Thứ Sáu, 25 tháng 6, 2021

Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ "Tây Tiến"

Cảm hứng lãng mạn
trong bài thơ "Tây Tiến"

Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 
Trong quãng đời người lính của Quang Dũng và có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy - những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến chắc chắn là quãng thời gian đáng nhớ nhất, in dấu sâu đậm hơn. Và thật là may mắn cho Quang Dũng và cho chúng ta, bao nhiêu kỷ niệm sâu sắc, bao nhiêu vẻ đẹp và cả sự bi tráng của một quãng đời không thổ quên ở nơi miền Tây Tổ quốc cùng những người đồng đội đã được nhà thơ lưu giữ mãi mãi với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc: Tây Tiến. Bài thơ mang chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng, để khi nói tới Quang Dũng là nhớ ngay tới Tây Tiến, mặc dù ông cũng còn có những thi phẩm đặc sắc khác: 
1. Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi bật của nền thơ Việt Nam đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thơ ông giàu chất lãng mạn, là sự kết hợp hài hòa giữ thơ ca, âm nhạc và hội họa. Viết về Tây Tiến, bút pháp thơ của Quang Dũng vẫn tràn đầy cảm hứng lãng mạn như vậy.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là xu thế vươn lên, vượt lên trên hiện thực khách quan khó khăn gian khổ bằng cảm xúc chủ quan của người nghệ sĩ, thể hiện những khát vọng mạnh mẽ hướng về những vẻ đẹp khác lạ trong thế giới của mơ ước, tưởng tượng, ở tương lai hay quá khứ. Cảm hứng lãng mạn vì thế thường khai thác những đề tài như thiên nhiên tình yêu, tôn giáo, hồi tưởng kỷ niệm,…; đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường, độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hằng ngày. Cảm hứng lãng mạn đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của tưởng tượng, liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương phóng đại, thủ pháp tương phản, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và gây ấn tượng mạnh mẽ.
Còn gì dữ dội và hiểm trở hơn những cảnh:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.."
Còn gì hoang dại và âm u, rùng rợn hơn tiếng thác gào và tiếng cọp gầm:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Nhưng liền đó lại là những cảnh rất đỗi nên họa, nên thơ. Đó là chiều sương Mộc Châu, là "hồn lau" thấp thoáng "nẻo bến bờ", là dáng người mảnh mai, mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc: "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc ở đây được cảm nhận với một vẻ độc đáo: vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa tươi tắn, thơ mộng. Mà không chỉ thiên nhiên, chất lãng mạn bay bổng còn thể hiện rõ khi tác giả khắc họa chân dung người lính Tây Tiến hiện lên trên cái nền hùng vĩ và mỹ lệ ấy của núi rừng Tây Bắc. Vẫn là sự đối chọi để "cân bằng" giữa một bên là hiện thực khắc nghiệt, là cuộc sống đầy gian nan và lắm hy sinh mất mát, với một bên là cuộc sống tươi đẹp và đầy chất thơ.
Bút pháp lãng mạn cùa bài thơ không chỉ được thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên mà còn được thể hiện rõ nhất trong việc miêu tả về phong thái sống của người chiến sĩ Tác giả đã thể hiện được tinh thần anh dũng qua cuộc chiến đấu, ngoài ra giá trị của nó còn được thể hiện qua tinh thần ngoài mặt trận và đời sống tinh thần của người chiến sĩ, ngoài những phút giây gian khổ bên chiến trường, cùng sống và quật cường trước bệnh tật của cơn rét rừng, tác giả còn thể hiện một tình cảm đặc biệt của các người lính trước tình yêu quê hương, nhớ nhung những người thân ở gia đình:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộc qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Chính những hiện thực của cuộc chiến tranh để tác giả, có thêm chút động lực để phấn đấu trước hoàn cảnh sống, và sáng tác lên một bài thơ có sự kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. Qua đây thấy rõ được sự gian lan khốc liệt. Quang Dũng không hề che dấu đi sự khốc liệt gian khổ trong chiến trận, chỉ có điều ông nhìn họ dưới một cái nhìn không ốm yếu mà lại hết sức phi thường. Vì thế dáng vẻ người lính mang phong thái rất riêng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Cái chết chính là điểm nhấn mạnh mẽ trong bài thơ này.
Quang Dũng đã rất táo bạo khi diễn tả chân thực hình ảnh ấy. Ông không hề né tránh hay cố tô vẽ nó theo những cách khác:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Người lính chết trong tư thế hành quân. Nghĩa là họ đã chiến đấu đến tận cùng sự sống. Họ không bỏ cuộc. Họ chỉ không bước nữa. Họ không đầu hàng. Họ chỉ dừng lại khi sự sống chấm dứt. Đó là một cái chết oai hùng, lẫm liệt, đủ sức nâng cao tình yêu cuộc sống và tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh ở mỗi con người Việt Nam Ngòi bút Quang Dũng không run sợ trước cái chết của đồng đội anh. Nhà thơ chỉ muốn “gió bụi, phong trần” hóa cái chết ấy: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chàng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi “nhất khứ hề” của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những “ly khách” cùa Thâm Tâm, “khách chinh phu” của Thế Lữ... Hơn nữa, các từ Hán - Việt: “biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”,... có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất lãng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lý tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng.
Đọc Tây Tiến của Quang Dũng ta bắt gặp cảm xúc lãng mạn anh hùng thăng hoa từ cái nền hiện thực, bắt gặp sức mạnh tinh thần mà những vần thơ lãng mạn ấy đem lại cho người lính binh đoàn Tây Tiến. Nó là nét đẹp vĩnh hằng trong tâm hồn người lính và trong thơ ca kháng chiến.
2. Có những “bài ca không bao giờ quên”, cũng có những năm tháng chiến tranh không phai mờ trong ký ức. Cùng với khí thế sôi sục của những năm mưa bom bão đạn, văn học, với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách sống động tượng đài của những chiến sĩ anh hùng kiên trung. Để ngày hôm nay lòng ta không khỏi bùi ngùi xúc động khi đọc lên những câu thơ bất hủ trong áng thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Và không chỉ thế, cảm hứng lãng mạn bồng bềnh như những áng mây trong mỗi vần thơ cũng là một sức hút lớn của tác phẩm.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lý tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ - nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, nhưng tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên.
Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gợi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao ngất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.
Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà vẫn nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Nhưng cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia ly. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.
Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa đắm đuối của người lính trẻ.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe... trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lý tưởng trong ký ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.
Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh không mọc tóc vì sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.
Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” - lối diễn đạt này có vẻ cầu kỳ nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thu đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Chiến tranh đã qua đi, những hạt bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, họ đã dùng máu và nước mắt của mình tô lên hai chữ “độc lập” của dân tộc.
Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong giai đoạn lịch sử khốc liệt những 1945-1954. Qua bài thơ này, Quang Dũng đã dùng bút lực của mình để vẽ lên thi đàn văn chương một bức tượng đài người lính Tây Tiến vừa lãng mạn hào hoa, vừa hào hùng bi tráng.
3. Một trong những nét đặc sắc của văn thơ thời kháng chiến chính là sự kết hợp hài hòa của cảm hứng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ trào dâng dành cho những người đồng đội đã từng cùng kề vai sát cánh khi nhà thơ còn hoạt động trong đoàn quân Tây Tiến, là một trong những thi phẩm tiêu biểu của văn học thời kì này. Và cảm hứng lãng mạn của bài thơ, đã góp một phần không nhỏ, giúp cho "đứa con đầu lòng tráng kiện và hào hoa của nền thơ ca kháng chiến" có được sức sống lâu bền trong lòng bao thế hệ độc giả.
Cảm hứng lãng mạn trong thơ ca nói chung là khuynh hướng nghệ thuật tiến bộ, giàu cảm xúc tin tưởng, hy vọng hướng đến một tương lai tươi sáng. Trong giai đoạn văn học thời kháng chiến, cảm hứng lãng mạn vừa là sự khẳng định cái tôi đầy tình cảm, vượt lên hiện thực chiến đấu gian khó, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc vừa là sự khẳng định lý tưởng của một cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới. Chính điều đó đã nâng đỡ con người trong gian khổ, vươn lên trên gian khổ mà hướng lòng mình tới những điều tốt đẹp. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc, không chỉ qua nỗi nhớ xuyên suốt trải dài tác phẩm, mà còn ở trong cảnh thiên nhiên và vẻ đẹp của con người.
Một trong những yếu tố quan trọng làm nên chất lãng mạn bay bổng chính là cảm xúc của nhận vật trữ tình. Sau một năm gắn bó với đội quân Tây Tiến, Quang Dũng được chuyển công tác đến một đơn vị mới. Bao trùm lấy cả bài thơ, một mạch ngầm xuyên suốt là nỗi nhớ trào dâng của tác giả dành cho những tháng ngày cùng đồng đội chia ngọt sẻ bùi cùng kề vai kháng chiến. Mở đầu bài thơ là tiếng gọi đầy thiết tha cùng nỗi nhớ "chơi vơi":
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Hình ảnh con sông Mã hiện lên là một hình ảnh gắn liền với địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, là chứng nhân của một thời dậy vang, máu lửa. Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" thân thương, da diết như tiếng gọi một người bạn hữu đã lâu ngày xa cách. Điệp từ "nhớ" trong một câu toàn thanh bằng nhưng một nốt nhấn cao độ trong bản nhạc trầm, nỗi nhớ dường như luôn thường trực trong lòng nhà thơ bỗng trào dâng, lên tiếng. Hai câu thơ gieo vần "ơi" kết hợp với tính từ "chơi vơi" vang lên, khiến cho lòng ta cũng bất chợt lâng lâng, lửng lơ song lại ắp đầy, tuy nhẹ mà lại lắng sâu. Có lẽ chính bởi vậy, cho dù nhà thơ đã bỏ đi một chứ "nhớ" trong tiêu đề ban đầu của tác phẩm ("Nhớ Tây Tiến") thì cảm xúc cũng vẫn không thôi dào dạt. Nỗi nhớ trào dâng dường như thấm đẫm trong cảnh vật trên đường hành quân, trong những kỉ niệm của một thời kháng chiến. Tất cả một vùng ký ức sống lại, nồng nàn và thân thương, thiết tha và trọn vẹn tựa như một thước phim quay chậm, rồi từng nét cảnh núi rừng hiện lên trong bao ngày gian khó, từng giây phút gian nan bên đồng đội anh em, từng dáng hình của người sơn nữ dáng duyên, và cả hơi cơm đạm bạc mà ấm nồng tình quân dân cá nước,... cứ thế mà hiện lên đong đầy. Để rồi, dù đã ở nơi xa, tấm lòng Quang Dũng vẫn cứ mãi hướng về đoàn quân Tây Tiến, trở thành một lời ước hẹn:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân đó
Hồn về Sầm Nứa chằng về xuôi"
Đoạn thơ có hai cách hiểu. Ta có thể hiểu rằng "người đi" ở đây là những người chiến sĩ từ giã quê nhà thân yêu để lên đường chiến đấu, bởi lẽ chiến tranh khốc liệt, hoàn cảnh khó khăn nên khi ra đi, chẳng ai nói trước được ngày trở về. Những linh hồn ấy như tan vào Sầm Nứa, ở lại nơi đó, bất tử cùng với núi rừng Tây Bắc. Nhưng, ở cách hiểu thứ hai, "người đi" dường như lại chính là đang nói đến tác giả. Quang Dũng rời xa đơn vị, rời xa đoàn quân Tây Tiến mà bản thân đã đồng hành, gắn bó suốt một năm trời để đến đơn vị mới, chẳng thể nói trước được một lời hứa đoàn tụ. Người đi, thế nhưng, tâm hồn lại ở lại, trái tim vẫn cứ hướng mãi về nơi đầy ắp nhưng kỷ niệm xưa. Dù hiểu theo cách nào, ta vẫn thấy được nỗi nhớ tha thiết và sự trân trọng chân thành của nhà thơ đối với đoàn quân Tây Tiến. Tuy bài thơ đã khép lại ở đó, song nỗi thiết tha vẫn cứ vang vọng trong lòng người viết, trong trái tim người đọc, vang mãi đến tận bao thế hệ sau này. Đó chính là chất lãng mạn của bài thơ.
Cùng với cảm xúc của nhân vật trữ tình, cảm hứng lãng mạn của bài thơ còn được thể hiện qua vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ của những núi cao dốc thẳm, của những oai linh bí ẩn, núi rừng Tây Bắc cũng có những khoảnh khắc mang trong mình nét đẹp thật nên thơ, say đắm lòng người. Đặt giữa những câu thơ miêu tả vẻ đẹp hùng tráng của những đèo dốc "khúc khuỷu", "thăm thẳm", của những non ngàn cao đến nghìn thước là một nét vẽ nên thơ, trữ tình:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Một trong những nét nghệ thuật tiêu biểu cảm hứng lãng mạn là phép tương phản đối lập. Nếu những câu thơ trước và sau đó khắc họa hình ảnh thiên nhiên to lớn, với những chiều kích được mở rộng đến choáng ngợp, thì hai câu thơ này đây lại trở về với những hình ảnh rất đỗi thơ mộng với sương, với hoa cùng với một nhịp thơ chậm rãi được kết cấu bởi nhiều thanh bằng. "Sài Khao", "Mường Lát" là tên của những bản núi mù sương, những địa bàn hoạt động mà đoàn quân Tây Tiến đã từng gắn bó. Hai câu thơ như gợi nhắc đến một nơi xa xôi bí ẩn nào đó và cũng chính sự bí ẩn ấy lại quyến rũ vô cùng. Hiện lên trước mắt người đọc là cả một khung cảnh rộng lớn vừa huyền bí mà lại vừa chân thực đến lạ. "Sương lấp đoàn quân mỏi" là chi tiết tả thực khắc họa những khó khăn gian nan mà người lính Tây Tiến gặp phải trên con đường hành quân. Thiên nhiên núi rừng miền cao ẩn chứa biết bao những thử thách gian nan là thế nhưng vẫn có ở đâu đây những nét đẹp thơ mộng. Nhà thơ sử dụng hai từ "đêm hơi" chứ không phải "đêm sương", vậy ta phải hình dung như thế nào đây, là một đêm mờ hơi sương, đêm của hơi núi rừng, hay là một đêm nhẹ như hơi thở. Hai chữ đêm hơi gợi nhiều hơn tả, nó như phác lên trong tâm trí của người đọc những nét vẽ thật mơ hồ, ảo diệu, dường như lại chẳng nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận. Trong không gian ảo huyền nên thơ, hình ảnh "hoa về" như điểm nhấn cho cảm hứng lãng mạn. "Hoa" là những bông hoa trên tay trên vai trên áo trên mũ người lính trên đường hành quân, hay là hoa lửa hoa đuốc sáng soi dẫn đường trong đêm tối, hãy phải chăng "hoa" lại chính là người con gái người thôn nữ miền sơn cước đi về trong miền nhớ, miền thương... Chỉ hai câu thơ thôi mà tác giả đã vẽ nên một bức tranh vừa chân thực vừa có nét bí ẩn nơi núi rừng Tây Bắc. Không chỉ có thế, vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên còn hiện lên trong "chiều sương" chơi vơi giữa một miền tâm thức.
"Người đi Châu mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Lại là một bức tranh với những nét vẽ phác họa giàu tính gợi hình gợi cảm. Chiều sương gợi mở một không gian huyền bí quyến rũ. Đại từ phiếm chỉ "ấy" càng làm cho khoảng thời gian trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong ký ức của nhà thơ. Hình ảnh "lau" hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ, mà là "hồn lau", dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư vô, hư thực mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong bài thơ. Tính từ "đong đưa" gợi nên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.
Cảm hứng lãng mạn không chỉ có trong cảnh thiên nhiên, mà còn có trong chính tâm hồn của những người lính Tây Tiến.
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đây quả là một cái nhìn hóm hỉnh, thú vị của người chiến sĩ, nó như phá tan đi cái mệt nhọc của quãng đường hành quân đầy gian khó. Trong bài thơ "Đồng chí", Chính Hữu cũng đã từng ghi lại hình ảnh "đầu súng trăng treo". Đây đều là những hình ảnh tả thực, khi những người lính hành quân, họ luôn vác súng trên vai, đầu súng hướng lên, ở một góc độ nào đó, như thể súng đang chạm tới trời, như đang treo mảnh trăng sáng của đêm rừng canh gác. Chính qua những hình ảnh đó, mà ta như nhìn vào được tâm hồn của họ, họ cũng mang một trái tim trẻ trung, cũng thơ mộng chứ không hề chai sạn giữa những gian nan thử thách nơi chiến trường cam go, khốc liệt. Đâu chỉ hóm hỉnh, trẻ trung, người lính Tây Tiến cũng có những phút giây đắm chìm trong những đêm liên hoan doanh trại tưng bừng
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Chữ "bừng" như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng "kìa em". giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung, tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn. Những người đẹp Tây Tiến vốn xuất thân là những thanh niên nơi phố thị phồn hoa, họ từ bỏ những giảng đường, từ bỏ cuộc sống hiện đại để ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, vậy nên họ cũng có những giờ phút nhớ nhung dáng kiều chốn Hà Thành. "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Trong thơ ca trung đại những người tráng sĩ trượng phu khi ra đi cứu nước chỉ mang trong mình giấc mộng công danh, họ là những con người mang vẻ đẹp phi ngã, phi thường. Bởi vậy trong văn chương xưa việc đi sâu vào đời sống tâm hồn là điều hiếm hoi khó thấy. Nhưng khi khám phá vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến giờ đây, Quang Dũng đã đi sâu vào khám phá một tâm hồn phong phú, họ cũng là những con người trẻ tuổi tài hoa trái tim họ cũng biết rung động cũng đập những nhịp đập rất đỗi đời thường. Trong cái gian nan, bản thân họ vẫn gìn giữ được một tâm hồn lãng mạn, hào hoa, phong nhã.
Sự thành công của cảm hứng lãng mạn đã góp một phần không nhỏ làm nên sự thành công của bài thơ "Tây Tiến". Nhờ đó ta có thể cảm nhận một cách đầy đủ và sâu sắc nhất tấm lòng, tình cảm của nhà thơ đối với một thời cùng đồng đội kề vai sát cánh và đồng thời ta cũng có cơ hội khám phá ra những nét đẹp hết sức đời thường, hào hoa của người lính cụ Hồ can trường anh dũng. Cảm hứng lãng mạn cùng với cảm hứng sử thi đã giúp cho bài thơ trở thành một "tượng đài bất tử về những người lính vô danh" (nhà phê bình Phong Lan), và cùng đồng hành với bao thế hệ bạn đọc cho đến tận sau này mà không bị bụi thời gian phủ mờ.
14/10/2019
Lệ Hằng
Nguồn: VFORUM.VN
Theo https://vfo.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...