Nguyễn Du - Lịch sử và tiểu thuyết
(Đọc Nguyễn Du, tiểu thuyết lịch sử
của Nguyễn Thế Quang. Nxb
HNV 2010) Đọc tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang, tôi
có nhiều điều thú vị và ngẫm nghĩ định viết. Nhưng khi đọc những ý kiến của nhà
văn Nguyễn Khắc Phê, nhà văn Hà Quảng và nhà giáo Lê Thái Phương in ở cuối cuốn
tiểu thuyết này, tôi thấy cuốn sách đã được khẳng định giá trị. Rất nhiều lời
khen dành cho tác giả và cuốn sách. Thành ra tôi đắn đo khi viết những dòng
này. Tôi sẽ không nhắc lại những giá trị của cuốn sách đã được các tác giả trên
khẳng định. Tôi lần theo ý thức sáng tạo của tác giả để đọc tác phẩm theo một
góc nhìn khác. Ý kiến của nhà văn Nguyễn Thế Quang khi trả lời phỏng vấn của
nhà văn Nguyễn Khắc Phê gợi cho tôi nhiều điều ngẫm nghĩ: ”Quang chỉ là
chỉ là nhà giáo mê văn chương và kính trọng cụ Nguyễn Du, muốn viết về cụ để
trước hết chia sẻ cùng đồng nghiệp và các em học sinh; Quang cũng muốn ký
thác vào đó những suy ngẫm của mình trước những thăng trầm, “dâu bể” của
cuộc đời, của lịch sử đất nước. Ngoài ra Quang cũng rất tự hào về mảnh đất núi
Hồng sông Lam đã sản sinh một con người có cốt cách và tài năng bậc ấy” (1)
1. Đôi điều băn khoăn
Tác giả đã nói rất rõ thái độ và mục đích sáng tác tiểu thuyết
lịch sử Nguyễn Du. Ông yêu quý và kính trọng Nguyễn Du, một con người có cốt
cách và tài năng vượt bậc. Ông ”cũng rất tự hào về mảnh đất núi Hồng sông Lam
đã sản sinh” ra Nguyễn Du.
Nguyễn Thế Quang đã dành tất cả bút lực, tâm huyết của mình để
ca ngợi Nguyễn Du. Và khắc họa nhân vật Nguyễn (tên tác giải gọi Nguyễn Du) qua
góc nhìn của nhiều nhân vật khác. Tất cả cùng cất lên lời tụng ca. Những người
trong gia tộc cùng với con cháu Nguyễn hết lòng thán phục Nguyễn là bậc kỳ
tài (tr.259). Dân gian, làng quê khắp chốn đọc Kiều, lẩy Kiều làm cho Nguyễn
rất thích (tr.391). Đặc biệt, tác giả viết hẳn một chương hai cha con vua Gia
Long, Minh Mạng dành cho Nguyễn sự cảm thông sâu sắc và cảm tình đặc biệt
(Chương 2, phần kết). Gia Long nhận xét: ”Nguyễn Du - con Xuân quận công, tài
trí đức độ hơn người”; Gia Long say mê đọc Kiều, tâm đắc gật gù: ”Tuyệt kỳ!
tuyệt bút!”; ”Văn chương như thế thật là tuyệt bút”. Hoàng thái tử Đảm
(vua Minh Mạng) cũng phụ họa với vua cha: “Con người ấy văn chương trác
tuyệt mà hiểu biết sâu xa”.
Trong suốt cuốn tiểu thuyết, người đọc có thể bắt gặp nhiều lần
những lời có cánh tác giả dành cho Nguyễn như vậy. Trong đêm uống rượu dưới
trăng, Nguyễn Thiện quan sát thần thái của Nguyễn: ”khuôn mặt chú dưới ánh
trăng ửng hồng trông đẹp như một tiên ông đạo cốt vậy” (tr.245), bác
Bảy - Đệ nhất An Nam ngũ tuyệt. (tr.247). Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường,
hai đại công thần của Gia Long cùng bị giam trong nhà ngục. Hai kẻ thất sủng ấy
cùng uống rượu cay đắng luận bàn thế sự. Thành luận về Nguyễn: ”Cậu ấy không
phải là con người thường: vẫn làm quan, vẫn có cơm ăn tuy không nhiều như
chúng ta nhưng Nguyễn vẫn là Nguyễn, không ham hố, không tranh giành, danh lợi
không làm bẩn được, uy quyền không làm cậu ấy sợ mà cũng không quyến rũ được,
giữa bão táp vẫn bình thản, không dao động, không chìm, lặng lẽ viết để thỏa
chí” (Tr.297).
Tôi thực sự hoài nghi những lời tụng ca của Nguyễn Văn Thành
(1758-1817) dành cho Nguyễn. Chỉ những người “chọc trời khuấy nước, trí
dũng có thừa”, có tấm lòng giúp dân giúp nước (như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát
sau này) mới xứng với lời tụng ca ấy. Trong thực tế, người ta chỉ ca ngợi Nguyễn
Du về tài văn chương truyện Kiều, còn hành trạng làm quan của ông không có gì
đáng ca ngợi cả. Dù tác giả có miêu tả một vài vụ Nguyễn Du xử án công minh thể
hiện lòng thương dân (tr.107, 134), hoặc mở kho cứu dân (Tr.101) thì những công
việc ấy không thể coi là hành trạng phi thường được, bởi Nguyễn vừa làm vừa run
(tr.100), và việc Nguyễn ra làm quan với Gia Long, được thăng chức liên tục,
Nguyễn tận tụy làm việc cho đến cuối đời, cũng đã gây nên mối hoài nghi về nhân
cách của kẻ sĩ nơi Nguyễn, trong khi cùng thời, nhiều người khác không ra làm
quan với Gia Long. Ngay trong dòng họ của Nguyễn, Nguyễn Nghi, Nguyễn Lạng,
Nguyễn Nhưng, Nguyễn Tốn, các cháu Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện cũng sống ẩn dật (tr.151)
Trong khi hết lời ca ngợi Nguyễn, tác giả lại không tiếc lời
miệt thị Lê Văn Duyệt. Tác giả gọi Lê Văn Duyệt là “tên mặt sắt” (Tr.267, 275,),
luôn dùng thủ đoạn hại người (tr313), “quan viên nào cũng sợ Duyệt như sợ cọp”(tr.306).
Đặng Trần Thường nhận xét: ”Hắn là thằng thèm khát quyền lực. Từ nhỏ đã hung
hãn, 15 tuổi hắn đã nòi ‘sinh làm trai thời loạn, không dựng được cờ đại tướng,
chép công danh vào sử sách, không phải là trượng phu’. Đánh giặc hắn đã làm được
thế. Giờ giặc tan, tuy đều đệ nhất công thần nhưng hắn là kẻ vô học chỉ biết
đánh trận…” (tr.291)
Thực ra Lê Văn Duyệt là người có tài quân sự, chính trị. Ông
dám đề nghị với Gia Long lập hoàng tôn Đán (tr 275), không lập hoàng thái tử Đảm
(vua Minh Mạng).
Là người tài giỏi, ông được giữ chức Tổng trấn Gia Định hai lần, triều Gia
Long, và triều Minh Mạng. Ông chăm lo đời sống nhân dân, trị an xứ sở. Vùng đất
Gia Định trải dài từ Bình Thuận tới Cà Mau kinh tế phát triển, đời sống nhân
dân yên ổn, no ấm. Người dân Nam Bộ hết lòng tôn kính… Cái nhìn miệt thị Lê Văn
Duyệt của tác giả quả là không khách quan và công bằng đối với lịch sử. Có lẽ
vì quá thần tượng Nguyễn Du nên ngòi bút của Nguyễn Thế Quang không giữ được sự
thăng bằng cần thiết chăng? Cũng vậy, Gia Long có công thống nhất đất nước và
thiết lập một triều đại vững mạnh bằng nhiều biện pháp chính trị không ngoan,
song ca ngợi Gia Long (tr.384, 385, 389…) như một minh quân nhân đức, thương
dân, trọng người hiền tài sáng suốt cai trị dân, có lẽ cần phải xem lại, cần có
cái nhìn khách quan, công tâm với lịch sử (dù là lịch sử trong tiểu thuyết)
Ngoài ra, để cho Nguyễn đồng thuận thái độ quyền lực của Gia
Long, tôi nghĩ, tác giả đã bắt Nguyễn quỳ mọp trước sự tàn bạo của Gia Long (tr.347,
352), còn đâu là sĩ khí? Gia Long nói với Nguyễn: “… Ta có làm nhiều điều mà
thiên hạ cho là tàn bạo, ta không muốn, nhưng ta phải làm, nếu không ta sẽ chết
và không có được giang sơn ngày nay. Tần Thủy Hoàng tàn bạo lắm phải không?
Đúng tàn bạo quá! Diệt Kiến Tần thì được, nghe lời Lý Tư mà đốt sách chôn nhà
nho và học trò thì không được. Thế nhưng không có Tần Thủy Hoàng thì Trung Hoa
không thống nhất. Điều này ngoài Tần Thủy Hoàng ra không ai làm được.
Nguyễn nghĩ: điều này thì đúng thật và hoàng thượng
là một Tần Thủy Hoàng khôn khéo hơn, biết hơn”
Trong cách giải quyết sự bế tắc tư tưởng, Nguyễn Du đã tìm thấy
con đường của riêng mình. Nguyễn Thế Quang không theo con đường ấy mà sáng tạo
một con đường khác. Tác giả đã viết một chương đầy cảm hứng miêu tả Nguyễn trước
khi nhắm mắt xuôi tay đã hướng về nước Phú Lang Sa, với lý tưởng “Tự do! Bình đẳng,
Bác ái” (tr. 420). Nghe Chaigneau Thắng (tr.407-413) nói về nước Pháp, Nguyễn bừng
ngộ về một đất nước mà người dân quyền tự do thân thể, tự do tín ngưỡng, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, “con người được đứng về phía sự thật, nói lên sự
thật, bảo vệ sự thật mà không bị vùi dập”. Nguyễn reo mừng, không sợ hãi. “Ta
đã biết được con đường sống của con người là : Tự do! Bình đẳng! Bác ái!
Ta chết cũng được rồi. Cái mà bao năm ta đau khổ, ta tìm cũng là cái
mọi người, mọi nơi tìm. Ta chưa bao giờ có cái đó. Việt Nam, Chân Lạp và cả
Trung Hoa cũng chưa có điều đó. Nhưng có một nơi - Phú Lang Sa có được điều đó.
Ôi Phú Lang Sa, mảnh đất ta chưa hề biết”(tr.418)
Cách giải quyết này của Nguyễn Thế Quang là cách nhìn của một
nhà tiểu thuyết, có thể chấp nhận được. Song trong suốt tác phẩm, viết về Nguyễn
Du và các nhân vật khác, tác giả tôn trọng và bám sát chính sử, thì cách kết
này không thể đứng vững. Bởi chuyển từ bút pháp hiện thực sang bút pháp lãng mạn
mà không có cơ sở thực tiễn thì lãng mạn ấy là không tưởng. Ở Pháp, những năm đầu
thế kỷ 19, tình hình chính trị hết sức rối. Nước Pháp chưa có một nền Cộng hòa ổn
định và đời sống dân chủ tốt đẹp. Từ sau cách mạng 1789, Napoléon đảo chính, tự
xưng hoàng đế 1804, rồi chiến tranh với các nước châu Âu và Nga. Nước pháp đế
chế trải qua nhiều biến động, nhiều lần lật đổ. Mãi đến 1870 thì nền Cộng hòa
thứ ba mới thay thế. Vì thế những điều Chaigneau Thắng nói với Nguyễn Du về một
nước Pháp “Bình đẳng, tự do, bác ái” vào những năm 1819 thật khó thuyết phục.
Bản thân Nguyễn Du khi kết thúc truyện Kiều đã tìm thấy con
đường của mình. Ông chấp nhận Thiên Mệnh, nhưng theo Phật. Phật dạy: “tự mình
là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình” (tr. 342). Nguyễn Du viết: Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa/ Thiện căn ở tại lòng ta/ Chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài. Để Nguyễn hướng về nước Pháp dân chủ, tự do, có lẽ
tác giả muốn Nguyễn đi trước thời đại? Thực tế, Nguyễn không có được tầm nhìn
này, tầm nhìn về một cuộc cách mạng chính trị. Nhân vật Từ Hải được coi là nhân
vật lý tưởng của Nguyễn Du đã phải chết tức tưởi như một thằng “hèn’ (Hùm thiêng
khi đã sa cơ cũng hèn).
Điều băn khoăn lớn nhất với người đọc trong tiểu thuyết này
là phần III Đoạn Trường Tân Thanh (tr.223-260). Nguyễn Thế Quang,
theo chính sử, cho rằng Nguyễn Du viết truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc về
(1814). Ở Bắc Kinh, Nguyễn được một Việt kiều giúp đỡ và tặng một cuốn Kim Vân
Kiều Truyện (tr.198). Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, mục
Nguyễn Du, chép: ”Ông giỏi thơ lại sành quốc âm sau khi đi sứ về có tập Bắc
hành thi tập và Truyện Thúy Kiều truyền lại đến nay“. Nguyễn Thế Quang
miêu tả, khi đi sứ về, Nguyễn xin phép về quê 6 tháng với lý do tu sửa phần mộ.
Ở quê, Nguyễn cho làm Vọng Giang Đình bên sông để viết truyện Kiều. Nguyễn hoàn
thành truyện Kiều trong 4 tháng (tr. 256), với tâm nguyện “Ta phải lập thân bằng
con đường lập thư, lập ngôn” để đời.(tr.151,184). Nguyễn Thiện ca ngợi chí hướng
“lập thư” của Nguyễn: ”Chú ta sống qua ba triều, nhà nghèo nhưng cũng sẽ bất tử
với Đoạn Trường Tân Thanh. Thì ra chí hướng lập thư chú đã ôm ấp từ
lâu”(tr. 239)
Vấn đề Nguyễn lập thân bằng “lập thư, lập ngôn” cũng là vấn
đề cần được xem xét. Kẻ sĩ ngày xưa quan tâm đến việc lập đức (như Khổng Tử), lập
công (như Trần Hưng Đạo). Việc lập thân bằng văn chương bị coi là thấp kém.
Nguyễn Công Trứ viết về kẻ sĩ: ”Trong lang miếu, ra tài lương đống,/ Ngoài
biên thùy rạch mũi can tương (Kẻ sĩ). Và có thể Nguyễn Du cũng đã đọc Viên Mai
(1716-1797): Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch/ Lập thân tối tiểu
thị văn chương, (sau này cụ Phan Bội Châu viết lại: Mỗi phạn bất vong duy
trúc bạch Lập thân tối hạ thị văn chương). Như vậy gán cho Nguyễn Du chí
hướng lập thân bằng lập ngôn, lập thư, để rồi đem hết sức lực viết truyện Kiều,
tôi e là hạ thấp Nguyễn Du (?)
Nếu nói Nguyễn Du lập ngôn trong truyện Kiều, thì ấy là, Nguyễn
Du kể truyện Kiều để chứng minh cho thuyết “tài mệnh tương đố” mà ông suy gẫm.
Cuộc đời Kiều được xây dựng là một con người tuyệt vời tài sắc (“Sắc đành đòi một,
tài đành họa hai”), vì thế Kiều phải chịu khổ (“Tài tình chi lắm cho trời đất
ghen”). Con đường thoát khổ theo Nguyễn Du là “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài).
Phần mở đầu và phần kết truyện là phần Nguyễn Du lập ngôn, Nguyễn Du trình bày
nhận thức của mình có tính khái quát để lý giải số phận những bậc tài hoa mệnh
bạc. Kể lại cuộc đời Thúy Kiều, Nguyễn Du không để lại cho đời những “kinh” như
Đức Phật, Khổng Tử, Lão Tử… Cuộc đời của Thúy Kiều chỉ là một minh chứng cho
thuyết “tài mệnh tương đố” của Nguyễn Du.
Nguyễn Du chỉ mượn truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà trình bày
nhận thức của mình. Dân gian yêu mến truyện Kiều không phải vì cuộc đời nàng Kiều,
một tiểu thư khuê các Trung Quốc, rất xa lạ với người nông dân Việt Nam, mà yêu
mến truyện Kiều vì nhân dân có thể lẩy ra trong truyện Kiều những câu
thơ mang tâm tình và suy nghĩ Việt (tr.390). Còn những nhà phê bình, nhà nghiên
cứu thì ca ngợi tư tưởng nhân đạo, tư tưởng tự do, ca ngợi tài kể chuyện, tài tả
tình tả cảnh của Nguyễn Du, nâng truyện Kiều lên thành một áng văn trác tuyệt,
bất hủ,… Ấy là quyền của người đọc. Còn Nguyễn Du khi viết truyện Kiều có mục
đích đó không, tôi nghĩ chúng ta không nên gán cho Nguyễn cái mục đích và chí
hướng ấy. Vì giả như, nếu Nguyễn Du không gặp được Kim Vân Kiều Truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân, thì liệu Nguyễn Du có sáng tác được cuốn truyện khác như Đoạn
Trường Tân Thanh không? Điều này Nguyễn Thế Quang đã cho thấy, Nguyễn hoàn toàn
bất lực (tr.360).
Vấn đề thời điểm Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều vẫn còn nhiều
ý kiến chưa thống nhất, đa phần chỉ là suy đoán, không có cứ liệu xác thực. Chẳng
hạn, căn cứ vào việc Nguyễn Du kiêng húy tên hoàng tộc, có nhà nghiên cứu cho rằng
Nguyễn Du viết Kiều trước khi ra làm quan với Gia Long (2). Nguyễn Thế Quang
căn cứ vào Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện và Đại Nam Thực Lục
Chính Biên, từ đó sáng tạo một chương Gia Long gặp Nguyễn bình thơ Kiều (Chương
7 - phần IV). Gia Long nói với Nguyễn: ”Trẫm đã đọc “Đoạn trường tân thanh” của
khanh. Khá lắm. Đó là tinh hoa của đất trời. Khanh đã làm vẻ vang cho người Việt,
văn chương từ xưa đến nay chưa thấy bao giờ”. Khi Gia Long hỏi sao Nguyễn
không làm thơ ca ngợi Gia Long, và bắt chẹn Nguyễn rằng “ngươi không chịu làm
chứ gì?” (tr. 353), thì Nguyễn “bủn rủn“ biết mình chắc chết, vậy mà Gia Long lại
khen :”Khá lắm, thế mới là Nguyễn Du của trẫm chứ… nhà thơ đích thực thì
không được xu nịnh bất kỳ ai kể cả quyền lực và mỹ nữ” (tr.354). Tôi e rằng Nguyễn
Thế Quang có phóng bút quá không?
Làm gì có một Gia Long phóng khoáng và bao dung đến vậy khi
Nguyễn Văn Thuyên chỉ làm một bài thơ khẩu khí thôi (3) thì cha là công thần
Nguyễn Văn Thành đã bị bức tử trong ngục (phần IV, chương V, tr. 313-332). Huống
chi Nguyễn chỉ là viên quan của cựu triều, chẳng có công lao gì trong việc giúp
Gia Long lập quốc. Nguyễn đã viết những câu quyết liệt khi ra làm quan với Gia
Long, không coi Gia Long ra gì cả: “Bó thân về với triều đình/ Hàng thần lơ láo
phận mình ra đâu/ Áo xiêm ràng buộc lấy nhau/ Vào luồn ra cúi công hầu mà
chi/ Sao bằng riêng một biên thùy/ Sức này đã dễ làm gì được nhau/ Chọc
trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Nếu Gia Long đọc đoạn
này, thì đây là một cái tát thẳng cánh Nguyễn đánh vào mặt Gia Long, làm sao
Gia Long để cho Nguyễn yên thân, nói gì đến việc Gia Long ca ngợi Nguyễn trên
mây! Và dạy cho Nguyễn biết chức năng của văn chương: ”này, Hãy viết làm sao
cho con người yêu thương nhau nhưng kích động nổi dậy chống triều đình là không
được đâu nhé. Lúc đó thì dù quý đến mấy cái tài của khanh ta vẫn phải lấy cái đầu
của khanh để trị yên thiên hạ đấy. Nhớ chưa?” (tr. 357).
Đây là đoạn thơ có nhà nghiên cứu dùng để đặt ra giả thuyết rằng
Nguyễn Du viết truyện Kiều trước khi ra làm quan với Gia Long, bởi nếu Nguyễn
Du viết trong thời Gia Long thì số phận của ông cũng sẽ như Nguyễn Văn Thành.
Tôi không rõ tác giả xây dựng nhân vật Gia Long bao dung và cao thượng với Nguyễn
Du vì mục đích gì. Vì tôn trọng thiên tài Nguyễn Du chăng? Điều này chắc chắn
là không. Vua chúa xưa rất sợ người tài. Công trạng như Nguyễn Trãi còn bị nhà
Lê tru di. Nguyễn Du nào có công trạng gì với Gia Long? Sau này, khi các nhà
nghiên cứu tìm được cứ liệu xác thực về việc Nguyễn Du viết truyện Kiều trước
khi ta làm quan với Gia Long, thì tất cả những gì Nguyễn Thế Quang sáng tạo sẽ
sụp đổ.
2. Những ký thác
Nếu những điều Nguyễn Thế Quang viết về Nguyễn Du không phải
là của Nguyễn Du thì đó chính là những ký thác của tác giả. Ở những trang, những
dòng ký thác, văn mạch tách hẳn chính sử. Tác giả viết bằng một giọng thiết
tha, một niềm say mê khôn nguôi và một cảm xúc lãng mạn bay bổng. Dù tác giả là
mượn chuyện xưa để nói, dù dùng cách nói ngụ ý bóng gió, thì những vấn đề của
ngày hôm nay vẫn hiện lên rất rõ. Thái độ của tác giả tuy nhiệt thành, song vẫn
e dè chừng mực tránh né, rằng điều mình kể, mình bình luận qua miệng nhân vật
chỉ là chuyện ngày xưa.
Viết về tình trạng quan chức thời Gia Long, rất nhiều lần
Nguyễn Thế Quang để cho Nguyễn Du than phiền về tình trạng tham nhũng, đâu cũng
tham nhũng (4), đâu cũng tăm tối. “Bao nhiêu năm rồi lòng Nguyễn không an… bất
lực trước sự tham nhũng của quan lại, mà dân chúng ngày càng đói
nghèo.” (153) Phải chăng Nguyễn Thế Quang cũng ngao ngán về tình trạng
tham nhũng của một bộ phận quan chức Nhà nước hiện nay?
Ước mơ của Nguyễn về một xã hội “Tự do! Bình đẳng! Bác ái”, “con
người được đứng về phía sự thật, nói lên sự thật, bảo vệ sự thật mà không bị
vùi dập” (tr. 412), người dân có quyền tự do thân thể, tự do tôn giáo, tự do
ngôn luận, tự do báo chí. Những ước mơ ấy cũng là ước mơ của tác giả trước thực
tại hôm nay?
Rõ nhất là khát vọng về vai trò của kẻ sĩ (5) và quyền tự do
viết của nhà văn. Nguyễn xin với Gia Long cho mình được viết theo ý mình (tr.
354) và Nguyễn bất lực không thể viết được khi hình dung ra lúc nào cũng có đôi
mắt của Gia Long theo dõi, răn đe: ”Nguyễn chợt nhớ lời truyền của Ngài ’kích
động nổi dậy là không được đâu nhé. Lúc đó thì dù quý đến mấy cái tài của khanh
ta vẫn phải lấy cái đầu của khanh để trị yên thiên hạ đấy ’Hoàng thượng ơi! Thế
thì thần còn viết được gì nữa. Muốn yên thiên hạ thì thiên hạ phải nghe lời:
Hoàng thượng muốn thần chết thì thần phải chết. Thiên hạ phải cúi đầu. Không!
Văn chương không phải để làm điều đó. Làm sao mà viết được thứ văn chương đó!
Nguyễn cảm thấy những tờ giấy, các nghiên mực ấy như đôi mắt của Gia Long đang
theo dõi” (tr.363). “Hoàng thượng ơi! Người ban cho thần cơm trắng, giấy
thơm, bút quý, nhưng không ban cho thần tự do thì làm sao thần có thơ văn
hay được. (tr. 366).
Trong tiếng kêu thương của nhân vật Nguyễn, người đọc thấy rõ
tiếng kêu thiết tha của tác giả đối với những người có trách nhiệm trong việc
giúp nhà văn có thể sáng tác được văn thơ hay. Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản
như tác giả nghĩ. Bởi cần phân biệt tự do chính trị với tự do sáng tạo. Chẳng
ai có thể ban cho nhà văn quyền tự do sáng tạo. Tự do là bản chất của sáng tạo.
Còn thơ văn hay dở là do tài năng thiên phú của người viết. Không thể muốn viết
gì thì viết, viết theo ý mình, là có thơ văn hay. Dùng ý tưởng này để lý giải tại
sao Nguyễn Du bất lực, không viết được về thực tại đời sống xã hội Việt Nam thời
Nguyễn sống, quả thực chưa thuyết phục.
Nguyễn Du không viết vì ông cố ý né tránh, vậy thôi, vì ông
đã nói trong những bài thơ chữ Hán (Bắc Hành Tạp Lục) khá cụ thể rồi. Còn tại
sao Nguyễn Du lại né tránh viết về thực tại Việt Nam lúc sinh thời, điều này
xét về bối cảnh chính trị thời Gia Long và về thái độ sống của Nguyễn, ta có thể
hiểu. Tôi hiểu Nguyễn Thế Quang muốn nói về nhà văn hôm nay. Nếu vậy, điều này
là một ngộ nhận. Xin nhớ lại, trước thời kỳ “đổi mới”, nhiều người cầm bút nghĩ
rằng nếu được “cởi trói” thì sẽ có thể viết được những tác phẩm để đời. Bây giờ
nhìn lại văn chương thời kỳ đổi mới (1986-1996), có bao nhiêu tác phẩm làm nên
khí cốt, diện mạo và giá trị tinh thần Việt Nam? Hay đa phần là “phê phán hiện
thực” mà người ta gọi là “văn học thức tỉnh”? Và những nhà văn người Việt ở hải
ngoại, họ có quá dư thừa “tự do”, nhưng cho đến nay chưa ai viết được tác phẩm
nào có thể dự giải Nobel văn chương! Chính tài năng mới quyết định sáng tạo.
3. Về những sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Thế Quang
Những chương hay tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Du của Nguyễn Thế
Quang, là những chương tác giả thực sự sáng tạo. Nội dung những câu truyện được
kể ở những chương này nằm ngoài chính sử. Những khoảng trống của lịch sử đã được
làm sáng lên. Ở đây Nguyễn Thế Quang thể hiện được chất tài hoa của ngòi bút,
năng lực hư cấu, sáng tạo. Nếu bỏ qua góc nhìn lịch sử mà hòa mình vào thế giới
tiểu thuyết, người đọc sẽ cảm thấy thật thú vị. Những chương này tạo nên những
sắc màu thẩm mỹ phong phú. Đó là những chương viết về việc Nguyễn xử án khi làm
Cai bạ Quảng Bình, chương Nguyễn vi hành (Phần II, chương 5), chương tả Nguyễn
cầu hồn Khuất Nguyên (Phần II, chương 11), chương Gia Long xử Nguyễn Văn Thành
(phần IV, chương 1), gặp gỡ Nguyễn và Hồ Xuân Hương (phần II, chương 8), gặp gỡ
Gia Long và Nguyễn (Phần IV, chương 7).
Tuy vậy dấu vết nghề nghiệp in rất rõ trên những chương tác
giả kể lại quá trình Nguyễn viết truyện Kiều (phần III, Đoạn trường tân
thanh) và chương Gia Long bình văn Kiều. Đọc kỹ sẽ thấy rằng phần này chỉ là những
bài giảng truyện Kiều cho học sinh phổ thông, được dựng thành cảnh để thành một
chương tiểu thuyết, qua đó lý giải việc Nguyễn đã sáng tác truyện Kiều như thế
nào. Tác giả để cho Nguyễn giảng thơ mình, để con cháu phụ họa tung hứng. Chất
liệu được khai thác là: đoạn thơ mở đầu truyện Kiều (tr. 231), đoạn Kiều bị Sở
Khanh lừa gạt, bị Tú Bà đánh (tr.233), Kiều lầu xanh (tr.238), luận về các câu
Kiều: chọc trời khuấy nước mặc dầu.., tu là cõi phúc tình là dây oan,
Chính danh thủ phạm tên là hoạn Thư (việc tha cho Hoạn Thư), về cái chết của
Từ, và về chữ Tâm (tr.258). Người đọc thấy rõ sự võ đoán và sự áp đặt
máy móc suy nghĩ của tác giả vào miệng Nguyễn. Điều này có thể làm cho người đọc
khó chịu. Xin đọc một đoạn giảng Kiều:
Nguyễn Hành nói:
Thưa chú. Biển khổ đầy vơi ta làm sao biết được. Nhưng đọc
“Đoạn trường tân thanh” của chú con người được an ủi hơn và có thêm khát vọng.
“Đoạn trường tân thanh” bao trùm một chữ Tâm, nó nối tiếp cái đã qua, mở
ra cái sắp tới, đó là Đạo. Nó sẽ sắp đặt công việc của đất trời,
chính nó là Văn. “Đoạn trường tân thanh” không phải “Mua vui cũng được một
vài trống canh” mà chừng nào con người còn sống cảnh trói buộc, còn bị khổ đau
thì con người còn đọc nó. Nguyễn nhìn hai cháu mắt sáng lên…” (tr.258). Đó là
Nguyễn Hành nói về đoạn kết truyện Kiều. Nguyễn Thế Quang để cho nhân vật “tán”
Kiều theo kiểu Hoài Thanh, dựa trên trực giác chủ quan, hoàn toàn cảm tính và
áp đặt. Nghĩa của những chữ “Tâm, Đạo, Văn” mơ hồ, nếu không nói là không đúng
với Kinh nghĩa của Phật về Tâm (Bát Nhã tâm kinh, kinh Kim Cang), của Đạo
Đức Kinh (Lão Tử) về Đạo, và định nghĩa của Lưu Hiệp trong Văn
Tâm Điêu Long về Văn. Tôi nghĩ, toàn bộ phần III, Nguyễn sáng tác
truyện Kiều nên có cách dựng khác, thay vì dựa vào một vài đoạn thơ Kiều rồi
“tán” vu vơ, thiếu cơ sở khoa học lịch sử. Cách viết “tán” như giảng bài cho học
sinh phổ thông vừa không có giá trị tiểu thuyết, vừa dễ mắc sai lầm, vì diễn giải
là vô tận. Chẳng hạn, tác giả lấy lời của Mộng Liên Đường năm 1820 gắn vào miệng
Nguyễn Hành nhận xét về Nguyễn năm 1814 là một cách làm thiếu sự chuẩn xác khoa
học (tr.259) (6). Áp đặt cho Nguyễn những điều không phải của Nguyễn (tr. 145,
151, 152, 184, cả phần III…) là thiếu tính chân thực lịch sử. Những người không
biết đọc tiểu thuyết sẽ tin Nguyễn Thế Quang viết đúng sự thật lịch sử, trong
khi các chương kể lại quá trình Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều hoàn toàn là võ
đoán và không tránh được sự hàm hồ (chẳng hạn như đoạn trích ở trên). Điều này
có mâu thuẫn không khi chính tác giả kêu gọi: “sự thật lịch sử thế nào phải trả
lại thế ấy” (tr.112)
Nguyễn Thế Quang không có cách tân gì trong nghệ thuật viết
tiểu thuyết. Cách kể truyện của ông mạch lạc, lớp lang, dễ hiểu. Ông miêu tả
tâm trạng nhân vật bằng kỹ thuật “nhớ”, nhân vật hồi tưởng lại sự việc,
thay vì miêu tả trực tiếp (7). Có điều ông quá lạm dụng kỹ thuật này thành ra
nhân vật chỉ có phần “hồn” mà thiếu đời sống xã hội. Gần như mỗi nhân vật chỉ
có một tâm trạng. Gia Long luôn nghi kỵ công thần. Nguyễn Du lo lắng vì thân phận
“hàng thần” và chán nản nhìn đâu cũng thấy quan lại tham nhũng. Lê Văn Duyệt
lúc nào cũng mưu tính hại người. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Đặng Trần Thường,
Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh gặp nhau chỉ than thở về thân phận kẻ sĩ… Tác giả
tưởng tượng được đến đâu thì viết ra như thế, và dường như theo một định kiến
có sẵn, thành ra các nhân vật không hiện rõ được góc cạnh và hành trạng riêng,
hao hao nhau về suy nghĩ về kiểu nói năng. Nhân vật “kẻ sĩ” được dụng công xây
dựng nhưng lại thiếu vắng kiểu nhân vật anh hùng.
Nhân vật chính Nguyễn tuy có được miêu tả trong nhiều hoàn cảnh,
song chủ yếu chỉ là nhân vật tâm trạng. Nguyễn thiếu sức sống đích thực của một
nhân vật có tầm vóc xã hội. Nguyễn được miêu tả là người “cao to hùng dũng, có
tài văn võ” (tr.76), có cốt cách cứng cỏi thanh tao (tr.196) một
tiên ông đạo cốt (tr.245), “tài trí đức độ hơn người (tr. 382)… vậy
mà khi suy nghĩ về việc Gia Long triệu vào kinh, Nguyễn “giật mình, mồ hôi toát
ra|, “Nguyễn lạnh xương sống”, “Nguyễn co mình lại” (tr.81). Trước mặt Gia Long
Nguyễn tự nhận mình là con thỏ (tr. 349) và khi Gia Long nghiêm mặt,
giơ ngón tay chỉ Nguyễn, thì “Nguyễn tái mặt, mồ hôi ướt đẫm áo, vội quỳ xuống“ (tr.351).
Nguyễn tự nhận “Mình là thằng hèn”(tr.365), một gã vô tích sự (tr134).
Khi nói truyện với Vũ Trinh, Nguyễn cũng nhắc lại suy nghĩ này: ”Đệ là thằng
hèn, đệ là thằng bỏ đi” (tr.400). Đây không phải là cốt cách của người hùng
dũng, cứng cỏi, đức độ, tài trí hơn người. Nguyễn suy nghĩ khôn
ngoan như thế này: ”Bao năm qua ta lặng lẽ không theo phái nào, không
dựa vào ai, không khen ai, không chê ai, không gây sự với ai, cũng là để bảo
toàn thân mình… Ta không đụng người thì người không đụng đến ta…” (tr.152). Ô
hay! Nguyễn là nhà Nho, mà cốt cách nhà Nho là “Uy vũ bất năng khuất”(Mạnh Tử).
Nguyễn Du lại đọc kinh Kim Cang hàng ngàn lần (8)”. Lòng này thường định
không rời cảnh thiền.”(Thử tâm thường định bất ly thiền. Bài thơ Đề Tam Thanh Động - Nguyễn
Du), một người đã trải qua bao bể dâu, sao lại có thể sống co mình lại, vị
kỷ như vậy! Chính sự miêu tả thiếu nhất quán và áp đặt của tác giả đã làm cho
hình tượng Nguyễn Du không hiện lên được. Nói cách khác, tác giả đã không khắc
tạc được hình tượng nhân vật Nguyễn Du chân thực và có sức thuyết phục. Trong
khi lý giải những vấn đề của hiện thực, Nguyễn Thế Quang tỏ ra lúng túng và thiếu
hẳn một triết lý đủ vững khả dĩ làm nền tảng tư tưởng cho ngòi bút. Người đọc
thấy lởn vởn tư tưởng nhân quả luân hồi, vay trả trả vay (tr.215), quả báo (tr.303,
395), phong thủy về sự kết phát của mồ mả (tr. 369, 370). Nhờ “sức mạnh ghê gớm
của huyệt mạch” và ”huyệt đạo mộ của thân phụ đắc địa quá” (tr.373) làm nên
danh phận lẫm liệt của dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Việc để Nguyễn cho khơi con
mương dẫn mạch mộ tổ đổ ra sông Lam (tr.373) không cho con cháu làm quan là giải
pháp hoàn toàn duy tâm, đi ngược lại niềm tin dân gian, thậm chí là “thất đức”
và “vô phép” với tổ tiên (bằng chứng là khi Nguyễn xin âm dương, hồn phụ thân
Xuân Quận Công không thuận. tr.376). Có lúc tác giả để Nguyễn đi ngao du.
Nguyễn chơi đò, đánh đàn (tr.339), rồi lên chùa viếng Phật đàm đạo với đại sư
trụ trì (tr.341), lúc về qua đò gặp lão đò đã siêu thoát (tr.343). Phải chăng
Tác giả muốn nói rằng Nguyễn là người đã đạt đến cõi giác ngộ của cả Phật, Nho,
Lão, nhờ thế sống an nhiên? (Nguyễn là “người thông đạt Phật lý”). Vậy mà kết
truyện, tác giả lại cho Nguyễn hoàn toàn hướng về nước Phú Lang Sa với mơ ước
“Bình đẳng! Tự do! Bác ái”. Muốn giải mã vấn đề Nguyễn Du im lặng thời làm quan
với Gia Long, Nguyễn Du đau đời (thể hiện trong nhiều bài thơ), và Nguyễn thanh
cao, tác giả càng loay hoay, lại càng tự mâu thuẫn và bất lực. Có chăng, qua tiểu
thuyết Nguyễn Du, tác giả góp một cách hiểu về con người Nguyễn Du, và đó là
cách hiểu của tiểu thuyết, không phải cách hiểu của khoa học lịch sử.
4. Đọc tiểu thuyết lịch sử
Đọc tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng, bạn
đọc cứ thả hồn vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, để cảm nhận cái hay của
văn chương, hiểu biết thêm đời sống, để làm phong phú thêm tư tưởng và mở tâm hồn
ra với đời, với người. Đọc là cảm nhận, là đối thoại, là chia sẻ. Tiểu thuyết
là thế giới tưởng tượng, sáng tạo. Nhà văn kể chuyện, bịa truyện là để “mua
vui”, và cũng để ký thác những suy nghĩ, khát vọng của mình. Nếu người đọc tìm
thấy điều gì đó tâm đắc với mình, tôi nghĩ, như vậy đã đủ cái công sức và thời
gian bỏ ra để đọc một tác phẩm hàng trăm trang. Nguyễn Thế Quang đã ký thác khá
nhiều điều trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Du. Câu chuyện tác giả kể về Nguyễn
là hư cấu, nhưng công sức thu thập tài liệu, tâm huyết và tài năng của nhà văn,
phẩm chất của một nhà giáo là rất thực. Điều này làm nên giá trị tác phẩm và bảo
đảm cho những gì nhà văn chia sẻ với bạn đọc. Cũng xin lưu ý bạn đọc ý kiến này
của tác giả :”Điều quan trọng hơn là tác giả muốn sáng tạo một Nguyễn Du với
khát vọng viết tiếp một “Đoạn trường tân thanh” nữa về bi kịch của người
trí thức trước cường quyền thời đó mà không thể viết được”.
Chú thích:
1. http://www.baothuathienhue.vn/
2. Xin tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu: Trương Chính,
Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Quảng Tuân, GS Nguyễn Tài Cẩn, PGS Ngô Đức
Thọ, PGS Đào Thái Tôn, PGS Lê Thanh lân, TS Phạm Trọng Chánh…
3. Thử hồi nhược đắc sơn trung đế/ Tả ngã kinh luân chuyển hóa
cơ. (Nghĩa là: Thời nay, nếu mà có được vị chúa trong núi kia ở bên cạnh
để ta lo sắp đặt thì có thể xoay chuyển được cơ trời).
4. Xin xem các trang: 195, 207, 211, 215, 216, 244, 264, 359,…
5. Xin đọc trang: 205, 200, 210, 217…
6. Mộng Liên Đường Chủ Nhân viết bài tựa truyện Kiều năm
1820: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã
thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả
nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”.
7. Nguyễn Hành nói: ”Càng nghĩ đến “Đoạn trường tân
thanh” em càng thấy lạ, văn đã tuyệt diệu mà ý cũng khôn cùng. Chú mình là bậc
kỳ tài. Không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời,
thì không thể có cái bút lực như máu chảy ở đầu ngọn bút, như kiếm thần vung
lên giữa bão giông như vậy…” (tr.259)
8. Xin đọc các trang: 37, 47, 51, 53, 65, 89, 113, 135, 155,
156, 160, 168, 173, 181, 189, 264, 267, 288, 292, 293, 301, 327, 328, 335, 337,
381…
9. Xin đọc bài thơ: Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh
Thạch Đài’
10. Trả lời phỏng vấn Nguyễn Khắc Phê: http://www.baothuathienhue.vn/.
Tháng 4/2015
Bùi Công Thuấn
Theo
https://buicongthuan.wordpress.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét