên náo dị thường của những cái loa vô tội vạ phát thanh
về bất cứ vấn đề gì bất chấp người nghe muốn hay không thì tôi chọn sự ồn ào
của chợ. Bởi vì đằng sau sự ồn ào còn có thực phẩm trần gian. Nó hứa hẹn những
bữa ăn ngon trong không khí một gia đình sum họp.
Đi qua cuộc sống hàng ngày tôi biết có rất nhiều người không biết
hoặc không hề quan tâm đến sự tĩnh lặng. Họ thích nói và hình như cần phải nói
với bất cứ giá nào. Họ nói về bất cứ vấn đề gì miễn là có một kẻ thứ hai để
chịu đựng những điều họ muốn nói. Họ nói và cười sảng khoái cho riêng họ bất
chấp kẻ khác có đồng tình hay không.
Huyên náo và tĩnh lặng là hai trạng thái tinh thần khác nhau.
Người ta có thể phát bệnh vì tiếng la hét quá độ chứ không bao giờ mệt mỏi vì
sự yên tĩnh.
Tạp chí Sóng Nhạc
Một Cõi Đi Về
° Triết học ấn Độ nói rằng: nếu ở nơi này vừa có một kẻ bỗng dưng
giàu lên thì lập tức ở một nơikhác sẽ có một kẻ mất hết sản nghiệp.
Chiều nay ở sân bay vừa đưa tiễn những người thân đi xa. Về nhà,
người bạn tôi nói: ở nơi này vừa thiếu đi bốn người thì lập tức ở nơi xa xôi
kia nhận thêm được bốn người...
Có một nỗi buồn ở nơi này thì sẽ có một niềm vui ở chốn khác.
Có một trái tim khổ nạn ở người này thì tất nhiên sẽ có một trái
tim hân hoan ở kẻ khác.
° Những ai đã đi đến với đời thì phải có lúc lìa xa nó. Một cõi đi
về...
Trong Phật giáo, một trong những "hạnh" cao nhất là hạnh
bố thí.
Cho kẻ này nhưng sẽ nhận lại ở kẻ khác.
Thanh Tùng nói với tôi: Tôi muốn làm một điều gì đó thật tốt đẹp
cho người đã khuất, người vợ một đời lo âu, tận tụy vì tôi.
Vợ Tùng đã một đời cho Tùng nhiều quá thì sẽ nhận được quà tặng ở
một nơi khác. Tùng biết cách cho thì vợ Tùng sẽ nhận được. Những đứa con của vợ
Tùng sẽ nhận được.
Những thân quyến, bạn hữu của vợ Tùng sẽ nhận được.
° Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không chỉ là sự tồn
tại của thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết. Nhiều người
đã chết mà vẫn còn sống trong trí nhớ mọi người.
Trước khi mất vợ Tùng nói với tôi: Nếu khoẻ, em về lại nhà và sẽ
chỉ làm hai điều này thôi. Mang quà mỗi ngày cho những người nghèo đau ốm trong
bệnh viện và chiều chiều làm đồ nhậu cho các anh với anh Tùng để nghe các anh
nói chuyện đời, chuyện nghệ thuật.
Trong câu chuyện đời chung, kẻ này quên thì người kia phải nhớ.
Một ý tưởng chợt tắt để làm mầm chuyển hóa cho một ý tưởng khác nảy sinh.
Cái mất không bao giờ mất hẳn.
Cái còn không hẳn mãi là còn.
Sóng Nhạc 1990
Hồi ức
Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây
long não lá li ti xanh mướt để đến trường đại học văn khoa ở Huế.
Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua
dưới những vòm cây long não.
Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua.
Những mùa nắng ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa xuân
mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhòa nhạt trong mưa giữa hai hàng cây long não
mù mịt.
Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi
mới gặp hàng long não để đến trường.
Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi
ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện
có máy nổ và có những tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa
phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ chậm rãi đến trường bằng những bước đi thong
thả hoàng cung. Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng mình là
một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng
gì đâu. Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái
tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ. Đi để được những con mắt chung quanh
nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước
và hoa lá thiên nhiên. Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông
Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói
lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ,
đền đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và
một phần nào cũng giúp cho con người được cứu rỗi ra khỏi vòng đai tục lụy. Và
từ đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới
riêng. Nó không cám dỗ như cõi phồn hoa đô hội nhưng nó là mạch nguồn của một
nguồn gợi cảm nhẹ nhàng riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ
những cõi trời đất gần như không có thực.
Nhưng sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là
ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá dài lâu, những
con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm thêu hoa những giấc
mơ, giấc mộng của mình.
Đó cũng là thời gian mà mỗi sáng tinh mơ, mỗi chiều, mỗi tối,
tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyến đi trên dòng sông để đến
với từng căn nhà khép hờ bay đang đóng kín cửa.
Thời gian trôi đi ở nơi đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người
không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình, không màu
sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét, mới làm sực
tỉnh và bỗng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng
đồi núi chung quanh.
Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một
khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày
dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường như
đến một nơi vô định. Định hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân ngày
nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoan lạc của giấc mơ.
Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, qua
những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối cùng đến một
nơi hò hẹn.
Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì trong không gian
liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu trai nào cũng sẽ
không có thực và sẽ biến mất đi.
Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi
xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng
nhớ nhưng cứ phải quên.
Người con gái ấy là Diễm của những ngày xưa.
Thế giới âm Nhạc - Tháng 3/1997
Giấc Mơ Hạ Trắng
Ở Huế mùa hạ, ve kêu râm ran trên những tàn cây như một dàn hợp
xướng và nắng nóng oi bức như địa ngục. Thêm vào đó lại còn có gió Lào. Vừa tắm
xong là người đã ướt đẫm mồ hôi. Bao nhiêu nhiên liệu tích lũy trong cơ thể đều
tan ra thành nước. Những đồ vật và áo quần sờ vào đâu cũng có cảm giác như vừa
rút trong lò lửa ra. Những mặt đường gần như bốc khói với nhiệt độ 42 - 43.
Có một mùa hạ năm ấy tôi bị một cơn sốt nặng, nhiệt độ trong người
và bên ngoài bằng nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn biết gì. Và
bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy có một hương thơm phủ ngập cả căn phòng và
tôi chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc vào một
rừng hoa trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Đến lúc tỉnh dậy
người ướt đẫm mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái nào
đó đã đến cắm một bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn. Chính cái mùi thơm của dạ
lý hương đã đưa tôi vào giấc mơ kia. Giấc mơ trong một mùa hạ nóng bức. Trong
vùng tôi ở, quanh đó chỉ có một nhà duy nhất trồng dạ lý hương nên tôi biết
ngay người mang hoa đến là ai.
Sau một tuần lễ tôi hết bệnh. Nghe tin bố người bạn đang hấp hối
tôi vội vàng đến thăm. Ông chẳng có bệnh gì ngoài bệnh nhớ thương và buồn rầu.
Câu chuyện rất đơn giản. Hai ông bà đã lớn tuổi thường nằm chung trên một sập
gụ xưa. Cứ mỗi sáng bà cụ thức dậy sớm và xuống bếp nấu nước sôi để pha trà cho
ông cụ uống. Một buổi sáng nọ, Cũng theo thường lệ, bà cụ xuống bếp bị gió ngã
xuống bất tỉnh và chết. Mấy người con ở gần đó tình cờ phát hiện ra và đưa bà
cụ về nhà một người để tẩm liệm. Sau đó chôn cất và giấu ông cụ. Khi ông cụ
thức dậy hỏi con, mẹ các con đi đâu rồi, thì họ trả lời là mẹ sang nhà chúng
con để chăm sóc mấy cháu vì chúng bị bệnh. Vài ngày sau vẫn chưa thấy bà về ông
mới trầm ngâm hỏi các con có phải mẹ các con đã chết rồi không. Lúc ấy mọi
người mới khóc oà lên. Từ đó ông nằm trên sập gụ một mình, cơm không ăn, trà
không uống cho đến lúc kiệt sức và đi theo bà cụ luôn.
Câu chuyện này ám ảnh tôi một thời gian. Và sau đó tôi kết hợp
giấc mơ hoa trắng mùa hạ với mối tình già keo sơn này như "áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi
tên nhau” để viết nên bài Hạ trắng.
Thế giới âm Nhạc - Tháng 5/1997
Cát Bụi
Vào một buổi chiều ngày tháng không còn nhớ, tôi một mình đến rạp
Casino xem phim. "Hiệp sĩ mù nghe
gió kiếm” tập 6. Đây là một
bộ phim nhiều tập, đã xem tập này thì không thể không chờ xem tập khác. Nói
chung là tập nào cũng hấp dẫn. Trong tập 6 có đoạn hiệp sĩ mù xuất kiếm giải
cứu cho một nàng Kiều xinh đẹp. Cứ mỗi tuyệt chiêu xuất ra là nghe một tiếng
nói bình giải ca ngợi. Đường kiếm như có thêm sức mạnh mỗi lúc mỗi uyển chuyển
huy hoàng hơn. Sau khi cứu được nàng Kiều, hiệp sĩ mù quay về phía tiếng nói
vái tay chào hỏi. Hoá ra bên vệ đường, dưới gốc cây to, có một người mù khác
đang ngồi xếp bàn, trên hai chân có cây đàn bọc trong bao vải gác ngang. Người
nghệ sĩ mù có nhã ý muốn chơi một bản đàn tặng hiệp sĩ mù. Hai người bèn kéo
nhau vào một khu rừng gần đấy. Hình như là rừng vào thu nên các cành đều trơ
lá, chỉ thấy một thảm lá vàng đỏ trải dày trên mặt đất. Hai người ngồi tựa vào
hai góc cây đối diện nhau. Tiếng đàn nửa chừng bỗng đứt giây. Người nghệ sĩ mù
nói: có kẻ bất thiện đang nghe lén. Quả đúng như vậy, có một tên gian đang rình
rập hiệp sĩ mù. Thế là hai người lặng lẽ chia tay.
Hết phim, tôi tản bộ lang thang trên phố. Không hiểu sao cái đoạn
phim ngắn ngủi ấy khiến tôi buồn buồn. Chiều tối về nhà, sau khi ăn, tôi ngồi
đọc lại cuốn Zorba le Grec. Đến đoạn Zorba than thở: "Chim đa đa ơi
thôi đừng hót nữa. Tiếng hót mày làm tan nát tim ta”, tôi bỗng gập sách lại và
không đọc nữa. Có một cái gì đó thật trùng hợp trong cùng một buổi chiều. Một
nỗi buồn hay một điều gì đó gần với sự rời xa li biệt đang cựa mình thức dậy
trong tôi. Tôi lại ra đường tìm đến một góc quán quen thuộc ngồi. Trên đường
trở về nhà, trong đầu bỗng vang lên một tiếng hát, hát thành tiếng khe khẽ. Đến
khi về nhà lấy giấy bút ghi lại thì bài hát đã gần như hoàn chỉnh. Sáng hôm sau
mang hát cho một số bạn bè nghe, hầu như ai cũng thích.
Đó là câu chuyện về sự ra đời của bài Cát bụi.
Mỗi bài hát gần như đều bắt nguồn từ một duyên cớ nào đó. Có khi
từ một câu chuyện không đâu.
Bây giờ thì Người hiệp sĩ mù kia đã chết rồi. Khoảng hai năm nay.
Người viết Zorba đã qua đời, dĩ nhiên con chim đa đa kia cũng đã
chết. Và nếu Zorba là một con người có thật được Nikos Kazantzakis tiểu thuyết
hoá thì nay ông ta cũng đã mất rồi.
“Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi... "
Thời gian đã nghiền nát tất cả thành cát bụi hết rồi.
Thế giới Âm Nhạc - Tháng 1/1998
Nhớ Về Một Bài Hát
Cách đây nhiều năm, sự kiện thanh niên xung phong đến các nông
trường xa thành phố Hồ Chí Minh để lao động là một tin thời sự nóng bỏng và còn
mới lạ đối với nhiều người trong thành phố.
Những cuộc xuất quân rầm rộ cấp thành, rồi cấp quận, cấp phường,
cấp xã. Những thanh niên, thanh nữ ra đi với một tâm trạng còn bề bộn những vui
buồn lẫn lộn, những băn khoăn, âu lo thắc mắc trăm điều.
Đã qua đi cái thời kỳ ấy. Bây giờ người thanh niên xung phong ra
đi, bất kỳ nơi đâu, với một sự tự nguyện và với một tâm trạng ổn định hoàn
toàn. Không phải ngẫu nhiên mà có được thành quả đó. Tất cả hoa trái hôm nay có
được là nhờ những bước chân dũng cảm đi trước, nhờ những ý chí tiên phong, nhờ
những hy sinh mất mát qua những tấm gương tuổi trẻ của những đội ngũ xung kích
làm thành những biểu tượng đẹp đẽ, đáng yêu kính trong những ngày đầu.
Trong những ngày đầu ấy chúng tôi đã có dịp đến thăm và sinh hoạt
cùng với anh em thanh niên xung phong ở một vài nông trường. Lần đến nông
trường Nhị Xuân là lần để lại nhiều kỷ niệm nhất. Xe chở chúng tôi đến nông
trường lúc trời còn sáng đang ngả dần về chiều. Đường vào nông trường bụi đỏ
bay đầy. Bụi đỏ bay cao, tỏa về phía các rẫy mía, ở đó thanh niên xung phong
nam nữ cũng đang chuẩn bị trở về các lán trại sau một ngày lao động.
Chiều bắt đầu thẫm màu, đã nghe vang lên tiếng cười, tiếng hát,
tiếng đàn ghita từ phía các lán dựng về phía bờ kinh. Đêm xuống mà lòng người
như cứ muốn bay lên. Tự nhiên thấy muốn yêu người yêu đời hết sức. Cái không
khí bao trùm xung quanh gợi lên khung cảnh thơ mộng lãng mạn của những kẻ phiêu
lưu đi khai phá ở những vùng đất mới.
Chúng tôi dùng cơm tối với nhau. Các cô thanh niên xung phong vừa
phục vụ, vừa chào hỏi, đùa nghịch vui vẻ. Cô nào trông cũng rắn chắc, khoẻ
mạnh, nước da nâu hồng, sự tươi trẻ lan truyền khắp cả phòng ăn. Tôi thử hỏi
tên một vài cô, cô nào cũng bảo em tên là thanh niên xung phong.
Sau giờ ăn chúng tôi bắt đầu ca hát. Mưa đổ xuống bất chợt. Nơi
trình diễn là một nhà tranh dài, bốn bề không có vách. Mọi người đều ngồi bệt
xuống đất. Mưa cứ tiếp tục đổ xuống, ướt cả người hát lẫn người nghe. Tạm
ngừng? Không! Và cứ thế chúng tôi hát, người nghe vẫn yên tĩnh ngồi nghe rồi
lại hát chung, hát riêng, không còn phân biệt ai là người trình diễn ai là
người nghe nữa.
Đến khuya, nước tràn qua các bờ kinh, leo lên gần chỗ ngủ các lán
thì chúng tôi về. Xe sắp vào thành phố thì chúng tôi buộc phải dừng lại vì lực
lượng dân phòng ngại không đảm bảo được an ninh. Lúc bấy giờ đã gần 2 giờ sáng.
Chúng tôi buộc phải ngủ lại tại trụ sở của lực lượng thanh niên
xung phong gần đó.
Sự ra đời của một bài hát nào thường cũng gắn liền với một thực tế
nào đó, hoặc một câu chuyện tình cảm hoặc một bối cảnh ngẫu nhiên.
Một buổi sáng cách đây bốn năm tôi tình cờ gặp anh Mai ở căng tin
Hội văn nghệ. Chúng tôi uống cà phê. Anh Mai người nhỏ, cao không quá một sải
tay, nhưng là người nhiều năm tận tụy phụ trách phần ca hát nhạc cho lực lượng
thanh niên xung phong. Anh Mai hỏi tôi còn nhớ những cô có tên là “Thanh niên
xung phong" ở Nhị Xuân không? Mới sáu bảy tháng làm sao quên được. Qua câu
chuyện anh Mai kể tôi được biết là sau lần chúng tôi đến sinh hoạt văn nghệ có
hai mươi cô trong số chúng tôi biết mặt đã tình nguyện tham gia chiến đấu ở
biên giới Tây Nam. Trong một chuyến tải đạn các cô bị bọn Pôn Pốt phục kích và
đã hy sinh rất thảm thương. Tôi không muốn kể lại chi tiết về những cái chết
đó, nhưng nếu ai còn là người Việt Nam thì nghe xong câu chuyện không thể không
căm thù. Tôi cảm thấy lòng mình tràn ngập một tình yêu thương và một nỗi buồn
quá lớn. Những khuôn mặt yêu đời ấy tôi còn nhớ rõ. Những tiếng cười đùa nghịch
ấy tôi cũng còn nghe rõ. Tôi tiếc là chưa được nắm lấy một lần những bàn tay
trẻ trung đó đã chai đi vì những tháng ngày lao động ở nông trường. Những đôi
vai thanh xuân đó đáng lẽ phải được gánh nhẹ nhàng những hạnh phúc của đời, thì
đã phải quên mình để gánh hết những nhọc nhằn của những biên giới chưa yên .
Người ta có thể làm được những kỳ công nhưng không ai dễ dàng sáng
tạo ra những con người đẹp đẽ như thế. Tất cả những hình ảnh ấy sáng lên trong
tôi như một huyền thoại. Một huyền thoại mang đầy đủ nét trữ tình và chất lãng
mạn mới của thời đại chúng ta.
Những bản anh hùng ca mới rồi sẽ ra đời. Ở tôi, đáng tiếc vì những
hạn chế của khả năng, chỉ mới thành hình được một ca khúc nhỏ: Em ở nông trường, em ra biên giới. Tôi đã viết bài hát này như một nỗi nhớ thương
của riêng tôi đối với những người bạn trẻ. Bài hát nào cũng có một sự tích của
nó. Đó cũng là kỷ niệm, những khói trầm hương tôi đốt lên để nhớ những người
con gái mà tôi không bao giờ còn gặp lại.
Nhị Xuân bây giờ đã khang trang, không còn những lán trại dã chiến
như xưa nữa. Hội trường, nhà cửa, đường sá đã mọc lên thành nếp ngăn trật tự.
Tôi hy vọng trên những con đường vào Nhị Xuân trong tương lai sẽ không thiếu
tên những người con gái đó trên những tấm biển đường.
Ngày Văn Cao Trở Lại
Chỉ là chuyến đi bình thường nhưng đã thành một sự kiện. Nhạc sĩ
Văn Cao vào thăm thành phố Hồ Chí Minh và cái thành phố luôn náo nhiệt làm ăn
này dường như đang hằng mong đợi ông. Ba buổi biểu diễn nhạc Văn Cao đã được tổ
chức cấp tốc ở nhà Văn hóa Thanh niên, đông hết sức chứa, bất kể những cơn mưa
tháng bảy...
Nhạc sĩ Văn Cao trở lại Sài Gòn lần này, với tôi, có điều gì đó
không giống những năm trước. Sự có mặt của anh bên cạnh ly rượu làm tôi nhớ đến
những người đã vắng mặt. Những anh Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Bùi Xuân
Phái, Nguyễn Sáng. Những con người tài hoa của nghệ thuật cũng như anh Văn mà
có thời tôi đã cùng chia nhưng ly rượu sáng chiều ở Hà Nội cũng như ở Sài Gòn. Cái có, không ở đời
là chuyện thường tình của cuộc sống, nhưng cứ mỗi lúc có một cái gì gợi nhớ là
không thể không ngậm ngùi. Anh Văn Cao là sự gợi nhớ đó.
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái không khí ảm đạm, cô
đơn của những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn Cao ngồi một mình với
cốc rượu trước mặt ngày này qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một sự vắng mặt
trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái bóng. Ly rượu cũng biến
thành cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly - rượu - người. Thân thiết
chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh không còn ai khác có thể san
sẻ giùm.
Những ngày này, ở đây, giữa Sài Gòn xưa và nay, tôi thấy ở anh
thoáng hiện những nụ cười yêu đời hóm hỉnh. Dấu hiệu của một sự yêu đời đã trở
lại. Vì đời yêu anh nên anh phải yêu đời. Yêu đời là lẽ sống của những người
không bệnh hoạn.
Anh Văn Cao đã nói với những người yêu nhạc ở thành phố này về
tình yêu, về những kỷ niệm xa xưa đã làm nên những bài hát trữ tình của anh. Ai
cũng thấy rõ anh đã có một thời yêu đương, một thời mơ mộng. Đừng tưởng tuổi
già làm anh cụt hứng với cuộc đời. Anh vẫn yêu, vẫn còn những mộng tưởng êm đềm
đối với cuộc sống chung quanh. Như thế, có nghĩa là anh vẫn còn tồn tại dài lâu
với cuộc đời chưa hề muốn phụ bạc anh. Vì qua ba buổi trình diễn những ca khúc
xưa của anh, mọi người vẫn thấy rõ cái cảm xúc còn dấy lên như một cơn lốc, từ
những tiếng vỗ tay không muốn ngừng nơi đám đông người ở một thế hệ quá trẻ.
Thành phố này đã yêu anh - quá khứ, và tiếp tục yêu anh - hiện
tại. Đó là món quà lớn cho một đời người làm nghệ thuật. Sống mà không ai quên
được mình thật là khó. Anh đã làm được chuyện ấy thật không dễ gì.
Mọi điều xấu tốt rồi sẽ qua đi, không ai để lòng nhớ mãi những câu
chuyện đời. Nhưng tôi biết rằng, và cũng tin rằng, ở nơi đây, trên mặt đất quê
hương này, khi nhiều năm nữa, sẽ qua đi, thì những Thiên thai, Suối mơ, Sông Lô. . . cũng vẫn mãi mãi còn vang vọng trong những trái
tim yếu mềm vì một thứ nghệ thuật chỉ dành riêng cho những con người đích thực.
Hai mươi không phải là quá trẻ và bảy mươi chưa phải là đã già. Sự
già trẻ trong nghệ thuật là ở trái tim còn biết rung động và nồng nàn với cuộc
sống. Trí tuệ cũng muốn nói một điều tương tự.
Anh Văn Cao đã từng cùng bằng hữu của anh đi qua cuộc đời này và
chắc anh không nghĩ khác rằng trái tim và trí tuệ chỉ là một. Trái tim nuôi trí
tuệ và trí tuệ nuôi lại trái tim.
Có bao nhiêu người sẽ còn nhớ lại những đêm Văn Cao ở Sài Gòn? Nhớ
bao lâu và sẽ nhớ đến bao giờ? Những đầu tóc phai màu và những đầu tóc còn
xanh. Có lẽ phải nói thật một điều, dù phũ phàng đến bao nhiêu, sẽ không còn
nhớ ai trong cuộc đời này cả. Người mất đi sẽ bị thiệt thòi. Cuộc sống vẫn cứ
êm đềm hoặc sinh động trôi đi. Những nụ cười. Áo đẹp. Vóc dáng. Xe cộ ngược
xuôi. Tình yêu. Hoa quả cây lá xanh tươi. Quá nhiều điều trong cuộc đời không
nhớ hết.
Dù sao vẫn còn sót lại trong lòng tôi một mơ ước là tất cả chúng
ta, đã cùng có mặt trước, sau trong cuộc đời, đối với những ai đã mang đến
những khúc hát, những bản tình ca, những lời rao truyền được hát lên như bi ai
hoặc hạnh ca, thì cũng nên có phút nhẹ lòng được nhớ lại và nghĩ đến.
Tôi nhớ anh Văn Cao như nhớ đến một người đồng hương mà quê quán
không còn vết tích. Tôi vẫn mong chờ ở anh Văn Cao một bản tình ca sau cùng.
Văn Cao - Cuộc đời và tác phẩm
Trong Âm Nhạc, Văn Cao Sang Trọng Như Một Ông
Hoàng
Mùa thu. Gõ cửa. Vào. Anh Văn Cao ngồi trước chiếc bàn có tẩu
thuốc lào và ly rượu, 8 giờ sáng.
Không bao giờ ra Hà Nội mà tôi không ghé anh Văn. Anh Văn ngồi.
Ngồi ở sạp gỗ cũ kỹ như đã ngồi hằng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ, râu cũng bạc
phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn. Ngồi như thế ích gì anh Văn. Anh nói:
"Lấy cái ly sạch cho Sơn đi bà". Buổi sáng mùa thu uống rượu với anh
Văn và nghĩ ngợi.
Có những con đường anh Văn đã đi.
Những con đường ấy có lúc gặp nhau, có lúc chia lìa.
Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng.
Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con
diều giấy thả chơi.
Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà
đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong thân
phận riêng tư.
Quanh anh Văn là tranh. Là thơ. Là nhạc.
Vốn liếng cạnh tôi, nhỏ nhắn vô cùng, cũng là tranh, là thơ, là
nhạc.
Anh và tôi đi trên cùng một con đường. Nhưng anh là anh và tôi vẫn
là tôi. Cái lớn vô cùng và cái nhỏ cũng vô cùng. Thế mà vẫn gặp. Sự gặp gỡ bình
sinh không biết hết. Sự gặp gỡ muộn màng giờ đây tôi muốn hát cho anh nghe.
Khúc hát trễ tràng, giấu kín những điều thầm lặng. Thật đấy.
Tôi hát anh và tôi hát tôi.
Anh đi qua cuộc đời và hát.
Tôi cũng đi qua cuộc đời và hát.
Hát cho người và hát cho mình. Thế thì anh muốn gì hỡi hoàng tử bé
-petit-prince-râu tóc bạc phơ?
Đời sống gọn gàng, bé nhỏ. Đôi khi (?) rộng lớn vô cùng.
Anh bé nhỏ và anh rộng lớn.
Văn Cao. Văn Cao.
Thân anh gầy yếu không dựng nổi một mùa. Nhưng tôi nghe trong âm
nhạc anh gió vẫn chuyển và cây thay lá.
Anh sống và anh cười thầm lặng. Cái chua xót ẩn kín đằng sau những
nếp nhăn.
Anh biết và anh biết hết.
Nhưng anh cũng khờ khạo như trẻ thơ.
Anh ngủ yên nhưng anh tỉnh thức. Thi ca và triết học trên hai bàn
tay anh như nâng đỡ cuộc đời.
Sống chết là số phận con người. Anh đâu cần biết. Anh đã từng
nhiều năm nặng nợ với âm nhạc, thi ca, hội hoạ. Điều ấy có thật nhưng nhiều khi
tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: Anh là ai mà lưu lạc giữa chốn Thiên Thai này?
Văn Cao - Cuộc đời và tác phẩm.
Tình Yêu Và Tiếng Hát
Tình yêu cho phép những ca khúc ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan
làm thành bào thai sinh nở ra âm nhạc. Âm nhạc như thế là tình yêu, là trong
bản thân nó hàm chứa một cõi nhân sinh bề bộn những khổ đau và hoan lạc. Không
có bất hạnh và nụ cười có lẽ âm nhạc cũng không thể có cơ duyên ra đời.
Có người đi đến với cuộc đời và ngẫm nghĩ. Nếu đời sống vắng bóng
âm nhạc và tiếng hát thì ta sẽ như thế nào đây? Ở đâu có con người, ở đó có
tiếng hát. Trên mặt đất trần gian này tiếng hát nhắc nhở ta một điều giản dị:
Tôi hát là tôi hiện hữu. Tôi tồn tại cũng có nghĩa là tôi sẽ mất đi. Tôi mất
đi, nhưng tiếng hát còn ở lại. Ở lại như một chứng tích vừa buồn bã vừa huy
hoàng của một cõi đời.
Tiếng hát thường làm nhớ nhung con người. Nhớ một con người là nhớ
cả một trần gian. Cái thân thể mỹ miều của trần gian này nọ đã từng vạch ra
những lối đi mờ ảo, hoang đường, trong bể dâu của cuộc sống. Thân thể ấy bỗng
tự thân đã biến thành thánh địa cho cuộc chiêm ngưỡng tình yêu. Âm nhạc và
tiếng hát ra đời để ca tụng một gót chân, một bàn tay, những môi, mắt, má, và
đôi khi một mái tóc trầm hương và sau đó là nụ cười, nước mắt của một đời
người.
Tiếng hát là con đẻ của thân xác. Từ thân xác bay lên những giai
điệu và lời ca. Ca hát là để nhớ nhau và đôi lúc, để an ủi mình. An ủi một cái
gì còn ở lại và than thở một điều gì đã ra đi.
Tất cả mọi điều sẽ qua đi, sẽ biến mất, nhưng tiếng hát, câu ca,
một khi đã được khai sinh với ngày thôi nôi huy hoàng của nó thì sẽ ở lại với
đời mãi mãi. Đó là một cuộc rong chơi ngậm ngùi của hữu hạn muốn chộp bắt cái
vô hạn làm món quà thế chấp cho đời mình.
Thế giới âm Nhạc - Tháng 2/1996
Tin Vào Niềm Tuyệt Vọng
Tiếng nói thầm kín của một người nhiều khi suốt cuộc đời không thể
nào bày tỏ. Có khi bày tỏ được thì cũng chỉ là những tiếng nói dở dang. Có
người giấu bặt. Tôi chưa hề quên cái hiệu lệnh muôn đời: "Cái ta đáng ghét”. Tuy nhiên trong cuộc sống thường nhật nơi đây,
ngoài những ngày hét la to đầy nộ khí, vẫn có những giây phút lui về muốn thở
than. Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người.
Mỗi đời sống ẩn giấu một định mệnh. Có những định mệnh đời đời là
cây kiếm sắc. Một đôi lần trong giấc mơ tôi, bừng lên những ánh thép đó. Nhưng
tôi biết rõ rằng tôi chỉ là một loài chim nhỏ hót chơi trên đầu những ngọn lau.
Không ai muốn mình là kẻ tuyệt vọng. Nhưng tôi tự nguyện làm tên
tuyệt vọng. Bởi nhiều khi sớm mai tôi thức dậy không thấy được hoa quả khai
sinh trong trái tim người.
Tôi lại biết thêm rằng, dù là người chiến thắng hay chiến bại,
suốt cuộc đời cũng không thể vui chơi. Hạnh phúc đã ngủ yên trong những ngăn
kéo của quên lãng.
Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi
thường rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy
mình lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi
mỗi đêm. Khi quanh tôi, mọi người đã ngủ yên. Và tôi đau đớn nhận ra rằng, có
lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh.
Mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm. Đời
sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, vì sự quen mặt mỗi lúc
một gần gũi, thắm thiết hơn nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời. Như đứa con
ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy sắn nương khoai, nơi có bà mẹ suốt đời mắt
không sáng nổi một ngày trẩy hội.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho
nhau. Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều
dối trá. Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung.
Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông
hoa. Tôi không muốn khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng mỗi chúng ta hãy thử sống
cùng một lúc vừa kẻ chiến thắng vừa kẻ chiến bại. Nỗi vinh nhục đã mang ta ra
khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường.
Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là
người bạn. Đôi khi tôi là người tình. Chúng tôi cùng học vẽ lại chân dung của
nhân loại. Vẽ lại con tim khối óc. Trên những trang giấy tinh khôi chúng tôi
không bao giờ còn thấy bóng dáng của những đường kiếm mưu đồ, những vết dao khắc
nghiệt. Chúng tôi vẽ những đất đai, trên đó đời sống không còn bạo lực.
Như thế, với cuộc đời, tôi đã ôm một nỗi cuồng si bất tận. Mỗi
đêm, tôi nhìn trời đất để học về lòng bao dung. Nhìn đường đi của kiến để biết
về sự nhẫn nhục. Sông vẫn chảy đời sông. Suối vẫn trôi đời suối. Đời người cũng
để sống và hãy thả trôi đi những tị hiềm.
Chúng ta đã đấu tranh. Đang đấu tranh. Và có thể còn đấu tranh lâu
dài. Nhưng tranh đấu để giành lại quyền sống, để làm người chứ không phải để
trở thành anh hùng hay làm người vĩ đại. Cõi người từ khước tước hiệu đó.
Chúng ta đã đấu tranh như một người trẻ tuổi và đã sống mệt mỏi
như một kẻ già nua. Tôi đang muốn quên đi những trang triết lý, những luận điệu
phỉnh phờ. Ở đó có hai con đường. Một con đường dẫn ta về ca tụng sự vinh quang
của đời sống. Con đường còn lại dẫn về sự băng hoại.
Nhân loại, mỗi ngày, đang cố bày biện những tiệm tạp hóa mới. Đóng
thêm nhiều kệ hàng. Người ta bán đủ loại: đói kém, chết chóc, thù hận, nô lệ,
vong thân...
Những đấng tối cao, có lẽ đã ngủ quên cùng với chân lý.
Tôi đã mỏi dần với lòng tin. Chỉ còn lại niềm tin sau cùng. Tin
vào niềm tuyệt vọng. Có nghĩa là tin vào chính mình. Tin vào cuộc đời vốn không
thể khác.
Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên
tuyệt vọng.
Sài Gòn, tháng 11-1992.
Bản Tình Ca ở Lại Với Ai?
Buổi sáng ở hội âm nhạc. Tôi đến hội như mọi ngày, ngồi ở toà soạn
báo Sóng Nhạc, người bạn tôi nói: Trưa nay anh về nhà đi. Tôi
hỏi: vì sao ông nói vậy. Có hôm nào mà tôi không về đâu. Có khi về sớm có khi trễ.
Trễ vì những ly bia chưa cạn. Nhưng bao giờ cũng có về. Vả lại, có ai mà cứ đi
mãi không về đâu. Có đi tất phải có về. Chắc chắn rồi sẽ có một lần về vĩnh
viễn để mãi mãi không bao giờ còn ra đi nữa. Sống gửi thác về mà.
Vui thay, một tác phẩm nghệ thuật, trong đó có âm nhạc, khi đã
thực sự có mặt ở đời và đời nhận, là ra đi mãi mãi.
Có một người đàn bà, qua nhiều lá thư, có nhã ý tặng tôi trái tim.
Hãy cứ cho đi và đừng đòi hỏi gì cả. Tôi đã nghĩ như thế.
Một tác phẩm âm nhạc đã dâng tặng đời cũng không đòi hỏi phải trả
lại một điều gì cả.
Có những bản tình ca một thời tôi đã viết cho một người. Người ấy
sẽ đi hết đời mình và biến mất. Tôi cũng sẽ biến mất.
Bản tình ca kia ở lại với ai?
Nhiều lá thư gửi về toà soạn báo Sóng Nhạc nói rằng: Chúng tôi không quan niệm nổi rằng đời
sống mà có thể thiếu âm nhạc.
Âm nhạc cũng vậy, âm nhạc không thể tồn tại nếu vắng bóng con
người.
Có một lá thư thiếu nữ trẻ trung viết cho tôi: Mỗi ngày nếu chịu
khó nhìn lại phía sau trên đường đi đến hội âm nhạc tôi sẽ thấy một chiếc xe PC
khác chạy theo. Thiếu nữ chỉ tiếc rằng cuộc vui đùa trẻ trung ấy không kéo dài
được lâu nữa vì đã lớn rồi và phải lo toan nhiều chuyện khác?
Một bản tình ca nhiều khi đi theo suốt đường đời một con người cho
đến tàn cơn mộng mị. Tiếc lắm thay!
Có một bạn đọc Sóng Nhạc hỏi tôi: Lòng tốt có làm thay đổi cuộc đời được
không? Tôi nghĩ là có.
Âm nhạc cũng vậy. Nghe một bản nhạc hay, những lời ca đẹp, có thể
tâm hồn con người sẽ thánh thiện hơn. Âm nhạc thánh thiện sẽ không bao giờ khơi
dậy lòng độc ác.
Có những trái tim chỉ biết nuôi dưỡng lòng thù hận của quỷ dữ.
Những trái tim gây hấn chỉ muốn bày ra những bữa tiệc đời bằng gai và đá nhọn.
Những bữa ăn như thế đã làm khô héo dần thực phẩm trần gian.
May thay một bản tình ca chỉ có khả năng mang đến một nỗi thương
nhớ khôn nguôi đối với Đời, Người.
Để Bắt Đầu Một Hồi ức
Viết hồi ký về đời mình là quyền của mỗi người. Ai cũng muốn ghi
lại những kỷ niệm buồn, vui trong đời. Tuy nhiên vẫn có những hồi ký tự thuật
và những tường trình về đời mình có tính cách thiếu khiêm tốn và thậm chí đôi
khi không gần với sự thật lắm. Điều đó dễ dẫn ta đi vào một thứ trận đồ bát
quái tâm linh. Không có thật. Tôi rất ngại nói về mình mặc dù đã có nhiều cơ sở
xuất bản trong và ngoài nước đề nghị viết về một quá trình khá dài trong cuộc
đời làm nghệ thuật của tôi. Cái Tôi đáng ghét (Le moi est haisable) nhưng cái
Tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái Tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu
cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống này.
Vì thế trong lòng tôi không có giây phút nào nuôi lòng oán hận đối với cuộc
đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc
đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian
mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xóa hết những vết bầm
trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều
nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn.
Ai cũng biết cuộc đời là quý vì vậy ai cũng muốn ôm lấy một cuộc
đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không dễ, không dài. Rồi sẽ có phút
chia lìa. Phút ấy không biết còn ai nhớ ai nữa không trên mặt đất trần gian
này.
Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống. Một phần
cũng do một khúc quanh co nào đó của số phận. Thời trẻ tôi học võ và chơi những
môn điền kinh. Sau một cơn bệnh nặng kéo dài hơn hai năm do tập Judo với người
em trai và bỗng nhiên muốn bày tỏ một điều gì đó với cuộc đời. Tôi vốn thích
triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ
triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru
con của mẹ. Triết học Việt Nam có đó nhưng không được hệ thống hóa vì nó bàng
bạc trong đời sống dân gian.
Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc
nổi tiếng nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và
khi đã nhận rồi thì mình phải có trách nhiệm đối với mọi người. Vì thế tôi đã
cố gắng làm thế nào để có thể trong những bài hát của mình chuyên chở được một
thông điệp của lòng nhân ái đến với mọi người.
Vì có tình yêu nên có âm nhạc. Vì có khổ đau nên có âm nhạc. Có
hạnh phúc nên cũng có âm nhạc. Do đó khi tôi viết lên một bài hát ca tụng tình
yêu, hạnh phúc hoặc than thở về một nỗi tuyệt vọng nào đó thì hình như tôi
không mắc phải một lỗi lầm nào cả.
Thế giới âm nhạc - Tháng 1/1997
Kiếp Sau Tôi Vẫn Là Người Nghệ Sĩ . .
. (Trả lời phỏng vấn)
“Về Huế thảng ba. Trời đẹp. Ở Morin, nơi này xưa Charlie đã từng
ở. Thấy vui vì Huế như được phục sinh... sẽ nhận của Hải 1000 viên táplô dự định xây nhà
mới ở Huế".
Đó là những dòng chữ cuối cùng anh Sơn viết vào cuốn sổ tay của
tôi vào ngày 27/3/1998 trong lần cuối cùng anh trở lại Huế. Giờ đây, Charlie Chaplin đã đi xa 22 năm và anh
Sơn cũng vừa bước qua bóng mình và giờ này có lẽ anh đang miên viễn hoà âm nơi
nào đó trong xanh như dòng Hương trôi về biển lớn vi vô, như anh từng ước ao
rong chơi! Bất giác nhớ lại một vài lời với nhiều dự cảm và ước mơ của anh sơn
về cái sống và cái chết trong cuộc phỏng vấn lịch sử- lịch sử bởi theo anh Sơn
đây là lần phỏng vấn dài nhất trong đời mà anh đã dành và tôi đã có cách nay
vừa tròn 3 năm về trước. Dưới đây chỉ là trích đoạn của cuộc phỏng vấn đó.
VCH: Ca khúc nào của anh đã
có những điểm nhìn mới mẻ về thân phận con người, tình yêu cuộc sống, cái chết
và sự giải thoát nếu nhìn từ phương diện triết học?
TCS: Một cõi đi về! Đây là một bài hát rất lạ, thực sự không dễ hiểu
vì có những câu trong bài hát này bản thân tôi cũng thấy khó giải thích. Viết
thì viết vậy nhưng để giải thích rõ ràng thì thật khó. Nhưng khi tôi gặp không
ít người dù họ ít học, họ lại thích, hỏi họ có hiểu không thì họ trả lời không
hiểu nhưng họ lại cảm nhận được có một cái gì đó ở bên trong nên khi nghe, khi
hát lên thì có một điều gì đó chạm đến trái tim của mình. Tôi nghĩ trong nghệ
thuật, điều quan trọng nhất là làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi
từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần cắt nghĩa gì thêm.
VCH: Mở ra một con đường ngắn
nhất từ trái tim mình đến trái tim người, nơi đâu là cõi đi cõivề khởi sự cho đoạn đường ngắn nhất ấy?
TCS: Một cõi đi về là ý đồ chính của bài hát, ai cũng có một cõi đi
về. Từ hư vô người ta đến với cuộc sống và từ cuộc đời rong chơi một thời gian
người ta lại trở về với hư vô. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng có cảm nhận rất lạ là
sau khi nghe bài hát này anh không cảm thấy sợ chết nữa. Còn nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo thì bỗng dưng hát Một cõi đi về khi cùng tôi đi trong nghĩa trang Ngự Bình viếng
mộ ba tôi. Tôi cho điều ấy là đúng vì ai cũng có cõi đi cõi về giống nhau cả
nên việc đến và đi tới cuộc đời rồi trở lại hư vô nó không còn hăm doạ con
người, không xa lạ với mọi người.
VCH: Cuộc đời là một kiếp
rong chơi như “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi" giữa
"ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì”. Mai sau anh mất rồi, liệu anh còn
đủ sức rong chơi bên kia thế giới nữa không?
TCS: Ai cũng mơ ước có điều đó, tôi tin như vậy nếu mình biết được
có một sự tiếp nối trong cuộc rong chơi đó. Có một sự tiếp nối ở một cõi, một
thế giới khác thì chắc là vui! Và tôi nghĩ thật sự có một cõi nào đó khác với
cõi đời này thì tất cả mọi người đều hy vọng được rong chơi mãi mãi.
VCH: Âm nhạc của anh, nếu
tách từng trường đoạn thì rất giản dị giống với những khúc dân ca nhưng nếu xâu
chuỗi lại thì nó đang âm hưởng của những bản Thiền ca. Để có không khí Thiền ca
đó phải chăng là do Huế và Khánh Ly làm nên?
TCS. Có thể là đúng ở chỗ địa lý theo tôi rất quan trọng. Tâm hồn
của mình ít nhiều nhờ một vùng đất đặc biệt nào đó nuôi dưỡng, nó phả vào tâm
hồn một điều rất lạ và độc đáo. Ấy nên có những giọng nói khác nhau ở mỗi vùng,
thực sự trong âm nhạc và nghệ thuật cũng vậy. Có nhiều người than phiền và
trách tôi là tại sao tôi ở Huế mà không viết gì về Huế cả. Tôi nói tất cả những
bài hát của tôi đều viết về Huế. Thường như bài hát Nhớ mùa thu Hà Nội, mình không phải là người Hà Nội nên phải dùng từ
"Hà Nội" để người ta biết mình viết về vùng đất đó như những người
không phải là đứa con của Huế thì hay dùng từ "Huế" rất nhiều trong
ca khúc của họ. Tôi không nói "Huế" nhưng tất cả các bài hát của mình
đều là “Huế"cả. Ví như ở Huế có "đường Âm hồn” mà từ trên thế giới
này không nơi nào có được chứ đừng nói ở Việt Nam và mình đã viết (Sơn dừng
lại, vừa giải thích vừa hát bằng giọng hát của người bị ốm ): "đêm nghe gió than hoài, đêm nghe đất trở
mình vì mưa". Mưa Huế dễ sợ lắm, mưa
có thể xáo trộn mọi trật tự đời thường. “đêm nghe gió thở dài, đêm nghe
tiếng khóc của bào thai". Chỉ có đường âm hồn mới có những hồn thai với những ngọn đèn leo
lét trong am miếu như "nghe trong tiếng thở dài, nghe lăng miếu trùng
vây, nghe xa cách cuộc đời, nghe lăng miếu cạnh đây". Chỉ có Huế mới có lăng miếu, chỉ có Huế mới có
tiếng thở dài rất buông trùm xa xôi. Tất cả những điều đó đều là Huế vậy cần gì
phải nhắc đến từ “Huế” nữa! Thậm chí Một cõi đi về cũng là Huế chứ không
thể ở chỗ khác mà viết được.
Còn ca sỹ Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho
tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly
chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của
mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra ca sỹ nào ngoài
Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của Khánh
Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi
mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung viết
cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi
cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly.
VCH: Tôi nghĩ, nghệ sỹ bao
giờ cũng có một nỗi ám ảnh nào đó rất sâu sắc trong cuộc đời, nó xem như bệ
phóng của sự sáng tạo...?
TCS: Nỗi ám ảnh lởn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau
này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và sự chết trở thành một vấn
đề lớn trong đời sống tinh thần của tôi. Có lẽ suy cho cùng từ đâu mà ra cái
suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc sống, sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà
mình từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm thấy như tình yêu,
như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và cái chết
là nỗi ám ảnh lớn nhất đời tôi.
VCH: Anh Sơn, xem ra Huế là
nơi gần gũi với cái chết nhưng anh lại trở về Huế và ước mong được nằm thanh
thản với Huế. Có lẽ Huế vừa là nơi gần gũi cái chết và cũng là nơi gần gũi với
sự giải thoát?
TCS: Đúng rồi! Chỗ nào sinh ra cái chết thì nó cũng sinh ra cái
sống. Mình nghĩ đây là thời kỳ phục sinh, Huế được “sống lại", sống bền bỉ
thì tốt biết bao nhiêu? Bởi vì một thành phố “sống lại" tất cả những gì,
ai ở trong thành phố đó hoặc những ngành nghề nghệ thuật có cơ hội sống lại.
VCH: Anh cảm nhận cái chết ra
sao sau lần bị bạo bệnh này?
TCS: Nói về cái chết thì cũng hơi lạ. Mình vừa thoát khỏi nó. Hôn
mê suốt một ngày, thở bằng oxy nhưng đến lúc tỉnh dậy mọi người bảo ghi chép
lại cảm tưởng nhưng thật sự trước và tới lúc hôn mê, mình nhìn thấy bạn bè,
mình nói rất nhiều về những chuyện cũ cho đến lúc quên hết. Khi bình phục người
ta rất hân hoan còn mình thấy đó là một giấc ngủ an nhiên. Có thể sự thản nhiên
này làm mọi người thất vọng. Mình không thấy xa lạ sau khi từ cõi chết trở về.
Không hiểu đây là trường hợp cá biệt hay không. Đối với mình, biên giới giữa
cái chết và cái sống hình như chỉ là một sợi tóc mong manh. Cái chết và cái
sống chắc gần gũi lắm, giống như trong lúc sống mà ngủ quên một tý là trở thành
cái chết đến khi thức dậy lại trở thành cái sống. Nó là hai mặt của đời sống,
mình có thể chết lúc nào cũng được. Cái quan trọng nhất là không thấy buồn
trong lúc sống nên khi từ cõi chết trở về mình thấy yêu đời sống hơn trước, dè
dặt trong cách đối xử nên tốt với cuộc sống này hơn để khi chết được yên tâm,
không thắc mắc gì cả. Một cái chết như vậy cũng giống như cái sống. Nó không
khác gì hơn?
VCH: Nghĩa là giữa chết và
sống có một sự tiếp nối?
TCS: Chắc là có một sự tiếp nối bằng cách này hay cách nọ. Hoặc là
nó miên viễn trôi đi biền biệt giống như sông nước. Cái sống và cái chết hoà
lẫn vào nhau và trở thành một thực tại khác. Sống chết đến mức độ nào đó trở
thành một thực tại nằm ngoài sự kiểm soát của ý muốn con người.
VCH: Anh có bao giờ hình dung
ra thân xác và tâm hồn mình lúc ở bờ bên kia?
TCS: Chưa. Tại do lười biếng mà ra. Mình không bao giờ chuẩn bị
trước cho mình cái gì cả cho những ngày sắp tới như thể khi về Huế là cứ bỏ đồ
đạc vào là đi thôi.
VCH: Anh Sơn tại sao chúng ta
cứ say sưa về cái chết thế nhỉ?
TCS: Quan tâm đến cái chết là vì một trong những lý do là đời sống
quá nhiều bất trắc hoặc rơi vào những cạm bẩy của sự thất vọng nên người ta
nghĩ đến cái chết nhiều. Nhưng cuối cùng, nghĩ đến cái chết nhiều là vì quá yêu
cuộc sống. Mình không có quyền cho phép ai chết cả. Mình chỉ yêu nghệ thuật,
cái gì thuộc phạm trù cái đẹp cái thiện thì tồn tại. Nhưng đó là cái riêng của
mình chứ xã hội thì có cái xấu cái tốt, cái thiện cái ác, ai gieo gì gặt nấy.
Mình không bao giờ lầm lỡ khi quyết định số phận mình. Ngay cả giải quyết số
phận một ngọn cỏ cũng phải suy nghĩ, ngắt đi một bông hoa bên vệ đường cũng
phải suy tư huống chi số phận con người quá lớn và chúng ta không có quyền
quyết định số phận con người.
VCH: Nhưng cũng có người tự
quyết định cái chết cho mình khi họ thấy chết là một sự
thanh thản trong nhịp hò đưa linh thoát ra ngoài cõi ác thiện!
TCS: Chết là một sự trở về thì quá tốt trong lễ đón đầy hoa đầy
quả. Khi đứa con hoang đi lạc trở về, làng xóm người ta cũng vui mừng. Có lẽ
cũng có cha mẹ, làng mạc ở quê hương xa xưa đón chào. Như trong Quê nhà và lưu đày của A.Camus, sống là một sự lưu đày và chết là
trở về. Với mình thì có một quê nhà khác. Những lúc mình buồn không hiểu vì sao
mình buồn, có lẽ là nhớ quê nhà và quê nhà gần gũi nhất của mình là bào thai
mẹ. Nằm trong bào thai đến hơn 9 tháng mới ra đời thì đôi lúc buồn nhớ là nhớ
đến chỗ nằm trong bào thai đấy!
VCH: Thế nhưng A. Calmus lại
có ý tưởng lạ lùng rằng ý nghĩ đầu tiên khi người ta sinh ra là tự tử!
TCS: Đó là thời kỳ của những xung đột lớn nhất trong đời sống hàng
ngày. Người ta nói về phản kháng, tự tử. Phản kháng trở thành một model, ai mà
không phản kháng thì không phải con người của thế kỷ 20! Có một thứ ngôn ngữ
biện bạch cho quan niệm sống của mấy ông triết gia hiện sinh như A.Camus, J.P
Sartre.
VCH: Trước ma lực ám ảnh của
cái chết, anh có trở thành một người phản kháng theo điệu chơi của A. Camus trong đời sống hiện đại?
TCS: Có lẽ trong sâu xa của tâm hồn thì có một sự phản kháng triền
miên, phản kháng theo kiểu âm thầm chứ không phải phản kháng theo kiểu nổi loạn
đập phá. Bởi vì không thể đập phá được vì rằng đập phá thì tất cả những gì mình
sợ mất mát sẽ chóng mất mát hơn. Có thể ở đây có một sự phản kháng tiềm tàng
trong suy nghĩ.
VCH: Nghe nhạc anh, nhiều lúc
thấy đó là một dòng hiện sinh âm ỉ, nồng nàn. . .
TCS: Hiện sinh chân chính đâu phải xấu. Mình cho rằng bậc thượng
thừa của hiện sinh chính là ông Phật. Tại vì Phật dạy ta phải thức tỉnh trong
từng sát na của cuộc sống. Như khi anh và Hải uống ly bia này thì chúng ta hãy
tận hưởng một cách trọn vẹn sự sung sướng của ly bia. Hoặc giả khi mình đói,
mình ăn cơm mình phải tập trung vào chén cơm và miệng mới ngon. Thực tình, khi
con người mà thức tỉnh trong từng sát na một thì chủ nghĩa hiện sinh không là
gì cả. Người này sống bình tĩnh trong trong từng sát na chứ không phải sống
theo đời thường theo kiểu hiện sinh sống vội sống vàng.
VCH: Có ngày nào từ một cõi
đi về , anh được phục sinh lúc ấy anh mơ ước anh là Sơn hay anh là ai, là ai. . .
TCS: Định mệnh cho phép mình được làm một người liên hệ mật thiết
với nghệ thuật. Nếu có kiếp sau kiếp nào đi nữa thì mình cũng là người nghệ sỹ.
Nghệ sỹ sống khoẻ, thoải mái trong cuộc đời này. Muốn yêu cỏ thì yêu cỏ, muốn
yêu hoa thì yêu hoa. Tự do tự tại là con người của mình!
Văn Cấm Hải thực hiện
Huế 27/3/1998- 4/4/2001
Tôi Đã Tận Hưởng Những Tình Cảm Nhân Loại
(Trả Lời Phỏng Vấn)
°Gần đây, anh có giới thiệu với bạn đọc cô Michiko, người con gái
Nhật Bản học đại học khoa tiếng Việt tại Paris đang soạn một luận án về nhạc
Trịnh Công Sơn. Anh có thể cho biết kỹ hơn về người bạn trẻ đã nặng lòng với
ngôn ngữ Việt Nam ấy?
Michiko là một người bạn gái có lối sống hay hay. Trước giải phóng
tôi có quen một cô gái Nhật khác. Cô ấy là một thi sĩ tên là Mitsuko. Chỉ quen
nhau qua thư từ và cô ấy yêu nhạc tôi. Sau giải phóng tôi cũng còn nhận được
thư cho đến năm 1976. Cô gái viết trong một lá thư: Bây giờ là mùa đông ở Tokyo
nhưng anh đừng ngại vì những bài hát của anh đã được em sưởi ấm trong đôi cánh
tay, không ngại tuyết trắng làm giá băng đâu.
Michiko nói tiếng Việt được. Điều ấy cũng đủ làm chúng ta thích
thú. Lại hát được tiếng Việt và đã hát hai lần tại Câu lạc bộ Bến Nghé do nhạc
sĩ Phạm Trọng Cầu phụ trách. Michiko thích thành phố chúng ta hơn Paris. Điều
đó cũng làm chúng ta suy nghĩ.
Mỗi sáng chủ nhật lúc 9 giờ (3 giờ sáng tại Paris) tôi đều có điện
thoại của Michiko gọi từ Paris về. Hỏi thăm sự ăn uống, ngủ hàng ngày và nói
chuyện về những bài hát chuẩn bị cho luận án ra trường.
Michiko tự đệm đàn và hát trên piano hoặc guitare. Nhưng môn sở
trường của Michiko là chơi volley-ball. Vô địch và huấn luyện cho sinh viên
Việt Nam ở các trường đại học tại Paris. Đó là chuyện chơi. Việc làm chính của
Michiko là thông dịch. Michiko biết và nói được 6 thứ tiếng. Dĩ nhiên tiếng
Nhật là giỏi nhất, sau đó là tiếng Ý, Pháp và Việt. Nói thêm tiếng Anh và bút
đàm bằng tiếng Trung Quốc.
Michiko viết thư cho tôi bằng tiếng Việt, chỉ có những đoạn diễn
đạt hơi khó, cần rõ ràng mới viết bằng tiếng Pháp. Qua điện thoại cũng vậy,
chúng tôi nói chuyện với nhau vừa tiếng Việt vừa tiếng Pháp. Nói chung Michiko
là một người con gái đáng yêu và điều đáng yêu nhất là xem Việt Nam như quê
hương của mình vậy.
°Kể từ cuộc triển lãm chung với các họa sĩ Đinh Cường, Tôn Thất
Văn vào đầu năm nay, bạn đọc ít được nghe bản nhạc mới nào của anh, trong khi
đó anh vẽ tranh rất nhiều và sắp triển lãm nữa. Vậy có phải anh dành hết thì
giờ cho vẽ mà không viết nhạc, hay vì không viết được mà quay qua vẽ?
- Tôi có những ham muốn và những thích thú bất chợt. Khi thích vẽ
thì vẽ, viết nhạc thì viết và có những lúc chỉ muốn viết văn hoặc làm thơ. Viết
văn và làm thơ đối với tôi như thở vậy. Dễ dàng và cũng nhẹ nhàng như khói bốc
lên. Vẽ và viết ca khúc thì khác. Viết ca khúc có lúc chỉ vài giờ là xong, có
khi cả tuần, cả tháng. Vẽ đối với tôi là một niềm say mê đặc biệt. Vấn đề là
phải tạo được một không khí cho riêng mình. Đã đụng màu vào toile là không dứt
ra được, mầu này kêu gọi màu khác. Nét vẽ này đòi hỏi một nét tiếp theo như
Hamarque có viết câu: Le vin appellelevin.
Thế là mất ngủ. Tôi đã vẽ từ rất lâu. Và cái niềm say mê vẽ thì nó
cuốn hút mình như một con nước xoáy. Không thể ngừng, không thể dứt ra được.
Đến 5 giờ sáng vẫn mở mắt nhìn vào toile để xem còn thêm bớt gì nữa không. Bố
cục trong tranh cũng như bố cục trong âm nhạc vậy - nó chặt chẽ nhưng cũng có
những khoảng tưởng như vụng về. Cái vụng về ấy là cố ý như cái răng khểnh hoặc
nốt ruồi trên khuôn mặt đẹp.
Tôi và các bạn họa sĩ Đinh Cường, Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Tôn
Thất Văn đang chuẩn bị một phòng tranh về chân dung. Riêng tôi đã có khoảng 16
bức cỡ tương đối lớn.
Có những chuyện đời nói bằng thơ văn, có lúc lại phải diễn đạt
bằng ca khúc và cũng có lúc phải vẽ mới nói hết những điều mình mang đến cho
anh em quanh cuộc sống của mình.
Bài hát năm nay của tôi chỉ cần nghe Lặng lẽ nơi này và Tình khúc Ơ bai là đủ. Viết nhiều, vẽ nhiều đâu có phải là lý do tồn tại của một
tác phẩm.
°Sống ở đời lúc nào cũng cần có một tấm lòng, bài viết của Khánh
Ly trong Tuần tin Thanh niên và được báo Tiền phong in lại vào số Tết 1989, đã gây ngạc nhiên và xúc động nhiều đối
với bạn đọc. Riêng anh, đối tượng mà Khánh Ly nhắc đến trong bài viết, anh nghĩ
như thế nào khi đọc bài đó?
- Trước tiên đó là một bài viết hay. Những câu nói âu yếm trong
bài là dành cho một người khác đã chết rồi. Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người
bạn. Thương nhau vô cùng, trên tình bạn. Những gì tôi đã làm được cho Khánh Ly
thì cũng là phù phiếm thôi. Có thể trong lòng Khánh Ly ngày trước có nhiều điều
chưa nói được. Không nói được thì đành thôi vậy. Đời sống không đơn giản. Nếu
cần một phút nói rất thật thì tôi nói rằng: Khánh Ly và tôi là hai người bạn
lãng đãng trong cuộc đời mà rất thương yêu nhau.
Tôi có những người em gái cũng vậy. Yêu thương tôi hơn yêu chồng. Bởi lẽ tôi đã cố gắng mang
đến trong cuộc sống ngắn ngủi của mình một tình cảm chân thật và nhân hậu. Mỗi
người có đời sống riêng. Khánh Ly cũng vậy. Nhưng nhớ thương nhau vì sự đùm bọc
lẫn nhau nâng nhau lên với một tình cảm phúc hậu, mà không mưu toan, thì hiếm.
Chúng tôi đã có một thời chia xẻ cho nhau từng miếng ăn thức uống. Từ đó nảy
sinh một thứ tình yêu không giống những tình yêu khác. Chúng tôi như hai đứa
bạn trai. Nếu có điều gì chưa nói hết thì điều đó thuộc đời riêng của Khánh Ly.
Có ai đủ can đảm phủ nhận một thời hạnh phúc mà trong đó Khánh Ly và tôi đã tận
hưởng từ những tình cảm nhân loại nhất của mọi người.
Lữ Quỳnh thực hiện (Cửa sổ Văn hóa - Tháng 5/1989).
(Trả lời phỏng vấn)
°Xin mượn một cách người ta ví von rất hay về Tagore, ông là một "Người tình của cuộc đời”,
“người lính canh của cuộc sống”. Vâng, có thể nói anh là
"Người lính canh của tình yêu " “Người tình của người tình"...không?
- (Cười) Nếu cần phải có một tên gọi cho vui, thì tôi nghĩ rằng
mình có lẽ là "Người tình của
cuộc sống"...
° Cuộc sống của anh thế
nào, anh nghĩ nhiều về quá khứ hay hướng về hiện tại, tương lai?
Tôi luôn sống với hiện tại. Cái giờ phút mình đang sống đây tôi
thấy mới thật là quan trọng.
° Sự nổi tiếng, anh có
phải đôi khi trốn chạy nó không ?
Có nổi tiếng là một sự trả giá mệt mỏi, buồn phiền. Được có những
phút riêng tư, tĩnh lặng là hạnh phúc. Tuy nhiên, cũng không nên để mình rơi
vào không gian vắng vẻ quá.
° Có lẽ. Tôi thấy rằng anh
ngồi một mình nhưng tiếng chuông điện thoại luôn luôn reo. Một ai đó đã nói
rằng, trong một lúc say sưa nào đó, anh chứ không phải ai khác, mới là người
hát nhạc Trịnh Công Sơn hay nhất...
Điều đó thì tôi nghĩ rằng, trong mọi lúc tôi luôn luôn là người
hát hay nhạc của tôi. Vấn đề đơn giản là tôi hiểu nội dung bài hát mà mình đã
sáng tác.
°Điều gì quan trọng trong cảm hứng và sáng tạo của anh, nuôi dưỡng
một tâm hồn âm nhạc anh suốt đời? Tình yêu, những người phụ nữ hay là sự hấp dẫn của câu chữ ngôn từ?
Câu hỏi này khá thú vị. Tôi đã nhiều năm suy nghĩ về chuyện này.
Cuối cùng tôi đã tin rằng có một cái gì đó không xa xôi cũng không gần gũi, cái
đó chính là định mệnh, cũng như định mệnh vẫn thường chi phối cả một đời người.
Cũng như tôi đã sống và luôn nghĩ về cuộc đời, về con người.
° Bây giờ sáng tác thì anh
sẽ sáng tác như thế nào?
- Tôi nghĩ về một lối sáng tác mới, phù hợp với đời và với tôi. Đó
có thể là những bài hát thật ngắn, ngắn như một bài thơ 4 câu, ngắn như ngôn từ
đang ngắn đi trong cuộc sống hiện tại. Ý tưởng súc tích hơn, hoặc có thể vẫn
như cũ, nhưng con đường đi đến nó sẽ gọn ghẽ hơn...Mà nói chung, sáng tác là
sáng tác, tôi thấy "không thế nào cả ! "
° Vâng, xin cảm ơn anh
MAI THI thực hiện
Âm Nhạc Mùa Xuân Tình Yêu
( Trả lời phỏng vấn)
° Trong các nhạc sĩ nổi
danh, thưa anh Trịnh Công Sơn, anh là thi sĩ của âm nhạc hay âm nhạc của thi
ca? Vì sao anh viết được lời ca và ngay cả một thi sĩ tài danh nhất cũng phải
nể phục? Có phải anh là người đầu tiên ở Việt Nam đã xoá nhoà ranh giới thi ca và âm nhạc?
- Có lẽ đã lâu lắm rồi tôi hoàn toàn quên lãng cái biên giới giữa
các bộ môn nghệ thuật và văn học. Tôi đã làm tất cả những điều ấy với một sự
đãng trí rất hồn nhiên. Gần như tôi không còn bận tâm về những khái niệm, về
những phạm trù. Có lúc dường như tôi đã lăn lộn tôi giữa con người đang làm
việc này và con người đang làm việc kia. Có thể nói rõ hơn là tất cả những gì
tôi đã làm bấy lâu nay tưởng như là nhiều công việc khác nhau nhưng thật ra chỉ
là một. Và như vậy cũng có nghĩa là người đời muốn định nghĩa tôi như thế nào
cũng được. Tôi vui lòng và cám ơn tất cả mọi thứ tên gọi. Cũng có thêm điều này
rất cần nói với tất cả bạn bè anh em là tôi không bao giờ có ý định làm một
điều gì khác thường cả. Có lẽ cũng giống như con chim sinh ra để hót, hoặc như
người thợ nề hồ thì xây lên một chốn trú ngụ cho con người tránh nắng tránh mưa
vậy thôi. Tôi nghĩ rằng, nếu không có gì phiền, thì cũng nên đơn giản hoá vấn
đề văn nghệ này cho đời đỡ phức tạp. Mục đích đầu tiên sau cùng của nghệ thuật
và văn học, theo tôi là mang đến cái hay cái đẹp cho đời người. Tự thân nó
không có mầm mống của một mưu toan nào cả. Hãy cho nó thanh thản tự do và mãi
mãi là hiện thân của điều thiện của cái đẹp.
°Anh là một người Huế, vì sao ca khúc Nhớ mùa thu Hà Nội của
anh lại Hà Nội đến thế?
- Hình như định mệnh buộc tôi chỉ có những mối tình với người Hà
Nội. Từ đó tôi thường nghĩ về Hà Nội rất nhiều. Nếu sau 1975 tôi được phép ra
Hà Nội hơn nữa mãi đến năm 1977 mới được đi. Nguồn cảm hứng của ngày hội ngộ
như mơ ước trong bài Tôi sẽ đi thăm bỗng như bị một nhát dao cắt lìa đi. Tiếc quá.
Nhưng rồi 1984 tôi được ở với mùa thu Hà Nội gần hai tháng. Suốt ngày nằm thơ
thẩn ở bãi cỏ bên Hồ Tây. Thế là bài Nhớ mùa thu Hà Nội ra đời. Ra đời với một số phận không may mắn. Nghĩa là bài hát
được thu xong bị cấm phổ biến cho đến vài năm gần đây mới được trả lại tự do để
cho mọi người nghe. Tuy nhiên bài hát vẫn bị cắt đi cái phần coda mà tôi thích: Nhớ đến một người để nhớ mọi người. Khi bạn yêu một người nào đó ở một xứ sở xa lạ
thì lập tức nơi chốn đó sẽ trở thành quê hương của bạn ngay, điều đó đơn giản
quá mà một vài người có thẩm quyền cứ muốn hiểu khác đi. Cũng đáng buồn thật.
°Những người lính rất thích bài Huyền thoại Mẹ của anh. Xin anh cho biết đôi nét về nguồn cảm
xúc và xuất xứ bài ca này.
Tôi viết bài Huyền thoại Mẹ. Bài hát viết từ nhiều nguồn cảm hứng. Dạo tôi ra
Quảng Bình được nhìn bức ảnh mẹ Suốt tóc bay ngang trời chống thuyền qua sông
giữa bom đạn rồi kết hợp với những thực tế cùng những câu chuyện nghe được, tôi
nghĩ đến mẹ và tôi viết. Mẹ tôi về lòng dũng cảm và lòng thương con thì là duy
nhất trong cuộc đời này.
-Hơn thế những người lính trẻ vẫn còn độc thân như anh, xin anh
cho biết mối quan hệ giữa âm nhạc của anh và tình yêu, dĩ nhiên là tình yêu đôi lứa ? Anh nghĩ gì về tình yêu, về sự bất tử và cái chết?
- Nếu vì một lý do nào đó mà tôi mất hẳn chức năng biết yêu, và
mất tình yêu có lẽ bây giờ tôi không trở thành người viết tình ca. Cái may ở
đời là bị phụ tình. Với tôi, trong tình yêu không có sự bất tử. Người ta chỉ
muốn lãng mạn hóa nó đó thôi. Cái thời kỳ ấy, có nghĩa là thời kỳ hiểu nhầm ấy
đã mất tăm mất tích rồi. Tuy vậy trong sự bất tử có thể có tình yêu. Đây là một
sự lãng mạn mới, âm thầm, kín đáo hơn nhưng mà cũng đáng yêu hơn. Cái chết là
một điều đáng gờm nhưng không ai tránh khỏi được. Để có được một sức mạnh chống
lại nó thì hãy yêu và hãy biết yêu như thế nào đó để cái chết chỉ còn là một
tồn tại viển vông, chẳng cần thiết.
° Có phải anh vừa tìm ra giai điệu mới trong hội họa của mình? Xin anh cho biết mối quan hệ
giữa âm nhạc và hội họa của anh?
- Như tôi đã nói ở trên, tôi đang ở trong một trạng thái là không
biết phân biệt nữa. Tâm hồn tôi đang như là một ngôi nhà mà hội hoạ, âm nhạc,
và thi ca chỉ là thời tiết mùa màng đổi thay của một sự sống đang trú ngụ ở
trong đó.
- Xin anh cho biết dự định sắp tới của mình?
- Sắp tới tôi phải làm việc nhiều hơn để lẩn trốn sự ám ảnh về cái
chết.
Quốc Hưng Thực Hiện.
(Trả lời phỏng vấn)
Năm 1993 đời sống âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh nổi lên hiện tượng
karaoke với sự lấn át của các bản nhạc Sài Gòn cũ, nhiều người yêu nhạc giật
mình vì phương tiện văn hóa đại chúng hiện đại này đã tạo cơ hội ngàn vàng cho
loạt nhạc sến tràn ngập không gian. Chẳng lẽ ca khúc Sài Gòn trước 75 chỉ là
như thế? Ba tập tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời là một sự cải chính. Việc ấy
gợi ý cho tôi - một người yêu nhạc - tìm đến anh hỏi chuyện về ca khúc Sài Gòn xưa, cốt để mình và những người giống như mình không sống ở Sài Gòn
thời ấy có một cái nhìn đại khái nhưng chuẩn xác về một quá khứ dù muốn dù
không vẫn hiện diện cách này, cách khác trong đời sống hôm nay. Sau một cú điện
thoại, nhạc sĩ nhận lời ngay, mặc dù anh đang mệt sau nhiều đêm mất ngủ.
- Nói chuyện cũ dễ mênh
mông. Vậy xin anh nói ngay, anh nhớ đến những tên tuổi nào?
TCS: (nghĩ một phút): đầu
tiên là Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Cung Tiến. Phạm Duy bàng bạc trong tất cả
đời sống âm nhạc, đặc biệt tràn ngập từ 1960 trở đi. Rồi một số nhóm: nhóm Ngô
Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ Công Phụng (tạm gọi là nhóm trẻ), nhóm Hữu Thành,
Văn Phụng (tiền chiến), nhóm “bolero" (gốc của nhạc được gọi là sến là từ nhóm này): Hoàng Thi Thơ, Duy Khánh, Y Vân - Y Vũ, và Trần
Thiện Thanh, Thanh Sơn, Trúc Phương. Cũng phải kể Nguyễn Hữu Thiết (bố của ca
sĩ Hồng Hạnh), Phạm Trọng Cầu (anh mang về một số bài từ Paris: “Em ra đi mùa
thu..."). Tôi và một số bạn khác đi vào thanh niên, sinh viên, trí thức là
chủ yếu.
- Trong những tên anh vừa
nêu ngoài Phạm Duy và anh ra, tôi và các bạn tôi ở Hà Nội chủ yếu yêu Cung
Tiến, Phạm Đình Chương, cũng có thích Vũ Thành An chút chút...
TCS: Y Vân rất đáng kể với
"Lòng mẹ", Ngô Thụy Miên giới trẻ thuộc nhiều loại nhạc êm êm, và Từ
Công Phụng “Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em". Còn một số nữa, phải ngồi một
lúc, đào óc rồi mới nhớ ra.
- Tôi nghĩ cái gì lưu được
trong ký ức mình là đáng kể. Anh nhận xét thật ngắn gọn về Phạm Duy thế nào?
TCS: Phạm Duy phát triển dân
ca, đưa đến một màu sắc khác, cập nhật hóa, làm nó thoát ra khỏi thân phận cũ
của nó (khác với giọng dân ca hơi thấp, không phát triển như Hoàng Thi Thơ...).
- Nói cách khác, dân ca ở
Phạm Duy đã được đô thị hóa?
TCS: Hiện đại hóa. Gần gũi
giới trẻ thành phố. Ông còn thêm cả giai điệu và lời cho dân ca. Một con người
rất tài năng, thông minh. Điểm thứ hai: không ai phổ thơ hay bằng Phạm Duy.
Thời kỳ sau, ông phổ thơ rất nhiều. Bài thơ nào qua tay ông là nổi tiếng. Một
nhà ảo thuật về phổ thơ.
Tiếng sáo Thiên Thai, Nắng chia nửa bãi. . . tuyệt vời. Ngoài Bắc
hồi chiến tranh tôi nghe đài Sài Gòn, mê hai bài lắm. Thế những đạo ca, tâm ca,
tục ca đóng góp gì không?
TCS: Chỉ có tính cách phong
trào giai đoạn, vui chơi ngôn ngữ, không bền. Nhưng tục ca ông viết trong các
buổi sinh hoạt của nhóm Du ca với Nguyễn Đức Quang cũng nổi tiếng...
- Cung Tiến tôi thấy đặc biệt. Chắc chất cổ điển ?
TCS: Cung Tiến có nền tảng
rất vững bán cổ điển, màu sắc Tây Phương.
- Ăn khách nhất, chắc cũng như giờ, là loại nhạc “sến".
TCS: Thanh niên, sinh viên
thích nghe Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Y Vân - Y Vũ. Đại công
chúng thích cái gì dễ nghe, lời bình dân, nhạc eo éo, tức là nhạc "sến”.
Thời nào cũng vậy. Tất nhiên, “sến" cũng có nhiều bậc. Nhóm
"bolero" còn là bậc trên.
Những loại nhạc như thế có đóng góp gì không?
TCS: Điều quan trọng là nó
đúng với tâm lý của thời đại nó. Như vậy cũng là đóng góp. Nhiều nhạc sĩ trẻ
hôm nay khi khai thác một số mô típ của loại nhạc êm êm (người ta có thể nói
ngay bài này giống Từ Công Phụng, bài kia giông giống ai đó...)
- Nói về ca từ. Anh thấy ai làm lời đẹp?
TCS: Phạm Đình Chương, Phạm
Duy, Cung Tiến.
- Tức là lớp trước. Các
lớp sau có vẻ không chăm sóc lắm đến lời?
TCS: Có thể nhưng không tới.
- Vì sao?
TCS: Các lớp sau lời có thể
thơ mộng (poétique) nhưng chỉ nghe đường được, không có chiều sâu, tâm tình
không mở ra chân trời mới. Có lẽ vì hoàn cảnh sống, đời trước sống chậm, sáng
tác theo cảm hứng; đời sau sống vội và phải sáng tác để sống, phải cạnh tranh
để tồn tại, phải luôn có mặt để không bị quên. Ngay Phạm Duy về sau nghĩ không
kịp lời, phải phổ thơ. Chính tôi cũng phải bảo đảm mỗi năm có một tập nhạc và
một băng nhạc, có năm phải hai.
- Nhưng lời của anh đâu có bị tầm thường, thậm chí nhiều người còn
coi anh thành công chủ yếu nhờ lời hay - như thơ.
TCS: Tôi có cách làm việc;
năm nay tôi đi đây đi đó lấy mưa nắng cho năm sau. Tôi tích lũy gối đầu.
- Từ nãy anh chưa nói đến dòng ảnh hưởng
nhạc Pop Âu Mỹ.
TCS: À, phong trào này có
trung tâm là trường Taberd rồi vườn Tao Đàn. Đỉnh cao là các "đại hội
nhạc trẻ". Rất thành công. Một số nhạc sĩ trẻ như Lê Hữu Hà từ chỗ dịch
lời bài hát nước ngoài rồi làm nhạc pop-rock Việt Nam.
- Có đọng lại được gì không?
TCS: Chủ yếu là bắt chước.
- Hình như người Việt Nam
cho đến hôm nay vẫn không hợp với rock ?
TCS: Môi trường ở đây (điều
kiện kinh tế, điều kiện sống) không đủ chất pop-rock. Vả lại các tóp-hít nước
ngoài có lẽ cũng thỏa mãn người yêu rock rồi.
- Ca khúc Sài Gòn trước 75 thiêú chất hùng tráng mà ca khúc miền
Bắc thời kỳ ấy dư thừa?
TCS: Chỉ có loại nhạc nhà
binh do các nhạc sĩ quân đội viết cho quân trường. Nhưng ngoài Bắc lại không có
dòng nhạc đấu tranh: căm hờn, thiết tha, ước mơ, kêu gọi. Đến bây giờ sinh viên
vẫn thích những bài đấu tranh dạo ấy, như bài "Nối vòng tay lớn" vẫn
là bài hát tập thể trong sinh hoạt thanh niên. Bây giờ có tổ chức sáng tác bài
hát tập thể, nhưng viết không được, không có không khí.
- Anh có theo dõi công
việc của các nhạc sĩ cũ sau khi ra nước ngoài?
TCS: Khoảng 10 năm đầu rời
nước họ còn viết được, cảm hứng đau thương của những ngày vượt biển vẫn còn
nóng hổi. Sau đó, yếu dần, hiện nay thì bế tắc.
- Cùng với Phạm Duy, anh
là một hiện tượng đặc biệt khác của âm nhạc Sài Gòn. Anh có một từ vựng và một âm hưởng rất riêng. Cái đó bắt nguồn từ đâu?
TCS: Nói tóm tắt thì tôi đi
từ những cuộc tình nho nhỏ, đến triết lý về thân phận con người, rồi ám ảnh
chiến tranh. Không gian mở rộng dần, các vấn đề trên đan vào nhau. Sinh viên
thấy đúng là tiếng nói của họ lần đầu tiên có người nói lên. Còn âm hưởng, tôi
ảnh hưởng của thi ca và âm nhạc da đen; blues, gospelsong. Tôi muốn viết nên
điệu buồn da vàng.
Hoàng Hưng thực hiện
Sài Gòn 1/1994
Tạp chí nhạc, số 3, 4, 5/1994.
(Trả lời phỏng vấn)
Hỏi: Có sự khác nhau nào giữa một Trịnh Công Sơn trước năm 1975 và sau năm 1975 trong sáng tác của nhạc sĩ?
Trịnh Công Sơn: Sự khác nhau là rất lớn, hai mươi năm trôi qua mà
không có gì thay đổi đó mới là điều lạ, và khi ấy tâm hồn người sáng tác chẳng
khác gì mặt nước ao tù.
Hỏi: Quê hương xứ Huế và Đạo Phật có ảnh hưởng thế nào đối với sáng tác của Nhạc
sĩ? Điều gì trong cuộc sống có ảnh hưởng lớn nhất? Theo Nhạc sĩ để cảm nhận
được cái hay cái đẹp của âm nhạc và các sáng tác của Nhạc sĩ nói riêng, thính
giả cần có điều kiện gì?
TCS: Huế và Đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu
của tôi. Tất cả những gì thuộc về cuộc sống đều có ảnh hưởng trên đời sống tinh
thần và tình cảm của tôi. Để có thể cảm nhận được cái hay cái đẹp trong âm nhạc
và riêng trong những ca khúc của tôi, cần có một linh cảm nhạy bén và vốn kiến
thức nhất định.
Hỏi: Các bài nhạc của Nhạc sĩ càng về sau càng thể hiện tính triết
lý. Phải chăng càng lớn tuổi người ta càng có nhiều nỗi cô đơn trong Một cõi đi về của mình?
TCS: Đúng là như vậy.
Hỏi: Người ta thường nói: “Những tác phẩm bất hủ trên mọi lãnh vực nghệ thuật đều do tài năng cộng với sự đau
khổ mà thành ". Vậy các ca khúc của Nhạc sĩ do những yếu tố nào tạo nên?
TCS: Câu nói trên cũng đúng với những ca khúc của tôi.
Hỏi: Theo Nhạc sĩ, ca sĩ nào thể hiện thành công nhất tác phẩm của mình? Nhạc sĩ có
thể cho một nhận đinh thật công bằng giữa Khánh Ly và cô Bống trong mối quan hệ
với Nhạc sĩ về nghệ thuật không? Trong dịp về thăm cố hương lần này Khánh Ly có
thu giọng ca khúc nào của Nhạc sĩ không? Nhạc sĩ có ý định cùng Khánh Ly làm
một tour biễu diễn xuyên Việt không?
TCS: Cách diễn đạt của Khánh Ly và Hồng Nhung hoàn toàn khác nhau.
Mỗi người đều có thính giả riêng của mình. Tuy nhiên cái giới nghe và yêu thích
Khánh Ly vẫn đông đảo hơn nhiều. Trong nghệ thuật Khánh Ly là một người làm
việc rất nghiêm túc và luôn luôn giữ một mối liên hệ mật thiết với tác giả để
tìm hiểu cặn kẽ những điều tác giả muốn nói trong tác phẩm. Đầu năm nay Khánh
Ly có dự định về nhưng phút cuối, Khánh Ly có điện về cho biết vì những lý do
riêng tư nên chưa về được.
Hỏi: Hình như chương trình "Những dấu chân không năm tháng " không thành công như mong đợi của Nhạc
sĩ? Phải chăng các ca sĩ đương thời không thể hiện được cái thần của bài hát?
TCS: Có thể là như thế thật.
Hỏi: Nhạc sĩ Văn Cao đã từng viết: Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy
chữ trong túi ra”. Nhạc sĩ có thể bật mí với độc giả đôi điều về cái túi của mình không?
Túi có bị vơi đi khi đã quá nhiều chữ được chuyển vào ca khúc?
TCS: Văn Cao chỉ nhắc lại câu nói này của Nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát, người mà tôi rất kính trọng. Tôi có cảm tưởng cái túi này chưa vơi đi
bao nhiêu.
Hỏi: Nguồn lực nào đã giúp Nhạc sĩ chuyển tải tới công chúng nhiều
thế hệ những ca khúc như thách đố với thời gian? Trong cuộc sống đời thường nhạc sĩ có được thành công và hạnh phúc
như trong sáng tác không?
TCS: Công bằng mà nói thì động lực chính là công chúng. Tôi muốn
mang đến cho họ những gì hay nhất lạ nhất. Thành công và hạnh phúc không phải
là cặp bài trùng luôn luôn dành riêng cho một người như một ân sủng bất khả vãn
hồi. Vì vậy thất bại và bất hạnh là điều khó tránh khỏi.
Hỏi: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời
mỏi mệt”. Nhạc sĩ nói với mình hay nói cho ai? Nhạc sĩ đã đi như vậy bao giờ
chưa? Và đã nếm được vị mệt ấy chưa?
TCS: Cõi đi về ấy dành chung cho tất cả mọi người.
Hỏi: Tại sao ở xứ Huế, mà trong các tác phẩm của mình không có một
bài nào nói lên phong cách hay nét đẹp riêng của Huế?
TCS: Những ca khúc trước năm 75 hầu như đều mang phong vị Huế, mặc
dù không có một chữ Huế nào trong bài.
Hỏi: Từ trước đến nay ai yêu nhạc Trịnh Công Sơn đều hiểu rằng
nhạc sĩ có cái nhìn độc đáo về tình yêu. Vậy Nhạc sĩ nghĩ sao về ý nghĩa của
tình yêu mà Nhạc sĩ hằng sống?
TCS: Trong giờ phút này tôi không nghĩ gì về tình yêu cả. Và thành
thật mà nói, tôi cũng chẳng hiểu tình yêu đã cho tôi một ý nghĩa gì.
Hỏi: Để viết được những ca khúc về tình yêu, thì sự rung động của
trái tim Nhạc sĩ ở mức độ chân thành trước tình yêu hay chỉ là ảo ảnh của tình
yêu. Đã có lần Nhạc sĩ nói: "Khi bạn hát một bản tình ca nghĩa là bạn đang
muốn hát về cuộc tình của bạn". Phải chăng khi một ca khúc mới ra đời là
một mối tình mới của Nhạc sĩ? Nhạc sĩ đã có bao nhiêu mối tình?
TCS: Tất cả đều là ảo ảnh. Thậm chí khi tôi phát biểu một điều gì
đó thì chẳng qua do cũng chỉ là ảo ảnh của những ý tưởng của riêng tôi. Có khi
phải có hàng trăm mối tình thoáng qua, đọng lại, ngắn ngủi dài lâu, mới viết
được dăm bảy ca khúc hay, bởi vì sáng tác không hề làm công việc của cái máy:
cứ bỏ một đồng xu vào thì rơi ra một lon nước.
Hỏi: Trong nhạc tình của Nhạc sĩ, mọi người luôn tìm thấy mọi tâm trạng, tình cảm
của mình về tình yêu. Nhạc sĩ nói hộ cho con người tất cả, nhưng chính mình
Nhạc sĩ đã trải qua tất cả chưa?
TCS: Tôi viết về những gì tôi đã sống và cả dự đoán những gì có
thể xảy ra.
Hỏi: "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng" đó có
phải là quan niệm sống và sáng tác của Nhạc sĩ không? Theo Nhạc sĩ, quan niệm
đó có còn đúng trong thời buổi có quá nhiều thay đổi như hiện nay?
TCS: Thời buổi nào cũng cần phải có quan niệm sống như thế. Con
người và động vật chỉ có khác nhau từng ấy thôi.
Hỏi: Nếu có một đóa hồng quý giá, Nhạc sĩ sẽ tặng cho ai? Đức tính
nào của con người khiến Nhạc sĩ cúi đầu kính phục?
TCS: Tôi sẽ tặng mẹ tôi. Rất tiếc mẹ tôi không còn nữa. Đặc tính
của con người khiến tôi cúi đầu kính phục có lẽ là lòng vị tha.
Hỏi: Nhạc sĩ nhớ gì về quá khứ, nghĩ gì về hiện tại và hy vọng gì
ở tương lai? Nhạc sĩ sẽ sống ra sao nếu một ngày nào đó Nhạc sĩ chia tay với âm
nhạc?
TCS: Quá khứ hiện tại tương lai trong tôi chỉ là một. Nếu có gì
khác biệt thì đó là trạng thái tinh thần của từng giai đoạn và sự thay đổi
trong những diễn biến tình cảm. Tôi dự định sẽ chia tay với âm nhạc để viết
những bài tạp bút ngẫu hứng và vẽ.
Hỏi: Sự tài hoa của Nhạc sĩ không chỉ thể hiện trong âm nhạc mà
còn trong thi ca, hội họa, tư tưởng triết học, và ngôn ngữ Pháp. Vậy nếu chiêm
nghiệm lại mình, Nhạc sĩ nghĩ gì về hai câu thơ của Nguyễn Du:”Trăm năm trong
cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau ".
TCS: Tôi muốn viết sai câu thơ cua Nguyễn Du cho riêng mình: "Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ
mệnh cũng là bể dâu”.
(Trả lời phỏng vấn)
° Anh có thích mọi thế hệ đều gọi anh bằng anh không?
- Dĩ nhiên là thích hơn gọi bằng chú, bác. Vả lại cũng chẳng phải
bà con gì mà lại có chuyện chú, bác ở đây. Gọi anh chứng tỏ mình lịch sự, dễ
thương như một người không có trí nhớ về tuổi tác; ngoài ra, nó còn thu hẹp lại
cái ranh giới đáng ghét của những con người sống cùng trong thời đại.
°Khoan nói tới chuyện âm nhạc, anh Trịnh Công Sơn, trong mắt nhìn
nghệ sĩ của anh, ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết Việt Nam là gì?
- Ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết Việt Nam có lẽ là ở chỗ mọi điều bình thường nhất trong năm bỗng chốc được xếp đặt lại
trong một trật tự giá trị khác. Đang xuề xòa trở thành nghiêm túc, cái lôi thôi
lếch thếch được giảm thiểu tối đa, cái ăn cái nói cái cười cùng được gọt giũa
lại, cái giọt nước mắt đau cũng được nén gác lại cho năm sau, tất cả và nhiều
nhiều, thậm chí có thằng định làm chuyện ác tạm gói dụng cụ gây tội chờ những
ngày Tết qua đã. Ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết Việt Nam là chẳng có gì
thiêng liêng cả. Xưa lỡ làm bộ thiêng liêng, lâu dần thành cái nếp, cái tập
quán, đến nay cũng làm bộ tiếp nhưng ở giữa các đô thị lớn thì cái nếp ấy cũng
đã mờ nhạt lắm rồi.
° Giờ anh còn nhớ cái Tết
nào năm anh trẻ hơn 20 tuổi không? Lúc đó hẳn đang ở Huế ?
- Trẻ hơn 10 tuổi thì còn ăn Tết ở Huế. Trẻ hơn 20 tuổi phần lớn
ăn Tết ở Sài Gòn. Ở Sài Gòn, Tết gia đình người ta thường về quê. Ở trọ, đêm
giao thừa đi lang thang ngoài phố, khuya về ngủ. Chỉ còn nhớ cái dư vang của
những ngày Tết xa xưa ấy nó hoang vu lắm.
° Âm nhạc của anh như một
bữa tiệc dọn theo kiểu Huế: Mời khách ăn nhiều món, mỗi món một ít nhưng món
nào cũng rất ngon. Vậy có thể nói đến những ca khúc của Trịnh Công Sơn như một
bữa tiệc kiểu Huế hay không?
- Đây là một câu hỏi hay, đồng thời cũng là cái nhìn của người đặt
câu hỏi. Câu hỏi này nên để những người yêu nhạc của tôi cho ý kiến là đúng và
tốt nhất. Dù sao tôi cũng đã ăn mòn răng trong những bữa tiệc kiểu Huế. Nay gần
như rất hiếm.
° Đã nhiều năm, anh thường
“phiêu diêu” với ly rượu. Chất men quan trọng như thế nào trong cảm hứng sáng
tạo của anh? Dạo gần đây anh đã bỏ rượu, điều này có ảnh hưởng đến công việc
của anh không?
- Trước đây rượu là kẻ đồng hành với tôi trong cuộc sống. Không
thể thiếu rượu được. Nó là chất xúc tác tốt để tôi làm việc. Uống để vui đời,
chứ không uống để say. Uống thì ngòi bút trơn tru hơn, cọ vẽ bay bổng hơn và
trí tưởng tượng được dịp trôi nổi về những bờ cõi ngẫu hứng lạ lẫm hơn. Giờ đây
tôi đang tạm thời xa rượu vì sức khỏe, tạm khất lại một thói quen đã cùng mình
như hình với bóng trên những đoạn đường dài của sáng tạo. Tôi hy vọng là mọi
việc cũng sẽ ổn thỏa thôi.
° Người ta cũng có thể
nhận xét được rằng hầu hết các ca khúc của anh đều viết với cung La thứ. Đó có
phải là một sự cố ý không? Nếu đúng như vậy thì cung La thứ đã là bạn tri âm
của tâm hồn anh như thế nào?
- Nhận xét này có phần đúng. Có một thời tôi đã cố tình khai thác
hết khả năng của mình trên cung La thứ. Sau đó thấy tạm đủ và nhất là nhiều khi
thấy nhiều người lạm dụng nó như một cung bậc dễ làm mủi lòng, thậm chí sướt
mướt nên tôi chuyển qua nhiều cung khác nhất là những cung trưởng. Cái buồn
trong cung trưởng nó mênh mông và trong sáng hơn.
° Nhiều thế hệ xa cách
nhau đều thích nhạc của anh. Anh giải thích sao về điều đó?
Mỗi thế hệ đều mang đến cho tôi một nguồn cảm hứng. Tôi đã cố gắng
sống hòa hợp và biểu hiện những suy nghĩ của mình bằng mạch nguồn cảm hứng ấy.
Người sáng tác không thể sống tách rời và lạc điệu với thời đại mình đang sống.
Do đó nó không có tuổi tác và mỗi thế hệ đã qua hay sắp đều là những mùa màng
cần thiết trong tâm hồn người sáng tác và cho phép nó chia sẻ được những vui
buồn của từng thế hệ mà nó đi qua.
° Nếu anh ở xa đất nước,
anh có nghĩ rằng anh sẽ viết khác không?
- Không những sẽ viết khác đi mà thậm chí là không thể viết được
nữa. Tiếng Pháp có chữ "culture" vừa có ý nghĩa là văn hóa vừa có ý
nghĩa là trồng trọt. Một nền văn hóa này lại trồng trên một mảnh đất khác thì e
rằng không thể phát triển bình thường được.
° Đến nay có lẽ chưa có ca
sĩ nào hát nhạc Trịnh Công Sơn giàu sức mạnh truyền thông như Khánh Ly. Có phải
đó là tình yêu ?
- Không hề có chuyện tình yêu ở đây. Đó là một thứ tình bạn khá
đặc biệt kết tụ lại những đam mê chung về cuộc sống, tính lãng mạn, sự hồn
nhiên. Trong cuộc hạnh ngộ này, người sáng tác và người hát làm thành một thể
thống nhất bất khả phân ly. Từ đó sự hát và ký hiệu trên trang giấy mất đi
nhường chỗ cho một lời tâm sự về đời, về người tưởng như của hai người nhưng
thật ra chỉ là một mà thôi.
° Tết đến, giới trẻ lại
mong được lắng nghe một chút tâm sự như Tết năm nào rất thích thú được chiêm
nghiệm về ý nghĩa cuộc đời trong tùy bút “Giao thừa” của
anh.
- Không hiểu sao càng lớn càng thấy cái Tết nhỏ lại. Nó như là một
thủ tục phải làm chứ không phải là nỗi chờ đợi háo hức như nhũng ngày còn bé.
Nó không còn mang ý nghĩa một ngày hội như thời trẻ. Đó là nỗi bất
hạnh của những kẻ đã ăn quá nhiều cái Tết. Cái gì ăn nhiều quá cũng không tốt.
Đồ bổ ăn nhiều cũng sinh bệnh nếu không thì cũng đâm chán. Do đó, càng lớn lên,
càng đi qua nhiều cái Tết càng thấy hờ hững dần với nó. Ở một độ tuổi nào đó, con
người có cảm giác thời gian càng lúc càng qua nhanh, chưa kịp thực hiện một ước
mơ nhỏ đã thấy hết năm hết tháng. Vì vậy khi Tết đến, tự nhiên thấy mình như
một kẻ phạm tội, một kẻ vô tích sự trước cuộc đời. Dù sao thì Tết vẫn là Tết.
Giao thừa thiêng liêng vẫn là giao thừa thiêng liêng. Còn cái chuyện buồn vui
trong mỗi người thì lòng ai tự biết lấy. Tôi vẫn làm cái việc đốt những nén
nhang trong đêm giao thừa, mở cửa bước ra cổng giữa đêm tự đạp đất nhà mình.
Nếu có hứng thú thì cùng người bạn chạy xe quanh những phố phường trong một đêm
như mọi đêm gọi là đêm giao thừa, để nhìn cái rộn rịp cuối cùng của một năm.
Hoàng Dạ Thi thực hiện.
Truyện ngắn
Chú Lộ*
Một.
Năm 13 tuổi chú Lộ đã có mặt ở dưới hầm rượu của câu lạc bộ thể
thao trong thành phố Huế. Dạo ấy, bọn Tây còn làm chủ nhân công trong
"thành phố thuộc địa" này và dĩ nhiên, chủ tịch của câu lạc bộ thời
bấy giờ cũng phải là một thằng mắt xanh mũi lõ.
Vào đời với cái tuổi 13, chỉ mới biết viết và biết đọc đôi chút,
và đối với bất kỳ ai, là cả một sự phiêu lưu thất thế không lường được. Chú Lộ
ra khỏi nhà và đi thẳng tới sân tennis không do dự, không chọn lựa. Chú rời
khỏi nhà như một con chim lìa tổ quá sớm hoặc như một chiếc lá lìa cành và phó
mặc cho ngọn gió định mệnh thổi đến đâu hay đến đó. Và không cần phải có thì
giờ làm quen hoặc một lời giới thiệu nào, chỉ một tuần sau chú Lộ nghiễm nhiên
trở thành đứa bé lượm banh tình nguyện không công. Tên chú dần dần quen thuộc ở
đầu môi những thằng Tây và những người Việt đánh banh mỗi sáng, trưa, chiều.
Tây thì gọi chú: "Ê, nhỏ Lộ”, người Việt Nam thì gọi ngắn hơn: “Lộ!” và
đưa vợt lên đón trái banh được quăng theo hình cầu vồng từ bàn tay nhỏ và đen
đủi. Mấy ngày đầu, có khi còn trở về nhà nhưng sau đó thì chú cùng một vài đứa
lượm banh khác lân la kiếm cơm ở nhà bếp và ngủ hẳn dưới hầm câu lạc bộ dùng
làm kho cất rượu và chất những đồ phế thải. Ăn thịt và bánh mì thừa của khách
đối với chú bé Lộ cũng là những bữa tiệc thịnh soạn mới mẻ. Trong cái đầu đơn
giản và thiếu học của đứa bé 13 tuổi, thật sự chú cũng không hề có ý niệm gì về
cái thân phận hèn mọn của mình.
Chú Lộ đã sống và lớn lên như thế từ hầm rượu. Nhờ ở năng khiếu và
chút ít thông minh bẩm sinh chú đã nương vào hoàn cảnh thuận tiện để học hỏi,
quan sát và tự biến mình thành một thanh niên thành thạo đủ mọi môn thể thao mà
câu lạc bộ sẵn có. Không bao lâu chú đã trở thành người hướng dẫn khéo léo và
chịu khó cho những người mới tập đánh tennis, mới tập chèo périssoire(1), chơi
bóng bàn, billard, bơi lội và cả môn trượt nước. Từ một đứa bé lượm banh, cuối
buổi nhận được những đồng tiền lẻ từ bàn tay những ông bự, bảy tám năm sau chú
đã ngang nhiên bước vào ô vuông của sân banh để đánh trả lại những đường banh
thật bay bướm hoặc rướn mình lên từ phía góc sân gửi đi những cú giao banh khá
ngoạn mục. Đối với các hội viên của câu lạc bộ, phần đông là những công chức
cấp cao trong tỉnh hoặc các bậc trí thức thượng lưu, chú Lộ là con người dễ bảo
(serviable). Bất cứ họ cần điều gì là chú xoay xở có ngay. Con cái của tầng lớp
thượng lưu này dành cho chú một cảm tình khá đặc biệt bởi chúng tìm được ở chú
tất cả sự nhẫn nại, sự chiều chuộng mà khó một huấn luyện viên nào có được. Với
thời gian, chú cũng bỏm bẻm được dăm tiếng Tây đủ dùng cho công việc hằng ngày.
Dĩ nhiên chú nói tiếng Tây theo kiểu của chú và chú cũng chẳng quan tâm gì lắm
về những cách nói bóng bẩy mà chú thường nghe những ông Tây lẫn người Việt trao
đổi với nhau ở bàn ăn. Vấn đề là chú cần bọn Tây hiểu được chú muốn nói gì và
ngược lại chú cũng hiểu được chúng muốn, cần gì ở chú. Ban đầu nghe chú nói,
bọn Tây, đầm và con cái chúng ôm bụng cười ngất như bị ai cù vào nách. Chú thản
nhiên cười theo và cứ như thế mọi người quen dần đến độ người ta có cảm tưởng
cách nói tiếng Tây của chú cũng là một loại mẫu mực giản dị trong kiểu ăn nói
thường ngày. Tuy thế không phải chú không hãnh diện về cái vốn tiếng Tây hẩm
hiu ấy bởi những lần có người thợ nào nhờ chú hỏi ý kiến của ông Tây chủ tịch
về việc cần quét vôi lại câu lạc bộ hoặc sửa sang cây cảnh quanh khu vực này
thì chú sẵn sàng biểu diễn rất hùng hồn cái mớ chữ nghĩa hỗn độn mà chú đã nhặt
được một cách rất vô tổ chức ấy. Mấy đứa con nít Việt Nam thì phục chú quá sức
rồi.
(1) Thuyền thể thao.
Chú Lộ uống rượu mạnh rất sớm. Không phải kiểu uống rượu để tiêu
sầu hoặc kiểu bằng hữu tâm đắc mà bởi rượu thừa ở những bàn ăn bao giờ cũng đủ để chú có thể độc
ẩm dài dài ở dưới hầm rượu sau bữa cơm. Dưới hầm có hai cái phòng nhỏ dành cho
bếp và người gác cổng. Bây giờ chú đã có đủ uy tín để giành lấy riêng cho mình
một phòng. Hầm quá rộng, mấy người kia có thể thu xếp ở một góc nào đó cũng
được. Trên tường chú treo cái vợt cũ của ông chánh án mới cho. Mỗi lần ra sân
banh, trông chú cũng đủ bộ sậu như mọi người. Cũng pan- túp trắng, tất dày có
ba sọc màu cờ tây ở cổ chân, bộ áo quần trắng và cả cát-két cũng trắng nữa.
Trên sân tennis, cách ăn mặc sạch sẽ giống nhau như thế, người xem dễ tưởng
rằng không còn cái biên giới giai cấp giữa con người bên này và bên kia lưới mà
chỉ có nghệ thuật giao banh thôi. Thật ra, chú Lộ biết rõ không phải. Những cú
banh, chú giao qua bao giờ cũng vừa tầm tay của ông chánh án, ông thẩm phán,
hoặc một ông trưởng ty nào đó. Những cú xi-mách trong tay chú bao giờ cũng chưa
hết đà. Và những cú bỏ nhỏ cũng đừng nghịch quá khiến các ông lớn phía bên kia
phải trật xương hông hoặc bị sai khớp chân thì bỏ mẹ. Chú hiểu thế nhưng chú
cũng thấy mình bị thuyết phục bởi một lẽ đương nhiên nào đó gần như định mệnh.
Sự hiếu thắng của tuổi trẻ trong chú đã bỏ đi chơi từ bao giờ không ai biết và
chú cũng không băn khoăn gì về điều đó cả. Tóm lại, chú như một kẻ sống an phận
từ những ngày máu huyết còn đương độ trong trái tim, trên cánh tay và cặp giò
thanh xuân của chú.
Năm 23 tuổi chú Lộ có người yêu. Trước đó thì chú cũng cưa kéo,
chọc ghẹo mấy cô bán quán trong thành phố nhưng không đi tới đâu. Lần này thì
yêu thật và vốn quá thừa tính nhẫn nại, chú là một người đàn ông lý tưởng cho
cuộc tình. Người yêu chú là một cô gái 18 tuổi, con ông bếp của câu lạc bộ.
Cũng là cây nhà lá vườn cả chứ không đâu xa. Cô ở dưới làng thỉnh thoảng mới
lên thăm cha và mỗi lần lên đều mang theo một ít trái cây ở vườn như mít, thơm,
ổi... Từ khi hai người yêu
nhau, cô gái lên đều hơn và trong rổ trái cây của vườn nhà, bên cạnh phần dành
cho cha, cô gái có phần dành cho chú. Trong đầu chú cũng đang hiện dần hình ảnh
một bếp lửa nhỏ cho hai người - chú dự định một, hai năm gì đó dành dụm được
một số tiền nhỏ sẽ đề nghị thẳng với ông bếp về chuyện cưới hỏi.
Một hôm, chú được chủ tịch câu lạc bộ giao cho nhiệm vụ đi Sài Gòn
mua những dụng cụ thể thao và một số vật dụng thay thế cần thiết. Chú cảm động
đến run cả tay chân. Đây là cái dịp để chú "du lịch" ra khỏi những bờ
rào thật hẹp của thành phố này. Việc đầu tiên là chú báo ngay cho ông bếp biết
tin và nhờ nhắn lại với con gái ông. Ngay buổi chiều hôm đó mọi người lân cận
với chú đều biết tin này. Đi Sài Gòn, dạo ấy, cũng như đi đến một xứ khác mà
chú nghe nói là văn minh và vui sướng như ở thiên đường vậy (mặc dù thiên đường
như thế nào thì không ai biết cả).
Hôm sau chú lên đường và chỉ ba tiếng đồng hồ là chú đã có mặt ở
phi trường Tân Sơn Nhất. Lần đầu tiên ngồi trên máy bay và được những cô gái
đẹp, lịch sự dọn bửa ăn cho mình, chú Lộ gần như rơi trong trạng thái mơ mơ
màng màng không thật. Chú không bao giờ ngờ được loại người như chú lại có một
ngày được ngồi đàng hoàng để những con người sang trọng như thế mang cơm mang nước
đến cho mình. Chú chỉ quen phục vụ người khác hoặc thỉnh thoảng được phục vụ
trong những quán hàng ở Huế thì những người phục vụ ấy cũng giống như chú mà
thôi. Ở đây mấy cô nói tiếng Pháp, tiếng Anh như đầm, mặt mày đẹp đẻ như mấy
tiểu thư con quan, hai bàn tay mang khay thức ăn đến cho chú thì trắng muốt ngà
ngọc làm sao chú không ngạc nhiên được. Và nỗi ngạc nhiên đó kéo dài suốt
khoảng thời gian chú ở lại Sài Gòn.
Theo địa chỉ dặn trước, chú đến một tiệm bán dụng cụ thể thao ở
đường Bonnard. Chú nhìn lên bảng hiệu Sports to tướng. Đọc không được nhưng số
nhà thì đúng. Tiệm có tất cả những gì chú cần và có cả những gì mà chú chưa hề
tưởng tượng đến. Phải mất cả ngày chú mới mua xong những vật dụng kê khai trong
tờ giấy. Những ngày sau thì chú dành tất cả thì giờ để thỏa mãn sự hiếu kỳ của
mình bằng cách dán mũi bên ngoài những tủ kính ở các đường phố lớn. Cuối cùng
chú quyết định là phải mua một món quà cho người yêu của chú trước khi về. Giữa
cái rừng đồ đạc đủ màu sắc đó chú bối rối không hiểu phải chọn cái gì. Thử nhớ
lại xem nào. Đúng rồi chú nhớ người ta thường hay tặng nước hoa cho người yêu.
Thế là khoẻ trí. Thấy cái chai hình thù đẹp đẹp là chú chọn và vài phút sau
trong tay chú đã có một gói quà xinh xắn buộc dây màu quanh lớp giấy hoa rực
rỡ. Gói quà như muốn bay khỏi bàn tay vụng về của chú. Lòng chú nhẹ như một tờ
giấy mỏng. Máy bay lại trả chú về với thành phố cũ. Chú mới từ đầu đến chân. Bộ
áo quần và đôi giày kiểu cách này chú tin là dân chơi trong thành phố phải quay
đầu lại nhìn cả. Lòng chú tự dưng sảng khoái một cách kỳ lạ. Chú nghĩ thầm:
mình cũng có quyền kiêu hãnh về mình lắm chứ! Chú mỉm cười và thuê xe về thẳng
câu lạc bộ.
Mọi người trong câu lạc bộ nghe chú về gần như ùa cả ra thềm, cả
ông sếp Tây của chú nữa. Nó vỗ vai chú và nói bằng tiếng Pháp: “Tốt lắm! Tốt
lắm!". Trong đám nhân công đứng ở thềm chú không thấy ông bếp đâu cả. Có
lẽ ông bận nấu ăn cũng nên. Bắt tay mọi người xong chú đi thẳng vào bếp. Không
thấy cha vợ tương lai của mình đâu cả, chú đi xuống hầm rượu không kịp hỏi mọi
người - ông đang nằm nhắm mắt, trên ghế bố, một tay gác trên trán như ngủ. Chú
lên tiếng và ông mở mắt chào chú, giọng không nồng nhiệt. Chú Lộ cụt hứng và
linh cảm có điều gì không hay đã xảy ra. Đứng sững một lúc, nhìn cặp mắt ông
bếp đã nhắm lại, chú bực bội quay về phòng để cất cái xách tay. Sau lưng chú
bỗng có tiếng nói mệt mỏi: “Con Khế chết rồi". Cái xách trên tay chú Lộ
rớt xuống đất. “Con Khế chết rồi". Người yêu chú chết rồi. Dỡn sao cha
nội?
Ngồi ở mép ghế bố, chú Lộ nghe hết câu chuyện ông bếp kể. Trước
mặt chú là những bậc thềm dẫn xuống bãi đậu pénsoire. Qua những cột bê tông,
như những cái rễ thẳng đứng của bao lơn câu lạc bộ cắm sâu dưới nước, chú nhìn
thấy nắng trên mặt sông Hương lao xao theo sóng nhô. Cái lao xao đó cũng có
trong lòng chú nhưng không âm thanh. Cơn rầu rĩ cứ dập dềnh lên xuống, đập vào
cái lớp vỏ nguội lạnh bên trong của suốt thân thể chú. Chú thấy dợn dợn muốn
ói, nhưng không mửa được. Tròng mắt chú ướt đi. Chú nghĩ đến chai nước hoa mà
chú chưa ngửi được mùi thơm của nó trên tóc của Khế. Khế chết tình cờ quá.
Trong một trận lục soát ở làng, commandos° chạm nhau với vài cán bộ hoạt động
của Việt Minh, Khế bị lạc đạn. Ông bếp giấu bặt chuyện này nên mọi người trong
câu lạc bộ không ai biết. Ông sợ Tây nó biết thì ông hết chỗ làm ăn. Chú Lộ
đứng dậy về phòng nằm, miệng lẩm bẩm một câu chửi tục.
° Lính biệt kích Pháp, nổi
tiếng hung ác.
Đó là lần đầu tiên trong đời, chú Lộ có ý thức về chiến tranh. Đêm
hôm ấy, trong phòng riêng dưới hầm, chú say khướt với mớ rượu thừa góp nhặt
được bấy lâu từ những cái chai uống dở của các ông lớn trong cái xã hội thượng
lưu thu nhỏ ở phía trên kia, ngay trên đầu chú mà giờ đây chú mới chua chát
thấy rằng nó xa lạ với những người như chú và ông bếp quá.
Hai.
Sau cái chết của Khế, thế giới sống của chú Lộ được nới rộng ra
hơn một chút. Con mắt và lỗ tai chú mở ra xa hơn cái xã hội nhỏ hẹp thu gọn
trong câu lạc bộ thể thao này. Tai chú bắt đầu nghe tiếng bom, đạn vọng từ xa
về. Chú nghe tiếng xe Jeep đi tuần tra ban đêm hoặc giữa khuya, tiếng quilát
kêu lắc cắc trong những cuộc bố ráp. Chú bắt đầu để mắt đến những xác chết của
bọn ác ôn, bọn tề điệp bị thanh toán ở những góc đường vắng, thường xuyên nhất
là ở dốc Nam Giao cách đồn Tây không xa lắm. Trên mỗi xác chết thường có lá cờ
đỏ sao vàng nhỏ bằng bàn tay và một bản cáo trạng tội ác. Chú cũng bắt đầu lấm
lét nhìn về phía nhà lao Thừa Phủ, không xa câu lạc bộ lắm, mà suốt bao nhiêu
năm trời, đối với chú, dường như không hề có mặt. Thỉnh thoảng chú bắt gặp
những nhóm người bị còng tay dẫn đi về phía nhà lao và thật tâm, chú không hiểu
hết ý nghĩa của hình ảnh đó. Có một điều chắc chắn là trong đám người đứng nhìn
đoàn tù lặng lẽ đi qua, chú thường bắt gặp những cái nhìn đầy yêu thương lẫn
kính phục và trong những lời thì thầm của họ chú loáng thoáng nghe thấy hai
tiếng: yêu nước. Những người tù kia cũng trẻ như chú sao họ được đồng bào cảm
phục đến như vậy? Trong đầu óc thô thiển của chú, những chữ Việt Minh, yêu nước
là lá cờ đỏ sao vàng nhỏ bằng bàn tay cứ quay cuồng như một cơn lốc. Chú không
tài nào cắt nghĩa được cho mình và cũng không ai ở câu lạc bộ đó có thể giúp
chú tìm ý nghĩa của nó. Và tự nhiên chú mơ hồ như mình vừa được truyền sang một
điều gì gần như lòng kiêu hãnh.
Từ đó, trong việc phục dịch hằng ngày ở câu lạc bộ, chú đã bắt đầu
có một thái độ bớt quỵ lụy hơn, bớt phục tùng hơn đối với ông quan tòa, ông
thẩm phán, ông trưởng ty và cả những thằng Tây chủ của chú. Trong đám Tây đến
ăn và uống rượu ở câu lạc bộ, có cả thằng sếp phòng nhì Pháp mà chú nghe nói là
dưới bàn tay đẫm máu của nó bao nhiêu con người trai trẻ như chú đã hi sinh.
Chú tự dặn lòng từ nay không bao giờ nhận một đồng xu “buộc boa" nào từ
bàn tay của nó nữa.
Bản chất của chú Lộ là một con người an phận. An phận từ tơ răng
kẽ tóc đến đầu những ngón chân. Ý thức của chú về quê hương dân tộc bị hạn chế
bởi sự ngu dốt và dừng lại ở thái độ thụ động như thế. Và nỗi băn khoăn chợt
nhóm lên trong lòng chú như một ngọn lửa yếu ớt, sau cái chết của Khế, đã tắt
dần cùng với thời gian. Dù sao chú đã tiến lên được một bước ngắn: cái lưng của
thằng nô lệ đã thẳng hơn trước một chút.
Tuổi Trẻ chủ nhật, số 13/2001
° Chú Lộ có lẽ là truyện ngắn duy
nhất của Trịnh Công Sơn nhưng còn dở dang và cũng chưa bao giờ được biết đến.
Tôi Đã
Mơ Thấy
Chuyến Đi Của Mình
Càng sống nhiều, người ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất
cứ ai. Chết quá dễ mà sống thì quá khó. Hôm qua gặp nhau đấy, ngày mai lại gặp
nhau. Sống thì có hẹn hò hôm nay, ngày mai. Chết thì chẳng bao giờ có cuộc hẹn
hò nào trước. Một buổi sáng cách đây 4 năm, lúc tôi đang ngồi uống rượu với
bạn, mẹ tôi bảo: "Má đi chơi một chút nghe”. Thế rồi một giờ sau, tôi được
điện thoại báo tin mẹ đã mất tại nhà người bạn.
Nhạc sĩ Xuân Hồng cũng đã từ biệt chúng tôi như thế. Không kịp nói
một lời, không kịp đưa tay vẫy chào bạn bè, vẫy chào cuộc sống. Thế kỷ XXI thế
mà cũng khó đến được dù chỉ còn mấy năm.
Càng yêu ta càng thấy: có tình yêu thì khó, mà mất tình thì quá
dễ. Hôm qua nói yêu nhau đấy, hôm nay đã mất rồi. Mất sạch như người buôn mất
đi vốn liếng. Cứ tự an ủi mình khi nghĩ rằng mình đau khổ thì có một kẻ khác
đang hạnh phúc. Và biết đâu cái thời gian mình được yêu thì một người khác cũng
đang đau khổ vô cùng. Nghĩ thế thì thấy cuộc đời bỗng nhẹ nhàng hơn và cũng dễ
tha thứ cho nhau. Sống mà giữ mãi trong lòng hờn oán thì cũng nặng nề.
Có người bỏ cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Có người bỏ cuộc
tình mà đi như người đãng trí. Dù sao cũng đã lãng quên một nơi này để đi về
một chốn khác. Phụ đời và phụ người hình như cũng vậy mà thôi. Người ở lại bao
giờ cũng nhớ thương một hình bóng mình đã mất. Khó mà quên nhanh, khó mà xoá đi
trong lòng một nỗi ngậm ngùi.
Tưởng rằng có thể quên dễ dàng một cuộc tình, nhưng hoá ra chẳng
bao giờ quên được. Mượn cuộc tình này để xoá cuộc tình kia chỉ là một sự vá víu
cho tâm hồn. Những mảnh vá ấy chỉ đủ để làm phẳng lặng bên ngoài mà thôi. Mỗi
một con người vì ngại chết mà muốn sống. Mỗi một con người vì sợ mất tình mà
giữ trong lòng một nỗi nhớ nhung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét