Hành trình vào cõi thơ là
làm một cuộc phiêu lưu vô tận. Thơ bắt nguồn từ cảm xúc tâm hồn, nơi ẩn chúa những
mối tình thiêng liêng sâu kín nhất. Phải chăng làm thơ là đi giữa cõi mộng và
thực để đời trổ nhánh đâm hoa và đưa thực vào mộng cho hồn vơi đi những nỗi đau
trần thế.
Thi nhân nặng nợ với tình
thơ nào khác chi kiếp tằm nhả tơ? Người nghệ sĩ ước mơ lớn nhất của họ là để lại
cho đời dăm ba tác phẩm, hay ít bài thơ đắc ý. Dù mai sau tác giả có đi vào
quên lãng thì những vần thơ trác tuyệt đó cũng dệt cho đời những đóa hoa muôn sắc.
Hồn thơ tựa làn khói, mùi hương; mà hương thì vô ảnh người đời chỉ cảm nhận chứ
không thấy được hình tướng. Nhưng ngay cả lúc hữu hình, hồn thơ hóa thể thành sợi
khói, vầng mây… chúng ta đều nhìn thấy nhưng nào ai nắm bắt được? Phải đợi đến
lúc con tim rung cảm thúc đẩy, hồn thơ nhập vào thi nhân thơ mới bật. Thơ vốn sẵn
trong thiên nhiên, hàm chứa nhiều tính chất trong trời đất. Ngôn ngữ của thơ
đôi khi ẩn trong văn, nhạc và hội họa, nhưng hình ảnh và nhạc điệu của ngôn ngữ
thơ lại rất khác với văn xuôi mà chỉ có những tâm hồn thơ mới cảm nhận được.
Nhà thơ không làm công việc của nhà lý luận, nhà khoa học, nhà thần học hay triết
gia… để tìm cái mới lạ trong thế giới hiện hữu, cái huyền bí của vũ trụ..vv..
nhưng thi nhân có thể sống với với tôn giáo, luân lý qua tâm linh để phát hiện
thêm lẽ đạo của cuộc đời, và sống triết qua thơ? Thi sĩ Bùi Giáng đã thở bằng
thơ trong bài đi vào cõi thơ, thi sĩ minh họa: «Cõi thơ là cõi bồng phiêu».
Nhập vào thơ là sống trong
cõi phiêu bồng. Cây khô cành chết làm sao có thể nở hoa, thơ cũng thế chỉ nở rộ
ở những tâm hồn nghe được tiếng thở của con tim. Nhưng nghe được mới chỉ là cảm
nhận giữa người và thơ cùng có chung một tần số. Muốn diễn tả những rung cảm đó
qua thơ cần phải có thi hứng, mà thi hứng là do thiên phú, nhưng từ thi hứng đến
nghệ thuật là bước khá dài, đòi hỏi nhiều nghiên cứu học hỏi. Thơ có thể là vần
hay không vần, nhưng đó chỉ là một trong những chất liệu dự phần của cấu trúc
trong quá trình hoàn thành thơ. Một chuỗi câu, nhóm từ, cắt ráp kiểu tiền chế
được kết lại, nếu chỉ dựa vào vần dễ biến thành bài vè. Và một số câu, nhóm từ
không vần nếu không có các yếu tố khác phụ thêm để hoàn chỉnh thơ, cũng biến
thành đoạn văn xuôi thiếu mạch lạc và trong sáng.
Thơ và nhạc là hai nghệ thuật
riêng biệt nhưng rất khắng khít nhau làm say đắm lòng người. Thơ là nghệ thuật
của «lờì», nhạc là nghệ thuật của «âm thanh». Trong thơ có chứa: Tư
tưởng, triết lý, tôn giáo, hội họa, âm nhạc… ngoài những chất liệu như ngôn từ,
hình tượng, vần điệu, niêm luật, ẩn dụ, hoán dụ… trong cấu trúc để hình thành
nên thơ, riêng thơ Việt Nam và thơ Trung Hoa còn có thêm chất họa và nhạc.
Âm nhạc là một môn nghệ thuật
dùng âm thanh làm ngôn ngữ để diễn đạt tư tưởng và tình cảm con người. Ngày nay
người ta còn dùng âm nhạc trị bệnh tâm thần (musicothérapie).
Âm nhạc gồm những đặc tính:
cao dộ, trường độ, cường độ, và âm sắc, được ký hiệu bởi những hình nốt. Nghe
những giai điệu dìu dặt khoan thai người thưởng lãm có cảm giác lạc vào cõi
thiên thai, thơ mộng. Riêng thơ chưa có một định nghĩa nào là mẫu mực, «người
ta chỉ cảm thơ là một môn nghệ thuật của nghệ thuật, phát xuất từ cảm xúc tâm hồn.»
Nói đến ca khúc, người ta
thường có thói quen nghe nhạc qua cảm âm dựa trên lời ca mà ít chú ý đến thẩm
âm, phần cấu trúc gồm giai điệu, tiết tấu, hay cách phối khí hòa âm vv… .
«Thơ phổ nhạc là nghệ thuật
đem thêm âm hòa với âm thanh sẵn có trong thơ, hoặc thay đổi âm thanh của thơ
chuyển thể thành những nốt nhạc để hát. Nhưng đọc thơ, hát thơ hay còn gọi là
ngâm thơ hoàn toàn khác với nhạc thơ. Ðọc và hát thơ không cần áp dụng những
quy tắc kỹ thuật cũng như mỹ thuật quá phức tạp của âm nhạc, vì nhạc trong thơ
là những âm phát từ thanh bằng trắc của câu thơ; trong khi thơ trong nhạc hay
còn gọi là tính nhạc gồm những hình tượng, ngôn ngữ được ngắt nhịp theo tiết tấu
riêng để diễn tả giai điệu toàn bài chuyên chở tứ thơ.
Ví dụ: Thuyền Viễn Xứ,
thơ Hà Huyền Chi, Phạm Duy phổ nhạc. Mộng Dưới Hoa, thơ Ðinh Hùng, Phạm
Ðình Chương phổ nhạc. Nguyệt Cầm, thơ Xuân Diệu, Cung Tiến phổ nhạc. Tình
Khúc Thứ Nhất, thơ Nguyễn Ðình Toàn, Vũ Thành An phổ nhạc. Màu Tím Hoa Sim,
thơ Hữu Loan, Dzũng Chinh phổ nhạc. Mái Tóc Dạ Hương, thơ Ðinh Hùng, Nguyễn
Hiền phổ nhạc. Chiều Tím, thơ Ðinh Hùng, Ðan Thọ phổ nhạc. Áo Lụa Hà
Ðông, thơ Nguyên Sa, Ngô Thụy Miên phổ nhạc vv….
Trong giai đoạn đất nước còn
mịt mù khói lửa chiến tranh, ở miền Nam người nghệ sĩ vẫn tự do sáng tác, một số
nhạc phẩm trữ tình có ca từ đượm chất thơ đã diễn tả thân phận con người trong
thời loạn hay diễn tả sự nuối tiếc về những cuộc tình dang dở; mà nhiều ca từ
đượm chất hương thơ hơn một số bài thơ «làm dáng» sáng tác vội vã cho
có số lượng, được gọi là giòng thơ «cách tân» hôm nay? Sự vung vít chữ
nghĩa đó đã làm ảnh hưởng ít nhiều đến những bài thơ có «tính khai phá
sáng tạo» của những tâm hồn chân chính! Những người làm công việc khai
phá, tìm kiếm những cái mới lạ là những người đã có sẵn vốn căn bản về thơ, cộng
thêm kiến thức.
Xin hãy bước vào vườn hoa nghệ
thuật để thấy mùa xuân bất tận của những ca từ trong nhạc, nó đượm đầy chất thơ
và chứa sẵn tính nhạc. Ðìển hình những lời ca đã đi sâu vào lòng người, đó là
những tài sản trong kho tàng của văn hóa dân tộc:
«Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi..» (Như Cánh Vạc Bay)
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi..» (Như Cánh Vạc Bay)
Phạm Ðình Chương:
«... Người đi qua đời tôi
trong những chiều đông sầu
Mưa mù lên mấy vai
Gió mù lên mấy trời...
Hồn lưng miền rét mướt
Vàng xưa đầy dấu chân (Người Ði Qua Ðời Tôi)
trong những chiều đông sầu
Mưa mù lên mấy vai
Gió mù lên mấy trời...
Hồn lưng miền rét mướt
Vàng xưa đầy dấu chân (Người Ði Qua Ðời Tôi)
Lam Phương:
“... Người đi hoa lá chết
trong mùa nhớ
Người về lặng lẽ, tình vẫn bơ vơ!
Thà rằng ôm kín mộng ước xa nhau
Quên đi cho hết một kiếp thương đau...” (Thu Sầu)
Người về lặng lẽ, tình vẫn bơ vơ!
Thà rằng ôm kín mộng ước xa nhau
Quên đi cho hết một kiếp thương đau...” (Thu Sầu)
Ngô Thụy Miên:
“... Nhớ tới năm xưa bên
nhau
Bước trong chiều mưa phiếm du nhẹ đưa
Bến cũ đam mê say xưa lá thu còn rơi...
Mắt biếc năm xưa nay đâu, cánh sao còn đây
Tóc mây nào bay... Tình đã xa rồi!” (Mắt Biếc)
Bước trong chiều mưa phiếm du nhẹ đưa
Bến cũ đam mê say xưa lá thu còn rơi...
Mắt biếc năm xưa nay đâu, cánh sao còn đây
Tóc mây nào bay... Tình đã xa rồi!” (Mắt Biếc)
Y Vân:
«… Rồi đây mây trên đồi vắng
lang tìm kìm kiếm, đá xưa rêu mòn….
Biệt ly hôn nhau lần cuối…
Dư âm còn đây, lệ trong mắt ai… » (Mắt Lệ Cho Người Tình)
lang tìm kìm kiếm, đá xưa rêu mòn….
Biệt ly hôn nhau lần cuối…
Dư âm còn đây, lệ trong mắt ai… » (Mắt Lệ Cho Người Tình)
Từ Công Phụng:
… Thôi đừng tìm đến nhau làm
gì!
Thôi, đừng tìm nhau nữa mà chi!
Ðường về nhà em xa lắm,
Tương lai chưa vừa tầm hái tay này.
Trời đọa đày cho cay đắng
Nên ta không còn nương cánh nhau mà đi... » (Lời Cuối)
Thôi, đừng tìm nhau nữa mà chi!
Ðường về nhà em xa lắm,
Tương lai chưa vừa tầm hái tay này.
Trời đọa đày cho cay đắng
Nên ta không còn nương cánh nhau mà đi... » (Lời Cuối)
Lê Uyên Phương:
«… Ngày em thắp sao trời
Chờ trăng gió lên khơi
Mùa mưa bão tơi bời
Một ngày mưa bão không rời
Trên vai thanh xuân ướp hôn nồng trên gối đắm say
Ánh sao trời theo gió rụng rơi đầy
Cùng rót bao nhiêu ngày hoang
Cùng đếm bao nhiêu mộng tàn..” (Dạ khúc Cho Tình Nhân)
Chờ trăng gió lên khơi
Mùa mưa bão tơi bời
Một ngày mưa bão không rời
Trên vai thanh xuân ướp hôn nồng trên gối đắm say
Ánh sao trời theo gió rụng rơi đầy
Cùng rót bao nhiêu ngày hoang
Cùng đếm bao nhiêu mộng tàn..” (Dạ khúc Cho Tình Nhân)
“... Một làn khói trắng
Ru đời vào quên lãng
Nâng sầu thành hơi ấm
Hơ dịu tình đau.
Ngày tàn im lắng
Yêu người làn tóc trắng
Tâm sự rồi đến đắng
Như lệ giờ biết nhau...“ (Bài Không Tên Số 7)
Ru đời vào quên lãng
Nâng sầu thành hơi ấm
Hơ dịu tình đau.
Ngày tàn im lắng
Yêu người làn tóc trắng
Tâm sự rồi đến đắng
Như lệ giờ biết nhau...“ (Bài Không Tên Số 7)
Trường Hải:
„.. Những chiều không có em
Ngõ hồn sao hoang vắng.
Ôi! Dừng chân đây,
đường phố cũ
ngùi nhớ tới người em thơ
cùng bước dưới trời mưa lòng trao chuyện lòng...” (Những Chiều Không Có Em)
Ngõ hồn sao hoang vắng.
Ôi! Dừng chân đây,
đường phố cũ
ngùi nhớ tới người em thơ
cùng bước dưới trời mưa lòng trao chuyện lòng...” (Những Chiều Không Có Em)
Trường Sa:
“... Tiếng hát bay trên
thành phố bâng khuâng
Chiều đong đưa những bước chân đau mòn
Chợt nghe mùa thu bay trên trời không
Còn ai giữa mênh mông đời mình?
Nỗi đau mù lấp trên tuổi thơ!...” (Xin Còn Gọi Tên Nhau)
Chiều đong đưa những bước chân đau mòn
Chợt nghe mùa thu bay trên trời không
Còn ai giữa mênh mông đời mình?
Nỗi đau mù lấp trên tuổi thơ!...” (Xin Còn Gọi Tên Nhau)
Phạm Duy:
“... Nha Trang ngày về
ngồi đây tôi lắng nghe
đê mê lòng tôi khóc
như oan hồn trách móc
Ôi trăng vàng lẻ loi! Ôi đời!
Trời biển ôi! Không có nuôi tình tôi.
Nha Trang biển này tình yêu không có đây
Tôi như là con ốc chui sâu vào thân xác lưu đày
Dã tràng ơi sao lấp cho vơi sầu này!” (Nha Trang Ngày Về)
ngồi đây tôi lắng nghe
đê mê lòng tôi khóc
như oan hồn trách móc
Ôi trăng vàng lẻ loi! Ôi đời!
Trời biển ôi! Không có nuôi tình tôi.
Nha Trang biển này tình yêu không có đây
Tôi như là con ốc chui sâu vào thân xác lưu đày
Dã tràng ơi sao lấp cho vơi sầu này!” (Nha Trang Ngày Về)
Không thể trích hết lời ca
đã từng vang bóng một thời của làng âm nhạc miền Nam. Những nhạc sĩ mang chút hồn
thơ như:
Cung Tiến, Vũ Ðức Sao Biển,
Hiếu Nghĩa, Thanh Trang, Hoàng Thi Thơ, Thu Hồ, Trịnh Hưng, Minh Kỳ, Hoài Linh,
Phạm Mạnh Cương, Dương Thiệu Tước, Ưng Lang, Khánh Băng, Huỳnh Anh, Châu Kỳ,
Lâm Tuyền, Tuấn Khanh, Vũ Thành, Trầm Tử Thìêng, Anh Bằng, Lê Dinh, Trần Thiện
Thanh, Thanh Sơn, Hoàng Trang, Ðỗ Lễ, Lê Hoàng Long, Thanh Bình, Văn Giảng, Y
vũ, Mai Châu, Phó Quốc Thăng, Thúc Ðăng, Hoài An, Duy Khánh , Anh Việt Thu, Nhật
Ngân, Trần Trịnh, Nguyễn Ánh 9, Trọng Khương, Trúc Phương, Xuân Lôi, Xuân Tiên,
Hoàng Trọng, Nam Lộc; Lê Hữu Hà, Nguyễn Trung Cang..vv….
Ðó là chưa kể đến những nhạc
sĩ thời tiền chiến, họ là những nhạc sĩ mang tâm hồn thơ, đã cống hiến cho đời
những lời ca đượm đầy chất hương thơ hòa trong ý nhạc, dệt lên những giai điệu
đặc sắc trong vườn hoa nghệ thuật âm nhạc Việt Nam.
Phổ nhạc một bài thơ «cho
có» thì rất dễ, vì chữ Việt Nam có dấu, âm điệu bằng trắc trầm bổng, uốn
éo tự nó cũng đã chứa nhiều yếu tố âm nhạc. Ví dụ như câu hò xứ Huế, người phổ
chỉ cần biết qua hai âm giai trưởng thứ hay ngũ cung cũng có thể phổ bài thơ,
nhưng đó chỉ là khai triển cái âm bằng trắc sẵn có trong câu thơ, nên thiếu vắng
tính nghệ thuật của âm nhạc. Ðó là chưa kể người phổ đôi khi cắt xén bừa bãi
câu thơ, vô tình làm hỏng ý thơ! Tiếng Việt vốn đơn âm nhưng lại hàm xúc nhiều
ý nghĩa; nhất là ngôn ngữ của thi ca chứa nhiều ẩn dụ và hoán dụ. Ðối với những
từ đơn, từ kép, từ ghép và từ láy là những chất liệu, giúp, cho tiết tấu câu nhạc
thêm phong phú. Trong một câu, nhóm từ, nếu chỉ cần thay đổi vị trí cao độ,
thanh âm những từ đó sẽ đổi, hay chỉ cần đảo chữ, thanh âm và ngữ nghĩa cũng
thay đổi, đôi khi rơi vào trường hợp biến cung nghịch với quy luật âm nhạc. Ví
dụ:
«Nắng Sài Gòn em đi mà chợt
mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông…» (Nguyên Sa)
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông…» (Nguyên Sa)
Nếu người hát vô tình đổi vị
trí cao độ và đảo ngữ ở hai câu cuối: «chợt mát, Hà Ðông» thành «mát
chợt, Ðông Hà» thì quả tội nghiệp cho thơ lẫn nhạc! Chắc hẳn thi sĩ Nguyên
Sa và nhạc sĩ Ngô Thụy Miên sẽ buồn biết chừng nào!?Nhưng có những bài thơ được
nhạc sĩ cắt xén đảo chữ để hợp với giai điệu câu nhạc lại làm tăng phần nghệ
thuật của bài thơ. Thân phận của thơ hôm nay thật hẩm hiu, ủ dột, vì bị lãng
quên trong cái không khí xô bồ, ồn ào quyến rũ của vật chất! Cũng may nhờ có giới
nhạc sĩ và dịch giả, thơ mới có chỗ hòa điệu, nương cánh. Thơ được phổ thành nhạc
dễ phổ biến rộng rãi đến công chúng. Nhưng một bài thơ tuyệt vời nếu đem phổ nhạc
hoặc đem chuyển ngữ chắc hẳn sẽ làm nhạt đi ít nhiều «chất kỳ bí» chứa
trong thơ.
Một bài thơ có thể được nhiều
người phổ nhạc, nhưng sẽ chỉ có duy nhất một bài «hay», như đóa hoa chỉ nở
một lần, nếu nhạc sĩ bắt được cái «tính nhạc» trong thơ. Cứ thử tưởng
tượng thơ ẩn trong phiến lá, nếu ta đem đốt chiếc lá, tiếng reo của lá trong lửa
là tính nhạc, và khi chiếc lá cháy hết chỉ còn những sợi khói bồng bềnh; cái
mong manh đó chính là cõi thơ, và mùi hương khói phảng phất vị lá phải chăng là
hồn thơ? Một bài thơ phổ nhạc được gọi là «xuất sắc» đòi hỏi người phổ
phải am tường cả hai nghệ thuật thơ nhạc, nếu không, âm thanh của nhạc sẽ lấn
át âm thanh của thơ làm biến thể chất thơ, biến bài thơ (poème) thành bài ca
(chant, chanson). Do đó trước tiên người phổ phải yêu bài thơ và thuộc để có thể
thả hồn theo ý thơ để bắt được cái tính nhạc trong bài thơ, sau đó người phổ phải
nắm vững quy luật và mỹ thuật của âm nhạc để có thể ghi lại và diễn tả những
tình cảm luyến láy, dìu dặt, nức nở, buồn vui qua nét nhạc…. giúp hồn thơ thăng
hoa nhiễm cảm vào từng tế bào, thớ thịt người thưởng lãm. Người nghe không còn
cảm thấy như nghe đọc thơ ở một giọng cao do những âm bằng trắc trầm bổng, lấn
át nhau tạo nên. Sau cùng, nếu đem bản nhạc trình tấu và tách phần ca từ, phần
nhạc phải mang đầy đủ tính mỹ thuật của nó như một bản nhạc không lời làm gợi cảm
lòng người. Phải chăng đó mới là lúc hồn thơ nhập vàp nốt nhạc chấp cánh.
Ðỗ Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét