Nhà thơ Nguyên Sa xuất thân từ một gia đình không liên quan
gì đến văn chương nghệ thuật. Năm 17 tuổi, Nguyên Sa sang Pháp du học. Sau khi
tốt nghiệp Tú tài, ông ghi danh vào khoa Triết, Đại học Sorbonne. Và cuộc hạnh
ngộ với bà Trịnh Thị Nga đã biến ông thành thi sĩ. Bài thơ nổi tiếng đầu tiên của
Nguyên Sa cũng là bài thơ đính hôn.
Nhà thơ Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, sinh năm 1932 tại
Hà Nội, mất năm 1998 tại Mỹ. Trong cuốn hồi ký của mình, ông viết: “Tôi thích
được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu
được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối
đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có. Những bài
thơ khác biệt mang lại bản ngã khác biệt…”. Vì vậy, để hiểu Nguyên Sa, không có
phương pháp nào đáng tin cậy bằng sự nghiêm túc đọc lại thơ Nguyên Sa.
Nhà thơ Nguyên Sa xuất thân từ một gia đình không liên quan
gì đến văn chương nghệ thuật. Năm 17 tuổi, Nguyên Sa sang Pháp du học. Sau khi
tốt nghiệp Tú tài, ông ghi danh vào khoa Triết, Đại học Sorbonne. Và cuộc hạnh
ngộ với bà Trịnh Thị Nga đã biến ông thành thi sĩ. Bài thơ nổi tiếng đầu tiên của
Nguyên Sa cũng là bài thơ đính hôn.
Bài thơ có tên “Nga” được in vào thiệp cưới của họ năm 1955:
“Em đừng buồn như những chiếc lá tre khô/ Em đừng buồn như những nóc nhà thờ
không có tuổi”. Năm 1956, ông bà đưa nhau về Sài Gòn sống bằng nghề dạy học.
Không chỉ giảng dạy môn Triết cho các trường trung học, họ còn mở ra hai trường
tư thục Văn Học và Văn Khôi. Với quan niệm bản thân “vốn dĩ chỉ là hạt cát”, Trần
Bích Lan lấy bút danh Nguyên Sa và ngay lập tức lừng lẫy trên thi đàn.
Có thể do sự tình cờ hữu duyên, những bài thơ phổ nhạc của
Nguyên Sa lan tỏa rất nhanh vào đời sống. Và cho đến tận hôm nay, nhắc đến
Nguyên Sa là người ta nghe vang lên trên môi “Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn/
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh” (Áo lụa Hà Đông), hoặc “Áo nàng vàng tôi về
yêu hoa cúc/ Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường” (Tuổi mười ba), hoặc “Vẫn hỏi
lòng mình là hương cốm/ Chả biết tay ai làm lá sen” (Paris có gì lạ không em)
và “Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn/ Nếu em sợ thời gian dài vô tận”
(Tháng sáu trời mưa).
Những bài thơ được phổ nhạc ấy cứ bồng bềnh từ thế hệ này
sang thế hệ kia, khiến nhiều bài thơ khác của Nguyên Sa ít nhiều bị che khuất,
kể cả những câu thơ độc đáo miêu tả chiếc áo dài đậm đà bản sắc dân tộc: “Có phải
em mang trên áo bay/ Hai phần gió thổi, một phần mây/ Hay là em gói mây trong
áo/ Rồi thở cho làn áo trắng bay”.
Tuy nhiên, nếu đọc thơ Nguyên Sa viết sau năm 1975 ở hải ngoại,
vẫn nhận ra nét hào hoa riêng biệt. Trong tập “Hoa sen và hoa đào” được sáng
tác khoảng thời gian 1982-1988, có những câu thơ mang đậm phong cách Nguyên Sa
như: “Anh nhớ em ngồi áo trắng thon/ Ngàn năm còn mãi lúc gần quen/ Em gầy như
liễu trong thơ cổ/ Anh bỏ trường thi lúc Thịnh Đường” hay “Phương Đông vào chỗ
hồng lên má/ Chiều xuống lưng chừng mái tóc thưa”.
Đã từng xuất bản cuốn sách biên khảo triết học “Descartes
nhìn từ phương Đông”, nhưng trả lời phỏng vấn của nhà văn Vũ Bằng vào năm 1972,
thì Nguyên Sa vẫn khẳng định: “Nói triết lý sa sả, e rằng sẽ là người tự kiêu.
Nhất là trong thơ, càng nhiều triết lý càng mất tính cách của thơ. Theo tôi, thực
chất của thơ là cái linh hồn, là sự sống của những chữ ta dùng”. Suy nghiệm đó
được Nguyên Sa thể hiện rất rõ trong những bài lục bát.
Thơ Việt Nam đã từng tự hào về lục bát Nguyễn Du, lục bát
Nguyễn Bính, lục bát Huy Cận thì có lẽ những ai yêu thể thơ truyền thống cũng cần
lưu ý lục bát Nguyên Sa. Sáu chữ và tám chữ được Nguyên Sa vận hành khá tự
nhiên và nhịp nhàng đến mức phẩm chất thi ca tuôn chảy vào lòng độc giả một
cách bất ngờ.
Khi gặp “Mây hồng” bâng khuâng “Những chiều sương kín đầu
non/ Hỏi nhau nhè nhẹ sao buồn chi em”, khi muốn “Tháo gỡ” giăng mắc ngậm ngùi
“Ta nằm tháo gỡ cơn mưa/ Cầu vồng tràn núi cũng vừa bắc ngang/ Trong thơ ta gọi
là nàng/ Nói năng lẫm liệt, tình càng thâm sâu/ Trời cao có núi bắc cầu/ Trong
ta vực thẳm cúi đầu nghe mưa”, hoặc khi đăm đắm “Hiu quạnh” thân phận “Bỏ tay
vào túi buổi chiều/ Lấy ra hiu quạnh với nhiều bản thân/ Còn hiu quạnh chỗ mộ
phần/ Tấm bia màu trắng mấy lần quạnh hiu”, và khi hân hoan “Ngày khỏi bệnh” nhận
ra “Thương ghê màu áo hoa cà/ Mộng mơ bật sáng trên da thịt người”.
Những câu thơ mềm mại, linh hoạt và ấm áp theo suốt cả cuộc đời
Nguyên Sa, và lúc đến chặng đường hoàng hôn số kiếp thi sĩ, thì ông chợt ngộ
“Hiện tượng toàn diện” để thả hồn tràn theo nghĩ suy không kịp kết nối vần điệu:
“Lau khô một bông hoa không phải chỉ là động tác của tay/ Công việc đòi hỏi sự
chú ý của thị giác, sự nhịp nhàng của hô hấp và cả sự di chuyển trong một không
gian”. Đối mặt với căn bệnh ung thư dạ dày hành hạ từng ngày, Nguyên Sa vẫn
không rời bỏ thơ. Bài thơ “Hóa học trị liệu” có thể xem như một cột mốc để đánh
dấu những sáng tác tạ từ nhân gian của ông.
Tôi biết cây phong đứng ở trước cửa bệnh viện nghĩ gì
Khi những chiếc lá phong buông tay ra
Làm thành những vòng tròn nhỏ
Những chiếc lá phong màu rượu chát rơi xuống một vị trí tên
là mặt đất
Gió đưa những chiếc lá phong sang một vị trí khác cũng tên là
mặt đất
Không thể nói khác hơn rằng, 22 bài thơ viết từ đầu năm 1998
đến lúc chia tay vĩnh viễn với Nàng Thơ đã cho hậu thế thấy được một dòng chảy
khác của thơ Nguyên Sa. Những câu thơ ngổn ngang và giàu chất trí tuệ, không phải
đến thình lình, mà có mạch nguồn trong thao thức Nguyên Sa. Trên giường bệnh,
có lẽ hơn một lần ông ưu tư về những bài thơ mình viết đã được phổ nhạc truyền
tụng khắp nơi: “Tôi đã làm xong bài thơ để phổ nhạc/ Nhưng bài nhạc chưa tới/ Đến
khi nó tới/ Bài thơ nhất định bỏ đi”. Thật vậy, những bài thơ sau chót của
Nguyên Sa hầu như không dành cho âm nhạc, chỉ dành cho những chột dạ.
Nguyên Sa chột dạ về “Mật khẩu” đời mình:
Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Vì tôi cũng không nhớ
Nguyên Sa chột dạ về “Ký ức” người vợ sắc son đi cùng ông suốt
hành trình long đong duyên nợ ba sinh:
Em làm cho tà áo lượn bay màu trắng ở quê hương xưa
trở thành màu hồng
Em làm thắp lên ngọn bạch lạp vào buổi sang
ở trong lớp học
trong những giờ khắc yêu đương
Nguyên Sa chột dạ về những “Mặt nạ” chập chờn lẩn khuất:
Chiếc mặt nạ ngay sát lần da mặt, gắn vào hay tháo gỡ
đều đòi hỏi nhiều thời gian
Làn da mặt dính vào thịt xương gắn vào hay tháo gỡ càng lâu
hơn
Không thể đo được thời gian tìm kiếm những chiếc mặt nạ
Ở dưới làn da mặt dính vào thịt xương
Nguyên Sa chột dạ về “Con sông” ngược xuôi bất tận miền khát
vọng:
Suối cạn là nghĩa trang biết thở dài của dòng song
Sa mạc là nghĩa trang khác, nghĩa trang biết khóc của dòng
song
Vật nào cũng có hai nghĩa trang
Một vật bao giờ cũng có hai tên
Tên nó và tên ước mơ của nó
Nghĩa trang của nó và nghĩa trang của ước mơ
Có lúc tôi thích được gọi bằng tên tôi
Có lúc tôi thích được gọi bằng tên ước mơ của tôi
Thế nhưng, niềm riêng day dứt nhất, đau đáu nhất của Nguyên
Sa trong những bài thơ cuối cùng là nỗi mong ngóng thăm thẳm cố hương. Nguyên
Sa đón “Tết ở Wichita Falls” giữa cơ hồ run rủi: “Nửa khuya nàng đánh thức tôi
dậy, nói dậy đi, dậy đi, giao thừa rồi/ Tôi ngồi dậy/ Chúng tôi mặc quần áo mới/
Chúng tôi thắp nhang/ Chúng tôi ngồi uống trà với nhau, ngồi tựa lưng vào nhau,
hát cho nhau nghe bằng ánh sáng của những ngày mới gặp nhau/ Khi nàng quay đầu
lại, tôi thấy mắt nàng đỏ hoe/ Mắt nàng ngơ ngác giống như mắt con vành khuyên
một mình, để định hướng, bay theo những màu vàng của một rừng mai”.
Dường như Nguyên Sa không còn muốn ngắt dòng hay ngắt câu,
ông cứ để cảm xúc lênh loang cho kịp nhịp điệu hối hả từ trái tim mình. Và ông
nghĩ về một sự “Thủy chung” giản dị khi hóa thân vào tro bụi: “anh chỉ xin em
ném giùm anh xuống những mảnh đất đầu đời, chỗ bãi phù sa anh tắm mỗi chiều,
con lộ mỗi ngày chúng mình cùng nhau đi học”. Riêng với quê nhà thơ ấu, Nguyên
Sa tỉ mỉ viết sáu câu chia biệt:
Ngọn đèn chiếu xuống bức tranh
Cầm lên Hà Nội thấy đình miếu xưa
Tiễn nhau nhớ Tháng Giêng, mưa
Sông Hồng nước động bóng chưa nhập hình
Tiễn anh linh hiển u linh
Cấu vào da thịt thấy mình bỏ đi
Nguyên Sa đã yên nghỉ 20 năm ở California. Mọi vui buồn và được
mất cũng đã lắng dịu đi, đủ để những người bây giờ bình tâm phác thảo một chân
dung thơ Nguyên Sa. Ông đã đến với chúng ta, đã sống với chúng ta, đã rời xa
chúng ta, và đã gửi lại những câu thơ dâng hiến cả cuộc đời. Gần nửa thế kỷ miệt
mài với thơ, Nguyên Sa canh cánh “luôn luôn làm sao để không giống mình, để trở
thành một người khác mình, thì đó chính là cách thức, cách thế để trở thành
chính mình”.
Và phải chăng, trong sự vần xoay năm tháng, Nguyên Sa đã tìm
được chính mình khi đi qua “Sân khấu và những sân khấu” trắc ẩn cõi người: “Tôi
thực sự không thích sân khấu, sân khấu rất phiền, đèn đuốc sáng trưng, mình
không thể làm điều mình muốn/ Tôi cũng không thích hậu trường là một sân khấu
khác/ Tôi không thích làm diễn viên, bị khán giả nhìn ngắm, có khi soi mói, mất
tự do kinh khủng/ Nhưng cũng như bóng tối có ánh sáng của nó, im lặng là mặt
bên kia của tiếng nói, khán giả lại là những diễn viên khác/ Còn sân khấu thì
thường trực đổi chỗ”?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét