Nhất Linh - Ngọn đuốc trong đêm
Lòi ngỏ: Nhà văn Nhất Linh gắn liền với Tự Lực Văn Đoàn, có lẽ
tên tuổi của ông được đề cập nhiều nhất trong nhiều thập niên qua. Nhất Linh đã
dày công đóng góp cho nền văn học Việt Nam, bởi bất đồng chính kiến, trước đây
CSVN đã phủ nhận giá trị đó! Trong Tự Điển Văn Học (NXB Khoa Học Xã Hội - Hà Nội
1984) đã nói đến ông với câu kết: “Con đường nghệ thuật đó buổi đầu còn chút ý
nghĩa, song đã sớm đi vào phá sản như một tất yếu” (sđd trang 113).
Thế nhưng, năm 2000, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin ấn hành
quyển Nhất Linh, Cây Bút Trụ Cột. Chân lý trở về với chân lý, xóa bỏ quan niệm
bảo thủ, hẹp hòi… nhiều tác phẩm ở trong nước đề cập đến giá trị sự nghiệp sáng
tác nhà văn Nhất Linh và nhiều tác phẩm của ông cùng Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch
Lam… trong Tự Lực Văn Đoàn cũng được ấn hành.
Tưởng Niệm 40 năm ngày mất của Nhất Linh, Tạp chí Thế Kỷ 21,
số tháng 7-2002, có nhiều bài viết mới nhất của người thân trong gia tộc và văn
hữu.
Trong buổi gặp gỡ nhà văn Duy Lam vào Thứ Hai 3-12-2003, ông
cho biết đang sưu tập tất cả tài liệu để viết về chân dung người cậu ruột của
mình, tác phẩm sẽ được ấn hành trong tương lai. Năm 2004, kỷ niệm 100 năm ngày
sinh của Nhất Linh. Trong thời điểm đó, được biết mộ phần ông bà Nhất Linh được
dời về quê quán Hội An. Tôi viết cho Đặc San Quảng Đà về Chân Dung Nhất Linh. Tại
phố cổ Hội An có căn nhà thờ lưu trữ tài liệu, sách báo, hình ảnh của dòng họ
Nguyễn Tường. Người dân Quảng Nam đã tự hào quê hương nghèo khổ này đã nảy sinh
nhiều nhân vật lịch sử. Các cụ Hoàng Diệu (1828-1882), Phan Bá Phiến (1839-1887) trong phong trào Cần Vương, Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947)…
đã đặt tên đường. Các cụ Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887), trong phong trào Cần Vương,
Thái Xuyên Trần Quý Cáp (1870-1908), Tây Hồ Phan Chu Trinh (1872-1926), Tiểu La
Nguyễn Thành (1863-1911), Trần Cao Vân (1866-1916) trong phong trào Duy Tân
được đặt tên các trường trung học.
Về văn học, có nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong văn đàn
Việt Nam. Trong đó có dòng họ Nguyễn Tường ở phố cổ Hội An. Từ thời tiền chiến và trước
năm 1975 ở miền Nam Việt Nam những người con nơi cội nguồn này đã nổi tiếng như Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam (1906-1963), Thạch Lam Nguyễn Tường Vinh (1910-1942),
được đánh giá là nhà văn viết tùy bút hay nhất, Hoàng Đạo Nguyễn Tường
(1907-1948)… những người cầm bút Quảng Nam không đề cập đến cội nguồn vì ngại
cho rằng “thấy sang bắt quàng làm họ” và hình như bản tính của người dân QN như
vậy.
Năm 1975, tại Sài Gòn, Nguyễn Tường Thạch hỏa thiêu di cốt
cha, đoạn gửi bình tro trong chùa Kim Cương trên đường Trần Quang Diệu, quận 3,
Sài Gòn. Năm 1981, quả phụ Phạm Thị Nguyên từ Việt Nam sang Pháp đoàn tụ với
các con. Bà mất năm đó, được an táng trong một nghĩa trang tại thủ đô Paris.
Năm 2001, toàn gia quyết định di dời hài cốt mẹ Phạm Thị Nguyên từ Paris và cha
Nhất Linh từ Sài Gòn về Hội An. Con cháu dòng họ Nguyễn Tường mang những tác phẩm
của lưu trữ tại nhà từ đường Nguyễn Tường. Với tôi đã tường ngưỡng mộ các bậc
tiền bối trong văn học nên tôi viết bài Nhất Linh, Ngọn Đuốc Trong Đêm.
Những bài viết về văn học được chọn lọc để ấn hành trong cuốn
Văn Nhân và Tình Sử năm 2015 (376 trang) có 4 nhân vật nơi cố hương: Nhất
Linh, Ngọn Đuốc Trong Đêm (trang 221-242), Phan Khôi, Sĩ Khí Người Cầm Bút
(243-258), Bùi Giáng, Đại Lão Cái Bang (259-276), Bà Tùng Long, Nhà Giáo Nhà
Văn (277-290)… và nhà văn nổi danh ở Sài Gòn thập niên 60.
Nay tôi đăng lại bài viết này để thế hệ trẻ trong và ngoài nước
nói chung và xứ Quảng nói riêng với tâm hồn nhân bản (không vì định kiến chính
trị) nhận chân giá trị những vị tiền bối đã đóng góp tác phẩm của họ trong văn
học Việt Nam - VTrD
Nhất Linh tên thật Nguyễn Tường Tam, sinh ngày 25 tháng 7 năm
1905 tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Nguyên quán làng Cẩm Phô, Điện Bàn, Quảng
Nam. Ông nội Nhất Linh trước đó làm Tri Huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám. Ông
chỉ có người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Nhu làm Thông Phán, gọi là Thông
Nhu. Lập gia đình với bà Nguyễn Thị Sâm, có được 7 người con.
Trong quyển Hồi Ký Về Gia Đình Nguyễn Tường của bà Nguyễn Thị
Thế (thân mẫu nhà văn Duy Lam), ấn hành năm 1974 ở Sài Gòn: “Thứ tự gia đình
tôi theo đúng tuổi là anh cả Nguyễn Tường Thụy sau này làm Tổng giám đốc bưu điện,
sinh năm Quý Mão (1903), anh hai Nguyễn Tường Cẩm, Kỹ sư canh nông, Giám đốc
báo Ngày Nay, sinh năm Giáp Thìn (1904), anh ba Nguyễn Tường Tam, Nhất Linh, Nhị
Linh chủ trương Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Bính Ngọ (1905), anh tư Nguyễn Tường
Long, Tứ Ly, Hoàng Đạo trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Đinh Mùi (1907),
tôi Nguyễn Thị Thế, sinh năm Kỷ Dậu (1909), em sáu Nguyễn Tường Vinh (Lân), Thạch
Lam trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Canh Tuất (1910), em bẩy Nguyễn Tường
Bách, Bác sĩ, sinh năm Bính Thìn (1916)” (trang 39). Trong thập niên 30, 40 anh
em trong gia đình ông đã dấn thân vào văn học nghệ thuật, và theo dòng thời
gian, thế hệ con cháu trong đại gia đình ông đã hiện diện nhiều khuôn mặt văn
nghệ, trở thành truyền thống trong dòng họ.
Thuở nhỏ, ông theo học tiểu học tại Cẩm Giàng, học trung học
tại trường Bưởi ở Hà Nội, năm 1923, ông đậu bằng Cao Tiểu, làm thư ký Sở Tài
Chánh Hà Nội. Ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên, cũng lối xóm với nhau ở
Hà Nội và tiếp tục theo học về ngành Y và Mỹ Thuật, mỗi năm mỗi ngành rồi lại bỏ.
Tuy là người theo Tây học nhưng vấn đề hôn nhân, ông để cho thân mẫu quyết định,
bà Nguyễn Thị Thế viết: “Mẹ dục mãi anh mới chịu đi coi. Mà có khó khăn gì đâu.
Nhà cô ta ở ngay bên nhà bác Ba bạn mẹ tôi… Đám cưới xong, mẹ tôi lại đi cân gạo
với các bà bạn. Anh Tam cũng thôi đi làm xin vào học trường Cao Đẳng Hội Họa.
Chị Tam dọn hàng bán cau ở ngay nhà…”.
Năm 1925, ông bước chân vào làng văn với tác phẩm Nho Phong,
và sau đó với tác phẩm Người Quay Tơ.
Năm 1927, ông du học tại Pháp. Theo nhà văn Duy Lam, chính phủ
Pháp tài trợ một nửa cho con cái các vị quan lại có mức sống trung lưu, một nửa
do gia đình. Năm 1930, ông đậu bằng Cử Nhân Khoa Học Giáo Khoa (Lý Hóa) và trở
về nước trong năm đó.Trong tác phẩm Văn Thi Sĩ Tiền Chiến của Nguyễn Vỹ, NXB Khai
Trí - Sài Gòn 1969:
“Anh Phan Thanh, cựu trợ giáo người Quảng Nam, nhân viên “Đại
Hội Đồng Kinh Tế và Tài Chánh Đông Dương”, và giáo sư Trung học Tư thục Nguyễn
Văn Tòng, giới thiệu tôi dạy Pháp văn và Sử Ký ở trường ấy.
Đó là năm 1930. Hầu hết những giáo sư cũ đều nghỉ hoặc đi dạy
các trường khác. Ông Nguyễn Tường Tam, tân Hiệu Trưởng, dùng những giáo sư mới
của ông, trong số đó có thầy giáo Trần Khánh Giư.
Trường cũng đổi tên là “École Thăng Long”, ở góc đường Hàng Cột
(rue de Takou), và đường Cửa Bắc (Bd Carnot), ngó ngang bót Cảnh Sát Hàng Đậu
(rue des Graines), tức là con đường chạy ra Cầu Sông Cái (Bờ Sông).
Một năm sau, người ta thấy rải rác trên các vách tường trong
thành phố dán một tờ quảng cáo lớn loan tin một tờ báo hài hước sắp ra đời, tên
là “Phong Hóa tuần báo, Chủ Nhiệm Nguyễn Tường Tam. Tòa soạn và ban trị sự đặt
tại trường Thăng Long, phố Hàng Cót” (sđd trang 126-127).
Theo Nhật Thịnh trong quyển Chân Dung Nhất Linh thì: “Hồi Nhất
Linh còn dạy trường Thăng Long, ông để ý tới một bài khảo luận ngắn trên báo
Văn Học, ký tên Bán Than. Chắc anh chàng này có họ với ông Trần Khánh Dư đời Trần,
tác giả bài:
“Một gánh kiền khôn quảy xuống ngàn
Hỏi chi bán đấy? gửi ông than”.
Đột nhiên ông nhớ tới giáo sư Trần Khánh Giư, một người kín
đáo, dễ thương, từ đó hai người biết nhau. Nhất Linh thấy Khái Hưng có những khả
năng hiếm có về văn chương. Ông là con cụ tuần Trần Mỹ theo học trường Albert
Sarraut, đỗ tú tài Triết Học, có đủ điều kiện và thế lực ra làm quan, mà ông từ
chối. Không chịu sống đời lệ thuộc. Nhất Linh nhận thấy rõ điều đó”.
Theo Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách (em út của Nhất Linh) trong hồi
ký Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua: “Năm 1932, cùng một số anh em, anh sáng lập tờ báo
Phong Hóa có thể gọi là mở một thời kỳ mới trong văn học. Cùng với số nhà văn
tài hoa, anh thành lập Tự Lực Văn Đoàn, đánh dấu sự phồn thịnh văn học. Năm
1935, tờ Ngày Nay được xuất bản. Năm 1936, anh khởi xướng Phong Trào Ánh Sáng
xây dựng nhà rẻ tiền cho người nghèo”.
Năm 1932, tờ Phong Hóa phát hành hằng tuần vào ngày thứ Năm,
không tạo được tiếng vang trong làng báo. Hồi ký Trong Bếp Núc Của Tự Lực Văn
Đoàn, nhà thơ Tú Mỡ viết: “Bấy giờ, nhân dịp có tờ Phong Hóa của anh Phạm Hữu
Ninh quản trị, anh Nguyễn Xuân Mai, giám đốc chính trị, loại báo vô thưởng vô
phạt, đang sống dở chết dở vì không ai buồn đọc, sắp sửa phải đình bản. Anh Tam
đề nghị với hai anh nhượng lại tờ báo cho mình làm chủ bút, hai anh vẫn đứng
tên quản trị và giám đốc chính trị làm vì, mỗi tháng lĩnh mấy chục bạc lương (tức
là tiền cho thuê báo). Tất cả đều hỉ hả: anh Ninh và anh Mai trút được gánh nặng
mà khỏi đình bản; anh Tam sẵn có tờ báo thay cho tờ Tiếng Cười chắc là không được
phép xuất bản” (Tạp chí Văn Học số 5 tháng 6-1988).
Nhất Linh hiện diện trên tờ Phong Hóa, số 14 ra mắt ngày
22-9-1932, dưới hàng chữ Phong Hóa nơi trang đầu: Director politique: Nguyễn
Xuân Mai, Administrateur: Phạm Hữu Minh, Directeur: Nguyễn Tường Tam.
Trong hồi ký của bà Nguyễn Thị Thế đã ghi rõ về giai đoạn này:
“Sau khi đi Pháp về, anh Tam dạy học ở trường Thăng Long Hà Nội được ít lâu,
sau mở báo lấy tên “Tiếng Cười” chủ tâm đem tiếng cười ra cho mọi người vui vì
thời bấy giờ nhiều người khóc quá rồi. Nào văn bà Tương Phố khóc chồng, Đạm Thủy,
Tố Tâm truyện cũng lâm ly thảm thiết.
Tiếc thay chính quyền lại không hiểu thiện chí ấy nên không
cho phép, sau có người bạn nhường lại tờ Phong Hóa (1932). Bao đêm anh Tam cặm
cụi viết bài vì lúc đầu chưa ai cộng tác, họ lại lo ế không bán được, anh đề
nghị nếu ế thì cả nhà vừa đi vừa rao bán cho kỳ hết mới chịu. Mẹ tôi bảo khó
gì, nếu bán không hết, mang về cho mợ gói cau càng tiện” (sđd Trang 116)…
“Báo Phong Hóa ngày càng gia tăng và số anh em cộng tác cũng nhiều , nhưng tiền
vốn quá ít nên phải tiết kiệm” (trang119)… “Báo bán chạy, các anh về nói với mẹ
tôi gọi cổ phần hùn vốn mua nhà in vừa in báo vừa in thuê sẽ lời nhiều. Thế là
nhà in Ngày Nay ra đời” (sđd trang 120).
Năm 1933, thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm: Nhất Linh, Khái
Hưng, Tú Mỡ, Thạch Lam, Hoàng Đạo, và Thế Lữ.
Năm 1936 tờ báo Phong Hóa bị đóng cửa, tờ Ngày Nay do anh ông
là Nguyễn Tường Cẩm điều khiển. Tờ báo có rất đông độc giả trung thành
nhưng đến năm 1940, số phát hành chót vào ngày 2-9-1940, thực dân Pháp ra
lịnh cấm chỉ. Tháng 5-1945, tờ Ngày Nay tục bản được vài tháng rồi đình bản.
Theo Tú Mỡ: “Báo Phong Hóa làm ăn phát đạt, số báo in càng
ngày càng tăng. Lúc đầu gặp hồi kinh tế khó khăn, mấy anh em đem hết tài lực
làm việc quên mình, không vụ lợi. Bốn anh em giường cột trong tòa soạn (anh
Tam, anh Long, anh Giư, anh Thế Lữ) tình nguyện chỉ lĩnh mỗi tháng 50 đồng đủ sống,
để dành tiền lãi làm vốn cho báo phát triển…
Nhưng… đến cuối năm đó, tính sổ mới ngã ngửa ra: lời lãi chia
theo số vốn, phần lớn chui vào két nhà tư sản. Anh bèn họp với anh em phải chấm
dứt tình trạng “thằng còng làm thằng ngay ăn”. Không thể chơi với nhà tư sản được…
Thế là anh em quyết định thành lập “Tự Lực Văn Đoàn” trên
nguyên tắc là làm ăn dựa trên sức mình, theo tinh thần anh em một nhà: Tổ
chức không quá số 10 người nên không phải xin phép Nhà nước, không cần có văn
bản, điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ mục
đích, tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác tuân theo”…
“… Đoàn viên nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn là những nhà văn
trong tòa soạn báo Phong Hóa: Anh Tam (đứng đầu giám đốc đoàn). Các anh Long,
Lân, Giư, Tú Mỡ và Thế Lữ, tất cả chỉ có 6 người. Anh Tam đề nghị kết nạp thêm
một người nữa cho đủ số “thất tinh”. Anh Giư giới thiệu anh Trần Tiêu, em
ruột anh, một giáo viên trường huyện, thích viết văn, đang viết truyện dài “Con
Trâu”, cả đoàn đồng ý. Về sau anh Giư có ngỏ ý mời anh Đoàn Phú Thứ vào đoàn nhưng
anh này rất tán thành mục đích, tôn chỉ của đoàn, song chỉ xin ở ngoài cộng tác
cho được hoàn toàn tự do, không muốn một tí gì ràng buộc.
Sau cùng, theo đề nghị của anh Tam, đoàn chỉ kết nạp thêm anh
Xuân Diệu, vị chi là “bát tú”…”
“… Phong hóa bị đóng cửa, Tự Lực Văn Đoàn không bị bó tay vì
đã có sẵn tờ Ngày Nay thay thế… Có thể nói Ngày Nay là hình ảnh chân thực của
tâm trí mọi tầng lớp bình dân trong nước; là người bạn tri kỷ, vui vẻ khuyên nhủ
mọi người mách bảo những sáng kiến hay cần thiết cho cuộc đời mới. Việc biên soạn
do những cây bút cũ của Phong Hóa cùng nhiều nhà văn mới hợp thành đội ngũ hài
hòa”.
Tính tình điềm đạm, hòa nhã, Nhất Linh biết trân quý và chân
tình từng cây bút, mỗi cây bút đều có sự mến chuộng của một số độc giả vì vậy
phương cách xử sự của ông cũng là kinh nghiệm cho giới làm báo.
Bên cạnh lãnh vực văn hóa, Nhất Linh dấn thân vào con
đường chính trị để chống Pháp, giai đoạn đó được Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách ghi
lại: “Nhưng dù đã đạt tới điểm cao của danh vọng, anh cũng quyết tâm dấn mình
vào cuộc đời cách mạng gian nan và đầy chông gai. Năm 1938, cùng với một số bạn
hữu, anh thành lập đảng Đại Việt Dân Chính. Năm 1941, do Pháp khủng bố, anh phải
chạy sang Trung Quốc, kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng, và hợp tác với cụ Nguyễn
Hải Thần. Năm 1945, tháng 11, anh trở về Hà Nội, tổ chức hàng ngũ quốc gia chống
lại Việt Minh Cộng Sản. Vì tình thế thúc đẩy, tháng 2 năm 46, anh giữ chức Bộ
Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Nhưng từ tháng 4-46,
hai bên phá liệt, anh lại sang Trung Quốc, lưu vong một lần nữa.
Năm 1947, vì phản đối việc thỏa hiệp với Pháp, anh ở lại
Hồng Kông cho tới 1951, vì sức khỏe yếu, anh về nước, với dự tính chỉ hoạt động
về văn học”.
Năm 1951, mở nhà xuất bản Phượng Giang, hậu thân NXB xuất bản
Đời Nay, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1953, Nhất Linh lên Đà Lạt, sống ẩn dật với cây cảnh.
Năm 1954, đất nước bị chia cắt hai miền Nam Bắc, Nhất Linh sống
tiếp ở Đà Lạt bốn năm rồi mới về Sài Gòn để tiếp tục dấn bước trên con đường văn
học và trở lại con đường chính trị vào năm 1960 khi thành lập Mặt Trận Quốc Dân
Đoàn Kết.
Giai đoạn này được ghi rõ qua hồi ký của người em: “Anh cả đổi
vào Saigon làm việc (Giám Đốc Bưu Điện) hai năm trước hiệp định Genève. Mẹ tôi
cũng vào để kịp gặp anh Tam trước khi anh sang Pháp thăm người con trai lớn du
học bên đó. Ở được ít tháng anh lại về, lên ở luôn Đà Lạt vào rừng kiếm lan.
Anh rủ mấy người bạn mua đất ở Phiên Nôm bên dòng suối Đa Mê
cách Đà Lạt hai mươi lăm cây số, hạ cây rừng xẻ gỗ làm nhà.
Nhà mới dựng lên vì thợ sơ ý không chống kỹ nên đổ sập xuống,
kèo cột gãy hết. Mẹ tôi cho là điềm không hay nên không cho dựng lại nữa. Thế
là hai lần định tạo dựng đều không thành cả. Chỉ còn lại nhà bếp, mẹ tôi ở được
ít lâu thì đau. Anh Tam phải đưa về ở căn nhà nhỏ của chị Tam mua từ hối 1954 ở
đường Lý Thái Tổ” (NTT - sđd trang 147).
Bà Nhất Linh vẫn tiếp tục công việc buôn bán cau trầu nuôi
con cái ở An Đông, Chợ Lớn. Trở về sum họp với gia đình, Nhất Linh bắt tay vào
sinh hoạt văn hóa, ông là vị Chủ Tịch đầu tiên của Văn Bút Việt Nam được hình
thành vào năm 1958.
Giai đoạn cuối đời được ghi nhận trong Thành Ngữ Điển Tích
Danh Nhân Tự Điển của GS Trần Văn Thanh, ấn hành tại Sài Gòn 1967:
“Đến năm 1958, Nhất Linh rời bỏ rừng núi Đà Lạt về Sài Gòn để
cho ra mắt độc giả giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay (số 1 Văn Hóa Ngày Nay xuất bản
ngày 17-6-58). Giai phẩm này được chiếm đa số độc giả và đã thành công rực rỡ.
Những người cộng tác thường xuyên trong Văn Hóa Ngày Nay gồm có: Đỗ Đức Thu,
Nguyễn Thị Vịnh, Linh Bảo, Duy Lam, Trương Bảo Sơn, Bình Nguyên Lộc, Tường
Hùng.
Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh bắt đầu cho đăng tập trường
giang tiểu thuyết. Xóm Cầu Mới gồm có những cuốn khác như: Cô Mùi, Người Chiến
Sĩ, Nhà Mẹ Lê, Người Sát Nhân, Cậu Ấm, Ông Năm Bụng. Theo Nhất Linh, ông định
viết độ hai chục cuốn nữa để thành một bộ tiểu thuyết gồm chừng một vạn trang
mô tả đầy đủ sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời. Mọi người đang mong thưởng
thức công trình to tát ấy thì Văn Hóa Ngày Nay đến số 11 tháng 5 năm 1958 lại
đình bản, và hơn một lần nữa truyện Cô Mùi và mối tình của cô cũng vì đó mà
thành ra dang dở.
Trong giai phẩm văn nghệ Tân Phong ra vào tháng 8 năm 1959,
ta chỉ thấy thỉnh thoảng Nhất Linh có một vài truyện ngắn, còn truyện dài trong
Văn Hóa Ngày Nay không thấy ông đăng tiếp.
Năm 1961, ông cho xuất bản một tập khảo luận về tiểu thuyết
nhan đề là Viết Và Đọc Tiểu Thuyết.
Dù sau này Nhất Linh khó lòng lấy lại được phong độ ngày nào
của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trên tờ Phong Hóa, Ngày Nay và ngọn đuốc văn hóa mà
ông đã từng cầm trong bao nhiêu năm phải trao về cho những người trong thế hệ mới,
nhưng mọi người không thể phủ nhận được giá trị những công cuộc tranh đấu của
ông và nhóm Tự Lực Văn Đoàn cách đây hơn ba mươi năm, nhằm mục đích chống phong
kiến, chống thực dân, phổ biến những quan niệm nhân quyền và dân quyền, trình
bày những quan niệm tiến bộ về cá nhân, về gia đình và xã hội.
Để phản đối chính quyền độc tài của Ngô gia. Nhất Linh đã
dùng độc dược quyên sinh vào đêm 7 tháng 7 năm 1963 tại nhà riêng để lại hình ảnh
cao quý trong lòng mọi người thân mến và giới văn nghệ một niềm luyến tiếc chân
thành. Ông thọ 58 tuổi”.
Ông để lại lời tuyên bố:
“Đời tôi để cho lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt
bớ và xử tội tất cả các phần tử Đối Lập Quốc Gia là một tội nặng sẽ làm cho nước
mất về tay Cộng Sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do” - Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam 7-7-1963.
Trước linh cữu của người quá cố, Linh Mục Thanh Lãng, Chủ Tịch
Văn Bút Việt Nam (Nhất Linh trở thành cố vấn) đã ngỏ lời tiễn biệt:
“Anh Nhất Linh, trong lúc nước mắt tràn lên các khuôn mặt
này, trong lúc tiếng nấc trong các cổ họng này, trong lúc những bàn tay đang
run run tung lên anh những vốc đất mà tôi gọi là những Cánh Hoa Hồng này, thì lại
chính là lúc anh đi vào lịch sử giữa huy hoàng, chúng tôi đến đây để nghiêng
mình trước ngai vàng lịch sử đã dọn cho anh”.
Sau ba chục năm, con cháu trong gia tộc đã đưa di cốt nhà văn
Nhất Linh ở Sài Gòn và vợ ông ở Pháp trở về nguyên quán. Trong bài Nắm Cỏ Đưa Về
Tấc Đất Xưa của nhà văn Phạm Phú Minh trong Tạp Chí Thế Kỷ 21 (tháng 7-2002) đã
ghi:
“… Theo anh Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn cho
biết thì năm 1975, chính quyền cộng sản giải tỏa nghĩa trang chùa Giác Minh ở
Thông Tây Hội (Gia Định), anh Nguyễn Tường Thạch là là con trai Nhất Linh đã hỏa
thiêu di cốt của cha và gửi bình tro tại chùa Kim Cương đường Trần Quang
Diệu tại quận Ba Sài Gòn. Trong khi đó, năm 1982 bà Nguyễn tường Tam sang Pháp
đoàn tụ với con, nhưng cũng trong năm này bà qua đời, được an táng tại nghĩa
trang ở Pháp.Năm ngoái, 2001, các người con của ông bà Nhất Linh đã quyết
định dời mộ ông bà và của người con gái lớn là chị Thư về Quảng Nam, nguyên
quán của gia tộc Nguyễn Tường. Hài cốt của bà đã được hỏa thiêu tại Orsay
(Pháp), sau đó được hai người con là anh Việt và chị Thoa đưa về Sài Gòn vào
tháng Tư 2001. Anh Nguyễn Tường Thiết từ Mỹ đã về Sài Gòn trước, đón di cốt bà
đưa về chùa Kim Cương, nơi này di cốt của ông đã được gửi thờ từ khoảng hai chục
năm nay. Ngày 27-4-2001 nhà chùa đã làm lễ cầu siêu trọng thể với sự có mặt của
tất cả thân thích trong họ có mặt ở Sài Gòn. Ngay sau khi lễ, di cốt của ông bà
Nguyễn Tường Tam và của chị Thư được đưa lên tàu hỏa đi Quảng Nam, miền Trung
Việt Nam.
Ngày 28-4-2001 cử hành lễ chôn cất các di cốt tại nghĩa
trang riêng của họ Nguyễn Tường ở Hội An. Mộ của ông bà Nguyễn Tường Tam nằm gần
mộ cụ tổ Nguyễn Tường Phổ, người đầu tiên của họ Nguyễn Tường ra làm quan và lập
nghiệp ngoài Bắc, nhưng khi mất đã được mang về an táng tại quê nhà”.
Nhất Linh là nhà văn nhà báo đã có công đóng góp cho nền văn
học và báo chí Việt Nam trong thế kỷ XX. Ông học Lý Hóa nhưng có năng khiếu
trên nhiều lãnh vực về Văn Học Nghệ Thuật và đã thành công rực rỡ. Ông cũng am
tường về âm nhạc và hội họa. “Cũng có lần nhờ tài vẽ để kiếm ăn khi lưu lạc ở
Cao Miên và Sài Gòn ông đi vẽ phông các rạp hát” (Một Vài Nét Về Chân Dung Nhất
Linh - Tường Hùng, Tạp chí Văn, số 61, 1-7-1966).
Với nhân cách của con người hoạt động chính trị, văn học và
báo chí, Nhất Linh giữ được nhân cách của mình kể từ khi bước chân vào đời.
Hình ảnh đó được thể hiện qua ngòi bút của người cháu: “Trí nhớ và sự khiêm tốn
không cho tôi nói nhiều về một người chú mà tôi kính mến. Đáng lẽ tôi phải nói
vài tật xấu để cho rõ chân dung Nhất Linh hơn, nhưng tôi xin thú thực sau bao
năm ở gần Nhất Linh, tôi chưa được biết một tính xấu nào của Nhất Linh” (Một
Vài Nét Về Chân Dung Nhất Linh - Tường Hùng, Tạp chí Văn số 61, 1-7-1966.
Theo nhận định của nhà thơ Đông Hồ trên tờ Bách Khoa số 180
(1-7-1964) cũng là ý nghĩa của mọi người về nhà văn Nhất Linh:
“Sự nghiệp của Nhất Linh ở đây thật là một sự nghiệp đáng kể
mà tôi tưởng đương thời và hậu thế cũng đều công nhận”.
Tác phẩm của Nhất Linh: Nho Phong (1924), Người Quay Tơ
(1926), Anh Phải Sống (cùng Khái Hưng, 1932-1933), Gánh Hàng Hoa (cùng
Khái Hưng,1934), Đời Mưa Gió (cùng Khái Hưng, 1934), Nắng Thu (1934), Đoạn Tuyệt
(1934-1935), Đi Tây (1935), Lạnh Lùng (1935-1936), Hai Buổi Chiều Vàng
(1934-1937), Thế Rồi Một Buổi Chiều (1934-1937), Đôi Bạn (1936-1937), Bướm Trắng
(1938-1939), Xóm Cầu Mới (1949-1957), Viết Và Đọc Tiểu Thuyết (1952-1961),
Giòng Sông Thanh Thủy (1960-1961) tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập: Ba Người Bộ
Hành, Chi Bộ Hai Người, Vọng Quốc.
Dịch phẩm: Đỉnh Gió Hú, Wuthering Heights của Emily Bronte
(đăng báo 1960, xuất bản 1974). (Hoàng Hải Thủy phóng tác tác phẩm nầy được nhiều
độc giả biết đến).
* Lá thư tuyệt mệnh
Trong cuốn Tự Điến Danh Nhân Thế Giới của Trịnh Chuyết, xuất
bản tại Sài Gòn năm 1970 phần nói về Nhất Linh với Lá Thư Tuyệt Mệnh chỉ có 68
chữ:
“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt
bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất
về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã
tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do”.
Qua bài viết sự thật về cái chết của Nhất Linh của Nguyễn Tường
Thiết có scan lại lá thư tuyệt mệnh với 71 chữ: ”Đời tôi để lịch sử xử. Tôi
không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc
là một tội nặng và làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự
hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để cảnh cáo những
người chà đạp mọi thứ tự do.” Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Về cái chết của Nhất Linh có vài bài viết bóp méo sự thật,
hơn bốn thập niên sau, anh Nguyễn Tường Thiết minh chứng sự thật (trích những
đoạn chính):
“… Kể từ ngày đầu tiên đoàn tụ năm 1950 ấy cho đến ngày ông
qua đời 7-7-1963, tôi là người con đã sống gần gũi với cha tôi nhất trong số tất
cả những người con của ông. Lý do là khi cha tôi vào Nam năm 1951, ông kéo tôi
đi theo ông, trong khi mẹ và các anh chị tôi ở lại Hà Nội cho đến năm di cư
1954. Và sau đó năm 1955 khi ông quyết định bỏ Sài Gòn lên sống trên Đà Lạt,
tôi lại là người ông mang theo để sống gần ông. Là người con vừa thân cận vừa
được tín cẩn, tôi là người vừa biết rõ nhất về ông cụ tôi, lại là người chứng
kiến cái chết của ông trong những giờ phút cuối cùng…
… Là người con hiểu rõ ông cụ tôi, tôi tin rằng khi cha tôi
tuyên bố từ bỏ cuộc đời làm chính trị ông đã thành thật với mình. Tuy nhiên thời
cuộc đưa đẩy buộc ông phải sống trái với ý muốn của mình. Về cuối đời cha tôi bị
liên lụy vì liên quan đến một vụ chính biến, đưa đến cái chết của ông ngày mồng
7 tháng 7 năm 1963.
Cái chết ấy mang mục tiêu chính trị rõ rệt. Ông tự vẫn để “cảnh
cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do”, như ông đã viết ra trên giấy trắng
mực đen.
Nguyên nhân và động lực đưa đến cái chết của Nhất Linh đã được
ông viết ra bằng 71 chữ rất minh bạch và đầy đủ:
Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt
bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước
mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như hòa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người trà đạp mọi thứ tự do.
7-7-63
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
… Như đã nói ở trên vào năm 1955 cha tôi quyết định lên Đà Lạt
sống và tôi là người ông chọn để đi cùng với ông. Ông cụ thu xếp cho tôi thi
tuyển vào lớp Đệ Lục trường trung học công lập Quang Trung niên khóa 1955-56.
Chúng tôi ở trên lầu 2 nhà hàng Poinsard - Verey số 12 đường Yersin Đà Lạt.
Sau này các anh chị tôi cũng thường lên Đà Lạt vào những dịp hè hoặc Tết nhưng
không ai ở luôn trên ấy, chỉ trừ chị Thoa là người chị kế của tôi. Những năm đầu
tiên trên Đà Lạt là những năm thanh bình. Cha tôi chơi lan, hòa nhạc tại gia
vào cuối tuần. Thỉnh thoảng ba chúng tôi (cha tôi, chị Thoa và tôi) đi picnic
trên núi Langbian hoặc ở Suối Vàng…
… Năm 1958 cha tôi ra tờ báo Văn Hóa Ngày Nay. Tự tay cha tôi
vẽ và trình bầy bìa cho tờ đặc san này. Ở trên góc bìa đề hàng chữ lớn: Số ra mắt
17-6-1958. Chúng tôi không một ai để ý đến cái ngày 17-6 có ý nghĩa gì cho mãi
đến khi tôi gặp anh Lê Hưng. Anh Hưng nói với tôi trước bàn thờ ông cụ: ‘Anh
Tam làm cái gì cũng tính toán rất kỹ lưỡng. Anh chọn ngày ra báo 17-6 là ngày
giỗ của đảng trưởng Nguyễn Thái Học, cũng như anh chọn ngày chết 7-7 là ngày chấp
chánh của họ Ngô để phản đối chế độ này’.
Ở Sài Gòn báo Văn Hóa Ngày Nay bán rất chạy ngay từ số đầu
tiên… Nhưng báo chỉ ra được 11 số thì tự ý đình bản. Chúng tôi chưng hửng hỏi
ông cụ tại sao báo bán chạy thế mà lại tự ý ngưng? Cha tôi không trả lời. (Ông
không có thói quen tiết lộ mọi chuyện cho con cái). Nhưng thái độ của ông lúc ấy
rất buồn bã…
… Trong cuốn sách “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ - Người Chiến Sĩ”
do Thế Kỷ xuất bản năm 2004, trang 78, ông Trương Bảo Sơn viết: ‘Tờ Văn Hóa Ngày Nay ra được 11 số thì đình bản, mặc dù được độc giả khắp nơi hoan nghênh.
Ôi, chỉ vì nó được hoan nghênh quá xá mà chết non…’.
Trong cuốn hồi ký “Nhất Linh Cha Tôi” trang 120 tôi viết: “Bốn
mươi mốt năm về trước, một ngày trước cuộc binh biến 11-11-1960 ở Sài Gòn, bố
tôi bất thần trở về căn gác chợ An Đông nhìn tôi nói nghiêm nghị: ‘Ngày mai con
có đi chơi đâu thì không được lảng vảng gần khu Dinh Độc Lập’. Cuộc đảo chính
thất bại. Tôi nghe nói là bố tôi sau đó đã lẩn trốn ở nhiều nơi trong thành phố’…
Sự việc không bắt cha tôi, ngoài lý do không có bằng cớ, tôi
cho còn là một sự tính toán cân nhắc lợi hại của chính quyền họ Ngô chứ chưa hẳn
do cảm tình riêng của ông Diệm đối với ông cụ tôi như nhiều người nghĩ. Thứ nhất
không bắt ông cụ để ông cụ vô can tức là chứng tỏ cho dân chúng biết Nhất Linh
không hề bất mãn và phản đối chế độ ông Diệm. Thứ hai họ nghĩ rằng chặt hết tay
chân của ông cụ tôi thì ông cụ tôi còn làm gì được nữa.
Nhưng không bắt bớ không có nghĩa là để cho ông cụ tôi được
hoàn toàn tự do. Trong cuốn Nhất Linh Cha Tôi trang 36 tôi ghi lại lời của cha
tôi nói với tôi buổi sáng ngày 7-7-1963: ‘Cậu chẳng sợ kết quả (ra tòa) ngày
mai ra sao vì ở nhà hay ở tù thì cũng mất tự do như nhau’.
Hãy hình dung cảnh tượng ấy diễn ra thường xuyên trong một thời
gian dài thì mới thấu hiểu câu nói của cha tôi ‘Ở tù hay ở nhà cũng mất tự do
như nhau’.
… Vào tháng 5 năm 1963 vụ Phật Giáo bùng nổ ở Huế. Sau đó
phong trào Phật Giáo đấu tranh lan rộng khắp nước. Tôi không đề cập chi tiết vụ
Phật Giáo này. Hãy để các sử gia nói tới. Tôi chỉ bàn khía cạnh vụ này tác động
ra sao đối với ông cụ tôi và nhất là đối với cái chết của ông…
… Trong khi hầu hết các chính trị gia đối lập bị bắt hết sau
vụ binh biến 11-11-1960, ông cụ tôi là một trong số ít người được tại ngoại, do
đó việc tăng cường canh giữ ông cụ là một điều tất nhiên. Ông cụ rất ít ra khỏi
nhà. Những tin tức ông biết được bên ngoài là do báo chí (cha tôi sai tôi đi
mua báo Tự Do hàng ngày và ông chỉ đọc tờ báo này thôi), ngoài ra có hai người
bạn thân của ông thường xuyên lui tới. Đó là bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm và ông Lê
Văn Kiểm. Ông Kiểm (mà chúng tôi gọi là chú Kiểm vì chú nhỏ tuổi hơn ông cụ
tôi) thường đến hầu như hàng ngày tường trình diễn tiến của vụ Phật giáo. Ngày
11-6-1963 khi chú Kiểm đến báo tin Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư
Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng thì cha tôi sững sờ…
… Rồi cuối cùng, mãi ba năm sau xảy ra cuộc binh biến
11-11-1960, vào tháng 6 năm 1963 cha tôi bị mời lên Tiểu Đội Hiến Binh số 635
đường Nguyễn Trãi để lấy khẩu cung và ở đó người ta cho ông biết trước là ngày
8 tháng 7 năm 1963 cha tôi phải trình diện tại Phòng xử án Đặc biệt Tòa Án Quân
sự, tòa Thượng Thẩm, số 131 đường công lý Sài Gòn. Trát đòi chính thức sẽ được
gửi sau. (Cha tôi nhận được trát đòi vào ngày 6-7-1963 lúc 18.00 giờ).
Tin cha tôi sẽ phải ra tòa để xử án này là động cơ tối hậu
làm nên cái chết của Nhất Linh. Ông có một tuần lễ để sửa soạn cái chết cho
chính mình.
Ngày 30-6-1963 (7 ngày trước cái chết) cha tôi đi dự buổi họp
tại trụ sở nhóm Bút Việt. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm viết về sự kiện này như sau
(trích trong sách Chân Dung Nhất Linh, tác giả Nhật Thịnh, trang 183): ‘Tôi dám
quả quyết là Nhất Linh đã sắp đặt, ít nhất là một tuần lễ trước cái chết của
mình, bằng cớ là ngày 30-6-1963, anh tới dự buổi họp của Trung Tâm Văn Bút mà
trước đó anh là chủ tịch, không phải vì văn hóa, mà chỉ cốt gặp mặt một lần
chót các văn hữu của anh trước khi sang bên kia thế giới. Ở Trung Tâm Văn Bút
ra, Nhất Linh có ghé lại thăm tôi, nhưng tiếc rằng hôm ấy tôi đi vắng’.
Ngày 2-7-1963 (5 ngày trước cái chết) cha tôi đến nhà in Trường
Sơn làm giấy Ủy Quyền cho con. Trong cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi trang 192, tôi
viết: ‘Năm ngày trước khi chết ông đến nhà in Trường Sơn đánh máy tờ Ủy Quyền:
Tôi, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, giám đốc nhà xuất bản Phượng Giang và Đời Nay,
ký tên dưới đây xác nhận rằng: Trong khi tôi vắng mặt (bất cứ vì lý do gì) thì
con tôi là Nguyễn Tường Thiết sẽ thay thế tôi điều khiển hai nhà xuất bản kể
trên và quyết định việc xuất bản các tác phẩm của tôi. Làm tại Sài Gòn ngày 2
tháng 7 năm 1963’.
Ngày 7-7-1963 (ngày chết) cha tôi đến vĩnh biệt người bạn
thân nhất của mình vì tuần lễ trước ông đến mà không gặp. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm
viết: ‘Chủ Nhật sau nhằm ngày 7-7-63 Nhất Linh lại tới vào buổi sáng hồi 10 giờ.
Tôi đang ngồi trong phòng ăn bỗng anh lặng lẽ đi vào…’, ‘Chúng tôi tiễn anh ra
cửa lặng lẽ cầm tay nhau, khi ấy tuyệt nhiên trên nét mặt Nhất Linh tôi không hề
nhận thấy một dấu hiệu nhỏ nào cho biết chỉ trong vài tiếng đồng hồ nữa anh sẽ
xa lánh cõi trần, xa tất cả mọi người thân yêu của anh để đi vào lịch sử’…
… Buổi sáng hôm ấy sau khi cha tôi đi thăm bác Phiếm về thì
chúng tôi, cha tôi và tôi, trên căn gác của chung cư chợ An Đông bàn bạc rất
lâu về đủ mọi chuyện. Cha tôi vốn ít nói và kín tiếng, nhưng buổi sáng hôm ấy lạ
thay ông lại tâm sự với tôi rất nhiều điều, ông giảng giải khúc triết và rành rẽ
mọi chuyện, và tôi có ghi lại đầy đủ trong chương Niềm Vui Chết Yểu trong cuốn
sách Nhất Linh Cha Tôi…
… Bình tĩnh cha tôi ngồi thảo và viết 71 chữ cuối cùng trong
đời ông: 71 chữ cô đọng, đầy đủ, rõ ràng để một người bình thường có thể hiểu
được ý nghĩa trung thực của tờ chúc thư tuyệt mệnh của ông.
Khi thảo tờ chúc thư chính trị ấy cha tôi đã sáng suốt tiên
liệu là mật vụ nhà Ngô có thể tịch thu bản di chúc nên cha tôi đã cẩn thận viết
làm hai bản. Hai bản đó giống nhau, chỉ sai biệt một chữ…
… Nhất Linh đã chuẩn bị cái chết của mình một cách bình tĩnh.
Nhất Linh đã sửa soạn cái chết cho mình trong sự tính toán sáng suốt”…
Trên văn đàn Việt Nam vào tiến bán thế kỷ XX, Tự Lực Văn Đoàn
được đánh giá là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại với tiểu thuyết
luận đề và tâm lý xã hội. Trong đó nổi bật qua hai cây bút Nhất Linh và Khái
Hưng.
Qua các tác phẩm Nho Phong (1924), Nắng Thu (1934), Đoạn Tuyệt
(1934-1935), Đôi Bạn (1936-1937), Bướm Trắng (1938-1939)… được đánh giá là tạo
dựng ra diện mạo mới trên bước đường khai phóng cho nền văn học Việt Nam. Trong
thời điểm theo quan niệm “trọng nam khinh nữ” thì Nhất Linh tạo hình ảnh người
phụ nữ sống trong xã hội với cá tính mạnh mẽ, hiểu biết, chống lại sự lạc hậu
theo nam niệm cổ hủ. Không thể chấp nhận cái cũ vô lý để hủy hoại bản thân mà
phải “đoạn tuyệt” nó để tạo dựng cuộc sống. Qua ngòi bút, Nhất Linh quan niệm
trai và gái tuy chưa được bình đẳng như nhau nhưng người phụ nữ không chấp nhận
sự gò bó của xã hội trói buộc suy tư, nhận thức của cá nhân trong tình yêu và
cuộc sống.
Khi nói về tiểu thuyết luận đề qua tác phẩm của Nhất Linh,
theo Thụy Khuê:
“Ở Ðoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Nhất Linh vẽ nên cảnh xung đột trực
tiếp giữa lối sống cũ và mới. Ðể bênh vực người phụ nữ, Nhất Linh đã không ngần
ngại đẩy hoàn cảnh đến những mức độ cực đoan nhất, và lấy phần quyết thắng về
phe Loan, người phụ nữ tân thời, tranh đấu cho quyền làm người trong xã hội Khổng
Mạnh.
Ở Ðôi Bạn, Nhất Linh đi xa hơn. Ông không dựa trên tình tiết,
không dựa trên cốt truyện để xây dựng tiểu thuyết nữa. Nhất Linh đi sâu vào địa
hạt phân tích nội tâm, xây dựng nghệ thuật trên sự tinh vi của nhận thức. Cảm
giác, xúc giác, khứu giác là những yếu tố chính trong cơ lực con người,
giao thoa giữa nội tâm và ngoại giới. Nhất Linh cho người đọc thưởng lãm những
mùi hương, những say sưa của hạnh phúc, của ánh nắng chiều, của màu thời gian
thoáng nhạt…
Với Bướm Trắng, Nhất Linh đi sâu vào khía cạnh triết lý… Bằng
một lối nhìn trầm lặng, ngọn bút Nhất Linh bình thản đi vào các cửa ngõ nội tâm
biến dạng và bối rối của Trương, không phải để tìm kiếm một lối thoát cho
Trương, mà để cùng nhập cuộc phiêu lưu không định hướng của dòng đời…“.
Nhìn lại những tác phẩm trong Tự Lực Văn Đoàn nói chung và Nhất
Linh nói riêng. Trên lãnh vực văn chương, Nhất Linh dấn thân trong nghiệp dĩ
như ngọn đuốc soi đường trong đêm tối.
21/6/2021
Vương Trùng Dương
Nguồn: Văn nhân và tình sử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét