Ý thức mới trong văn nghệ và triết học 3
7. Tôi chỉ định viết về Apollinaire trong vòng vài ba trang
sơ lược thôi, nhưng không hiểu vì lẽ gì tôi miên man viết mãi mà vẫn thấy chưa
xong và muốn viết dài thêm nữa. Nhưng thôi. Bấy nhiêu cũng tạm gọi là đủ. Trước
khi đặt bút viết, tôi đã đề nhan đề bài này là “Apollinaire, người khai sinh
nguồn thơ hiện đại”. Nhưng khi bắt đầu viết xong chừng vài chục trang tôi chỉ mới
nói sơ sơ đến tâm tình của thi nhân thôi; tôi tham quá; tôi đã định viết về mọi
khía cạnh của Apollinaire nhưng rồi tôi mới thấy rằng không thể tham lam được
và chỉ nên giới hạn việc làm, vì thế tôi đổi nhan đề lại là “Tình yêu trong thơ
Apollinaire”.
Mấy tuần nay tôi đã hạnh phúc (tôi nghĩ rằng tôi đã hạnh phúc) vì
mấy tuần nay tôi chỉ đọc và viết về Apollinaire; trước kia khi còn trẻ, tôi thường
say mê Apollinaire, nhưng mấy năm gần đây, tôi đã bỏ quên Apollinaire. Cuộc đời
đã ném liệng tôi bồng bềnh đây đó. Cuộc đời đã giết hết tất cả tình cảm trong
lòng tôi, khiến tôi bơ phờ, lạnh lùng đi đứng lê thê như một thằng điên hoặc
lang thang tê dại giữa phố phường xa lạ như một con chó ốm. Tôi không còn lắng
nghe tiếng chim. Thỉnh thoảng lâu lâu tình cờ ngước nhìn lên bỗng gặp mây trắng
trên trời lúc bấy giờ tôi mới sực ý thức rằng tôi đã chết giữa cuộc sống; ngày
xưa khi còn trẻ, tôi thường ngắm nhìn mây trắng chơi vơi, say mê đọc thơ, ca
hát vang cả nhà và thường hay mộng mơ ngớ ngẩn, nhưng ngày nay tất cả các thứ ấy
đã hết rồi và khi những thứ ấy không còn nữa thì tâm hồn tôi đã chết lịm giữa
đường đời ngày nay, tôi chỉ là một con người tồi tàn bệ rạc yếu đuối, hết tin
tưởng, hết lý tưởng, hết hiên ngang kiêu hãnh; ngày nay tôi trở thành một kẻ dè
dặt và lo sợ đủ mọi sự, lại hay hoài nghi và bạc nhược. Tuổi thơ hùng mạnh
phách lối ngang ngược đã chết. Tôi mang thể xác tinh thần của người lớn tuổi và
thường sống giả dối. (Giả dối là đặc điểm của tất cả những người lớn tuổi) Ngày
xưa tôi thường khinh chê những kẻ bạc nhược, những kẻ sống lay lắt bệ rạc;
nhưng ngày nay chính tôi lại là kẻ ấy.
Thế rồi những ngày gần đây, bỗng nhiên
tôi gặp lại Apollinaire, tôi gặp lại Apollinaire như gặp lại một người bạn cũ của
đời tôi. Những dòng thơ Apollinaire đã trả tâm hồn xưa lại cho tôi.
Tôi vui sướng.
Tôi cảm thấy yêu đời. Apollinaire đã đem cả một mùa hoa xanh mộng về trả lại
tôi.
Tôi sống lại. Cả vũ trụ sống lại; Tôi bắt đầu ca hát lại. Tôi bắt đầu tìm
thơ đọc lại. Bất cứ bài thơ của thi sĩ nào cũng rung cảm tôi và nhất là tôi bắt
đầu mộng mơ ngớ ngẩn lại như thuở “ban đầu lưu luyến ấy”. Mơ mộng hình ảnh nào
cũng được, ở bên Tây hay bên ta. Không cần nghĩ ngợi có thực hiện được hay
không, chỉ mơ mộng thôi, chỉ có thế thôi là đủ hạnh phúc rồi. Vì đối với tôi, Mộng
và Thực không còn khác nhau nữa. Mộng chính là Thực. Khi Mộng và Thực không còn
khác nhau nữa thì đó chính là Siêu thực. Với trí tưởng tượng phong phú của tôi,
tôi sẽ thu gọn cả vũ trụ vào gian phòng tôi, tôi sẽ hái tất cả hoa thơm trái ngọt
của thiên đàng trong lòng bàn tay, tôi sẽ lang thang ca hát trên những nẻo đường
thế giới, tôi sẽ tươi cười nồng nàn với những Lou, những Laura, những Marie…
Tôi sẽ nhắm mắt lại và mở đôi môi ra uống tất cả những giọt nước cam tuyền của
trần gian.
Vâng, tôi sẽ tha hồ mơ mộng, tôi sẽ tha hồ tưởng tượng. Và khi tỉnh
mộng, tôi sẽ cười vui sướng. Ôi vĩnh biệt hoa niên!… Giã biệt Thanh Xuân, hỡi
hoa Thơm của thời gian, tôi đã thở hương nồng của em.
Jeunesse adieu jasmin du
temps
J’ai respiré ton frais parfum
Hôm nay, tôi đã sống trọn vẹn.
Và xin cảm
ơn linh hồn Apollinaire.
Phụ lục
1. LA JOLIE ROUSSE
Me voci devant tous un
homme plein de sens
Connaissant la vie et de la mort ce qu‘un vivant peut
connaitre Ayant éprouvé les douleurs et les joies de l’amour
Ayant su
quelquefois imposer ses idées
Connaissant plusieurs langages
Ayant pas mal
voygagé
Ayant vu la guerre dans l’ Artillerrie et l’ Infanterie
Blessé à la
tête trépané sous le chloroforme
Ayant perdu ses meilleurs amis dans
l’effroyable lutte
Je sais d’ ancien et de nouveau autant qu’un homme seul
pourrait des deux savoir
Et sans m’inquieter aujourd hui de cette guerre
Entre
nous et pour nous mes amis
Je juge cette longue querelle de la tradition et de
l’ invention
De l’ Ordre de l’ Aventure
Vous dont la bouche est faite à l’
image decelle de Dieu
Bouche qui est l’ Ordre même
Soyes indulgents quand vous
nous comparez
A ceux qui furent la perfection de l’ ordre
Nous qui quêtons
partout l’ aventure
Nous ne sommes pas vos ennemis
Nous voulons vous donner de
vastes et d’ étranges domaines
Ou le mystère en fleurs s’ offre à qui veut le
cueillir
Il y a là des feux nouveaux des couleurs jamais vues
Mille phantasmes
impondérables
Auxquels il faut donner de la réalité
Nous voulons explorer la
bonté contrée énorme où tout se tait
Il y a aussi le temps qu’on peut chasser
ou faire revenir
Pitié pour nous qui combattons toujours aux frontières
De
l’illimité de l’avenir
Pitié pour nos erreurs pitié pour nos péchés
Voici que
vient l’été la saison violente
Et ma jeunesse est morte ainsi que le printemps
O Soleil c’est le temps de ta Raison ardente
Et j’attends
Pour la suivre
toujours la forme noble et douce
Qu’elle prend afin que je l’ aime seulement
Elle vient et m’attire ainsi qu’un fer l’aimant
Elle a l’ aspect charmant
D’
une adorable rousse
Ses cheveux sont d’ or on dirait
Un bel éclair qui durerait
Ou cer flammes qui se pavanent
Dans les roses thé-qui se fanent
Mais riez riez
de moi
Hommes de partout surtout gens d’ ici
Car il y a tant de choses que je
n’ ose vous dire
Tant de choses que vous ne me laisseriez pas dire
Ayez pitié
de moi.
(Calligrammes, 1918)
Tạm dịch:
Đứng trước tất cả các anh đây, tôi là một
con người đủ đầy lương tri
Hiểu biết cuộc đời và hiểu biết về sự chết như tầm
kiến thức thông thường của thiên hạ
Đã trải qua những nỗi đau khổ và những niềm
vui của tình yêu Thỉnh thoảng cũng biết bắt buộc người ta phải theo những ý tưởng
của mình
Thông hiểu nhiều ngôn ngữ
đã du lịch khá nhiều
Đã chứng kiến chiến
tranh trong Pháo binh và Bộ binh
Bị thương nơi đầu, bị mổ xương bằng thuốc mê
chroloforme
Đã mất những bạn bè thân yêu nhất của mình trong trận chiến hãi
hùng
Tôi từng biết về chuyện cổ và kim cũng nhiều như bất cứ một người đơn độc
nào đó có thể biết
được cả hai
Và hôm nay không bận tâm lo lắng trận chiến
tranh này
Giữa bọn mình và đối với chúng mình, hỡi những người bạn của tôi ơi
Tôi xin xét xử cuộc tranh chấp lâu dài giữa Truyền thống và Sáng tạo, giữa Trật
tự và Phiêu lưu.
Các anh mà miệng đã được sáng tạo ra theo hình ảnh Thượng đế
Miệng ấy chính là trật tự rồi
Xin các anh hãy khoan dung khi các anh so sánh
chúng tôi với những con người thiện mỹ của
trật tự.
Chúng tôi đều là những kẻ
đi tìm phiêu lưu ở mọi chân trời
Chúng tôi không phải là kẻ thù của các anh đâu
Chúng tôi đều muốn dâng tặng các anh những lãnh thổ mênh mông xa lạ
Mà nơi đó sự
huyền bí đơm hoa sẽ dâng hiến cho kẻ nào muốn gặt hái nó
Nơi đó có những ngọn lửa
mới, những sắc màu chưa từng thấy, nghìn ảo tượng vô lượng
Mà chúng tôi phải thể
hiện
Chúng tôi muốn thám hiểm cõi thiện, miền cực đại mà nơi đó mọi vật đều im
lặng
Nơi đó cũng có thời gian mà chúng ta có thể đuổi đi hoặc gọi về lại
Hãy
thương chúng tôi, những người đang luôn luôn chiến đấu tại những biên thùy của
Vô hạn và
của Tương lai
Hãy thương những lỡ lầm chúng tôi, hãy thương những tội
lỗi chúng tôi
Giờ đây Hè đang đến, mùa bạo hành
Và tuổi trẻ của tôi chết như
mùa Xuân chết
Hỡi Thái dương, đó là thời gian của Lý trí nồng nhiệt
Để mà theo
đuổi nàng mãi mãi
Tôi chờ đợi
Hình dáng dịu dàng cao quý
Mà nàng đã nhập thể để
tôi chỉ có thể yêu nàng mà thôi.
Nàng đến đây và lôi cuốn tôi như từ thạch hút
sắt
Nàng có vẻ đẹp duyên dáng của một cô gái yêu kiều tóc đỏ
Tóc nàng vàng óng,
người ta sẽ nói thế
Trông như tia chớp trường cửu
Hay như những ngọn lửa tha
thướt
Trong những đóa hồng trà tàn úa
Hỡi mọi người khắp nơi, hãy cười tôi đi,
cười tôi đi, nhất là những người ở đây
Bởi vì có quá nhiều việc mà tôi không
dám kể cho các anh
Quá nhiều việc mà các anh sẽ không để tôi nói đâu
Hãy thương
tôi.
2. LE PONT MIRABEAU
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut - il qu’il m ‘en souvienne
La joie venait toujours après la peine
Vienne
la nuit sonne l’heure
Les jours s‘en vont je demeure
Les mains dans les mains
restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels
regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je
demeure
L’amour s’en va comme cette courante
L’amour s’en va
Comme la vie est
lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours
s’en vont je demeure
Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit
sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
(Acools, 1913)
Tạm dịch
Dưới cầu
Mirabeau sông Seine chảy
Và những mối tình chúng mình?
Anh có nên nhớ lại
chăng?
Niềm vui luôn luôn theo sau nỗi đau đớn
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những
ngày trôi qua, và anh vẫn còn đây
Tay trong tay, mặt hãy nhìn mặt
Đang lúc ấy
Dưới cầu tay chúng mình
Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu
Trôi
chảy qua Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những giờ trôi qua, và anh vẫn còn đây
Tình yêu
trôi đi như dòng nước chảy
Tình yêu trôi đi
Cuộc đời sao quá chậm
Mà hy vọng
quá nhiệt nồng
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua, những tuần trôi qua
Mà thời dĩ vãng
Cùng những mối tình xưa không bao giờ trở lại
Dưới cầu Mirabeau
sông Seine chảy
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua và anh vẫn còn đây.
3. LIENS
Cordes faites de cris
Sons de cloches à travers l ‘Europe
Siècles
pendus
Rails qui ligotez les nations
Nous ne sommes que deux ou trois hommes
Libres de tous liens
Donnons - nous la main
Violente pluie qui pêign les fumées
Cordes
Cordes tissées
Câbles sous-marins
Tours de Babel changées en ponts
Araignées - Pontifes
Tous les amoureux qu‘un seul lien a liés
D‘autres liens
plus ténus
Blancs rayons de lumière
Cordes et Concorde
J ‘écris seulement pour
vous exalter
O sens o sens chéris
Ennemis du souvenir
Ennemis du désir
Ennemis
du regret
Ennemis des larmes
Ennemis de tout ce que j ‘aime encore
(Calligrammes, 1918)
Tạm dịch
Những sợi dây thừng làm thành tiếng kêu
Những tiếng
chuông vang rền khắp Âu châu
Những thế kỷ treo lửng lơ
Những đường rầy trói buộc
những quốc gia
Chúng ta chỉ là hai hoặc ba người
Thoát khỏi mọi ràng buộc
Chúng
ta hãy nắm tay
Những trận mưa mãnh liệt chải tóc khói
Những sợi dây thừng đan dệt
Những hải để [tran1] điện tuyến
Những tháp Babel biến đổi thành những cây cầu
Những
con nhện - Những vị giáo trưởng
Tất cả những tình nhân mà chỉ mỗi một dây liên
hệ trói buộc lại Những mối liên lạc tinh vi khác
Những luồng ánh sáng trắng
Những
sợi dây thừng và Hoàn thiện
Tôi chỉ viết để tán dương các người
Hỡi những cảm
giác thân yêu
Những kẻ thù của ký ức
Những kẻ thù của khát vọng
Những kẻ thù của
hối tiếc
Những kẻ thù của nước mắt
Những kẻ thù của tất cả những gì tôi đang
hãy còn yêu.
4. ZONE
A la fin tu es las de ce monde ancien
Bergère ô tour
Eiffel le troupeau des ponts bêle ce matin.
Tu en as assez de vivre dans
l’antiquité grecque et romaine
Ici même les autômbiles ont l’air d’être
anciennes
La religion seule est restée toute neuve la religion
Est restée
simple comme leshangars de Port - Aviation
Seul en Europe tu n’es pas antique ô
Chirstianisme
L’Européen le plus moderne c'est vous Pape Pie X
Et toi que les
fenêtres observent la honte retient
D’entrer dans une église et de t’y
confesser ce matin
Tu lis les prospectus les catalogues les affiches qui
chantent tout haut
Voilà la poésie ce matin et pour la prose il y a les journaux
Il y a les livraisons à 25 centimes pleines d ‘aventures policières Portraits
des grands hommes et mille titres divers
J’ai vu ce matin une jolie rue don’t
j’ai oublié le nom
Neuve et propre du soleil elle était le clairon.
Les
directeurs les ouvriers et les belles sténo-dactylographes
Du lundi matin au
samedi soir quatre fois par jour y passent
La matin par trois fois la sirène
gémit
Une cloche rageuse y aboie vers midi
Les inscriptions des enseignes et
des murailles
Les plaques les avis à la façon des perroquets criaillent
J’aime
la grâce de cette rue industrielle
Située à Paris entre la rue Aumont-Thiéville
et l’avenue des Ternes
Voilà la jeune rue et tu n’es encore qu’un petit enfant
Ta mère ne t’habille que de bleu et de blanc
Tu es très pieux et avec le plus
ancien de tes camarades René Dalize
Vous n’aimez rien tant que les pompes de
l’Église
Il est neuf heures le gaz est baissé tout bleu vous sortez du dortoir
en cachette
Vous priez toute la nuit dans la chapelle du collège
Tandis
qu’éternelle et adorable profondeur améthyste
Tourne à jamais la flamboyante
gloire du Christ
C’est le beau lys que tous nous cultivons
C’est la torche aux
cheveux roux que n ‘éteint pas le vent
C’est le fils pâle ei vermeil de la
douloureuse mère
C’est l ,arbre toujours touffu de toutes les prières
C’est la
double potence de l’honneur et de l’éternité
C’est l’étoile à six branches
C’est Dieu qui meurt le vendredi et ressuscite le dimanche
C’est le Christ qui
monte au ciel mieux que les aviateurs
Il détient le record du monde pour la
hauteur
Pupille Christ de l’oeil.
Vingtième pupille des siècles il sait y faire
Et changé en oiseau ce siècle comme Jésus monte dans l’ air
Les diables dans
les abimes lèvent la tête pour le ragarder
Ils disent qu’il imite Simon Mage en
Judée
Il crient s’it sait voler qu’on l’appelle voleur
Les anges voltigent
autour du joli voltigeur
Icare Enoch Elie Apollonins de Thyane
Flottent autour
du premier aéroplane.
Ils s’ écartent parfois pour laisser passer ceux que
transporte la Sainte - Eucharistie
Ces prêtres qui montent éternellement en
élevant l’hostie
L’avion se pose enfin sans refermer les ailes
Le ciel s’emplit
alors de millions d’hirondelles
A tire d’aile viennent les corbeaux les faucons
les hiboux
D’Afrique arrivent les ibis les flamands les poètes
Plane tenant
dans les serres le crâne d’Adam la première-tête L’aigle fond de l’horizon en
poussant un grand cri
Et d’Amérique vient le petit colibri
De Chine sont venus
les pihis longs et souples
Qui n’ont qu’une seule aile et qui volent par couples
Puis voici la colombe esprit immaculé
Qu’escortent l’oiseau-lyre et le paon
ocellé
Le phénix ce bûcher qui soi-même s’engendre
Un instant voile tout de son
ardente cendre
Les sirènes laissant les périlleux détroits
Arrivent en chantant
bellement toutes trois
Et tous aigle phénix et pihis de la Chine
Fraternisent
avec la volante machine
Maintenant tu marches dans Paris tout seul parmi la
foule
Des troupeaux d’autobus mugissants près de toi roulent L’angoisse de
l’amour te serre le gosier
Comme si tu ne devais jamais plus être aimé
Si tu
vivais dans l’ancien temps tu entrerais dans un monastère Vous avez honte quand
vous vous surprenez à dire une prière
Tu te moques de toi et comme le feu de
l’Enfer ton rire pétille
Les étincelles de ton rire dorent le fonds de ta vie
C’est un tableau pendu dans un sombre musée
Et quelquefois tu vas le regarder
de près
Aujourd’ hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglantées
C’était et je voudrais ne pas m’en souvenir c’était au déclin de la beauté
Entourée de flammes ferventes Notre-Dame m’a régardé à Chartres
Le sang de
votre Sacré-Coeur m’a inondé à Montmartre
Je suis malade d’ouĭr les paroles
bienheureuses
L’amour dont je souffre est une maladie honteuse
Et l’image qui
te possède te fait survivre dans l’angoisse
C’est toujours près de toi cette
image qui passe
Maintenant tu es au bord de la Méditerrannée
Sous les
citronniers qui en fleurtoute l’année
Avec tes mis tu te promènes en barque
L’un est Nissard il y a un Mentonasque et deux Turbiasques
Nous regardons avec
effroi les poulpes des profondeurs
Et parmi les algues nagent les poissons
images du Sauveur
Tu es dans le jardin d’une auberge aux environs de Prague
Tu
te sens tout heureux une rose est sur la table
Et tu observes au lieu d’écrire
ton conte en prose
La cétoine qui dort dans le coeur de la rose
Epouvanté tu te
vois dessiné dans les agates de Saint-Vit T
u étais triste à mourir le jour où
tu t’y vis
Tu ressembles au Lazare affolé par le jour
Les aiguilles de
l’horloge du quartier juif vont à rebours
Et tu recules aussi dans ta vie
lentement
En montant au Hradchin et le soir en écoutant
Dans les tavernes
chanter des chansons tchèques
Te voici à Marsille au milieu des pastèques
Te
voici à Coblence à l’hôlel du Géant
Te voici à Amsterdam avec une jeune fille que
tu trouves belle et qui est laide
Elle doit se marier avec un étudiant de Leyde
On y loue des chambres en latin Cubicula locanda
Je m’en souviens j’y ai passé
trois jours et autant à Gouda
Tu es à Paris chez le juge d’instruction
Comme un
criminel on te met en état d’arrestation
Tu as fait de douloureux et de joyeux
voyages
Avant de t’apercevoir du mensonge et de l’âge
Tu as souffert de l’amour
à vingt et à trente ans
J’ai vécu comme un fou et j’ai perdu mon temps.
Tu
n’oses plus regarder tes mains et à tous moments je voudrais sangloter
Sur toi
sur celle que j’aime sur tout ce qui t’a épouvanté
Tu regardes les yeux pleins
de larmes ces pauvres émigrants
Ils croient en Dieu ils prient les femmes
allaitent des enfants
Ils emplissent de leur odeur le hall de la gare
Saint-Lazare
Ils ont foi dans leur étoile come les roi-mages
Ils espèrent
gagner de l’argent das l’Argentine
Et revenir dans leur pays après avoir fait
fortune
Une famille transporte un édredon rouge comme vous transportez votre
coeur
Cet édredon et nos rêves sont aussi irréels
Quelques - uns de ces
émigrants restent ici et se logent
Rue des Rosiers ou rue des Ecouffes dans des
bouges
Je les ai vus souvent le soir ils prennent l’air dans la rue
Et se
déplacent rarement comme les pièces aux échecs
Il y a surtout des Juifs leurs
femmes portent perruque
Elles restent assises exsangues au fond des boutiques
Tu es debout devant le zine d’un bar crapuleux
Tu prends un café à deux sous
parmi les malheureux
Tu es la nuit dans grand le restaurant.
Ces femmes ne son
pas méchantes elles ont des soucis cependant
Toutes même la plus laide a fait
souffrir son amant
Elle est la fille d’un sergent de ville de Jersey
Ses mains
que je n’avais pas vues sont dures et gercées
J ‘ai une pitié immense pour les
countures de son vetre
J’humilie maintenant à une pauvre fille au rire horrible
ma bouche Tu es seul le matin va venir,
Les laitiers font tinter leurs bidons
dans les rues
La nuit s’éloigne ainsi qu’une belle Métive
C’est Ferdine la
fausse ou Léa l’attentive
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie
Ta vie que
tu bois comme une eau - de-vie
Tu marches vers Auteuil tu veux aller chez toi à
pied
Dormir parmi les fétiches d’Océanie et de Guinée
ls sont des Christs
d’une autre forme et d‘une autre croyance
Ce sont les Christs inférieurs des
obscures espérances
Adieu A dieu
Soleil cou coupé.
(Alcools, 1913)
Tạm dịch:
Sau
cùng anh cũng chán nản cõi trần gian cũ kỹ này
Hỡi tháp Eiffel, hỡi nàng chăn cừu
ơi, bầy cừu kêu be be sáng nay
Anh đã sống khá nhiều trong thời thượng cổ Hy lạp
và La mã
Ở đây ngay đến những chiếc ô tô cũng có vẻ như cổ kính
Chỉ có tôn giáo
là vẫn còn mới
Và vẫn còn đơn giản như những kho trại ở Port - Aviation
Ở Âu
châu chỉ ngươi là không cổ lỗ, hỡi Ki Tô giáo ơi
Hỡi Đức Giáo Hoàng Pie X, người
Âu châu tân tiến nhất là ngài Và mi mà những cửa sổ quan sát, sự hổ thẹn đã giữ
mi lại, không để mi bước vào nhà thờ và không để mi xưng tội ở đó sáng nay Mi đọc
những tờ giấy cáo bạch, những sổ mục lục, những tờ yết thị ca hát inh ỏi Đó là
thi ca sáng nay và về văn xuôi thì có những tờ nhật báo, những tập sách 25 xu đầy
những truyện trinh thám, đầy hình vĩ nhân và một nghìn chức tước
Sáng nay tôi
đã thấy một con đường xinh đẹp mà tôi đã quên tên đó Mới mẻ và sạch sẽ, con đường
đó là cái kèn của mặt trời
Những ông chủ, những người thợ và những cô thư ký tốc
ký đánh máy xinh đẹp Mỗi ngày bốn lần từ sáng thứ hai đến chiều thứ bảy đều đi
qua con đường đó Ba lần mỗi ngày vào buổi sáng tiếng còi rên rỉ ở đó
Một cái
chuông gắt gỏng sủa ầm lên ở đó vào buổi trưa
Những yết thị, chiêu bài của nhà
buôn ở trên những tấm bảng và trên tường Những tấm bảng, những tấm cáo thị la
réo như con vẹt
Tôi thích nét yêu kiều duyên dáng của con đường kỹ nghệ này Nằm
ở Ba lê giữa đường Aumont-Thiéville và đại lộ Des Ternes Đây là con đường trẻ
trung và mi chỉ là một đứa trẻ con Mẹ mi chỉ cho mi mặc quần áo màu xanh và trắng
Mi rất ngoan đạo và cùng người bạn xưa nhất của mi, tên là René Dalize, mi
không yêu thích gì hơn là vẻ tráng lệ phù hoa của Giáo hội
Lúc ấy là chín giờ,
đèn khí đã hạ thấp và tất cả đều trở nên xanh, anh lẻn đi ra ngoài phòng ngủ một
cách kín đáo
Anh đọc kinh suốt đêm trong nhà nguyện của trường trung học Trong
lúc ấy thì sự thâm sâu màu sắc tía, vĩnh cửu và yêu kiều, sự vinh quang và đỏ rực
của đấng Ki Tô quay vòng mãi mãi
Đó là hoa huệ xinh đẹp mà tất cả chúng tôi đều
trồng
Đó là cây đuốc tóc đỏ mà ngọn gió không thổi tắt
Đó là đứa con trai xanh
xao và đỏ hồng của người mẹ đau khổ Đó là cây luôn luôn rậm rạp với tất cả những
lời kinh
Đó là giàn trụ cột song đôi của vinh dự và vĩnh cửu
Đó là ngôi sao với
sáu nhánh
Đó là Thượng Đế chết ngày thứ sáu và sống lại ngày chúa nhựt Đó là đấng
Ki Tô bay lên trời tài hơn là phi công. Ngài đã đoạt kỷ lục về chiều cao
Đấng
Ki Tô, con ngươi của mắt, con ngươi thứ hai mươi của những thế kỷ, ngài biết
cách vận dụng Và biến đổi thành một con chim, như đức Giêsu, thế kỷ này cũng
bay lên trời Những con quỷ ở hố thẳm ngẩng đầu lên nhìn ngài
Bọn quỷ nói rằng
ngày bắt chiếc Simon, đạo sĩ Judée Bọn quỷ la lên rằng nếu ngài biết bay thì
chúng gọi ngài là kẻ ăn trộm (hay kẻ bay) Những thiên thần bay lượn quanh kẻ
bay lượn xinh đẹp Icare, Enoch, Elie, Apollonius de Thyane Bay lênh đênh xung
quanh chiếc máy bay đầu tiên Họ thỉnh thoảng tránh đường để rộng chỗ cho những
kẻ nào mà thánh thể mang đi qua Những ông thầy cả này bay lên mãi mãi, đang khi
nâng bánh thánh lên cao
Rồi thì máy bay hạ xuống mà không cần xếp cánh
Bấy giờ
bầu trời lan tràn hàng triệu con chim én
Ào ạt bay nhanh tới nơi nào là những
con quạ,
Những con ó, những chim cú
Từ Phi châu bay đến nào là đủ loại hạc
Chim
Róc mà những văn gia thi sĩ đã làm trở nên bất hủ, cũng bay liệng đến bấu víu
cái sọ ông A Dong trong những ngón chân, cái sọ dừa đầu tiên
Con chim Ưng bay
sà xuống từ phía chân trời, kêu la inh ỏi
Và từ Mỹ châu bay đến con chim sâu bé
nhỏ
Từ Trung Hoa bay đến những con chim lạ dài thon yểu điệu Và chỉ có một cánh
và bay từng cặp
Rồi thì bồ câu bay đến, thánh thần tinh khiết, được hộ tống bằng
những con chim thất huyền và con công có khoen tròn lốm đốm
Con phượng hoàng, đống
củi lửa mà nó tự thoát thai, trong một khoảnh khắc, vây phủ mọi vật bằng tro bụi
hừng hực.
Lìa bỏ những eo biển hiểm nghèo, những con nhân ngư cũng đến dự và cả
ba ca hát véo von Và tất cả, chim ưng, phượng hoàng và kỳ điểu ở Trung Hoa đều
kết bạn thân thiết với chiếc máy bay
Bây giờ mi đang đi giữa đô thị Ba Lê, hoàn
toàn cô đơn giữa đám đông thiên hạNhững bầy ô tô buýt rền rĩ chạy lướt gần mi
Nỗi đau quằn quại đau đớn của tình yêu bóp nghẹn cổ họng cơ hồ như là nó sẽ
không nên bao giờ được yêu nữa
Nếu mi sống vào thời xưa mi sẽ xin vào tu viện
Anh cảm thấy hổ thẹn khi anh bỗng tự bắt gặp mình đang đọc kinh Mi tự chế nhạo
mi và tiếng cười mi nổ lẹt đẹt như lửa Địa ngục Những tia lửa của tiếng cười mi
loéóe vàng đáy sâu đời mi Đó là một bức tranh treo trong một bảo tàng luyện đen tối
Và đôi khi mi đi đến nhìn nó thật gần.
Hôm nay mi đang bước đi giữa Ba Lê, những
người đàn bà loang máu Đó là (và tôi không muốn nhớ làm gì nữa) đó là thời tàn
tạ của sắc đẹp Vây quanh bởi những ngọn lửa hừng hực, Đức Bà nhìn tôi ở tại
Chartres Máu của Thánh Tâm người đã tràn ngập tôi tại Montmatre
Tôi đã chán
nghe những lời lành thánh
Tình yêu mà tôi đau khổ chỉ là một cơn bệnh xấu hổ
Và
hình bóng ám ảnh kia đã làm mi sống sót lại trong cơn mất ngủ và trong cơn đau
nhói quằn quại
Hình ảnh ấy cứ luôn luôn lướt qua gần mi
Bây giờ mi đứng bờ biển
Địa Trung Hải
Dưới những cây chanh trổ hoa quanh năm
Với những người bạn mi đi
dạo bằng thuyền
Một người bạn thì ở Nice, một người ở Menton và hai người ở La
Turbie Chúng tôi sợ hãi nhìn những con bạch tuộc ở đáy sâu và giữa rong rêu những
con cá bơi lội, những hình ảnh của đấng Cứu Thế
Mi đang ở trong một cái vườn của
một lữ quán gần thành Prague Mi cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc, một đóa hoa hồng
trên bàn và mi ngắm nhìn con bọ cam nằm ngủ trong lòng hoa hồng, thay vì viết
câu chuyện bằng văn xuôi Bàng hoàng sợ hãi, mi thấy mi in bóng trong những đá
mã não ở Saint Vit Mi buồn bã chán đời lúc mi nhìn mi ở đó
Mi giống như Lazare
hoảng hốt điên cuồng bởi ánh sáng ban ngày Những cây kim đồng hồ ở khu phố Do
Thái chạy ngược lại Và mi cũng thụt lùi ngược lại chậm chạp trong cuộc đời mi
lúc mi bước lên Hradchin, và Vào buổi chiều lúc mi lắng nghe những bài ca Tiệp
khắc vọng lên từ trong tửu quán… Bây giờ mi đang ở Marseille, đứng giữa những
trái dưa hấu… Bây giờ mi đang ở Coblence tại lữ quán Géant Bây giờ mi đang ở La
Mã dưới cây sơn trà Nhật bản
Bây giờ mi đang ở Amsterdam với một cô gái mà mi cảm
thấy xinh đẹp và thực ra cô ấy thì trong xấu
Nàng sẽ lấy một sinh viên ở Leyde
Người ta mướn phòng bằng chữ La tinh cubicula locanta
Tôi nhớ rằng tôi đã ở đó
3 ngày và nhiều như ở Gouda
Mi đang ở Ba Lê nơi phòng dự thẩm
Như một tên tội đồ,
họ quản thúc mi
Mi đã làm những chuyến hành trình đau khổ và vui sướng
Trước
khi để ý đến điều giả ngụy và tuổi tác già nua
Mi đã đau khổ vì tình yêu hồi
hai mươi và ba mươi tuổi
Tôi đã sống như thằng điên và tôi đã đánh mất thời
gian
Mi không còn dám nhìn những bàn tay của mi vào mỗi một phút giây trong đời,
mi đều muốn gục đầu nức nở
Nức nở khóc mình, khóc người mình yêu và khóc tất cả
những gì làm mi kinh hãi Mi nhìn những người di trú nghèo nàn này với đôi mắt
rưng rưng nước mắt Họ tin thờ Thượng Đế. Họ đọc kinh cầu nguyện
Những người đàn
bà cho con bú sữa
Họ làm cho nhà ga Saint - Lazare man mác mùi hôi của họ
Họ
tin thờ ngôi sao họ như ba vua đạo sĩ
Họ mong làm ăn được ở A Căn Đình
Và trở về
quê hương họ khi đã làm giàu
Mỗi một gia đình mang theo một cái mền nhung mao đỏ
như anh mang trái tim anh Cái mền nhung mao ấy và những giấc mộng của chúng ta
cũng đều hư ảo Và người di trú ở lại đây và cư ngụ tại đường Hoa Hồng hay đường
Des Ecouffes trong những túp lều bệ rạc
Tôi thường gặp họ vào buổi chiều lúc họ
hóng mát trên đường phố và như những quân cờ, họ ít khi di động Họ phần lớn đều
là người Do Thái; những người đàn bà mang tóc giả, họ vẫn ngồi xanh xao tiều
tụy ở cuối hiệu buôn
Mi đứng trước quầy hàng rượu bẩn thỉu
Mi uống một tách cà phê
rẻ tiền, cùng với những người nghèo khổ bạc mệnh Lúc ấy là ban đêm mi ở trong một
hiệu ăn
Những người đàn bà này không bần tiện nham hiểm mặc dù họ sống với nhiều
lo âu phiền muộn Họ đều làm tình nhân họ đau khổ, dù là kẻ xấu xí nhất
Người
đàn bà ấy là con gái của một bác cảnh sát Jersey
Những bàn tay nàng (mà tôi
chưa từng thấy trước kia) đều cứng và nứt nẻ Tôi rất thương hại những đường nhăn
ở bụng nàng
Bây giờ tôi hạ thấp miệng tôi với một cô gái nghèo nàn có tiếng cười
kinh hãi Mi chỉ một mình cô đơn và buổi sáng sắp đến
Người bán sữa làm khua động
những thùng sữa trên đường phố Đêm tàn và lướt đi như nàng Métive tuyệt trần Đó
là Ferdine hư ngụy hay Léa chuyên tâm ân cần
Và mi uống ly rượu này đốt cháy
như cuộc đời mi
Cuộc đời mi mà mi uống cơ hồ như rượu mạnh
Mi bước về xóm
Auteuil.
Mi muốn đi bộ về nhà
Và nằm ngủ giữa những ngẫu tượng đem từ miền
Océanie và Guinée Những ngẫu tượng ấy là những đấng Ki Tô theo hình thể khác và
theo tín ngưỡng khác Đó là những đấng Ki Tô nhỏ bé của những hoài vọng đen tối
Giã từ Giã từ
Mặt trời bị cắt cổ.
Chương tám
Ý thức chấp nhận - Charles Chaplin và tâm hồn nghệ sĩ
Con thú vật đau khổ nhứt ở trần gian này là con thú đã tạo ra
tiếng cười.
Nietzsche (Volonté de Puisance, c. II, tr. 368)
1.
Bản “Limelight” của Charles Chaplin là bản nhạc của Tuyệt Đối, tiếng ca vút trời
thăm thẳm của một tâm hồn cô độc nhất trần gian. Nhân loại này còn đau khổ thì
điệu nhạc “Limelight” tuyệt vời vẫn còn sống để tha thiết nuôi dưỡng xoa dịu nỗi
đau đớn câm lặng khôn cùng của những con người vô danh ở dưới mọi phương trời.Tôi chưa xem phim Limelight của Charles Chaplin, nhưng cần gì xem
phim ấy nữa, khi mà mình đã nghe điệu “Limelight” bất tuyệt trong đời mình và
qua điệu nhạc triền miên u ẩn ấy, mình đã cảm thấy hết tất cả những bi kịch xót
xa nhất của con người, mình đã quì ôm sự đau khổ trong mười ngón tay nước mắt,
mình đã run run khi nghe thời gian trôi đi miên man trong gió đời heo hút và nhất
là trong một đêm khuya vô định nào đó, mình đã chợt bắt gặp một giòng sông xa
xôi trong đôi mắt của một người ca sĩ giữa một đêm vui sắp tàn rồi cuộc đời sẽ
đi vào lãng quên, khi mà ánh đèn đã tắt, khi mà người nghệ sĩ đã trở về già?Mỗi khi nhắc đến tên Charles Chaplin là tôi run run nói không ra lời, cũng như
mỗi khi nghe nhắc đến Henry Miller hay Nijinsky hay Blaise Cendrars hay Van
Gogh.Charles Chaplin. Charles Chaplin… Tên người gợi lên một mùa Thu, tên người gợi
lên một mùa Đông, tên người gợi lên một mùa Xuân…Tôi nghe người ta kể lại rằng vở Limelight nói lên tâm hồn bất diệt của
một anh hề già, mặc dù đã bị đời lãng quên và sống bần cùng trong đói khổ và
tuyệt vọng, nhưng vẫn tha thiết thương yêu cuộc đời.Anh hề già này cứu một vũ nữ khỏi tự tử và mặc dù chính anh cũng là một kẻ tuyệt
vọng chán đời, anh vẫn cố gắng hết sức an ủi, khuyến khích, gây tin tưởng cho
cô vũ nữ trẻ đẹp này. Chính những cử chỉ của anh đã khiến nàng trở nên yêu đời,
tin tưởng mình. Rồi nàng trở lại cuộc sống, nhảy múa như xưa, chẳng bao lâu
nàng bước lên tuyệt đỉnh của thành công và danh vọng; đang khi đó thì anh hề
già tóc trắng chìm vào trong đêm tối, bị người đời quên lãng: thế rồi một hôm,
đang lúc nàng vũ nữ trẻ đẹp vui tươi nhảy múa thì anh hề già gục chết âm thầm
dưới ánh đèn sân khấu, không một ai hay biết.Điệu đàn “Limelight” vây phủ trọn vở kịch: những kẻ nào chưa may mắn được xem
phim, chỉ cần lắng nghe điệu nhạc “Limelight” là cũng cảm được những gì mà ngôn
ngữ không thể nói lên được.Đó là tiếng chấp nhận cuộc đời, chấp nhận một cách trọn vẹn: cuộc đời càng
tuyệt vọng, càng đen tối thì lại càng trở nên có ý nghĩa và lại càng đáng sống.Tôi chỉ có thể sống nổi, khi tôi đau khổ. Càng đau khổ thì càng thấy rằng cuộc
đời đẹp hơn.Không sợ sống
Not to be afraid to be alive (Charles Chaplin)
Charles Chaplin đã nói lên một chân lý tuyệt vời nhất của cuộc
đời:
KHÔNG SỢ SỐNG
NOT TO BE AFRAID TO BE ALIVE
Tôi phải lặp lại câu nói trên đến lần thứ hai và nếu cần thì cũng có thể lặp lại
một triệu lần; mỗi tối trước khi đi ngủ và mỗi sáng trước khi thức dậy, chúng
ta cần phải nói thầm câu trên, nói đi nói lại nhiều lần như một tín đồ Tịnh Độ
tông niệm Phật hay một tín đồ Hésychaste niệm Chúa…Chúng ta đã sợ sống, đó là lý do tại sao chúng ta đã đau khổ. Chỉ khi nào chúng
ta không còn sợ sống nữa thì lúc ấy chúng ta mới được giải thoát, Charles
Chaplin đã thể hiện câu “không sợ sống” bằng chính cuộc đời mình.Cả tuổi trẻ của Charles Chaplin là những chuỗi ngày đau đớn tủi nhục nhất của một
đời người; Charles Chaplin đã từng sống trong đói rét, đã đi làm lụng cực nhọc
ngay từ lúc chưa đầy mười tuổi, đã chứng kiến những nỗi đau khổ lớn lao nhất đời
ngay từ lúc Charles Chaplin chỉ là một đứa trẻ nhỏ ngây thơ. Mới 5 tuổi,
Charles Chaplin đã bị mẹ đem bỏ ở viện mồ côi, vì bà không có tiền mua thức ăn
cho con. Ở viện mồ côi, mặc dù mới 5 tuổi, Charles Chaplin đã trải qua những
kinh nghiêm bẽ bàng nhất, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, thỉnh thoảng vẫn bị
đánh đập mắng chửi tàn nhẫn; và trong hai năm trời ở viện mồ côi, Charles Chaplin
cũng ít được mẹ đến thăm. Đến năm bảy tuổi, cậu bé mới được mẹ đem về nhà để sống
những ngày lang thang tủi cực nghèo đói, thường đi rong ăn mày ở những đường phố
vỉa hè. Sau này, Charles Chaplin đã nhắc lại cho con trai nghe về quãng thời
gian ấy: “Con phải tin tưởng nơi con, con ạ. Đó là sự huyền bí kỳ diệu. Ngay đến
lúc mà cha bị bỏ ở viện mồ côi hay lúc mà cha đi rong hoang đàng ở những đường
phố để kiếm chút ít đủ ăn để sống qua ngày thì ngay những lúc đó, cha vẫn tự
nghĩ rằng cha là một kịch sĩ vĩ đại nhất ở thế giới. Cha phải cảm thấy sự phong
phú triền miên ấy thoát ra từ lòng tự tin mãnh liệt, sự tin tưởng hoàn toàn nơi
chính bản thân mình. Không có lòng tự tin ấy, con sẽ kiệt quệ đầu hàng
ngay” (You have to believe in yourself, that’s the secret. Even when I was
in the orphanage, when I was roaming the streets trying to find enough to eat
to keep alive, even then I thought of myself as the greatest actor in the
world. I had to feel that exuberance that comes from utter confidence in
yourself. Without it you go down to defeat) (Charles Chaplin, Jr., My
father Charles Chaplin, tr. 11).Charles Chaplin không sợ sống, chẳng những thế, ông đã sống trọn vẹn nhất, bi
tráng nhất. Mặc dù cuộc đời mình chỉ gồm toàn những nỗi đau khổ bất tận, thế mà
Charles Chaplin cũng đã làm hề (làm Charlot) để tạo Niềm Vui, gây ra tiếng cười
ở khắp mọi phương trời.Hình ảnh Charlot đã đi vào lịch sử, đi vào Nghệ thuật. Élie Faure (cũng một
thiên tài lạ thường) đã so sánh thiên tài Charles Chaplin với thiên tài
Shakespeare (cf. J. Mitry, Charlot et la “Fabulation” chaplinesque, tr.
22, éditions universitaires. 1957).Có người đã cho rằng Charles Chaplin là một bậc thánh, một loại thánh đứng
ngoài vòng giáo đường, ngoài lề luật. Jean Duviyau nói về Charles Chaplin như
sau: “Dưới hình ảnh của anh hề người ta thấy ẩn hình ảnh Jésus; dưới nét mặt của
một anh hề làm trò cười, người ta thấy một người chịu đóng đinh để cứu vớt nhân
loại” (Jean Duvigaud, “Le Mythe Chaplin” trong Critique, Juillet
55).Elie Faure là một thiên tài vô danh của văn học Pháp, là một nhà thẩm mỹ học đại
tài nhất thế giới, đã ca tụng Charles Chaplin là “một thi hào vĩ đại, nhà thơ
duy nhất của thời đại này đã nhìn đời dưới khía cạnh hùng tráng, một cách thường
xuyên và đầy ý thức”.Charles Chaplin đã chiến thắng được sự đau khổ vô hạn của đời mình, đã làm cuộc
đời mình trở thành một bản đàn bất tuyệt, đã sáng tạo ra Niềm Vui vô hạn cho
Nhân loại. Suốt đời, Charles Chaplin vẫn say sưa hăng hái:Ca ngợi Tình Thương giữa loài người;
Chống đối chiến tranh;
Chống đối chính trị;
Chống đối đời sống kỹ nghệ máy móc.
Charles Chaplin đã bao lần kêu gọi chúng ta: “Các anh không
phải là những cái máy! Các anh không phải là thú vật! Các anh là người! Các anh
mang tình thương nhân loại trong tim các anh!” (cf. Pierre Leprohon, Charles
Chaplin, trang 183, Nouvelles Editions Debresse).Một điều đáng để ý là Charles Chaplin rất ca ngợi Nijinsky (Nijinsky là một nghệ
sĩ vũ sư người Nga, một thiên tài kỳ lạ, sau này trở nên điên; Nijinsky cũng là
bạn thân của Charles Chaplin). Đáng để ý nhất là Charles Chaplin rất say mê
Spengler và bộ Sự suy tàn của Tây phương; Charles Chaplin cũng say mê
Nietzsche, Emerson, và Schopenhauer. Einstein là bạn thân của Charles Chaplin,
lúc sinh thời, Einstein thường đến nhà Chaplin và hai thiên tài cùng đàn vĩ cầm
chung nhau.
2.
Nói đến Charles Chaplin thì biết nói gì bây giờ, ngoài ra chỉ nói rời rạc như
trên?
Charles Chaplin, tôi gọi tên người như gọi tên một rừng chim lạ, như gọi tên
giòng sông Danube xanh màu đại dương.
Và sau cùng, tôi muốn trích lại đây lời của thi sĩ Blaise Cendrars nói về
Charles Chaplin, một thiên tài nói về một thiên tài:
“Đặc tính của con người là mất, là chết. Chúng ta hãy gấp lên mà cười hết mọi sự.
Cảm ơn Charlot!” [2].
Hãy cười tất cả mọi sự!
Cười trước sự đau khổ, cười trước sự chết, cười trước tất cả những tủi nhục phũ
phàng của đời sống.
Đó là con đường giải thoát duy nhất cho sự đổ vỡ hiện nay của nhân loại. Đó là
đạo lý cuối cùng của con người không sợ sống; chúng ta có nên đưa Charlot lên
ngôi Thượng đế?
Chương chín
Ý thức siêu thể - Linh hồn Faulkner và siêu hình học thời gian của Jean-Paul
Satre và Aldous Huxley
1.
Tôi vừa được được tin Faulkner từ trần.
Năm vừa qua, Hemingway, Céline đã lìa đời; năm nay lại đến Faulkner… Những
thiên tài vĩ đại lần lượt dắt nhau từ bỏ trần gian hiu quạnh này mà trở về lòng
đất.
Tôi nghe tin Faulkner chết mà tâm hồn tôi vẫn không xao động; bởi vì Faulkner vẫn
mãi mãi sống mãnh liệt trong lòng chúng tôi, trong lòng người trẻ tuổi hôm nay.
Linh hồn Faulkner vẫn đứng bên cạnh chúng tôi (cũng như linh hồn bất diệt của
những thiên tài khác như Nietzsche, Dostoievsky, Eugene O’Neill, Melville,
Rimbaud, vân vân.)
Tuổi trẻ chúng tôi đã được che chở dưới những hình ảnh hiên ngang của những con
người dị thường ấy; tâm hồn chúng tôi đã được nuôi dưỡng trong tâm tình máu lệ
của họ.
Trong những lúc thất vọng đau đớn chán nản khắc khoải xao xuyến, chúng tôi đã
tìm đến Faulkner (cũng như đã tìm đến Henry Miller, Saroyan,
Hermann Hess, vân vân) chúng tôi tìm đến chỗ nương náu, nơi trú ẩn để tránh những
cơn bão loạn phũ phàng của tâm hồn, để thấy rằng còn có những kẻ khổ như chúng
tôi hoặc khổ hơn chúng tôi, để ý thức rõ thêm rằng cuộc đời quá tàn nhẫn bi
đát, rằng con người vĩ đại, bất diệt bởi vì con người đã chịu đựng được sự đau
khổ phi lý vô nghĩa của cuộc đời mình, rằng tình thương vẫn đơm hoa nở trái
trên nấm mồ nhân loại, rằng không có gì có thể phá hủy được trái tim con người,
rằng con người sẽ chiến thắng được tất cả mọi nỗi đau đớn trên đời này.
Đừng bao giờ sợ hãi. Cứ lên tiếng tranh đấu cho chính trực, cho sự thực và lòng
thương xót trắc ẩn để chống lại bất công láo khoét và tham bạo. So, never
be afraid. Never be afraid to raise your voice for honesty and truth and
compassion, against injustice and lying and greed. Những lời thiết tha ấy
của Faulkner vẫn văng vẳng bên tai chúng tôi và chúng tôi không bao giờ quên được
lời Faulkner khi nhận giải Nobel, những lời đơn sơ chứa đựng những chân lý ngàn
đời của con tim như tình yêu, danh dự, hãnh diện, hy sinh, can đảm, chịu đựng
và lòng trắc ẩn, xót thương…
Những tiếng giản dị quá tầm thường ấy đã trở thành thâm trầm sâu sắc thấm thía
bởi vì những tiếng ấy đã được thốt ra từ đôi môi cháy bỏng của một người đã sống
qua “một mùa ở hỏa ngục”.
2.
Ở dưới đây chỉ là những ghi chú tôi đã viết trong những lúc tiếp xúc với tâm
tình tư tưởng của Faulkner. Đối với một thiên tài quá phức tạp như Faulkner,
tôi không thể nào dám có những nhận định, tôi chỉ có thể đưa ra những ghi
chú, nghĩa là những cảm tưởng nhất thời mà thôi. Tôi không muốn sắp xếp những
ghi chú trên theo thứ tự thời gian hoặc theo thứ tự đề tài, bởi vì nói đến “ghi
chú” là nói đến tản mác, rời rạc, tạm bợ, chưa hết, chưa xong; nếu những
ghi chú mà được sắp xếp thứ tự, được hệ thống hoá đàng hoàng thì ta không gọi
đó là “ghi chú” nữa; ta gọi một tên khác.
3.
Tôi không bao giờ quên được giọng rên xiết thê thảm của Benjy, ”tiếng than trầm
trọng tuyệt vọng của tất cả những nỗi đau đớn câm lặng dưới ánh mặt trời” (the
grave hopeless sound of all voiceless misery under the sun), bàn tay của Dilsey
vuốt ve trên mái tóc của Benjy và đoá hoa đã tan nát nhưng đôi mắt Benjy trống
rỗng, xanh lơ và bình lặng; những lời giảng kinh từ giáo đường da đen vẫn đời đời
vẳng đến tai tôi: Chúng giết Ta để các con có thể sống lại; Ta chết để những
kẻ nào thấy và tin tưởng sẽ không bao giờ chết nữa” (Dey kilt Me da ye
shall live again; I died dat dem whut sees en believes shall never die).
Tôi sẽ nhớ mãi hai dòng nước mắt của người đầy tớ da đen già yếu (Dilsey), hai
giọt nước mắt đau thương của một kẻ đã xót xa chứng kiến buổi ban đầu và buổi tận
cùng của thế hệ (I’ ve seed de first en de last… I seed de beginnin, end now I
sees de endin).
Faulkner đã để lại hai hình ảnh bất diệt: Benjy và Dilsey, một người da trắng
khùng ngốc và một người da đen nghèo khổ, hai hình ảnh lý tưởng của sự Hồi
Sinh nhân loại.
4.
Không thể hiểu được Faulkner.
Trước khi đọc tác phẩm của Faulkner, cần phải đọc lại Thánh kinh, ta mới hiểu
được hoả ngục của Faulkner. Faulkner là một tiên tri của thời đại đổ vỡ này
(như Strindberg, Henry Miller, Dostoievsky…)
Ở trước, ở sau, ở chung quanh những giòng chữ của Faulkner, sương khói huyền bí
thiêng liêng vây phủ: ta thoáng nghe tiếng khóc thê thảm của những oan hồn; ta
thoáng nghe tiếng nói xa xôi mơ hồ: tiếng kêu ơi ới của những con người lạc đường
mất hướng trong đêm mưa bão loạn: nhiều lúc ta lại bất chợt rùng mình ớn lạnh
vì bỗng nhận ra tiếng kêu ơi ới bi thảm ấy là tiếng kêu của chính ta: những con
người lạc lõng trong đêm khuya giá buốt ấy không phải là ai cả mà là chính ta…
Và trong đêm tối rùng rợn ấy, trong hố thẳm sương mù ấy, ta chợt run lên, vì
linh giác cảm thấy sự Hiện Diện huyền bí của Siêu Thể giữa cơn tuyệt vọng vô hạn
phủ đầy Hư Vô.
(10-X-1960)
5.
Những tác phẩm máu lệ của một đời người đã thai nghén trong nỗi xót xa ray rứt
và mồ hôi nhầy nhụa của tâm thức tê dại - từ những chất liệu lạ lùng nhất của
tâm hồn; những tác phẩm ấy có phải là những “hiện tượng thiên nhiên”, những
hòn đá hay những cây trơ trơ xuất hiện ra ở đó để cho người ta
đem thông minh mà phân chia định loại với giọng điệu thông thái của triết gia nhà
nghề? Như là điệu xô bồ của Jean-Paul Sartre khi bàn luận về Faulkner, chẳng hạn.
Faulkner là một con người không có trí thông minh, ông không có đầu
mà chỉ có một trái tim. Đi đến Faulkner, ta đừng nên lấy thông minh của ta mà
tìm kiếm thông minh của Faulkner: ta sẽ không bao giờ tìm được gì cả. Ta hãy lấy
trái tim của ta ra và cầm lấy trái tim ấy trong lòng hai bàn tay, rồi bước đi
tìm kiếm Faulkner: giữa đêm tối hoang vu, một linh hồn sẽ gặp một linh hồn.
(12-X-1960)
6.
Ý nghĩa của tác phẩm Faulkner?
Không có ý nghĩa gì cả. Ý nghĩa ấy là chữ “không”. Đó chỉ là một câu chuyện của
một anh khùng ngu dại, ồn ào và đầy thịnh nộ, chẳng có ý nghĩa gì cả. Full
of sound and fury…
Faulkner chỉ là một người khùng ngu dại.
Những kẻ nào sáng suốt thông minh, khôn ngoan không nên tìm đến
Faulkner. Tìm đến sẽ thất vọng, sẽ bực mình khó chịu ngột ngạt, bởi vì chung
quanh chỉ toàn là tiếng rên ồn ào đầy thịnh nộ, chẳng có ý nghĩa gì cả.
Chỉ những kẻ nào ngu dại điên khùng ngây thơ mới tìm đến Faulkner.
Những kẻ tội lỗi, những tù nhân, những trẻ nít, những gái giang hồ, những kẻ thất
bại, những người ngu si dốt nát, những kẻ lập dị, những người khùng, những kẻ hồn
nhiên khờ dại vụng về, những kẻ lạc hậu nhà quê, những người không có quê
hương,những kẻ sắp tự tử, những người chưa có quan niệm gì về văn nghệ, những kẻ
không biết tư tưởng, những kẻ vô trách nhiệm, những người lạc lõng cô đơn, những
kẻ bị xã hội ruồng bỏ, bị đời khinh chê, nói tóm lại là những người có
linh hồn, chỉ những người này là có thể hiểu cảm được Faulkner.
Đó là ý nghĩa của tác phẩm của ông.
(8-X-1961)
7.
Đừng đem thông minh lý trí đến tìm Faulkner. Hãy đem trái tim. Hãy đem
tâm hồn. Một tâm hồn sẽ gặp một tâm hồn; tâm hồn này sẽ dẫn dắt tâm hồn kia
cùng nhau bước đi trong đêm tối phũ phàng; con đường dài thăm thẳm, gió rít ghê
rợn, buốt lạnh bám vào xương da, tay chân run lẩy bẩy, răng cọ nghiến vào nhau,
tóc bay rối tung, miệng thở mệt mỏi, mấy bàn chân vẫn bước đi; tâm hồn này
nương vào tâm hồn kia, dựa vào, ngả vào, kề vào, ghé vào, để bớt cô đơn, để được
nâng đỡ đôi chút, để được thêm sức lên mà cùng nhau bước đi, tiếp tục bước đi,
lòng chứa chan hy vọng và kiên nhẫn và can đảm và hãnh diện và vinh dự, trượt
té bao lần mà vẫn cố gắng đứng dậy và tiếp tục bước đi, đi mãi đi hoài trên con
đường gió lộng, mưa rơi sương khuya mù mịt, lê bước, lầm lũi bước, cố gắng bước,
mạnh bước trên con đường nhầy nhụa, lầy lội, bẩn thỉu, dơ dáy, gai góc, đen tối,
rướm máu, con đường vô tận mà người ta gọi là con đường đời.
(8-X-1961)
8.
Cả một đời người gần ba mươi tác phẩm, Faulkner muốn gửi gắm những gì cho thế hệ
chúng ta? Từ tập thơ đầu tiên The Marble Faun đến những quyển tiểu thuyết
cuối cùng đầy sương mù ám phủ, Faulkner muốn nói gì? Tại sao Faulkner cứ viết
văn rắc rối, hỗn độn, dài dòng, lê thê, lung tung, đen tối, nặng nề? Tại sao tất
cả những quyển tiểu thuyết của Faulkner đầy tràn những kẻ giết người, những tù
nhân, những kẻ loạn luân, những con người rừng rú man rợ, những thằng khùng, những
gái đĩ, những mụ già, những ông già, những nông dân, những người đầy tớ, những
mọi da đỏ, những người Mỹ da đen? Tại sao người lính kia từ trận địa xa xôi trở
về quê hương để mà vất vưởng xa lạ bơ phờ lạnh nhạt? (Soldiers’ Pay). Tại
sao hành động lại quan trọng hơn những lời, những tiếng? (Mosquitoes). Tại sao
Bayard Sartoris lại lầm lì yên lặng hàng giờ và sống lạnh lùng khô khan, không
vui, không buồn, vô tình trơ trơ? Để Narcissa phải tìm đến Horace Benbow? (Sartoris).
Tại sao Darl phải khùng, phải điên? (As I lay dying). Popeye tượng trưng cho
cái gì? Tại sao Temphe Drake luân lạc lầu xanh ba chìm bảy nổi như nàng Kiều? (Sanctuary).
Tại sao Joe Christmas muốn tự nhận mình là một kẻ da đen? Tại sao cuộc đời đã
phũ phàng mà người ta vẫn gây phũ phàng thêm và không bao giờ dung thứ những sự
yếu đuối của con người? (Light in August). Tại sao Henry lại giết Charles?
Tại sao không thể nhận người da đen như là một con người, một kẻ ngang hàng với
mình? (Absalom, Absalom!). Tại sao nàng chết và để chàng bơ vơ tù tội? (The
Wild Palms). Tại sao người lại trở về lại nhà tù và tìm hạnh phúc trong triền
phược? (The Old Man). Con gấu Old Ben tượng trưng cho cái gì? (The Bear). Tại
sao phải tìm giải thoát trong đau khổ? (Requiem for a Nun). Tại sao Benjy cứ
mãi rên siết, tru tréo khóc rống suốt cả một quyển sách? (The Sound and the
Fury). Tại sao tôi cứ hỏi “tại sao” mãi mà vẫn không hết? Một ngàn câu hỏi, mấy
ngàn câu hỏi vẫn lăn tăn trong đầu tôi, trong óc tôi, trong lòng tôi, trong ý
thức và nhất là trong tiềm thức, lúc đi, lúc đứng, cũng như lúc ngủ.
The Sound and the Fury là tác phẩm mãnh liệt huyền bí nhất của Faulkner;
chúng ta hãy ghé lại đây và đi vào để nhìn những đống gạch đổ nát hoang tàn của
thời đại. Rồi tìm thử trên sự đổ vỡ điêu linh ấy có còn một đóa hoa nào mọc lên
hay không?
Đọc hết quyển The Sound and the Fury, tôi sửng sốt ngạc nhiên nhận ngay rằng
tôi đã đi vào một thế giới phũ phàng đen tối vô cùng; thế mà không hiểu sao
trong một thế giới như vậy tôi lại thấy đầy chim, nhái, bướm, cây, hoa, bầu
trời, hoa kim ngân… Faulkner viết những trang văn quá thác loạn tàn nhẫn
như thế, mà vẫn không bao giờ quên một tiếng chim kêu hay một con bướm vàng hoặc
mùi thơm ngây ngất của hoa kim ngân. Đó là một điều lạ. Tại sao những nhà phê
bình không thấy điều ấy?
Điều lạ thứ hai: ngoài những tiếng rên siết khóc rống, đau thương của một anh
khùng da trắng, tôi lại nghe những tiếng hát lanh lảnh của những người đầy tớ
da đen (chương đầu và nhất là chương cuối) hay là trong lúc những người da trắng
ruột thịt cùng máu mủ với nhau mà lại cấu xé hành hạ lẫn nhau, trong lúc ấy thì
từ một ngôi nhà thờ của người da đen tôi nghe tiếng hát vẳng lên như muốn đưa tất
cả những nỗi khổ ngàn năm của con người lên tới Siêu thể; ở chương cuối, tôi thấy
bà cụ già đầy tớ da đen (Dilsey) vừa dọn cơm vừa hát đi hát lại những giòng
thánh ca đầy nước mắt trong bầu không khí hoang vắng tịch mịch của một gia đình
da trắng đổ nát tang thương.
Điều lạ thứ ba: tôi nghe biết bao nhiêu lần những câu như “chị Caddy có mùi
thơm như cây lá” (She smelled like trees) “Chị Caddy có mùi thơm như lá cây”
(Caddy smelled like leaves). “Chị Caddy có mùi thơm như cây lá dưới mưa” (Caddy
smelled like trees in the rain). Tôi đã được nghe đi nghe lại những câu trên
không biết bao nhiêu lần. Caddy là ai? Caddy là một cô gái xinh đẹp đa tình, khả
ái, thông minh, lẳng lơ, số kiếp long đong trôi nổi, bị gia đình từ bỏ, sống
giang hồ luân lạc; những điều ấy khiến tôi cảm thấy thương Caddy như thương một
người con gái thực sự ở đời (chứ không phải như một nhân vật tiểu thuyết).
Ba điều trên là ba điều lạ lùng nhất. Đọc xong tác phẩm The Sound and the
Fury mà không bị ám ảnh ba điều trên thì ta nên gấp sách lại, đừng đọc lại
nữa, vì có đọc nữa ta cũng không hiểu gì hết và sẽ thất vọng chán chường (như
Sartre, Sean O’Faolain đã thất vọng…)
Những nhân vật chính trong quyển The Sound and the Fury là gia đình
Compsons và những người đầy tớ da đen.
Gia đình Compsons gồm có Quentin, Caddy, Jason, Benjy, Quentin (con gái của
Caddy, trùng tên với cậu).
Những người đầy tớ da đen là Dilsey và Roskus (chồng của Dilsey), cùng những đứa
con là Versh, T.P. và Frony, rồi đến Luster (con trai của Frony).
Quentin sinh vào khoảng 1890; Caddy (hay Candace) sinh vào khoảng 1892; Jason
sinh khoảng 1894 và Benjy (hay Benjamin hay Maury) sinh khoảng 1895. Quentin,
Jason, Benjy là trai, chỉ có Caddy là gái.
Quentin là sinh viên trường đại học Harvard tự tử ngày 2 tháng 6, 1910, vì
đau buồn chán đời và nhìn thấy những cảnh đổ vỡ thối tha của gia đình.
Caddy chửa hoang, nên theo mẹ đi nơi khác, lấy chồng vào ngày 25-4-1910
(nàng lấy Sidney Herbert Head); một năm sau, bị chồng đuổi, nàng đem con gái đầu
lòng về cho cha mẹ nuôi, rồi bỏ đi biệt (nàng bị bà mẹ từ bỏ); đứa con gái của
Caddy tên là Quentin, trùng tên với cậu (Caddy muốn hồi tưởng kỷ niệm tên anh).
Jason là một con người bần tiện xấu xa và tàn nhẫn; Jason thù ghét anh, chị
và em, rồi đến cả cháu là Quentin (con gái Caddy), Jason cũng thù ghét và tìm
cách hành hạ đủ điều. (Thời đại này lố nhố đầy những Jason).
Benjy là đứa em út, thương yêu chị Caddy lắm. Benjy thì ngốc khùng, bị anh
Jason đem đi hoạn vào 1913 và lúc bà mẹ chết rồi, Jason đem Benjy bỏ vào nhà
thương điên năm 1933. Benjy ngây ngô như một đứa bé.
Quentin là con gái của Caddy, người ta không biết tên cha là ai (có lẽ cha
là Dalton Ames); tính tình Quentin giống mẹ, cũng lẳng lơ lãng mạn phóng túng,
bị cậu Jason thù ghét hành hạ đủ điều, sau bỏ nhà trốn đi mất (Truyện chấm dứt
lúc Quentin trốn đi).
Trong những người đầy tớ da đen của gia đình Compsons, đáng để ý đặc biệt nhất
là Dilsey, một bà cụ già ốm yếu, đã ở với gia đình Compsons đến ba đời.
Trước khi đọc quyển The Sound and the Fury, ta cũng nên lưu ý một điểm nhỏ:
trong sách có rất nhiều nhân vật trùng tên với nhau, như có hai người tên
là Jason (một ông cha và người kia là con trai, em của Caddy); hai
người tên là Quentin (một ông cậu, tức là anh của Caddy và người kia
là cô cháu, tức là con gái của Caddy); hai người tên là Maury (một là
ông cậu và người kia là cháu, anh khùng, em út của Caddy).
Ngoài ra Caddy còn có tên là Candace; và Maury (anh khùng) sau này đổi tên lại
là Benjy (hay Benjamin).
Quyển The Sound and the Fury gồm có 4 chương hay 4 phần:
Phần I: ngày 7-4-1928; độc thoại nội tâm của Benjy (anh khùng)
Phần II: ngày 2-6-1910; độc thoại nội tâm của Quentin (anh sinh viên
đại học).
Phần III: ngày 6-4-1928; độc thoại nội tâm của Jason (tên bần tiện)
Phần IV: ngày 8-4-1928; tác giả tả về Dilsey và thuật lại việc Jason rượt
bắt cô cháu Quentin.
Phần I: (độc thoại nội tâm của Benjy). Tôi đi vào trong ý thức của một anh
khùng ba mươi tuổi. Chỉ nội trong một ngày (7-4-1928), tất cả những biến cố quá
khứ cũng như hiện tại đã xảy ra hỗn độn trong ý thức Benjy; ý thức của Benjy mới
ở hiện tại, rồi bỗng dưng nhảy vào quá khứ, rồi từ quá khứ này nhảy đến quá khứ
khác, rồi từ quá khứ khác nhảy đến đến quá khứ khác nữa, rồi từ quá khứ khác nữa
nhảy đến quá khứ khác khác nữa, thế rồi ý thức Benjy bỗng trở về hiện tại, rồi
từ hiện tại lại nhảy xuống quá khứ v.v… Giòng thời gian của ý thức Benjy không
trôi chảy theo một đường dài hay một đường thẳng mà lại trôi chảy theo một vòng
tròn, trở đi rồi lại trở lại, trở lại rồi lại trở đi. Đường phân chia ranh giới
giữa hiện tại và quá khứ đã mất trong ý thức Benjy. Hiện tại chỉ là những cái
đinh để ý thức ấy móc những cái áo cũ. Có khi quá khứ cũng là những cái đinh để
ý thức Benjy móc những cái áo hiện tại.
Phần II: (độc thoại nội tâm của Quentin). Tôi đi vào trong ý thức của một anh
sinh viên trường đại học Harvard (tức là Quentin, anh của Caddy và Benjy), ở
đây những hình ảnh xảy ra trong ý thức Quentin không thứ tự lớp lang mà lại còn
lộn xộn hơn phần I. Tôi chỉ biết ý thức của Quentin là ý thức của một kẻ bị
thác loạn. Tôi thấy Quentin bị hình ảnh của Caddy ám ảnh dữ dội và nhất là sự
chết đã ám ảnh Quentin mãnh liệt vô cùng. Đây là tâm trí của một kẻ sắp tự tử.
Phần III: (độc thoại nội tâm của Jason). Tôi đi vào trong ý thức của một con
người có trí óc lành mạnh (tức là Jason, em trai của Quentin và Caddy, nghĩa là
anh của Benjy). Qua ý thức của Jason, tôi thấy rõ tính ty tiện tàn nhẫn của
Jason và tôi được nhìn thấy lại những tấn bi kịch quá khứ và hiện tại của gia
đình Compsons.
Phần IV: Tác giả không dùng lối độc thoại nội tâm nữa mà lại viết theo lối thuật
sự thông thường, tác giả dựng lên hình ảnh của Dilsey trong một gia đình da trắng
đổ vỡ, Jason đuổi bắt Quentin (vì cô Quentin bỏ nhà trốn đi đem theo tiền của
Jason) trong lúc ấy, Dilsey (cùng đứa con gái, cháu trai và Benjy) đi nhà thờ dự
lễ Phục sinh [3].
Quyển The Sound and the Fury chấm dứt nơi phần IV.
(12-X-1960)
Chú thích:
[1] Xem Al Hine, “Limelight on Life”
trong College Prose của Boatright và Hughes, trang 397 (Houghton
Mifflin Co, 1956).
[2] Blaise Cendrars: “Le propre de l’homme, c’est
de disparaitre - Hâtons - nous de rire de tout - Merci Charlot!” Xem Parrot,
Blaise Cendrars, P. Seghers, collection Poètes d’aujourd’hui).
[3] Ta nên để ý hình ảnh tượng trưng của Faulkner.
Cả gia đình người da trắng đổ nát tiêu tan và những người đầy tớ da đen đi nhà
thờ dự lễ Phục Sinh. Hình ảnh này tượng trưng sự Phục Sinh của con người?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét