*Nhấn chuột vô đây để đọc Tiểu sử và những tác phẩm của nhà
thơ, nhạc sĩ Trương
Tuyết Mai
Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được đọc hồi ức của một nữ nhạc
sĩ. Đời nghệ sĩ, mấy ai không trải qua những nỗi truân chuyên. Nhưng nỗi truân
chuyên của nữ nhạc sĩ Trương Tuyết Mai quả thật mới tải được hết câu thơ “Khách
má hồng lắm nỗi truân chuyên”.
Những hồi ức khác của các nữ nhạc sĩ hiếm hoi ở Việt Nam có
“truân chuyên” hơn không, tôi chưa đọc nên không thể khẳng định. Nhưng đọc hồi ức
“Lật từng mảnh ghép” của Trương Tuyết Mai, thì tôi đã thầm thốt lên: “Truân
chuyên đến thế là cùng”.
Không thể ngờ được một cô gái sinh ra ở Hải Phòng, là con của
một người cha đã từng là lính Hải quân Pháp tuy gốc quê Phú Yên, lại có một cuộc
đời ba đào đến thế. Cái gốc của nó chính là vì người cha vì yêu nước đã xóa bỏ
tư thế lính Hải quân thuộc địa đi theo lý tưởng cách mạng mà ông đã ngấm ngầm
tôn thờ tự khi nào đó. Bởi vậy mà vì hoàn cảnh nhà nghèo, cô bé Trương Tuyết
Mai đã phải đi làm con nuôi. Nhưng rồi không chịu được cảnh xa con, bà mẹ lại
xin cô bé về “rau cháo nuôi nhau”. Chẳng đếm hết bao nhiêu cơ cực cô bé đã phải
nếm trải cùng mẹ, chị và các em. Nhưng bi kịch nhất là khi cô bé được mẹ giao
nhiệm vụ đi tìm cha như đã hẹn, thì đến khi tìm được cha đang chờ tập kết ở Quy
Nhơn, quay trở về lại chứng kiến cảnh mẹ vừa qua đời vì bạo bệnh.
Một vận may cũng nhờ cách mạng mà chị em Trương Tuyết Mai đã
kịp trở về với cha để cùng tập kết ra Bắc. Cô đã được trở về nơi sinh ra là Hải
Phòng. Với bản năng đam mê âm nhạc của mình, Trương Tuyết Mai đã từng được Trường
miền Nam số 4 lúc đó giao nhiệm vụ đứng chỉ huy dàn hợp xướng. Trương Tuyết Mai
đã có quyền ước mơ trở thành một nữ nhạc sĩ. Và điều này đã thành hiện thực khi
Trương Tuyết Mai 17 tuổi.
Đến đoạn này thì lại phải nhắc tới câu thơ Nguyễn Du trong
“Truyện Kiều”: “Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Thì đừng trách đứng trời gần trời
xa”. Cách mạng đã cho Trương Tuyết Mai biến giấc mơ thành hiện thực. Nhưng hiện
thực này lại phải sống chung với hiện thực khắc nghiệt khác của thể chế lúc bấy
giờ. Một cuộc cộng sinh chẳng dễ dãi gì giữa lãng mạn với thô bạo. Ngày đó, một
câu chuyện tình giữa một nữ sinh trường nhạc trong bộ bà ba đen và chiếc khăn rằn
Nam Bộ với một trí thức người Pháp dấn thân cùng cách mạng Việt Nam. Chẳng hiểu
vì sao mà câu chuyện này lại xảy ra tại quán ăn Tân An cuối phố Hàng Bông mà
tôi đang ngụ cư.
Tôi hoàn toàn bất ngờ khi đến tận bây giờ mới biết câu chuyện
tình éo le này. Người trí thức Pháp phải lòng cô nữ sinh trường nhạc Trương Tuyết
Mai, lại chính là một nhân vật nổi tiếng. Ông chính là Georges Boudarel, có tên
Việt Nam là Đại Đồng. Ông sinh tháng 12.1926 tại tỉnh Loire, gia nhập Đảng Cộng
sản Pháp năm 1947, xuống tàu sang Đông Dương làm giáo sư triết học ở Trường
Trung học Pháp ngữ. Năm 1949, sau một năm ở Lào, ông tới Sài Gòn dạy ở Trường
Trung học Marie Curie. Năm 1950, ông vào chiến khu theo Việt Minh. Khi đó ông mới
24 tuổi. Ở chiến khu, ông làm việc tại Cục địch vận và Đài phát thanh Nam Bộ
kháng chiến. Năm 1952, ông ra Việt Bắc, làm Phó trưởng trạm cho trại tù binh
Pháp 113. Sau hiệp định Genève, ông công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam và Nhà
xuất bản Ngoại Văn ở Hà Nội.
Thời đại hôm nay, chuyện này là chuyện quá thường tình với phụ
nữ Việt Nam. Nhưng ở thời điểm đó, chuyện này là chuyện “tày đình”. Câu chuyện
tình “bí mật” này diễn ra nhanh chóng và bị dập tắt ngay khi nó đang nồng lửa.
Ngày ấy, sau khi thất tình, ông G.Boudarel lấy vợ và sinh con. Nhưng ít lâu
sau, hình như năm 1964, gia đình ông rời Việt Nam sang Tiệp Khắc sinh sống vì
ông đã theo cách mạng Việt Nam chống Pháp, nên bị kết án nặng nề của Chính phủ
Pháp. Năm 1966, nhờ lệnh ân xá của Tổng thống Charles de Gaulle gia đình ông mới
về lại Pháp năm 1967. Ông dạy Đại học Denis Diderot (Paris 7) cho đến khi về
hưu. G.Boudarel làm luận án tiến sĩ về Phan Bội Châu, là một nhà Việt Nam học
có uy tín, đã từng xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị, đồng thời cũng là dịch
giả, chuyển ngữ nhiều tác phẩm của Việt Nam sang tiếng Pháp. Nhưng đầu năm
1990, ông lại bị vu cáo của thế lực cực hữu ở Pháp là đã tiếp tay cho Việt Minh
sát hại tù binh Pháp. Thế là lại thêm một cuộc chiến nữa của một người yêu hòa
bình cho nhân loại phải chống đỡ. Tuy nhiên, câu chuyện tình này tuy đau đớn,
nhưng lại có hậu. Năm 1999, khi G.Boudarel nằm bệnh, Trương Tuyết Mai đã được
sang thăm ông. Bà đã viết ca khúc “Đợi chờ” tặng ông. Khi ông mất vào năm 2003,
bà đã lập bàn thờ của ông ngay tại nhà riêng.
Ai cũng biết nữ nhạc sĩ Trương Tuyết Mai rất nổi tiếng với ca
khúc “Xe ta ơi! Lên đường” (phỏng thơ Huy Cận) thời chống Mỹ. Vừa là nhạc công
flute, bà vừa là một người sáng tác âm nhạc. Hồi ức cũng rất thật hay khi lần đầu
tiên có người đã kể lại về chuyến lưu diễn xuyên Trường Sơn của tốp văn công
thuộc Đài phát thanh Giải phóng giai đoạn trước ngày thống nhất đất nước. Qua
giọng kể trung thực của Trương Tuyết Mai, người đọc sẽ biết thêm về ca sĩ Thanh
Hoa, nhà văn Lê Minh Khuê, nhạc sĩ Huy Tiến... và trân trọng nhất về nhạc sĩ Trần
Kiết Tường.
Phần hồi ức bà viết khi về công tác tại Đài phát thanh Tiếng
nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, mới thấy nghị lực phi thường của
thân “liễu yếu đào tơ”. Không chỉ sáng tạo thêm những ca khúc hay như “Huế -
tình yêu của tôi” (thơ Đỗ Thị Thanh Bình), “Đợi chờ”, “Ba Son bình minh”...,
Trương Tuyết Mai còn bươn chải giữa đời thường để nuôi ba con thành nhạc sĩ. Đó
là Thảo Linh, Đan Linh và Jazzy Dạ Lan (tên thật là Thảo Hương đang hoạt động
âm nhạc ở Đức). Hồi ức có những đoạn dở khóc dở cười khi thời khốn khó, bà đã từng
đi buôn hạt giống rau, nuôi lợn để mưu sinh cho cả gia đình. Thương nhất là khi
những chuyện làm ăn này đều thất bại vì tính cả tin của người nghệ sĩ.
Nếu có thể sửa chữa được quá khứ, tôi nghĩ rằng, mọi người đều
rất muốn câu chuyện tình trên kết thúc hạnh phúc. Nhưng nếu không truân chuyên
như những gì đã xảy ra, chắc gì đã có nhạc sĩ Trương Tuyết Mai?.
1.7.2017
Nguyễn Thụy Kha
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét