Phạm Thiên Thư, có ngần ấy thôi
Thơ Phạm Thiên Thư là thơ để ngâm, để hát, là chanson poétique.
Tiếng em
hát giữa giáo đườngChúa về
trong những thánh chương bàng hoàngĐúng ra, thơ ông
có điệu nói lẫn điệu hát. Là tu sĩ Phật giáo nhưng vẫn nhắc đến
Chúa: đó là tinh thần tự do của Phạm Thiên Thư. Nhiều người cho rằng thơ ông
được phổ biến là nhờ ca khúc do Phạm Duy phổ nhạc, hoặc vì ông là thi sĩ kiêm
thiền sư, những cái ấy đều có thể đúng cả, nhưng thơ không hay thì không ai
nhớ. Vậy phải có mấy thứ cùng lúc: văn hóa và văn bản. Nhà phê bình Đặng Tiến
có một nhận xét thú vị rằng câu "rằng xưa có gã từ quan" là câu thơ
được nhớ nhiều nhất. Điều đó quả nhiên đúng, nhưng tôi nghĩ có lẽ vì nó được
phổ nhạc, và là câu mở đầu của bài hát. Nếu Phạm Duy chọn câu khác, ví dụ câu
thứ nhất của Động hoa vàng "Mười con nhạn trắng về tha", thì biết đâu
câu ấy lại nổi tiếng hơn?Bạn nói vậy hóa ra
câu "rằng xưa" ấy không có giá trị gì? Cũng không phải thế. Đó là câu
nghe qua cũng tầm thường, nhưng với lối nói lửng lơ, nhiều hư từ, của người
Việt, nó lại gợi ra nhiều thứ. Nó mở ra, mông lung. Bùi Giáng có nhiều câu như
vậy. Một chữ thành công phải đúng thời điểm, mở đúng cánh cửa. Mà một cánh cửa
chỉ có một người mở. Nhưng trước hết nó phải kết tụ tiếng nói của dân tộc, như
một thứ "tổng kết thời đại." Ở miền Nam ai không thấy cảnh nữ sinh áo
dài tha thướt ùa ra cổng giờ tan trường, nhưng phải đến Phạm Thiên Thư, thơ mới
bật ra bốn chữ:Em tan trường
vềCũng một trường
hợp khác, ví dụ, Nguyễn Tất Nhiên, với:Có còn hơn
khôngMà ông thường có
những câu những chữ như thế. Đây là một ví dụ khác:Thì thôi mù
phố xe đườngThôi thì
thôi nhé đoạn trường thế thôiNhiều hư từ. Nhưng
trong lần đọc đầu tiên, tôi nhớ liền. Những chữ như thế xưa nay vẫn dùng, nhưng
khi kết hợp lại, chúng trở nên mới.Có ngần ấy
thôiTất nhiên là từ
câu Kiều;Ái ân ta có
ngần này mà thôiNhưng tám chữ ấy
tuy hay thì hay thật, Nguyễn Du mà không hay?, lại rõ ràng, cay đắng quá. Cắt
ra bốn chữ: thành mơ hồ. Cái gì ngắn cũng mơ hồ. Chỉ có một chữ thần tình phải
giữ lại, chữ ngần. Chữ ấy được ông dùng tới vài lần nữa. Phạm Thiên Thư láy ca
dao:Leo lên
cành bưởi nhớ người rưng rưngĐộng tác leo trèo
là quan trọng nhất, trèo lên cây bưởi hái hoa, chứ không phải chữ, vậy nên thi
sĩ đổi phắt chữ trèo trong ca dao thành leo, miễn nó hợp vần. Một câu thơ hay
không bao giờ để chúng ta yên. Nó đánh thức người ta như tiếng chuông. Đang
ngủ, nó dựng bạn dậy. Ủa, tiếng chuông văng vẳng đâu vậy kìa?Ngày xưa
anh đón emNơi gác
chuông chùa nọCó bạn còn tưởng
mình đang ở Tô châu, gần chùa Hàn san.Thì ra sự nối kết
của loài người lớn hơn nỗi cô đơn của họ.Tôi cần nhấn mạnh
rằng mặc dù tạo ra chữ mới hay tập hợp các chữ mới là một đóng góp của Phạm
Thiên Thư, chính khuynh hướng thẩm mỹ của ông, tư duy nghệ thuật của ông, phù
hợp với thời đại của mình, mới là nguyên nhân làm cho thơ ông có giá trị lâu
dài. Ngay những bài thơ đầy hoài niệm cũng biết lay gọi, đặt câu hỏi. Những câu
hỏi kín đáo, xa vời, nhưng ám ảnh. Bài thơ đầu tiên của Phạm Thiên Thư là bài
tôi vừa nhắc, Vết chim bay:Ngày xưa
anh đón emNơi gác
chuông chùa nọCon chim
nào qua đóCòn để dấu
chân inAnh một
mình gọi nhỏChim ơi biết
đâu tìmMười năm
anh qua đóCòn vẫn dấu
chân chimAnh một
mình gọi nhỏEm ơi biết
đâu tìmNgày xưa
anh đón emTrên gác
chuông chùa nọBây giờ anh
qua đóCòn thấy chữ
trong chuôngAnh khoác
áo nâu sồngEm chân trời
biền biệtTên ai còn
tha thiếtTrong tiếng
chuông chiều đưaNgày xưa em
qua đâyCho tình
anh chớm nởNhư chân
chim muôn thuởIn mãi bậc
thềm rêuCõi người
có bao nhiêuMà tình sầu
vô lượngCòn chi
trong giả tướngHay một vết
chim bay!Nhịp năm chữ. Bài
này được Cung Tiến phổ nhạc, hình như trước Phạm Duy với Ngày xưa Hoàng Thị,
nhịp bốn chữ. Nếu là bài thơ đầu tiên thì cũng hợp lý, vì ngôn ngữ mộc mạc,
không tài hoa như bài kia. Tuy vậy đã lộ ra phong cách riêng trong những câu
như:Cõi người
có bao nhiêuMà tình sầu
vô lượngNhững chữ như
"vô lượng" hay "giả tướng" của nhà Phật lần đầu được đưa
vào thơ, mà đưa tài tình. Nghệ thuật của Phạm Thiên Thư nhấn mạnh ở sự lặp lại.
Âm nhạc là lặp lại, hay trùng điệp. Trong một bài thơ ngắn, chữ chim xuất hiện
năm lần, chữ chuông bốn lần. Trùng điệp (repetition) là thứ dễ nhất mà cũng khó
nhất trong nghệ thuật tu từ. Bên cạnh chữ và nhạc điệu, thơ Phạm Thiên Thư có
hình ảnh đẹp, nhưng mang tính tượng trưng. Chẳng hạn, hoa trong thơ ông, hoa
đào, hoa lan, hoa vàng, cũng nhiều như hoa trong Thơ mới, trong thơ Chế Lan
Viên sau này, nhưng chúng hiện hữu như biểu tượng: nhà thơ không mô tả một bông
hoa cụ thể; không cảm xúc vì một cái bông riêng biệt nào; chúng xuất hiện như
cái phông (background) hay như một đại diện, gây ra các liên kết. Con người
khác nhau, cô đơn, nhưng đó chỉ là những quan sát bề mặt, vì từ trong sâu xa họ
chỉ là một.Lần lưng
còn một hạt đàoQuyết đem hạt
nọ ương vào vườn kia.Nguyện sau
cây lớn xum xuêBên đường
cho khách đi về nghỉ ngơi.Nguyện xin
trái thẫm hoa tươiLợi riêng
nhưng để người người hưởng chung.Bốn câu trên là
thơ, hai câu dưới là kệ. Nhờ liên kết trong không gian mà chúng ta có thế giới,
nhờ liên kết trong thời gian mà chúng ta có lịch sử. Mối quan hệ giữa tính nghệ
thuật và tính thông điệp không phải dễ giải quyết. Trước hết bài thơ phải được
bạn yêu mến, sau đó nó mới có thể làm bạn thay đổi. Thơ lục bát là loại thơ có
hệ tọa độ, người đọc có thể đóng vai người viết và ngược lại: không có sự khác
biệt lắm giữa sáng tạo và thưởng thức. Trong nghi lễ và phong tục, con người
trở lại với nhạc điệu, vì vậy mà có hai chữ thơ ca, làm sống lại tình yêu đối
với cuộc sống. Thơ Phạm Thiên Thư, cũng như nhiều nhà thơ ở miền Nam thời ấy,
sử dụng nhiều thơ có vần. Thực ra, về hình thức, như thế là cũ. Chim chóc, suối,
hoa, rừng, cũng là những hình ảnh không có gì mới, nhiều thi nhân đã nói, nhưng
đến Phạm Thiên Thư chúng trở thành thiêng liêng.Lớn lên giữa
núi xanh rìCỏ hoa như
thể tứ chi cận kềChữ tứ chi cũng là
thần tình. Ẩn dụ là liên kết hình ảnh có tính linh cảm giữa hai sự vật, là hoạt
động vô thức, bạn không biết tại sao, có những mạch ngầm bên dưới không hiểu
được, những mạch ngầm ấy được chia sẻ bởi nhiều người. Phép ẩn dụ vừa cần mới
lạ, gây ngạc nhiên, nhưng cũng phải chừng mực, dễ hiểu. Không những "động
hoa vàng" là câu chuyện về "gã" bỏ quan trường về, mà còn là
hình ảnh của con người bơ vơ đi tìm nguồn cội. Ẩn dụ của Phạm Thiên Thư lớn,
đẹp, hòa hợp với tâm thức người Việt, trong một xã hội loạn lạc.Ngày xưa áo
nhuộm hoàng hônDáng ai cắp
rổ lên cồn hái dâuTiếng nàng
hát vọng đôi câuDừng tay viết
mướn lòng sầu vẩn vơLều tranh
còn ủ chăn mơMối tình là
một bài thơ vô đềẨn Lan ơi!
Mái tóc thềGió Xuân
nay có vỗ về suối hươngĐêm nao ngồi
học bên tườngNến leo lét
lụi, chữ vương vắt chìm(Đoạn trường vô
thanh)Thơ tình không tạo
ra niềm hy vọng giả dối nào: chúng đều buồn. Vì hầu hết tình yêu sẽ thất bại.
Con người chấp nhận thất bại trước số phận nhưng không bỏ cuộc, mà suốt đời săn
đuổi ý nghĩa của tồn tại, ý nghĩa của tình yêu, của đau khổ. Một chủ đề thường xuyên
của Phạm Thiên Thư là mối quan hệ giữa tình yêu và cái chết, cuộc sống và sự
lụi tàn. Xoay quanh chủ đề ấy, phong cách nghệ thuật của ông ngày càng rõ nét.Hè sang phượng
nởRồi chẳng gặp
nhauÔi mối tình
đầuNhư đi trên
cátBước nhẹ
mà sâuMà cũng nhòa
mauTưởng đã
phai màuĐường chiều
hoa cỏMười năm rồi
NgọTình cờ
qua đâyCây xưa vẫn
gầyPhơi
nghiêng ráng đỏÁo em ngày
nọPhai nhạt
mấy màu?Bài thơ nói về sự
vô vọng, sự trống rỗng, cuộc trò chuyện giả tưởng giữa hai người. Thực ra chưa
phải là tình yêu mà là ước muốn, theo đuổi, tìm kiếm, chia ly, sự im vắng của
kỷ niệm được ngôn ngữ bắt giữ, trở thành một thế giới không thể hiểu được, trở
thành lời thì thầm độc thoại. Đôi khi bài thơ tựa như cách diễn tả những cảm
xúc khác nhau, thăm dò những tình huống trái ngược, nhờ vậy tạo ra đáp ứng ở
người đọc. Chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn là
khuynh hướng lớn của thơ miền Nam thời kỳ Phạm Thiên Thư, bên cạnh khuynh hướng
hiện thực và khuynh hướng hiện sinh. Trong khi ở ngoài Bắc cùng thời nó đã bị
thay thế bởi chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì trong Nam sau một thời
gian lùi bước, có sự quay trở lại của phong cách lãng mạn, mà Phạm Thiên Thư là
tiêu biểu. Nhưng đó là một chủ nghĩa lãng mạn mới, hiện đại hơn; và tình
yêu trong thơ Phạm Thiên Thư cũng pha màu siêu thực, là những thử nghiệm: tình
yêu tuổi học trò ở một người đã qua giai đoạn ấy, tình yêu trần tục ở một thiền
sư, tình yêu của cổ nhân trong con người hiện đại. Đó là tình trạng hưng cảm
kèm với lo âu, lo âu về bản thân mình và về đối tượng hướng tới, bề ngoài gần
gũi với thiền, mà bên trong là sự lo lắng. Thực ra:anh trao vội
vàngchùm hoa mới
nởlà những câu phi
thời gian. Không còn cũ hay mới. Cũng như:nhưng mỗi
năm mỗi vắngngười thuê
viết nay đâu(Vũ Đình Liên)Nhiều nhà thơ
đương đại tránh xa xúc cảm. Kể ra cũng phải, thế giới ngày nay đòi hỏi một cách
biểu hiện khác cho những tình cảm mới, giữa những người sống không quá khứ,
không lý tưởng, quay đảo trong cơn lốc của chủ nghĩa tiêu thụ, ngày càng xa
nguồn cội. Trong hoàn cảnh ấy, Phạm Thiên Thư là người đại diện cuối cùng của
một không khí tiền chiến kéo dài. Kỳ lạ thay, ngay trong chiến tranh, cận kề
cái chết, con người có thể sống đẹp như huyễn mộng. Có một cố gắng phối hợp
giữa các ý tưởng luân lý hay triết học và sự giản dị có tính thơ ca, nhưng
không phải khi nào Phạm Thiên Thư cũng thành công và đạt đến sự hài hòa.Con ơi con
ngủ cho lànhChắt chiu nguyện ước gửi vành
trăng nonMẹ nghèo còn tấm lòng sonGiờ gieo câu đố, con tròn mộng
sauThẳng gì hơn những thân cauMềm gì hơn những dây trầu leo
quanh(2009)Tuy vậy, mười bài
Đạo ca của ông là một thành tựu xuất sắc, được Phạm Duy phổ nhạc, và nghe nói
Thái Thanh thích hát nhất.Xưa em là
kiếp chimChết mục
trên đường nhỏAnh làm cội
băng maiĐể tang em,
chờ mấy thuởXưa em là
chữ biếcNằm giữa
lòng cuốn kinhAnh là thiền
sư buồnNgồi tụng
dưới ánh trăngTình cảm tác giả
chất phác, mà ngôn ngữ thì không.Cái chết không chỉ
là sự chấm dứt đời sống mà còn là khởi đầu của một loại thời gian khác. Chúng
ta đến đó, gần bờ vực, biết rằng bên kia mọi việc đã thay đổi, có người than
khóc, có người kể chuyện, hát những bài hát. Bài Em đi lễ chùa của Phạm Thiên
Thư là một trong những bài thơ đặc sắc nói về cái chết. Hình như người kể là
một tu sĩ trẻ, và nhân vật nữ là có thật. Nó nhắc tôi nhớ đến bài của Huyền
Kiêu:Hạ đỏ có
chàng tới hỏiEm thơ chị
đẹp em đâuChị tôi hoa
trắng cài đầuĐi bắt bướm
vàng ngoài nộiTất cả sức nặng
của tình yêu, chiều sâu của cái đẹp, sự tiếc nuối, lòng thương xót, quyện vào nhau.
Bài thơ là lời ai điếu cho người ra đi, nhưng cũng là tiếng cầu kinh, giúp một
linh hồn sớm về cõi khác. Về đâu?Sao ta biền
biệt chưa vềLưng đồi
sim tím bốn bề chim caJoseph Huỳnh Văn
viết trong tập Động hoa vàng: "tìm về cái muôn thuở - muôn nơi cũng có
nghĩa là không về đâu cả, nên trong thơ, người thi sĩ biết rõ điều nghịch lý
đó, hiểu rằng chỉ còn có cách về, chỉ còn có những lời đẹp cho giấc mộng không
bến bờ. Những chữ tìm tới giấc mộng không bến bờ không ràng buộc thường có vẻ
đẹp hững hờ đạm bạc." Thơ Phạm Thiên Thư thực ra có nhiều chữ và cách nói
cũ, sáo, chứa một thứ triết lý đạo Phật bình dân; mà ông cũng không cố tỏ ra là
bậc chân tu biết nhiều hiểu rộng. Sự việc một thiền sư làm thơ tình và thơ hay
đã gây dư luận sôi nổi một thời. Sau Phạm Thiên Thư, hiện tượng ấy không lặp
lại. Thơ ông là một thứ thơ thiền nổi loạn. Câu mở đầu của tập Động hoa vàng
trong đoạn đánh số một:Mười con nhạn
trắng về thaNhư lai thường
tụ trên tà áo xuânVai nghiêng
nghiêng suối tơ huyềnĐôi gò đào
nở trên miền tuyết thơmThơ thiền mà tình
tứ, không những tình tứ mà nhục thể, gợi tình, táo bạo. Độc giả lúc nào cũng
thích ăn trái cấm. Nguyễn Du từng dạy: tu là cội phúc, tình là dây oan, nhưng
vị thiền sư này làm ngược lại, ông kết hợp hai thứ. Ông nổi tiếng một phần vì
vậy. Nhưng ta cần nhớ rằng những tài năng thực sự cao hơn dư luận. Trong khi
tác giả nói về tình yêu thì cũng nói về tính nguyên thủy của tạo vật.Đoạn trườngSổ gói tên
hoaXưa là giọt
lệ nay là hạt châuĐây là Đoạn trường
vô thanh, ra đời năm 1972, được tặng giải thưởng văn chương toàn quốc 1973. Tác
giả viết tiếp Đoạn trường tân thanh, như một tri âm của Nguyễn Du đến sau mấy
trăm năm. Mê Kiều đến thế là cùng. Năm 1992, Phạm Thiên Thư viết: "Một đêm
nằm mơ, ở đất Tân Bình - gặp Người Đẹp tặng tấm gương soi và cây bút. Tỉnh dậy,
mới biết ấp trang Vô Thanh trên ngực mà ngủ quên - Tự nghĩ mặt mày mỗi ngày còn
phải rửa lại, huống chi là hư truyện đã viết cách nay trên hai mươi năm - đọc
lại lắm chỗ chẳng được như lòng... Nên đêm nay, khêu đèn dầu hao, tựa mảnh trăng
tròn hơn ngoài cửa, mượn Người Đẹp ngọn ý bút, nhuận sắc lại Vô Thanh, cốt để
tự soi mình vậy - Nay thêm đôi dòng tạ tội. 21-4-1992".Non Hồng
núi Tản chim caSông Hà
sông Cửu la đà dòng xuôiNúi sông
chiếu diện tinh khôiNgọc lên mặt
biển, vàng trôi mạch rừngMừng Người
Trời Đất tưng bừngRuộng Lam
trâu kéo một vừng long lanhNhững câu thơ cuối
nhắc lại niềm mơ ước của thi sĩ: đất nước hòa bình, xã hội thanh bình, thiên hạ
thái bình. Phạm Thiên Thư viết rất nhiều thơ trong một giai đoạn ngắn, những
năm bảy mươi, điều này làm người đọc khó theo dõi. Tôi liệt kê lại cho những
bạn quan tâm:
- Động hoa vàng (1970)
- Hội hoa đàm (1971)
- Đạo ca (1972)
- Đoạn trường vô thanh (1972)
- Suối nguồn vi diệu - Kinh thơ (1973)
- Ngày xưa người tình (1974), trong đó có các bài Ngày xưa Hoàng thị và Em lễ chùa này.
- Trại hoa đỉnh đồi (1975)
- Những lời thược dược (2007)
- Hát ru Việt sử thi (2009)
Sau năm 1975 ông
ít xuất hiện, thế hệ sau chỉ biết đến ông qua vài ca khúc được Phạm Duy phổ
nhạc; nhạc ấy cũng bị cấm phổ biến nhiều năm. Đối với nhiều người khác, thơ ông
quá cảm xúc, trong khi thời đại ngày trở nên khách quan, hài hước. Thế giới của
ông là một thế giới đẫm vị thiền, phảng phất tình yêu thơ mộng, sầu muộn nhưng
không thảm khốc. Tôi nhớ tập thơ Động hoa vàng khổ nhỏ màu vàng trong sáng, do
một người bạn gái tặng, có in lời của Thích Minh Châu và bìa sau vẽ minh họa
thiền sư Phạm Thiên Thư thật đẹp.Thời thế thay đổi,
chàng thi sĩ của Hoàng thị cởi áo cà sa hoàn tục; người yêu thơ không mấy khi
thấy ông nữa. Điều đó chứng tỏ thơ Phạm Thiên Thư cũng như nhạc Phạm Duy là sản
phẩm của một hoàn cảnh xã hội, một thứ kỳ hoa dị thảo chỉ nở trong một giai
đoạn khi những giấc mơ được phép sống lại, các thế giới được phép giao thoa. Thực
ra Phạm Thiên Thư cũng có cố gắng viết theo yêu cầu mới, sau 75, nhưng không
được chú ý mấy. Tôi thấy tiêu biểu là mấy bài như sau đây.Trong lòng
đất thâm sâuThốt một
nhành thược dượcĐóa hoa như
giọt nướcLóng lánh hồn
thiên thâuTừng cánh hồng
đan nhauXòe những lời
bất tậnLòng đất
già lận đậnƯớp thơm những
chùm hoaHoa nhiệm mầu
trong taĐất nhiệm mầu
trong nụCây dương cầm
vũ trụĐất góp
khúc tình caThược dược
hồng môi hátGió tơ trời
bay điCây đàn
tình xanh ngátMười ngón đời
vân viAi biết đất
nói chiTrong những
lời thược dượcĐóa hoa như
giọt nướcLóng lánh hồn
thiên thâuTrên môi
nàng ca sĩNhững cánh
tình bay mau(Những lời thược
dược. 19-12-1988)Mai em ra
trườngĐi xa dạy họcHứa dạy trẻ
đọcTrang sử đấu
tranhCủa dân tộc
mìnhMiệng cô
xinh xinhGiảng về
cách mạngVà trên vầng
tránNgời ánh
quang vinhEm đem bình
minhVề từng mắt
trẻAnh tưởng
tượng thôiĐã rưng nghẹn
lệYêu em vô kểCô giáo
ngày maiCon đường
tương lai(Ngày mai) (1)Thơ như thế thì
cũng chưa phải là cách mạng lắm. Có lẽ Phạm Thiên Thư giống những trí thức miền
Nam trước, ngây thơ, thánh thiện, cũ. Không khí lãng mạn đã chết, thiết chế xã
hội nâng đỡ nó không còn, một vài nhà văn vẫn viết nhưng Phạm Thiên Thư gần như
đã xong, dù có xuất bản vài tuyển tập khác, và có lần xuất hiện bên cạnh Phạm
Duy, trong một chương trình sân khấu rực rỡ. Vậy, thơ giúp người ta sống cuộc
đời mình như thế nào?Một đêm nằm
ngủ trong mâyNhớ đâu tiền
kiếp có cây hương trờiBài thơ tựa như người
được đánh thức, giây phút bừng sáng chiếu rọi khắp trang giấy. Bất chấp những ý
niệm cũ, những chữ đã được dùng nhiều lần, trở nên mòn sáo, sự quyến rũ của
Phạm Thiên Thư vẫn còn đó. Ông nhiều lần nhắc đến hình ảnh từ quan:này mộng ảo
trả về mộng ảokhăn gói
lên, treo ấn từ quanMột bài thơ hay
làm ta thao thức, trở đi trở lại, tự hỏi, đặt ta vào dòng chảy của đời sống.
Thơ giải phóng con người khỏi thế giới đầy tin tức, những ứng dụng hữu ích, ở
đó con người đầu hàng các phương tiện, trở thành một phần của các phương tiện
ấy. Thơ đi ra từ nhịp điệu vũ trụ, bốn mùa, nhịp điệu cơ thể. Thơ làm cho những
kinh nghiệm riêng tư chốc lát trở nên có thể hiểu được và tái lập được. Tái lập
là điều quan trọng trong các thí nghiệm khoa học và cũng quan trọng không kém
đối với nghệ thuật. Một bài thơ hay mang lại cảm giác tương tự, dù bạn đọc ở
đâu, lúc nào. Thơ mang chúng ta vượt qua ranh giới giữa hữu thức và vô thức,
giữa quá khứ và hiện tại, giữa người nói và người nghe.Đầu mùa
Xuân cùng em đi lễLễ chùa này
- vườn nắng tung bayVà ngàn lau
- vàng màu khép népBãi sông
bay - một con bướm đẹpCái chết là ngưỡng
cửa, không những cho người chết mà còn cho người sống. Người sống mới là nạn
nhân của cái chết. Kẻ thương tiếc nhận ra cái bóng của sự chết, như nhìn thấy
vực thẳm, chia lìa, đoán trước được nó, và sự tiên đoán ấy làm họ lo âu, khốn
khổ.Trời cuối
thu rồi em ở đâuNằm trong đất
lạnh chắc em sầu(Đinh Hùng)Thơ Phạm Thiên Thư
khác thế, cũng dẫn người đọc đi qua mất mát, đi qua cái chết ấy, nhưng hồi
tưởng mà không sợ hãi. Đó là thơ của sự đau buồn sâu xa nhưng dịu dàng, sự
kháng cự số phận theo kiểu khác. Nhà thơ mang lại hình ảnh luân chuyển của sự
sống và cái chết, của hạnh phúc và đứt gãy, như nhịp tuần hoàn vũ trụ. Sự lặp
lại của các chữ trong thơ khi nói về cái chết chính là sự lặp lại của mùa.Tàn mùa
Đông vào chùa bỡ ngỡTiễn đưa em
trong áo quan nàyTừng cội
hoa - trầm lặng thương nhớTóc em xưa
- tơ óng như mâyBài thơ của Phạm
Thiên Thư có đủ bốn mùa xuân hạ thu đông.Cho đến khi nào
chúng ta chấp nhận nó, cái chết, chấp nhận thua cuộc, chúng ta chịu lìa bỏ hạnh
phúc tạm bợ trần gian, lúc ấy mới có thể có thức tỉnh. Tuy là một thiền sư,
Phạm Thiên Thư không nhắc nhiều đến các lý thuyết Phật giáo, và về mặt này, ông
hồn nhiên. Nếu có ý thức làm một tu sĩ, ông sẽ có những câu thơ nặng rao giảng,
khuyên nhủ, cũng như trường hợp các thiền sư khác, như thơ Nhất Hạnh. Nhưng thơ
không phải là tiếng nói của triết học. Khác với một số nhà thơ đi trước, ông
không đẩy tình cảm của mình, yêu ghét, hạnh phúc, đau khổ, lên đến cực điểm.
Không có những câu ca ngợi diễm ảo:Anh nhớ em
ngồi đây tóc ngắnMà mùa thu
dài lắm ở chung quanh(Nguyên Sa)Thơ tình Phạm
Thiên Thư cũng không nặng về nhục thể như Bích Khê, không thần bí như Đinh
Hùng, không đau đớn như Du Tử Lê, không bất cần như Nguyễn Tất Nhiên. Đó là sự
cân bằng giữa thực và ảo, giữa hiện thực và siêu thực, một thứ chủ nghĩa lãng
mạn hiện đại. Trong một vài năm ngắn ngủi, Phạm Thiên Thư trung thành với câu
chuyện tình yêu của mình. Nhưng có khi ông càng viết, người đẹp của ông càng
trở nên một thánh nữ:Khép mắt ta
nhìn emThấy hình
hài diễm lệĐứng trên
ngàn sóng bểTrấn át
ngàn phong baHình ảnh ấy không
thuyết phục. Tôi e rằng nàng thơ (Muse) của các thi nhân không thích cái gì quá
siêu phàm, mà chỉ thích bay la đà mặt đất? Bốn chủ đề: tình yêu, đạo pháp, cái
chết và thời gian, thiên nhiên và giấc mơ thái bình. Ngôn ngữ Việt trong thơ
ông trở lại với sự trong sáng của thơ có vần, đôi khi như lời hát ru, đôi khi
mạch lạc như sự thức tỉnh. Một thứ chủ nghĩa sinh thái nguyên sơ, gần với tôn
giáo nguyên thủy.nền chợ xưa
giờ họp lách lauhỏi cô hàng
xén giạt về đâuđêm đêm bầy
đóm xanh từng chiếctụ giữa nền
hoang nhóm lửa sầu(Đom đóm)Tình yêu dưới mái
hiên chùa là sự táo bạo vừa phải, cũng thách thức xã hội nhưng được dư luận
chấp nhận, vì hình như đó chỉ là tình hư ảo. Việc dùng nhiều điển tích hoặc
giai thoại cũng là một đặc điểm thú vị.Ván cờ bày
trắng bông đàoSao lên núi
thẳm trăng vào chén không.Thiên nhiên có mặt
thường trực. Dù viết về đề tài gì, thơ ông cũng được đặt vào phong cảnh, cây
cối, chim chóc, đất trời, bằng một ngôn ngữ có phần tượng trưng. Không thấy rõ
trong thơ các ý thức về xã hội chính trị, thậm chí chiến tranh cũng chỉ hiện ra
thấp thoáng. Thế nhưng niềm mơ ước đối với hòa bình ở ông thật lớn. Có ba khái
niệm khác nhau: hòa bình là để phân biệt với chiến tranh, không có chiến tranh
tức là hòa bình, không có hòa bình tức là chiến tranh. Thanh bình tất nhiên
phải có hòa bình nhưng là một tình trạng tốt đẹp hơn, không có xáo trộn, chính
sự phiền hà. Nhưng thái bình mới là tình trạng lý tưởng, ngày xưa được hiểu như
thời thịnh trị, chính quyền liêm chính, trí thức trong sạch, người dân sống tự
do, vui vẻ, lành mạnh. Thơ ông là niềm ao ước về một xã hội thái bình như vậy,
lời kêu gọi trở về nguồn cội, đi tìm cái vĩnh viễn trong sự chuyển dời, là lời
cầu nguyện dành cho quê hương. Đó là một trong vài chủ đề lớn nhất của Phạm Thiên
Thư. Kết thúc trường thi Động hoa vàng, tác giả nói lại giấc mơ của mình lần
nữa, về non nước cũ.Mai sau trời
đất thái bìnhVề lưng núi
phượng một mình cuồng caGây dàn
thiên lý vàng hoaLên non cắt
cỏ lợp nhà tụ mâyPhạm Thiên Thư là
một trường hợp đặc biệt, về xuất thân và thi pháp. Thơ ông giàu nhạc tính, di
chuyển giữa những trầm tư, giấc mộng, độc thoại và đối thoại, ngôn ngữ thơ ấy
giản dị nhưng không chất phác, vần điệu cũ nhưng phối hợp chữ rất mới, và ý tứ
thoáng đãng, tác động đến người đọc trong mênh mông các liên kết văn hóa. Người
đọc về sau còn nhớ đến thơ ông vì đó là suối nguồn trong lành tắm mát cái tôi
của họ. Cái tôi trong chủ nghĩa lãng mạn tiền chiến là cái tôi cô độc lẻ loi,
với trục tọa độ một chiều, thời gian qua đi không trở lại. Lòng yêu đời là sự
khao khát vội vã, tiếc nuối vì thời gian vụt mất, chóng mặt:Hỡi xuân hồng
ta muốn cắn vào ngươi(Xuân Diệu)Cái tôi trong chủ
nghĩa lãng mạn mới như trường hợp Phạm Thiên Thư là cái tôi trở lại với thời
gian như những chu kỳ, có sinh có diệt, có được có mất, trong lẽ tuần hoàn.
Thấy được như thế nên thi nhân tiếc nuối mà không đau đớn, yêu đương mà không
vội vã. Đối với cái chết, cái mất mát, những bi kịch con người, câu trả lời của
đạo, của thơ là trở về với uyên nguyên. Nhà thơ có lần tâm sự: “Trước khi
viết, tôi ăn chay, nhập thiền, cầu nguyện và viết. Tôi không nghĩ đó là thứ
ngôn ngữ của mình mà cảm giác có một phép mê dụ, ảnh tượng vô hình nào đó dụ
dẫn. Khi tĩnh tâm đọc lại từng trang thơ, tôi không nghĩ là mình có thể viết
được như vậy”. Nhờ những điều kiện xã hội thời ấy, đầu những năm bảy mươi thế
kỷ trước ở miền Nam, Phạm Thiên Thư đã viết được một loại thơ phi chính trị,
phi lịch sử, "như có một phép mê dụ". Cõi thơ bát ngát của ông đặt
trong bối cảnh loạn lạc ấy vốn đã là một thứ gì siêu thực.Tường thành
cũ phiến bia xưaHồn dâu biển
gọi trong cờ lau bayChiều xanh
vòng ngọc trao tayTặng nhau
khăn lụa cuối ngày ráng phaNhà thơ tìm ra
tiếng nói của mình trong tự do, tìm thấy căn nhà của mình trong chính ngôn ngữ
thơ ca mà ông sáng tạo. Mất ngôn ngữ ấy, mất căn nhà ấy, ông không còn là ông
nữa.Ông chuyển qua làm
nghề hốt thuốc chữa bệnh.Ngày xưa có tục con cầuKhẩn xin
Trời Phật cho đầu thai nhiLòng thành
như ngọc lưu lyLàm lành
lánh dữ suốt kỳ mang thaiPhạm Thiên Thư chưa bao
giờ tỏ ra có ý định làm mới nghệ thuật. Mặc dù trong một cuộc phỏng vấn đâu đó,
thi sĩ ngụ ý rằng ông vào chùa là để trốn quân dịch, và quả thật sau 75 cũng đã
hoàn tục, nhưng thơ ông thấm đẫm sâu sắc vị đạo, hương thiền. Dòng thơ ấy mở
rộng cánh cửa cho mọi người bằng ngôn ngữ nhiều giao tiếp, chính xác, đẹp.
Người đọc không cần phân vân suy nghĩ. Đó là loại thơ giả tưởng rằng người đọc
và kẻ sáng tạo cùng trong một truyền thống văn hóa. Cũng do đó sức hấp dẫn do
tác động liên văn bản là sâu xa. Nhân vật và tác giả đổi chỗ cho nhau. Đừng
quên rằng thơ viết trong thời kỳ lửa đạn, vì vậy còn cảm giác thanh bình tạm
bợ, giữa sự đứt gãy của chủ nghĩa hiện đại, sự phân rã xã hội, vết thương tình
tự dân tộc. Còn lâu Phạm Thiên Thư mới tới gần chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng
hoàn cảnh của một xã hội dịch chuyển mang lại cho thơ ông tính chất vô trung
tâm, tính rời rạc, không cố định, gần như vô mục đích.Thơ hôm nay đã đi
xa hơn thời của Phạm Thiên Thư, tất nhiên, vì thời đại thay đổi, đa dạng hơn,
mặc dù thế người đọc sẽ còn nhớ đến ông, nghe nhạc phổ thơ, đọc lại, vì họ tìm
thấy ở đó dấu vết của một đời sống khác, ngôi nhà của một tâm thái khác, không
phải chỉ nhớ tiếc mà còn là tham chiếu cho những giá trị hiện tại. Chúng ta
chứng kiến sự trở lại trong thơ Việt ngày càng rõ cái tôi trữ tình sau một thời
kỳ dài vắng mặt trước các hồi ký, tiểu thuyết, trường ca, thơ phản ảnh hiện
thực nông cạn, lời kêu gọi; cái tôi này sẽ làm nên giọng điệu chính của thơ hôm
nay, và không phải là không có một mối liên hệ ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa nó
và thơ thời kỳ những năm sáu mươi bảy mươi ở miền Nam. Sau mỗi khúc quanh, thơ
hình thành một dòng chảy mới, mang theo nó những yếu tố nhận được từ gia tài
quá khứ. Việc nhớ lại Phạm Thiên Thư chỉ bằng một vài ca khúc là điều đáng
tiếc, người đọc thơ cần đọc ông nhiều hơn, một trong những nhà thơ quan trọng
của nền văn học chiến tranh mà ở ngoài chiến tranh. Thơ Phạm Thiên Thư không
mới lắm, mà có lẽ ông cũng không có ý định làm mới, nhưng trước ông và sau ông,
chẳng ai viết thế. So với nhiều nhà thơ cùng thời, những thành tựu của ông khó
nắm bắt hơn, khi miền Nam phải đối diện với những vấn đề lớn như chiến tranh,
hỗn loạn. Đó là tiếng hót của loài chim quý, tiếng hót ngắn ngủi, cuối cùng,
ngân lên trong những ngày cuối, vì vậy mà buồn đau, ngọt ngào, thương xót. Cùng
thời với Phạm Thiên Thư là Du Tử Lê; cả hai đều viết thơ tình. Cần nhớ rằng
trong suốt một thời gian dài thơ miền Nam chính yếu không phải là thơ tình, mà
là thơ về thân phận, quê hương, chiến tranh. Sau những năm thanh bình đầu tiên
thời đệ nhất Cộng hòa, của Mùa thu Paris, Áo lụa Hà đông, thơ chỉ còn là dằn
vặt khôn nguôi về số phận, đất nước, nội chiến. Không phải tình cờ mà ông và Du
Tử Lê cùng được trao giải thưởng văn chương toàn quốc VNCH năm 1973, về bộ môn
thơ (chính xác là Du Tử Lê về thơ, Phạm Thiên Thư về trường thi). Nếu tôi không
lầm, đây là giải thưởng toàn quốc cuối cùng. Như điềm báo hiệu:Cuối xuân
ta lại tìm quaTiểu thư
chi mộ thềm hoa dại tànSớm thu ta
đánh đò sangBên đường cỏ
mộ lại vàng cúc hoaThân xác của người
nữ hay của giấc mơ tự do?Thơ Phạm Thiên Thư
còn là lời tri ân đối với đời sống. Nhớ lại tức là sống, quên đi tức là kết
thúc. Khi một người chết đi, không được ai nhớ lại, đó là biến mất vĩnh viễn.
Khi một người chết đi, được người khác nhắc lại, đó là lúc người ấy trở về.
Không cách nhớ nào đẹp bằng cách nhớ của thơ ca. Vì ký ức ấy là ký ức bền vững,
chưng cất, thăng hoa. Chúng ta nhớ lại một người tình, một quãng đời, một xã
hội, một bài thơ, hầu hết là vì ân huệ mà người ấy, quãng đời ấy, nguồn thơ ấy,
bầu khí quyển ấy, trong đó ta hít thở như khí trời, đã từng ban tặng cho ta.Nguồn tham
khảo:
(1) Toàn bài Ngày
Mai. Phạm Thiên Thư, Ngày xưa người tình, NXB Văn nghệ, 2006.
(2) Tiểu
sử:
"Phạm
Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long, sinh ngày 1-1-1940 xuất thân trong một gia
đình Đông y. Quê cha: xã Đình Phùng, Kiến Xương, Thái Bình. Quê mẹ: xã Trung
Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên, Hải Phòng. Trú quán: Trang trại Đá
Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương (1943-1951), Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh (1954 đến
nay).
Từ 1964-1973: Tu sĩ Phật giáo, làm thơ. Năm
1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường vô thanh. Năm 1973-2000: Nghiên
cứu, sáng lập và truyền bá môn Dưỡng sinh Điển công Phathata (viết tắt chữ
Pháp Thân Tâm).
Tác phẩm đã in: Thơ Phạm Thiên Thư (1968); Kinh Ngọc (thi hóa Kinh Kim
Cương); Động Hoa Vàng (thơ, 1971); Đạo ca (Nhạc Phạm Duy); Hậu Kiều - Đoạn trường vô thanh (1972); Kinh Thơ…
(https://www.thivien.net/)
(3) Đặng Tiến:
Ngày xuân tìm động hoa vàng (http://tapchisonghuong.com.vn/)
(4) Vĩnh Hảo: đọc
thơ Phạm Thiên Thư (https://thuvienhoasen.org/).
25/5/2020Nguyễn Đức Tùng
(1) Toàn bài Ngày Mai. Phạm Thiên Thư, Ngày xưa người tình, NXB Văn nghệ, 2006.
(2) Tiểu sử:
"Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long, sinh ngày 1-1-1940 xuất thân trong một gia đình Đông y. Quê cha: xã Đình Phùng, Kiến Xương, Thái Bình. Quê mẹ: xã Trung Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên, Hải Phòng. Trú quán: Trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương (1943-1951), Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh (1954 đến nay).
Từ 1964-1973: Tu sĩ Phật giáo, làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường vô thanh. Năm 1973-2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn Dưỡng sinh Điển công Phathata (viết tắt chữ Pháp Thân Tâm).
Tác phẩm đã in: Thơ Phạm Thiên Thư (1968); Kinh Ngọc (thi hóa Kinh Kim Cương); Động Hoa Vàng (thơ, 1971); Đạo ca (Nhạc Phạm Duy); Hậu Kiều - Đoạn trường vô thanh (1972); Kinh Thơ…
(https://www.thivien.net/)
(3) Đặng Tiến: Ngày xuân tìm động hoa vàng (http://tapchisonghuong.com.vn/)
(4) Vĩnh Hảo: đọc thơ Phạm Thiên Thư (https://thuvienhoasen.org/).
25/5/2020
Nguyễn Đức Tùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét