Cảm
nhận về ca khúc Dư Âm của Nguyễn
Văn Tý - "Muốn nói cùng em đôi lời trìu mến…"
Nhắc đến nhạc sĩ Nguyễn Văn
Tý, người ta thường nhắc đến bài hát tâm đắc nhất của ông và được công chúng
yêu thích nhất, đó là Dư Âm, được sáng
tác vào khoảng cuối thập niên 1940, khi dòng nhạc thời kỳ tiền chiến đang thịnh
hành những ca khúc có giai điệu nhẹ nhàng, lãng mạn và lời ca bay bổng đẹp như
một bài thơ.
Sau năm 1954, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý chuyển sang sáng tác nhạc cổ
động cách mạng, nhưng ông vẫn giữ được sự mượt mà trau chuốt như lời ca bài hát Dư
Âm trong những sáng tác sau này của mình.Tâm sự về hoàn cảnh để sáng
tác nhạc phẩm này, ông đã thổ lộ người con gái có “mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn
gió” trong bài Dư Âm có tên là
Hằng, cô có đôi mắt rất đẹp. Trong một lần, nhạc sĩ ở ngoài sân nhà của bạn
mình, nhìn thấy thoáng dáng của cô Hằng ôm đàn guitar ngồi bên thềm hoa vừa đàn
vừa hát, khi ông về trở lại đơn vị, nhạc phẩm Dư Âm đã được soạn thành trong
một đêm. Nhạc sĩ cũng đã nói thêm:
“… Đến bây giờ và suốt đời có
lẽ tôi vẫn yêu. Tôi không sao quên được đôi mắt và nụ cười của người con gái
tuổi 16 ấy. Bây giờ tôi vẫn yêu là yêu cái dư âm đó thôi, chứ làm gì có cái
thật để mà yêu. Mà cái dư âm thì còn mãi, yêu như thế cũng được và cũng tốt đấy
chứ…”.
Click để nghe Sĩ Phú hát Dư
Âm trước 1975Đêm qua mơ dáng em đang ôm
đàn dìu muôn tiếng tơ
Không
gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ
Mái
tóc nhẹ rung, trăng vờn làn gió
Yêu
ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời
“Khi đã yêu thì mơ mộng nhiều” - Người ta đã nói vậy, khi yêu là
khi mộng mơ nhiều, và hình ảnh của người mình yêu ở trong mơ bao giờ cũng đẹp,
nhất là hình ảnh của người con gái ôm đàn, phần nhiều chỉ ở trong những bức
tranh hội họa, ít khi có ở ngoài đời. Vậy mà nhạc sĩ đã gặp được thiếu nữ mình
yêu thầm nhớ trộm đang ôm đàn bên thềm hoa, buông những lời hát vì ở xa nghe
không rõ, nhưng với người đang yêu thì đó là lúc em đang “dìu muôn tiếng tơ”.
Cả không gian trầm lắng lại
để nghe tiếng đàn tiếng hát của em. Không gian, thời gian hòa quyện vào muôn
tiếng tơ như chỉ có trong giấc mơ.
“Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn gió”: Hình ảnh thơ quá, đẹp quá
đã làm cho người nghệ sĩ xao xuyến và đắm say nắn cung đàn thánh thót nên những
nốt Dư Âm đề bày tỏ nỗi niềm nhớ nhung cho “đầy vơi đôi mắt xa vời”.Anh yêu tiếng
hát êm như lời nguyền đẹp bao ước mơ
Anh như lầu
vắng em như ánh trăng gieo muôn ý thơ
Muốn nói
cùng em đôi lời trìu mến…
Tim anh băng
giá đang ngại ngùng câu năm tháng mong chờ
Chỉ có anh: người đang dệt
mộng chung đôi, mới nghe tiếng hát của em êm như lời nguyền ước và đẹp như ước
mơ chung đôi. Ước ao lời ước nguyền không chỉ riêng trong lòng của mình anh, mà
câu thắm nồng hương lửa ba sinh sau này cũng được cất lên từ môi em.
Nếu là thi nhân, mà thiếu hình ảnh của em thì anh làm sao mà dệt
nên thi tứ. Nên: “Anh như lầu vắng em như ánh trăng gieo muôn ý
thơ” như niềm mơ ước hai tâm hồn đồng điệu tri kỷ gặp nhau sẽ
trở thành hiện thực. Sự so sánh kết hợp giữa “lầu vắng” và “ánh trăng” thật thơ
mộng, lãng mạn tạo nên một bức tranh thơ linh động đẹp mơ màng.
“Tim anh băng giá” đang chờ
tình em sưởi ấm, nhưng lời tỏ tình còn “ngại ngùng” chưa ngỏ nên lời. Dù một
đôi lời trìu mến cùng em, là tình yêu đôi lứa trong thời tiền chiến còn e dè
kín đáo khép kín sau bức tường rêu lễ giáo gia phong.
Hẹn em từ muôn kiếp trước
Nhớ
em mấy thuở bạc đầu
Anh
đã âu sầu vì đường tơ vương vấn
Em
để cung đàn đưa anh về đâu?
Người xưa yêu nhau thường nguyện ước sống chung với nhau cho đến
thuở bạc đầu là chuyện thường tình, nhưng “hẹn em từ muôn kiếp trước” là tâm
tình lãng mạn dạt dào lắm mới trào tuôn được câu thương yêu tình tứ như vậy.
“Anh đã âu sầu vì đường tơ vương vấn”, như lời tự thú là anh đã
tương tư tiếng đàn của em như muôn tiếng tơ tình vương vấn. “Âu sầu” là vì anh
đã “Yêu là chết trong lòng một ít” như nhà thơ Xuân Diệu đã viết. Những cung
bậc yêu thương buồn vui đan xen lẫn lộn từ khi lòng anh đã vướng vào đường tơ
tình, tâm hồn anh bay bổng vào không gian yêu đương và tự hỏi: “Em để cung đàn
đưa anh về đâu?”
Dư âm tiếng hát reo lên trong
lòng anh bao nhớ nhung
Đê
mê lòng nhớ đêm qua giấc mơ môi em hé rung
Anh
muốn thành mây nương nhờ làn gió
Đưa
anh tới cõi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên nàng.
Dư âm của tiếng hát “reo lên” từ môi em, như dư âm của tiếng ái tình
thanh tao vọng mãi trong lòng anh bao nhớ nhung êm đềm. Hình ảnh em ôm đàn bên
thềm hoa quá thơ mộng, và tiếng hát của em dưới đêm trăng quá liêu trai, nên
anh đê mê tưởng như hình ảnh của đêm qua chỉ là “giấc mơ” thôi, để cho “anh muốn
làm mây nương nhờ làn gió” đưa anh đến cõi mơ hồ nào đó được “muôn kiếp bên
nàng”.
Nói thêm về người con gái
mang tên Hằng trong ca khúc Dư Âm. Vào một ngày cuối thập niên 1940, có một
người bạn thân rủ nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý về nhà mình chơi ở Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Nhà này có 2 người con gái: người chị 22 tuổi và cô em mới vừa 16. Người bạn
này muốn làm mai nhạc sĩ cho cô chị, cũng vì thời ấy con gái đến tuổi 18 mới
được phép nói đến chuyện lấy chồng, nên người chị 22 tuổi ra mắt còn cô em phải
tránh mặt.
Tuy nhiên chàng nhạc sĩ trẻ chỉ thấy tâm hồn xao động kể từ lúc
cô em “bất
thần xuất hiện, đến sau lưng chị, tì cằm vào ghế chị ngồi và nhìn tôi với đôi
mắt đen tròn lay láy. Ôi! Đôi mắt kỳ diệu đã hút hồn khiến tôi sững sờ, đờ đẫn,
rồi lặng im như người mất hồn”, như lời nhạc sĩ nói.Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý thời trẻTuy nhiên vì cô em còn quá nhỏ nên gia đình cấm cản, và vì quá
nhớ nhung nên Nguyễn Văn Tý vẫn đánh bạo ghé thăm, nhưng chỉ được ngồi ngoài
sân trò chuyện cùng với người bạn thân.
Một đêm trăng sáng, khi hai người bạn đang ngồi trò chuyện, nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tý một lần nữa chao đảo thần trí khi thấy cô em ra ngoài thềm
ngồi hong tóc. Hong tóc xong cô ôm đàn ngồi hát khe khẽ. Tóc người bay bay
trong gió dưới ánh trăng thật đẹp. Đó là khoảnh khắc đã tạo nên câu hát: “Đêm
qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ”…
Sau này nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý
kể lại trong hồi ký: “Trái tim tôi lúc đó tan nát lắm rồi. Không thế
sao lại hạ bút viết câu Tim anh băng giá đang ngại ngùng câu năm tháng mong
chờ”.
Khoảng tám năm sau đó, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý gặp lại Hằng trên
đường về đơn vị ở Vĩnh Yên. Lúc ấy cô cũng đi bộ đội và đã lấy chồng. Nhạc sĩ
nhớ lại: “Một
chiều đi đến Vĩnh Yên, trời chuẩn bị mưa, tôi ghé vào một doanh trại trên đồi
trú mưa. Nhưng vừa nộp xong giấy tờ cho bảo vệ, tôi bỗng thấy một người trong
trang phục quân đội chỉnh tề từ xa đi tới. Tôi vô cùng hoảng hốt khi nhận ra
người đó chính là Hằng. Hình như cô ấy cũng nhận ra tôi nên dừng lại từ xa. Tôi
vội vàng vào trạm bảo vệ xin lại giấy tờ, rồi như người mất hồn đi qua mặt cô,
ra cổng và đi thật nhanh như chạy trốn. Kỳ thực trong thâm tâm tôi lúc ấy chỉ nghĩ
rằng: Không muốn để ai hiểu lầm tôi mượn cớ để được gặp người mình yêu”.
Và cũng bởi lúc ấy, Dư Âm không được
phép phổ biến ở chiến khu. Năm 1953, người sáng tác ra nó bị tổ chức phê bình,
kiểm điểm và bị kỷ luật trong một đợt chỉnh huấn, vì lúc đó nhạc sĩ cách mạng
không được sáng tác nhạc lãng mạn. Thậm chí ông còn phải đi khắp nơi để nói
chuyện “bài xích” chính bài hát mình sáng tác, cho nhiều người nghe. Sau này
ông nhớ lại: “Tôi
có đi, nhưng nói không được, vì nói tới đâu người ta lại cười đến đó”.
Trong hồi ký viết tháng 2/1987 của mình ông viết: “Thực tế hồi đó lịch sử đã
sang trang, nhưng phải nói thật, chủ yếu mới là về mặt chính trị. Còn văn học
nghệ thuật, ai kiểm soát được những cái đầu còn mang nặng những tàn dư xưa”.
Dư Âm bị
cấm hát trong “chiến khu”, nhưng lại được phổ biến khắp nơi và rất được yêu
thích khi được phát trên đài phát thanh Pháp Á, đặc biệt là trở thành một trong hai ca khúc chính trong bộ phim Kiếp Hoa, với tiếng
hát của hai chị em Kim Chung và Kim Xuân. Kim Chung cũng là bà chủ của đoàn hát
Kim Chung rất nổi tiếng sau này ở Sài Gòn. Bài hát còn lại là Làng
Tôi của nhạc sĩ Chung Quân.
Bộ phim Kiếp
Hoa cũng là phim Việt Nam đầu tiên được thu tiếng. Vào thập
niên 1950, trong bối cảnh hoàng kim của sân khấu cải lương, điện ảnh vẫn còn là
bộ môn nghệ thuật tương đối xa lạ với người Hà Nội. Chưa có đạo diễn, chưa có
nhà quay phim, Kiếp Hoa chỉ là dự án phim mang tính
gia đình. Bầu Long (nghệ danh Trần Lang, tên thật là Trần Viết Long - trưởng
đoàn hát Kim Chung) viết kịch bản, vai nữ chính (Ngọc Lan) do diễn viên Kim
Chung (vợ bầu Long) đảm nhận. Kim Xuân (em dâu bầu Long) vào vai thứ chính Ngọc
Thủy.
Mời các bạn xem lại trích đoạn phim có phần hát bài Dư Âm:Click để xemSau năm 1975 tại miền Nam, ca khúc Dư Âm vẫn rất phổ
biến và được yêu thích, cho dù nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là nhạc sĩ sinh sống và
làm việc ở bên kia chiến tuyến. Cho tới cuối những năm 1980, bài hát này mới
được phổ biến trở lại ở khắp cả nước.
8/7/2020Trương Đình TuấnNguồn: nhacvangbolero.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét