Khi văn chương bị thiến,
và nhà văn là tội phạm ngôn từ
Diễn từ nhận Giải Văn học Nhân dân 2010 của nhà văn Mộ Dung
Tuyết Thôn
Lời người dịch: Mấy năm gần đây Mộ Dung Tuyết Thôn (慕容雪村, Murong Xuecun), sinh năm 1974, là một hiện tượng văn học
Trung Quốc nổi lên nhờ lưu truyền tác phẩm đầy đủ trên mạng song song với bản
in bị kiểm duyệt. Trong năm qua, anh trở thành một trong những tiếng
nói mạnh mẽ phê phán kiểm duyệt ở Trung Quốc. Hôm nay (7/11), tờ New York
Times có bài dài giới thiệu về anh và vấn đề này (khi nào rảnh sẽ dịch
bài đó). Dưới đây là diễn từ lẽ ra anh đọc tại Bắc Kinh hồi
tháng 11 năm ngoái khi nhận giải Giải Văn học Nhân dân 2010, nhưng bị ban
tổ chức cấm đọc. Anh đọc bài này tại Hong Kong hồi tháng 2/2011. Tựa đề
entry này do mình đặt.
Nếu tôi không lầm, “giải thưởng hành động đặc biệt” của tạp
chí Văn học Nhân dân được trao không phải cho thành tựu văn chương của tôi, mà
cho lòng can đảm của tôi. Tôi ngượng vì mình không phải là người can đảm.
Lòng dũng cảm thực thụ đối với một nhà văn không phải là đấu
tranh với một băng đảng lừa đảo kinh doanh đa cấp. Mà là bình tĩnh nói sự thật
khi mọi người khác bị bịt miệng, khi sự thật không thể được biểu lộ. Mà là phát
biểu với một tiếng nói khác, chấp nhận rủi ro lãnh cơn thịnh nộ của nhà nước và
làm mất lòng mọi người, vì mục đích nói lên sự thật, và vì lương tâm của nhà
văn.
Khi tôi lật tẩy một âm mưu kinh doanh đa cấp, tôi chỉ làm điều
mà bất cứ công dân nào cũng nên làm: tôi trình báo một tội ác. Việc này chẳng hề
là một hành động can đảm thực sự, và tôi thiển nghĩ cũng chẳng hề xứng đáng nhận
giải gì. Thực ra, tôi là kẻ hèn nhát. Tôi chỉ nói những gì nói ra thì an toàn, và
tôi chỉ phê phán những gì có thể được phép phê phán.
Có cuốn sách nọ tôi đã viết xong cách đây ít lâu, và lý do
quan trọng nhất khiến chậm xuất bản là tôi đụng phải một biên tập viên khá kỳ
khôi. Trong hai tháng trời, ông ta và tôi đã vài lần đấu khẩu rất kịch liệt.
Tôi quẳng tách xuống nền nhà vỡ tan tành, tôi nói nặng lời với ông ta. Tôi điên
tiết đấm vào tường ở nhà, nhưng cuối cùng tôi đành chịu thua.
Biên tập viên này là người rất cẩn trọng. Bất luận ra sao, điều
đầu tiên ông ta nghĩ đến là an toàn. Theo ông ta, lẽ ra tốt hơn là dẹp luôn
không xuất bản cuốn sách của tôi; đó là cách an toàn nhất. Ngay cả khi ông ta
buộc phải cho xuất bản, ông ta bảo tôi rằng tốt nhất là tránh đụng đến bất cứ
điều gì thực tế, vì những điều thực tế dính đến rủi ro. Nếu tôi không thể tránh
đụng đến một vài sự thật, thì tôi nên nhớ đừng bày tỏ ý kiến gì về những điều
đó. Ngay lúc tôi bày tỏ ý kiến, tôi đã trở thành mối nguy hiểm. Tôi không đồng
ý với ông ta, nhưng tôi biết ông ta không phải là người duy nhất nghĩ như vậy.
Cuốn sách mới của tôi kể về thời gian tôi cải trang tham gia
một tổ chức kinh doanh đa cấp phi pháp. Băng đảng thực hiện trò lừa đảo này có
câu: “Nếu bạn đầu tư 3.800 tệ trong vòng hai năm bạn sẽ kiếm được năm triệu tệ”.
Để đáp lại, tôi viết như sau:
Tôi tính nhẩm rằng mạng lưới địa phương chúng tôi có gần 200
người. Nếu mỗi người kiếm năm triệu tệ, như vậy là gần mười tỉ tệ, hóa ra doanh
thu gần bằng với mức của một chi nhánh cấp tỉnh của công ty China Mobile. Nếu
toàn bộ bảy triệu người tham gia ngành kinh doanh đa cấp của Trung Quốc đều có
thể kiếm được chừng đó, số tiền sẽ lên đến ba mươi lăm ngàn tỷ tệ, vượt xa GDP
của Trung Quốc trong năm 2008. Cứ tiếp tục cái đà này, thì sẽ chóng đến ngày mà
kinh tế Trung Quốc qua mặt Mỹ, chẳng mấy chốc Trung Quốc sẽ thống trị thế giới,
hệt như Mạnh Tử đã nói, bằng cách ‘dùng gậy đánh bại quân Tần quân Sở lợi hại’.
Chúng ta chỉ cần huy động bảy triệu nông dân Trung Quốc đang đói trang bị gậy gỗ
là đủ hạ gục những máy bay chiến đấu tàng hình đế quốc. Chúng ta đâu cần phát
triển công nghiệp, hay nông nghiệp, hay ngành dịch vụ; thậm chí chúng ta chẳng
cần đến quân đội.
Biên tập viên cắt nguyên cả đoạn từ chỗ ‘qua mặt Mỹ’ trở đi,
và tôi hỏi ông ta tại sao. Quá nhạy cảm, tôi được trả lời thế. Tôi nói rằng
ngay cả một kẻ đần cũng hiểu đoạn văn này có ý châm biếm. Vậy có gì nhạy cảm
nào? ‘Dù châm biếm cũng không chấp nhận được. Phải bỏ.’ Tôi đề nghị: ‘Thôi được.
Nếu châm biếm quá cay nghiệt không được phép, thì ta thử châm biếm nhẹ nhàng vậy.’
Rồi ông nói cụm từ ‘Trung Quốc sẽ thống trị thế giới’ nhạy cảm. Tôi chấp nhận.
‘Được, cắt đi’. Rồi đến ‘nông dân Trung Quốc’ cũng bị xem là nhạy cảm, nhưng lần
này tôi ngớ ra không hiểu. Chắn chắn đó là từ trung dung, có gì nhạy cảm đâu?
Biên tập viên nói từ ‘nông dân’ chứa đựng yếu tố thành kiến. ‘Được,’ tôi đáp,
giả vờ linh động, và đổi từ đó thành ‘người kinh doanh đa cấp’.
‘Hạ gục những máy bay tàng hình đế quốc’ cũng nhạy cảm. Tôi bảo
biên tập viên là tôi hiểu ý ông và đề nghị đổi thành ‘những máy bay tàng hình
không người lái’. Biên tập viên nói như vậy cũng chưa ổn, và ‘máy bay tàng
hình’ cũng nhạy cảm vì nó đụng đến một đề tài quân sự. Tôi bảo ông thử suy ngẫm
một chút: các tiệm sách Trung Quốc có biết bao sách về các đề tài quân sự. Nếu
những cuốn sách đều được xuất bản, tại sao tôi thậm chí không thể đụng đến đề
tài quân sự? Ông đáp rằng đề tài này không phải để bàn luận, và những từ đó nhất
định phải được chỉnh lý. Nhưng vì những từ đó là chủ đề cốt lõi của đoạn văn,
không có cách nào chỉnh lý chúng được, nên tôi đành phải viết lại toàn bộ.
Cuốn sách cũng có cụm từ này: ‘Nhóm này chủ yếu gồm dân Hà
Nam, ông gọi họ là “mạng lưới Hà Nam” ’. Sách cũng nói đến ‘mạng lưới Quảng
Tây’, ‘mạng lưới Sơn Đông’, ‘mạng lưới Tứ Xuyên’, vân vân. Tất thảy đều là những
ám chỉ vô hại, nhưng với biên tập viên này, ngay cả kiểu diễn đạt thường nhật
này cũng làm nảy sinh vấn đề an toàn vì cụm từ ‘dân Hà Nam’ nghe có vẻ kỳ thị địa
phương. Ông đề nghị chúng tôi viết lại là ‘Họ là những nông dân Hà Nam, vì thế
mạng lưới này được gọi là mạng lưới Hà Nam, và chủ yếu gồm dân Hà Nam’. Tôi vẫn
cự lại và bảo ông đọc lại câu chữ gốc của tôi rồi cho tôi biết có chỗ nào kỳ thị
dân Hà Nam hay không. Một vấn đề nữa là tôi không thể nào nhận ra sự khác biệt
giữa ngôn từ gốc của tôi và gợi ý của ông. Tại sao chúng tôi phải thay đổi như
vậy? Ông đáp rằng bằng cách thay đổi từ ‘dân Hà Nam’ sang ‘nông dân Hà Nam’, những
người Hà Nam có trình độ hơn hơn không cảm thấy bị coi thường. Tôi cố mặc cả với
ông: “Bản gốc của tôi có hai câu, nếu thành ba câu thì dài dòng quá. Sao ta không
cắt câu đầu tiên?” Ông ta suy nghĩ một hồi lâu thật lâu rồi đồng ý, và chúng
tôi gút được bản cuối. Bản gốc tôi viết thế này: ‘Nhóm này chủ yếu gồm dân Hà
Nam, và nó được gọi là ‘mạng lưới Hà Nam’ ’. Sau khi thay đổi, bản mới trở
thành: ‘Nhóm này được gọi là ‘mạng lưới Hà Nam’, nó chủ yếu gồm dân Hà Nam’.
Ở một đoạn khác tôi viết rằng rắm của một kẻ nào đó có ‘hương
vị Ấn Độ’. Tôi phải công nhận rằng chỗ này có thể bị xem là hơi dung tục, nhưng
hẳn nhiên có gì quan trọng lắm đâu? Nhưng biên tập viên cương quyết bắt tôi
thay đổi vì ám chỉ đến Ấn Độ. Về điểm này, ông không chịu nhượng bộ: cái trung
tiện mang hương vị Ấn Độ là không được phép. Tôi thông cảm với ông, vì hẳn là
ông thực tình sợ gây ra một biến cố ngoại giao giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Nhưng
tôi cũng tự hỏi liệu Trung Quốc và Ấn Độ có thực sự khai chiến với nhau chỉ vì
một cái rắm.
Trong một trong những cuốn sách trước của tôi, xuất bản lần đầu
vào năm 2005 và đã tái bản nhiều lần, tôi dùng một thuật ngữ địa lý: Nam Hoa.
Tôi ngạc nhiên khi biết cụm từ này giờ đây hóa ra nhạy cảm và biên tập viên nhất
quyết đòi đổi. Lý do ông nêu ra là ta không bao giờ thấy cụm từ này trong những
ấn phẩm chính thức. Tôi không thể không thắc mắc tại sao những từ dùng được hồi
năm 2005 thì không còn được phép dùng vào năm 2010. Sau đó tôi tra tìm trên mạng
và phát hiện không chỉ có một khách sạn Nam Hoa, mà còn có một tạp chí Nam Hoa,
và một bộ phim tên Nam Hoa (1994) giành được giải Kim Kê. Những cơ quan ngôn luận
có thẩm quyền nhất của Trung Quốc cũng dùng đi dùng lại cụm từ ‘Nam Hoa’. Tôi
có tin vui để báo: về điểm này, tôi đã thắng.
Như quý vị chắc cũng đã đoán được, biên tập viên này không chỉ
bỏ vài từ như ‘dân Hà Nam’, ‘nông dân’, ‘chủ nghĩa đế quốc’ và cái rắm đê tiện,
mà còn cắt xén nhiều câu, nhiều đoạn, và thậm chí cả phần và cả chương. Qua nhiều
năm kinh nghiệm viết lách và xuất bản, tôi có thể viết ra một ‘từ điển những từ
nhạy cảm’, trong đó chắc chắn có những từ như ‘cơ chế’, ‘luật’, ‘chính phủ’,
cũng như rất nhiều danh từ khác, một số động từ, không ít tính từ, và thậm chí
cả một vài con số đặc biệt. Trong từ điển này, những từ bị cấm dùng cũng bao gồm
tất cả các tên tôn giáo, tất cả tên của những người quan trọng, tất cả các quốc
gia, đương nhiên gồm cả Trung Quốc, và cả cụm từ ‘người Trung Quốc’. Ở nhiều chỗ
trong cuốn sách mới của tôi, ‘người Trung Quốc’ bị đổi thành ‘một số người’,
hay thậm chí ‘một số ít người’. Nếu tôi phê bình một số phần của văn hóa Trung
Quốc cổ truyền, biên tập viên sẽ đổi nó thành ‘văn hóa quan liêu của Trung Quốc
cổ đại’. Nếu tôi nêu ra bất cứ chuyện đương đại nào, ông sẽ yêu cầu tôi nói về
Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) hay Võ Tắc Thiên (nữ hoàng khét tiếng nhà Đường)
hay Châu Âu hay Thời Trung Cổ. Sau khi cuốn sách này được xuất bản, độc giả có
thể nghĩ rằng tác giả bị điên: rõ ràng anh ta viết chuyện đương đại, vậy sao cứ
cần phải phê phán Võ Tắc Thiên mãi thế? Phải thôi, độc giả chẳng sai đâu, bởi
vì vào thời đại này, ở chốn này, văn chương Trung Quốc bộc lộ những triệu chứng
của một căn bệnh tâm thần. Tôi không giống một nhà văn Trung Quốc, mà giống một
kẻ mắc bệnh tâm thần hơn.
Có người sẽ nói rằng đừng nên dùng trường hợp của một biên tập
viên kỳ khôi để chê trách cả cơ chế. Tôi đồng ý, nhưng vẫn muốn hỏi: Điều gì tạo
ra một biên tập viên luôn hoang tưởng sợ sệt như vậy? Tôi thú nhận là nỗi sợ của
ông ta đã nhiễm qua tôi, và tôi cũng muốn hỏi cơ chế kiểu gì mà lại khiến tôi,
một công dân tuân thủ luật pháp, một nhà văn, phải sống trong nỗi sợ không mô tả
được.
Ở đây có nhiều nhà báo và có lẽ nhiều nhà khác nữa, sau này họ
có lẽ tường thuật rằng tôi đã có một bài phát biểu khá giận dữ. Tôi đâu có giận;
tôi chỉ đang mô tả tình cảnh của mình, vì tôi tin rằng chắc chắn đây không chỉ
là tình cảnh của tôi, mà còn là tình cảnh toàn thể giới văn sĩ Trung Quốc đang
lâm vào. Và nỗi sợ tôi đang cảm nhận không chỉ là nỗi sợ theo cảm nhận của một
nhà văn, mà của tất cả những nhà văn chúng ta. Đáng buồn thay, tôi đã dành nhiều
công sức cho việc biên soạn ‘từ điển những từ nhạy cảm’ này, và tôi đã trau giồi
nhuần nhuyễn những kỹ năng lọc văn của mình. Tôi biết những từ, những câu nào
phải bị cắt, và tôi đã chấp nhận việc cắt xén như thể đó là cách nên làm. Quả
thực, tôi thường tự mình cắt bỏ vài từ để tiết kiệm thời gian. Cái này tôi gọi
là ‘văn chương bị thiến’ - tôi là một thái giám chủ động, tôi đã tự thiến mình
trước khi bác sĩ giải phẫu cầm dao mổ.
Chẳng có gì mới mẻ khi biết rằng trong thế giới này có điều
viết được và có điều không được viết; có điều nói ra được, nhưng có điều chỉ có
thể nằm trong suy nghĩ. Tiếng mẹ đẻ của chúng ta đã bị cắt thành hai phần: một
an toàn, và một đầy rủi ro. Có từ hợp lòng cách mạng, có từ lại là phản động;
có từ dùng được, nhưng có từ lại thuộc về kẻ thù. Điều tai hại nhất là dù kinh
nghiệm đến thế, tôi vẫn không luôn luôn biết từ nào hợp pháp, từ nào phi pháp,
nên tôi thường vô tình phạm ‘tội ác ngôn từ’. Tối hôm qua tôi xem một quảng cáo
ở Bắc Kinh hỏi rằng: ‘Bạn sẽ nói gì nếu bạn trở thành vô địch thế giới? Câu trả
lời của tôi thế này: tôi là một nhà văn. Thật khó gọi tôi là nhà văn, ngay cả
khi tôi đứng trên bục nhận giải thưởng, tôi cảm thấy khó chịu khi gọi mình là
nhà văn - tôi chỉ là một tội phạm ngôn từ.
Có người sẽ nói rằng thực tế đành phải vậy thôi. Tôi có cảm
giác mình đã sắp bị bóp nghẹt. Tôi đánh vật chọn những từ an toàn trong một bãi
mìn ngôn ngữ. Dường như từng từ từng ngữ trong tiếng Trung đều có vẻ đáng ngờ.
Tôi muốn nói rằng điều này không chỉ gây hại cho tác phẩm của tôi, mà còn gây hại
cho ngôn ngữ chúng ta. Đây là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, ngôn ngữ vĩ đại của
chúng ta, ngôn ngữ của triết gia Trang Tử, các nhà thơ Lý Bạch và Tô Đông Pha,
và đại sử gia Tư Mã Thiên. Có thể cháu chắt của chúng ta sẽ tái khám phá nhiều
từ ngữ đẹp mà nay không còn tồn tại. Nhưng đáng buồn thay, ngay cả bây giờ,
chúng ta tiếp tục ngạo mạn tuyên bố rằng ngôn ngữ của chúng ta đang thịnh.
Sự thật duy nhất là chúng ta không thể nói sự thật. Quan điểm
duy nhất có thể chấp nhận được là chúng ta không thể bày tỏ quan điểm. Chúng ta
không thể chỉ trích cơ chế, chúng ta không thể bàn các vấn đề thời sự, thậm chí
chúng ta không thể nhắc tới nước Ethiopia xa xôi. Đôi khi tôi không thể không tự
hỏi: Cách Mạng Văn Hóa thực sự đã chấm dứt chưa?
Tại sao Trung Quốc đương đại thiếu tác phẩm phát biểu trực tiếp?
Vì những nhà văn chúng ta không thể phát biểu trực tiếp, hay nói đúng hơn,
chúng ta chỉ có thể phát biểu một cách gián tiếp.
Tại sao Trung Quốc đương đại thiếu tác phẩm hay phê phán tình
cảnh hiện tại của chúng ta? Vì không được phép phê phán tình cảnh hiện tại của
chúng ta. Chúng ta không chỉ mất quyền được phê phán, mà mất luôn cả lòng dũng
cảm để phê phán.
Tại sao Trung Quốc hiện đại thiếu những nhà văn vĩ đại? Vì tất
cả những nhà văn vĩ đại đều bị thiến khi vẫn ươm mầm sáng tác.
Người ta hỏi tôi tại sao tôi viết, và tôi thường trả lời: cho
một thế giới rộng lớn hơn. Đó là giấc mơ của tôi. Vì giấc mơ này, tôi có thể chịu
đựng một thế giới đầy những búp bê Barbie, nhưng tôi không thể chịu nổi một thế
giới bắt buộc những búp bê Barbie phải mang đai trinh tiết.
Tôi biết những lời này không phù hợp cho thời đại này và chốn
này. Những lời này có thể bị xem là ngây thơ. Nhưng ở thời đại này và chốn này,
tôi vẫn trung thành với kiểu lập luận ngây ngô này: khi chất lượng không khí giảm
đi, tôi cảm thấy ta nên làm gì đó, chứ không chỉ ngậm miệng và ngưng thở. Thay
vì thế, chúng ta phải hành động, để bảo vệ ngôn ngữ của chúng ta, để làm sạch
môi trường của chúng ta. Trên hết thảy, đây là điều một nhà văn nên làm. Chỉ cần
phát biểu quan điểm kiểu này là tôi xứng đáng nhận giải thưởng văn học.
Tôi hy vọng chúng ta có thể đồng ý với nhau vài điều:
Văn học không thể phục vụ chính quyền; ngược lại, chính quyền
nên làm mọi thứ trong khả năng của mình để tạo ra môi trường thuận lợi cho văn
học.
Nếu chúng ta không thể loại bỏ được kiểm duyệt, thì tôi hy vọng
chúng ta có thể nới lỏng hơn một chút về kiểm duyệt; nếu chúng ta không thể nới
lỏng được, thì ít nhất hãy để cho chúng ta thông minh hơn một chút.
Nếu thực sự có một ‘từ điển những từ nhạy cảm’, tôi hy vọng rằng
nó sẽ được xuất bản; như vậy ít ra chúng ta đều có thể tiết kiệm được nhiều thời
gian và giảm khả năng vô ý phạm những ‘tội ác ngôn từ’.
Nhà văn không nên là con vẹt, không nên là cái loa biết đi,
và nhất định đừng nên là những con thú nuôi kiểng suốt ngày nhặng xị; họ nên có
một đầu óc trong sạch và phát biểu bằng tiếng nói trung thực. Khi cầm bút, họ
không là nô lệ của ai, họ có quyền không thề trung thành với bất cứ ai; và phát
biểu sự thật và chân thật với chính lương tâm của họ.
Cuối cùng, tôi muốn nói rằng tôi không phải là một kẻ thù
giai cấp, tôi không phải là kẻ phá rối hay kẻ lật đổ chính quyền. Tôi chỉ là một
công dân đề xuất ý kiến. Ngôn từ của tôi có thể gay gắt, nhưng xin hãy tin những
hảo ý của tôi. Giống như hầu hết mọi người, tôi mơ sống trong một thế giới hoàn
hảo, nhưng tôi vẫn sẵn lòng hiến dâng tất cả cho một thế giới không hoàn hảo.
Đọc tại Hội quán Phóng viên Ngoại quốc Hong Kong vào tháng
2/2011.
6/11/2011
Bản tiếng Anh do Harvey Thomlinson,
Jane Weizhen Pan và
Martin Merz dịch từ tiếng Trung.
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Theo blog Lê đông xuống đoài
Nguồn: The New York Times
Theo http://vanviet.info/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét