Quê nội quê ngoại 1
Chợ Cầu Mống làng Hương Mỹ xóm Cổ Cò
Cậu bé Trí đi học chữ đầu tiên ở trường xóm của ông thầy Tám
Chạt. Người trong xóm không biết ông ở đâu đến, chỉ thấy ông dạy học. Nhưng ông
không có nhà. Những chủ nhà có con đông rước ông về nuôi cơm và dạy cho sắp trẻ
học, thì nơi đó trở thành trường của thày Tám.
Trường chỉ là bộ ván ba, tấm giữa kê lên cao,, hai tấm hai
bên làm bàn ngồi. Thế là thành bàn học. Năm ba đứa trẻ i-tờ. Vài đứa biết
ráp vần xuôi, thế là thành lớp học. Ông thầy không có vợ con, dạy học ăn cơm chủ
nhà. Những người khác mỗi tháng đóng một lít gạo hoặc một cắc bạc. Ngoài ra,
tùy lòng tốt của bà con, kẻ cho thêm bầu bí rau cải, dừa khô, trái cây….thầy
vui vẻ nhận cả. Những nhà có đám giỗ đều mời thầy đến và xếp thầy ngồi vào bàn
của Hương-chức, Hội-tề hoặc những bậc trưởng thượng vì người nông thôn vốn kính
trọng lễ nghĩa và theo đạo thánh hiền Quân - Sư - Phụ.
Thầy yên tâm làm nghề gõ đầu trẻ, không bương chải tìm địa vị
nào hơn cả. Và thầy cũng đã ngoài 50, cái tuổi xuống dốc cuộc đời.
Bài học đầu tiên cậu bé được thầy Tám phóng cho là
những sổ đứng (bâtons droits). Sổ hết ba trang giấy thầy cho viết số 1. Sổ đứng
như cây gậy, không có ngoéo, còn số 1 có ngoéo, khó viết hơn. Đó gọi là tập viết.
Phải viết đến chừng nào thầy khen giỏi thì mới viết sang số 2. Số cuối cùng là
số 10. Xong rồi tới chữ "a". Nói là tập viết, nhưng sự thực là
"đồ". Đồ có nghĩa là thầy "phóng" bằng viết chì rồi học trò
"đồ" lại y theo lằn viết chì. Nét bút run như con giun vậy. Các bạn
có nhớ cặp giò gà không ? Học trò luôn luôn được người lớn khuyến cáo là đừng
ăn giò gà để "viết khỏi run tay". Hư thực thế nào, không rõ, chứ có
trò nào thích gặm giò gà bao giờ. Đó là món của bợm nhậu mà.
Bắt đầu ráp vần ngược được thì Trí "chuyển trường".
(Ráp vần ngược thí dụ như oa, loa, hoa, oan, hoan. loan). Trường mới của
Trí là nhà thờ Thiên Chúa, ở ngay bên nhà. Ông cụ của Trí - tức là ông nội của
tía Trí - đã ngoài 70. Cụ bảo: Lo phần xác phải lo phần hồn. Cụ bỏ tiền của ra
lập nên một ngôi nhà thờ ngay trong đất nhà. Rồi cụ còn xây một "nền
bông" (sinh phần) nền đúc cao tới ngực, bốn bên rào bằng lan can sành,
chung quan nền bông trồng cây kiểng và hoa cỏ cho đẹp. Ông cụ bảo các con hãy tự
lo sinh sống, còn tiền của thì ông để hết vào ngôi nhà thờ. Cụ rước dì phước về
ở hẳn, để dạy đạo và chữ cho con cháu trong gia tộc và bà con lối xóm. Ai muốn
học thì cứ tới, không phải đóng tiền gạo hoặc mang tặng vật gì đến cả. Lớp học
này cao cấp hơn lớp của thầy Tám, nhưng nó cũng rất là phức tạp. Học trò có chừng
15 đứa, nhưng mỗi đứa một trình độ. Hai Dì phải dạy từng trò một chớ không thể
dạy đồng loạt như ở trường chợ được.
Trí bắt đầu đọc chạy chữ Quốc Ngữ là ở dưới mái trường đạo
này. Nhà thờ ở ngay trước cửa trường, cách không quá ba bước, nhưng đứa nào muốn
đọc kinh thì đến nhà thờ chớ Dì không bảo đứa nào cả. Tuy nhiên ở trường tckhi
vào học hoặc trước khi ra về, học trò phải đọc kinh Kính Mừng, Lạy Cha,
Sáng Danh, Lạy Thánh Mẫu. Xong rồi xếp hàng trước mặt hai Dì cúi đầu, nói
rập ràng: "Xin Dì cho các em về!" Tiên học lễ hậu học văn là thế.
Dì Tâm và dì Chín có cách dạy học trò rất đặc biệt. Trò nào
ngoan thì thưởng kẹo, trò nào không thuộc bài cũng được khuyến khích bằng kẹo.
Vườn ông cụ nhiều trái cây, dừa, mít, ổi, xoài, mãng cầu v.v… nên lúc nào cũng
sẵn để dỗ học trò. Trí là đứa con cưng nên mới 5 tuổi đã được đi học. Buổi sáng
nào đến trường , Trí cũng đi bằng xe "hai bánh" đặc biệt. Đó là người
chú, con của bà nội nhỏ của Trí: chú Ba. Chú phải cõng Trí đến trường. Rồi hết
giờ lại đến cõng về. Bữa nào trời mưa phải che lá chầm cho kỹ, nếu để tập vở ướt,
thí Trí khóc, làm mình làm mẩy, chú bị rầy to Mãi cho đến lúc Trí rời trường
nhà thờ, chú Ba mới chấm dứt vai trò làm ngựa đưa Trí tới trường.
Ông nội của Trí làm Hương Cả trong làng, nên buổi sáng nào
ông cũng ghé xe máy (xe đạp) lại trước sân bóp chuông "kính coong" là
Trí chạy ra leo lên xe ngồi trên đòn dông cho ông chở đến trường. Dọc đường,
người dân cúi mọp:"Bẩm Cả" thì coi như Trí cũng được xá luôn với nội.
Buổi học đầu tiên, ông chở đứa cháu đến lớp 3 cho nên thầy dạy
lớp này gọi là thầy Ba. Ông dắt đứa cháu đến trước mặt thầy, nói: "Cháu
tôi còn khờ, có chuyện gì ghì thầy cho tôi biết, chớ đừng đánh nó!"
Thầy Ba chào và nhận thằng học trò cháu cưng của ông Cả. Rủi
thay bữa đó thầy đánh đứa khác nhưng ngọn roi quơ làm đổ bình mực lên bộ đồ vải
xe lửa trắng của trò Trí. Trí không khóc nhưng thầy Ba nể ông Cả nên trước khi
tan trường thầy dặn Trí về nhà lấy mủ đu đủ giặt thì sạch dấu mực. Thời đó vải
xe lửa rất hiếm)
Trí về nhà được tía má mừng vì có thằng con đi học tới trường
chợ, nên không hỏi vụ đổ mực, mà lại khen con học giỏi…
Dần dần quen với chúng bạn, Trí không đi xe với ông nữa mà đi
bộ, vui hơn, vì dọc đường có nhiều trò chơi. Vào chợ lại tự do ghé quán này tiệm
nọ để ngắm xem hoặc mua bánh kẹo. Trước đây học trường xóm, Trí đâu có khi nào
được cầm xu tự mua lấy bánh. Bây giờ lớn rồi có nhiều quyền lợi hơn.
L’an passé, celà va sans dire
J’étais petit, mais à présent
Je sais compter, lire et écrire …
(Năm qua tôi còn bé nhưng bây giờ
Tôi biết đếm, biết đọc và biết viết….)
Sáng bữa nào mà Trí cũng để trên góc ván gõ ở nhà ngang 2 xu
nguyên, hoặc một xu nguyên và 2 nửa xu . Có nghĩa là 1 xu quà sáng, 1 xu quà
chiều. Gặp buổi Trí quờ không thấy xu ở góc ván thì chạy ra vường. "Thưa
má con đi học!" Má gật đầu. Trí chạy vào rồi lại trở ra: "Thưa má con
đi học!" Má biết ý bảo: "Xu má để dưới mí chiếu, trong giường ngủ,
con vô lấy." Lần này Trí không trở ra nữa. Bữa nào không có xu lẻ, má đưa
cả cho cả 1 đồng xu năm bạc trắng và dặn đem về 3 xu, thì Trí làm đúng lời mẹ dặn.
Có nhiều lần, do mấy ông bạn lớn đầu bảo, những đồng xu làm
năm 1901, 1902, 1903 thì có pha vàng và dày hơn xu đúc vào các năm khác, nên
Trí xé lai áo lận vào, để dành làm của hoặc dùng đánh đáo rất tốt. Vào chợ hằng
ngày nên Trí có ý niệm rõ rệt về bánh trái: loại bánh bàng của chệt, ăn ngon
nhưng không no, chỉ nên mua vào buổi trưa; bánh con ngựa con, 1 xu 6 chiếc, ngựa
lớn có rắc đường cát 1 xu 2 chiếc. Ăn xong ghé tiệm thím Từng Khạo ực một gáo
là no tới chiều về nhà ăn cơm.
Buổi sáng không cần phải suy nghĩ, Má đã chỉ định mấy món phải
mua ăn cho no, "nếu không no, xót ruột không học được". Đó là bánh mặn,
nhưn tôm có nước cốt dừa rắc hành, bánh cam, bánh da lợn, bánh xếp nhưn dừa xào
ngọt. Đó là các thứ bánh căn bản ít khi Trí đi ra khỏi qui định của má. Nhưng
cũng có khi nghe mùi mỡ chiên bánh xèo, cầm lòng không đậu, Trí nổi hứng làm một
bánh trả luôn 2 xu, hết vốn cả ngày. Thế là buổi chiều, rỗng túi, miệng trơn.
Nhưng không lo, có chú Vĩnh. Chú là con của ông Sáu, học cùng lớp, nhưng vai lớn
nên Trí phải gọi bằng chú. Chú Vĩnh là người rất kim chỉ. Đi học sớm như đàn bà
đi chợ. Vào đến sân trường thì Trí đã thấy chú ngồi ở thềm ba rồi. Thầy mở cửa
lớp, chú vào trước nhất. Không ai thấy chú ăn quà ra sao, nhưng lúc nào chú
cũng sẵn tiền trong túi. Chú có hai cái vỏ hộp quẹt Riêm Hai Sao của Bến
Thủy hoặc Blue Blind ràng dính nhau bằng hai khoanh dây thung ruột
xe đạp. Hộp trên đựng xu, hộp dưới đựng phấn viết. Vào lớp khi dùng bảng đen cá
nhân có đứa không có phấn, thì hỏi "mượn" Vĩnh, có ngay. Ra chợ không
có xu mua đạn bắn cu-li, hỏi Vĩnh cũng không bao giờ thiếu. Vì thế
Trí không lo, cứ ăn bánh xèo tốn 2 xu, rồi mượn chú Vĩnh nửa xu mua một khúc
mía xước buổi trưa cho mát bụng. Mía tây vàng rực, bán ở trước cửa tiệm thím Bầu
ngay bên cạnh trường học.
Chợ Làng có hai thím Bầu. Cả hai đều bán tiệm. Thím Bầu
(thúng) người tròn vo như trái bầu thúng thì bán tiệm ở ngoài đường cái, gần
chùa Bà. Còn thím Bầu C. ngựa thì cao gầy (!) bán mía ở gần trường . Thím mua
mía đám về chặt ra từng lóng không róc, giá nửa xu hoặc một xu,vừa túi tiền của
học trò. Những lóng mía tây vàng rực rỡ, hít nước mát dạ mát lòng buổi trưa,
trước khi vào lớp học. Trí cứ hỏi "vay" chú Vĩnh nửa xu là buổi chiều
khỏi lo cái miệng ở không. Cho mượn nhưng bao giờ chú cũng càu nhau vài câu như
Tào Tháo thử thần kinh tướng sĩ.
- Mượn mai trả à!… Thiệt không ? …. Mượn, mượn hoài!
Hoặc mỗi khi về đường (nhà xa hơn 3 cây số) buồn miệng, mượn
của chú nửa xu mua một cây kẹo mút (còn gọi là cà-rem) có cán tre ngậm về tới
nhà mới mòn hết. Loại xu đỏ đúc vào những năm 1901-1902-1903
dày, làm đồng bảng đánh đáo bảnh lắm. Bỏ nó dưới đất lấy gót
xoay xoay, cầm lên nóng hổi sáng trưng, thấy mê liền. Các bạn thất thập còn nhớ
loại xu này chăng? Ngoài ra còn đồng xu lá bài có hình hai cây cờ gác tréo, không
có lỗ, không biết của xứ nào, nhưng quí lắm, ít đứa có được, gọi là đồng xu “lá
bài” ăn hai đồng xu thường.
Trí bắt đầu thích đi bộ vì có dịp biết chuyện này chuyện nọ.
Đôi khi ông Cả đi nhóm về gặp cháu ở dọc đường thì ghé xe lại để chở, nhưng Trí
nói không mỏi chân. Chợ làng có nhiều cái hấp dẫn. Từ ngoài đầu ấp chân lấm bùn
bước lên lộ đá là đã thấy lạ mắt rồi. Trước nhất là ông Tư Mao, người cao bụng
to như Đổng Trác, nịt dây thắt lung bản to có túi gài nút bóp. Ông đứng trước cửa
phố đảo bả me nghe rổn ráng, mặc kệ kẻ qua người lại nhìn ngó. Kế đó
là tiệm thuốc Bắc của thầy Son với bảng hiệu chữ nho vàng ánh rất to treo trước
cửa.
Thầy Son thường cỡi xe ra ấp coi mạch hốt thuốc cho bà con.
Có lần Trí bịnh cũng rước thầy ra tận nhà. Thang thuốc gói bằng giấy trắng có
in chữ nho đỏ buộc bằng sợi dây lác còn gạnh mấy chữ VN: “bỏ thêm 3 lát gừng sống,
đổ ba chén nước, sắc còn lại 8 phân.” Trời ơi, thuốc đắng tàn nhãn, Trí không
chịu uống, chú Ba phải nói gạt có bỏ kẹo bòng bong Trí mới chịu uống. Khi đi ngang
tiệm, chú vẫn nhớ Trí gọi vào hỏi thăm. Trí có dịp xem tiệm của chú. Đặc biệt
có lần Trí thấy một người đang xay thuốc bằng cái cối sắt hình mo nang dừa, một
người đứng trên một bánh xe lăn tới lăn lui mà không té, nhờ hai tay vịn vào
vách, trong lúc hai chân nhún nhảy rất nhịp nhàng.
Trí muốn xay thử. Thầy Son đỡ Trí lên, nhưng Trí không đứng
được trên bánh xe. Coi vậy mà khó! Phải tập trầy mắt cá mới làm được. Cũng như
cỡi xe máy coi thì dễ nhưng không biết cỡi mà nhảy lên thì ngã liền. Đứa nào biết
cỡi xe đạp cũng phải lãnh mấy cái thẹo ở đầu gối.
Qua tiệm thuốc Bắc thì tới tiệm thiếc của tía thằng Hoà học
chung lớp với Trí. Ông già ngồi đập, cắt, hàn đồ thiếc tối ngày. Ai có chảo bể,
(hồi đó chưa có soong nhôm) đem lại cho ông hàn. Ai muốn mua lon thiếc múc nước
uống cũng ghé lại đây. Ngộ nói một cắc pạc, trả 6 xu cũng pán. Há
cái lề, ngộ ỉa pên tàu mới oa, pán cho pà koong dể
dể để lằm quen. Ông già nói tiếng Việt khó nghe nhưng bà con vẫn
hiểu và thích mua đồ của ông.
Qua khỏi tiệm thiếc thì đến tiệm thím Bầu thúng. Chú Bầu đầu
trọc lóc, mặc quần xệ dưới rốn, áo luôn luôn phanh ngực, pán món gì
cũng thêm cho pà koong xày. Rượu đựng trong cái tỉn da nâu để trong càn xé
đậy bằng một nùi giẻ rách (không cho rượu bốc hơi, lạt). Nước mắm, dầu lửa, muối,
tương, đường cát, đường sống trâu, đậu phọng, đậu nành, dây chì, dây mây… bất cứ
thứ gì cũng có. Thím Bầu thì to gấp ba chú Bầu: Đôi uyên ương không xứng chút
nào, không hiểu sao con cái rất đẹp. Chị Lình đẹp như tiên trong tranh, thằng Cẩu
học chung lớp với Trí đầu tròn, môi son da trắng như con gái. Mấy đứa em của nó
cũng vậy. Tiệm chú Bầu ủm thủm thấp trệt, nhưng nó ở ngay mối đường, như
cái nò chận lạch, tôm cá đi vô hết. Năm sáu anh em thằng Cẩu đều học
tiếng Việt Nam chớ không học chữ Tàu ở bến Chùa Bà của người Tàu ở ngay đó.
Thím Bầu nói tiếng Việt sõi hơn chồng. Thím không ngại nói rằng ở bên Tàu gia
đình thím không có cơm ăn, phải ăn khoai củ. Đến củi cũng không có, mà phải gom
lá khô nấu bếp.
Nối liền với tiệm chú Bầu là một dãy phố chạy cặp con đường
đá đỏ, hai bên có trồng cây sao suôn đuột, rất đều khoảng như lính trong hàng
quân. Lúc gần Tết bông sao khô rụng xoay tròn trong không gian, như đàn bướm
hàng vạn con bay theo chiều gió, đáp xuống bãi cỏ bên cửa hông nhà việc trước cửa
Chùa Bà. Tan học chiều Trí thường đi qua bãi cỏ này, giơ tay hứng những chú bướm
như những mảnh tâm hồn ta bà thế giới muốn tìm một cảnh chùa để trú ngụ.
Dãy phố này không có gì đặc biệt ngoại trừ một bà cụ tên là
bà Ba Đồn chuyên môn bán thuốc rê. Bà có một người con mắt đục, mũi cao không
biết tên gì, chỉ nghe thiên hạ gọi anh là thằng “Tây”. Anh Tây học lớp nhứt và
nổi tiếng thông minh.
Bên cạnh nhà bà Ba, có một căn phố đóng cửa im ỉm suốt ngày,
trước thềm lót một bộ ván thồ. Trí đi qua đi lại hằng ngày, chẳng thấy gì hơn
là một ông lão mù và con chó Luốc. Ông lão thì ngồi tựa vách còn con Luốc thì nằm
ghếch mõm lên chân trước ngó ra đường, nhưng không hề sủa người đi qua. Cứ mỗi
lần nghe xe từ Giồng Luông, Giồng Miễu lên hoặc xe trên Mỏ Cày xuống thì ông
lão quờ lấy chiếc nón nỉ cũ úp lên đầu và cầm chiếc hộp lon. Rồi một cách nhịp
nhàng, chậm chạp, người và vật bước xuống đất. Con Luốc thuộc đường và biết ý
chủ. Nó dắt chủ đi với sợi dây buộc ở cổ nó, nhưng chủ nó còn cầm thêm chiếc gậy
để khua đường, đi về phía chiếc xe đò vừa đỗ ngoài bến ngay trước cửa tiệm Thím
Bầu. Ông lão bắt đầu hát từ xa, trước khi đến bến xe, như để báo trước cho hành
khách rằng sắp có một người cần đến lòng từ thiện của họ.
Ông lão đi theo con Luốc ra đến xe, đưa chiếc hộp lên rà theo
thành xe, vừa đi vừa hát. Lão nói thơ Vân Tiên, kể sự tích đứa con đi lính bên
Âu châu:
“...Con đi đã bặt tin sương
Nào hay con đã sa trường mạng vong…
Rồi lão than thở số kiếp của lão:
…Làm nqười ai có muốn đui
Phải sao chịu vậy chẳng vui trong lòng.
Mỗi lần xu rơi vào hộp nghe lỏng tỏng, lão ngưng đế cảm ơn rồi
lại hát tiếp.
Âu châu là xứ của người
Mà con qua đó xương phơi bấy chầy
Ở nhà tựa cửa tháng ngày
Trông con như thể trông mây trên trời.
Trí nghe nhiều lần nên thuộc gần hết bài thơ. Có lần lão rớt
gậy, con Luốc cứ đứng lại sủa hoài. Trí thấy vậy chạy lại lượm chiếc gậy đưa
cho lão. Trí thấy mắt lão sâu tun hút không có tròng. Lão đi vòng quanh chiếc
xe, hát hết bài thì xe cũng vừa bóp kèn, lão tránh ra cho xe chạy. Dốc cầu cao
lắm. Đứng ở cuối dốc nhìn lên, nó như con sấu nằm bốn chân huênh ra hai bên,
lưng nó sùi vẩy, đầu nó ngẩng lên mà chiếc xe chỉ là con nhái trườn lên lưng
nó. Bỗng đít xe sùi khói rồi dừng lại và ngừng hẳn. Người lơ xe ở sau nhanh nhẹn
nhảy xuống xách hai gộc cây vuông chèn bánh xe và nói: “Mời bà con chịu khó xuống
xe, để ông chủ phát máy rồi sẽ lên.” Khách thấy xe chết máy thì hoảng sợ, xuống
ngay.
Người lơ xe lại nói: “Mời bà con mỗi người tiếp một tay!” Anh
ta ngoắc hai bên phố. Bọn Trí sẵn lòng hào hiệp, ùa tới đẩy. Chiếc xe lại bò dần
lên dốc và phì máy. Người lơ xe vò đầu đám con nít như một sự cảm ơn. Khách lại
bước lên. Xe chạy lên cầu. Những tấm ván long đinh khua rầm rầm. Trí ngó theo.
Chiếc xe xa dần rồi khuất hẳn, để lại phía sau một làn hương thơm phức. Biết
bao giờ Trí mới được đi xe hơi?
Trí và đám bạn bước theo những bậc thạch lót bằng đá xanh đi
xuống sườn dốc. Đã từng chạy đua lên xuống với chúng bạn nên Trí đếm được 19 nấc
tất cả. Thế mới biết cái dốc cầu cao, cho nên gọi chợ là Chợ Cầu Mổng, nghĩa là
cái chợ có mống cầu cao, hình như là mống cầu cao nhất tỉnh.
Ngay bên sườn dốc bên trái là chành lúa. Trước cửa có một sân
gạch tàu. Chiều chiều mấy ông chệt già, đầu hói, bụng phệ, ngồi lọt thỏm trong
lòng những chiếc ghế mây sâu hõm, ung dung hút ống điếu bình, nhả khói phun mây
như bát tiên đánh phép trong truyện Phong Thần. Đây là cái túi của nqười Tàu
thu hút từng đồng xu, hột lúa của nông dân trong vùng. Nhưng người Việt Nam
không hề nghĩ tới việc bị người Tàu lột da một cách êm ái, không thấy đau. Hệ
thống thương mại hoàn toàn nằm trong tay người Tàu. Các chú chệt già làm chủ
ngành lúa. Chú Ao chú hiệu Vạn Thương, tiệm tạp hoá lớn nhất vùng. Chú Đặng chủ
tiệm tạp hoá kiêm tiệm thuốc Bắc. Chú Liếp, tiệm xe đạp; chú Son, chú Tín, tiệm
thuốc Bắc; chú Lục, chú Vấp mua heo và chủ tiệm nước; chú Bầu tiệm tạp hoá; chú
Hul, chú Gìn mua bán lúa,… toàn là “chú”. Người Việt chỉ có vài ba tiệm nhỏ như
một loại cỏ mọc trong xó hè. Tiệm tạp hoá của Chín Cận không có bảng hiệu,
không tranh nổi với tiệm Vạn Thương của chú Ao. Bị đá thốc trên đất liền, phải
xuống sông kiếm gỡ, người Việt lập đò đưa lèo tèo hai ngày một chuyến đi Bến
Tre, lượm xu lẻ với tiếng tù và rền rĩ đau thương. Chỉ có ông Hội đồng Nhơn là
người độc nhất chống chọi lại với bọn Chệt chủ chành lúa. Ông có mấy chiếc ghe
chài chở lúa lên bán ở Chợ Lớn. Sở dĩ mống cầu phải cao như vậy là để cho ghe
chài của ông qua lại, nếu cầu thấp ghe qua không lọt. Nhưng ông làm sao tranh lại
với bọn tài phiệt Chợ Lớn, mà tay chân của nó là các “chú” ở Cầu Mống và ở khắp
các chợ làng, chợ quận, chợ tỉnh.
Nhà ông Hội Đồng ở cạnh trường học. Đất chợ là đất của ông hiến
cho làng. Cơ ngơi đồ sộ của ông gồm hai ngôi nhà nền đúc, một ngôi nhà sàn, một
khu kim tĩnh. Ông Hội Đồng được liệt kê trong số những nhà giàu xưa lớn nhất
Nam kỳ. Xem thế thì thấy chợ Cầu Mống là một địa phương sầm uất dường nào! Dưới
thuyền trên chợ, bên đường lộ cái liên tỉnh, lại còn có con rạch Tân Hương, con
rạch chảy cắt ngang đoạn giữa cù lao Minh, như một sợi thắt lưng bạc buộc ngang
lưng một mỹ nhân. Dòng nước của nó tươi mát, làm xanh tươi hai làng Hương Mỹ và
Minh Đức giáp ranh nhau. Hương Mỹ có chợ Cầu Mống, Minh Đức có chợ Tân Hương được
nối liền bởi con rạch này. Nó có hai vàm lớn: Phía Tân Hương có vàm Tân Hương
ngó ra sông Cái Hàm Luông, còn vàm Mương Choại đổ ra sông Cổ Chiên. Hàm Luông
và cổ Chiên là hai nhánh lớn của sông Cửu Long. Vì thế ghe thương hồ các tỉnh
Trà Vinh, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Tân An, Sa Đéc… đều đến chợ Cầu Mống, Tân Hương bằng
đường thuỷ. Do đó bến chợ cũng tấp nập thuyền bè như trên lộ nườm nượp xe cộ, bụi
bốc phủ trắng nhũng hàng me hai bên đường suốt năm.
Cầu Mống Tân Hương không phải là địa thế Rồng Chầu Hổ Phục
như Lam Sơn, Bạch Đằng nhưng nó là một núm vú căng tròn sữa ngọt nuôi dân và là
quê hương của một vị tướng lãnh mà lịch sử còn ghi danh: Thống tướng Lê Văn Tỵ.
Trước cửa tiệm Vạn Thương là bến chợ. Nơi đây, Trí qua lại hằng
ngày và đọc trên mui ghe thương hồ các số 7, số 5, số 1, số 3, số 4… (số 1 Gia
Định, số 2 Châu Đốc, Số 3 Hà Tiên, số 4 Mỹ Tho, số 5 Trà Vinh, số 6 Sa Đéc, số
7 Bến Tre v.v…). Lòng mơ ước được đi xa cũng mơ màng bay theo tiếng tù và mỗi
khi đò tách bến. Chiếc cầu nước trước cửa tiệm Vạn Thương cũng thân mến với hai
bàn chân của cậu học sinh như lớp học của cậu vậy. Từ cuối ấp đi vào đây, nhằm
ngày mưa đường lầy lội, đôi khi “chụp ếch” bùn đất lấm tới đầu, phải ghé vào
đây gột rửa trước khi đến trường. Buổi trưa gặp lúc nước ròng, bến chợ lòi bãi
thì đó là bãi bạc bãi vàng của lũ con nít chợ và học trò. Chúng xúm lại tìm lượm
vật nọ vật kia. Có đứa lượm được cả xu năm cắc bạc là chuyện thường. Có lần Trí
định mua một ngòi viết lá tre nhưng trời cho lượm ở đó, nên dư được nửa xu, mua
một khúc mía.
Đây là bãi rác ngầm, cuộc đất đãi người, không kể quen hay lạ.
Rửa chân, rửa mặt, chải tóc ở đây xong, bước lên tiệm mua hàng
Rửa chân cho sạch nước phèn,
Bước lên thềm gạch dầu hèn cũng sang.
Trong tiệm có vô số món hấp dẫn, nhưng thu hút mạnh nhất là
những viên đạn đá đủ màu, 1 xu bốn hòn, để bắn cu-li ăn đạn, ngòi viết, viết
chì đầu đỏ đầu xanh, giấy màu, vở đờ-voa (devoirs) gạch sẵn. Trời ơi viết tập vở
cũ hoài chán quá, trông cho tới trang cuối để mua vở mới. Muốn xé vài trang xếp
chim, xếp tàu mà thầy nghiêm lắm, thầy xét có dấu xé là bê sưng tay,
nên phải kiên nhẫn viết đến trang cuối. Được tập vở mới, đề tên rnới khoái làm
sao!
Ecole de CẦU MÔNG
Cours… ENFANTIN
Cahier de DEVOIRS
appartenant à l’élève BÙI QUANG TRÍ
No- Matricule 1904
Année scolaire 1936-37
Vở mới lằn nhỏ rứt, gạch lề màu đỏ, giấy thơm phức. Bài đầu
tiên phải gắng lấy được 8 điếm trở lên cho đáng tập vở mới.
Vì học trò đông, ba lớp không đủ, ông Hội đồng cho tiền cất
thêm 1 lớp Enfantin do cô giáo Ngân dạy.
Cô là người ở đâu tới, không phải người trong làng. Cô chưa
có gia đình nhưng không biết ở trọ nhà ai.
Thời bấy giờ đàn bà con gái mới bắt đầu lai rai mặc đồ mết (mode)
che dù cán cụt còn bao nhiêu thì mặc đồ bà ba, che dù cán ngoéo, chỉ có cô giáo
mặc đồ mết trắng, áo trắng quần trắng, chân đi giày cao gót, trời nắng
lại che dù cán cụt, đôi khi thấy cô dồi phấn, đánh má hồng. Đó là một điều mới
lạ ở chợ làng. Chỉ khi nào lên chợ quận chợ tinh mới trông thấy. Thanh niên trai
tráng ở làng đâu dám tò vè. Chi có các cậu công tử nhà giàu và có đọc tiểu thuyết
thì mới dám đối đáp với cổ.
Mỗi lần cô đi ngang qua phố, người ta trầm trồ: “con nhà ai
mà sang trọng và học giỏi vậy?” Đó là một chuyện lạ. Còn một chuyện lạ nữa là
đôi guốc gù của bà Bảy góp chợ. Guốc thường thì có quai ngang để xỏ chân vô.
Còn guốc gù không có quai mà chỉ có cục gù. Muốn mang, người ta kẹp nó vào giữa
hai ngón chân cái và chân trỏ, thế là lê đi. Như vậy bất tiện vì dễ sút hơn guốc
quai, nhưng đó là một lối diện sang. Nội chợ này chỉ có bà Bảy Góp là người độc
nhất mang guốc gù thôi. Cũng như xẩm bó chân, chi có một. Năm khi mười hoạ thì
người ta mới thấy bà xẩm này ra khỏi nhà. Bà ta đi lẩm đẩm như con nít mới tập
đi, nếu ai đụng nhẹ thì chắc là bà ta ngã ngay.
Từ căng-tin lên trường phải qua con đường đá đỏ
nhuyễn nhừ xuyên qua khu nhà của ông Hội đồng. Hai bên đường trồng me rất thẳng
hàng. Những gốc me tơ trái sai oằn, bóng cây mát rợi. Gió thổi qua, ngó lên me
chín khua lộp bộp thật vui tai. Nhìn xuống trái rụng đầy đường. Đám học trò đua
nhau, giở nón ra lượm đầy ấp ăn thua. Vừa đi vừa lột vỏ nuốt trộng rồi ghé vào
đình xin nước uống. Trời ơi, lu nước mưa của ông Từ để dưới gốc cây mãng cầu ta
lá rụng trong lu mục hết, chỉ còn gân lá, lăng quãng lội hằng đàn, chiếc gáo
làm bàng lon sữa bò, sét vàng nghinh, cầm cái cán tre thọc vào, múc một gáo ực ực
trong lúc trống trường đã gần dứt hồi thứ ba, đưa cho thằng khác, đứa làm vài
ngụm rồi quăng chiếc gáo ù té chạy vào sân trường vừa đúng lúc cửa lớp vừa mở.
Ngồi học một chút có thằng đã lom khom lên khoanh tay run run: “Xin phép thầy
cho em ra ngo…ài….” Chưa nói hết tiếng đã ngồi bẹp xuống sạp. Thầy cho xét tủ,
bắt gặp những chiếc nón còn đầy me chín.
Trước cổng trường có tấm bảng gỗ mang dòng chữ đen to: “École
de Cầu Mống” đã sập xuống nhưng không ai dựng lên. Hai cánh cổng sút ra xệ xuống
cũng không ai ráp lại. Xe ông Đốc trên Quận xuống xét trường cứ chạy thẳng vào
sân êm ru. Trước cổng là con rạch Tân Hương chảy ngang. Ở mé rạch có mấy cây
gáo cao vút. Bông gáo tròn như trái cam con màu vàng, nhụy trắng. Mấy đứa con
gái lượm từng nhụy bỏ trong lòng bàn tay đem vô hàng ba trường lấy tóc xỏ thành
những sợi dây chuỗi đeo vào cổ coi rất đẹp. Còn những trái chín thì bọn con
trai lượm lên lau vào quần rồi cạp ăn ngọt ngọt chua chua, không ngon nhưng bỏ
thì uổng, nhai cho đỡ buồn miệng.
Vào buổi trưa nhiều đứa cởi quần áo nhảy xuống sông tắm, có đứa
dám bơi qua bên kia sông. Khoảng đất trống giữa những gốc gáo dùng làm “bãi bắn”
cho các “pháo thủ” xạ kích hằng ngày.
Cứ hễ tới giờ chơi là hằng chục “pháo thủ” chạy ra vén quần
lên chong những cây “cà nông tí hon” bắn xuống sông, đạn rơi như mưa. Có đứa lại
rắn mắt, nhỏng “nòng súng” lên cho “đạn” đi vòng cầu rồi kêu bạn mình chui qua
giữa tiếng cười thích thú của những đứa khác.
Cái trò bắn pháo này diễn ra hằng ngày, ngay trước mặt kẻ qua
người lại trên bờ dưới sông, không có che đậy gì hết. Đã bảo nhứt quỉ nhì ma,
thứ ba học trò mà! Học trò có bộ giò ăn cướp, nói vậy cũng không phải là quá
đáng.
Vào lúc “pháo” bắn xối xả thường là ghe rỗi hay về tới chợ. Ghe
rỗi là ghe đi lấy cá biển ở đáy hàng khơi về bán cho kịp buổi chợ sáng.
Ghe nhỏ mình thon, mỗi bên gắn ba chèo, người rạp xuống, tay chèo miệng hô hò
khoan để chèo cho ăn rập, ghe phóng như tên bắn. Khi lướt qua hàng gáo tua tủa
những họng pháo thì họ biết là đã tới chợ, bèn buông chèo quệt mồ hôi rồi bưng
những thúng cá lẹp, cá hố, cá khoai, cá lù đù, cá rựa nhảy lên bờ. Rồi trong
lúc khách đua nhau giành giật hàng tươi thì họ ngả lưng vào gốc sao, thềm chợ
mà thở như trâu cắt cổ.
Nhung có lẽ người mục kích những màn bắn pháo thường xuyên nhất
là ông Chín Chầu. Vì nhà ông ở ngay đó, dưới một gốc gáo cuối hàng. Đúng ra nhà
ông là một cái mui ghe cũ, ông đem về dùng làm nơi trú ẩn, gọi là “cái thum”.
Ông giống như nhân vật của một tiểu thuyết nào, hay như nhà hiền triết ngày xưa
sống trong chiếc thùng rượu mục. Đám học trò không biết ông là người ở đâu tới
đã đành, mà cả chợ cũng không ai biết và cũng không tìm biết. Chi nghe tên ông
là Chín Chầu, một con người tưởng chỉ có trong cổ tích chớ không thể nào có thật
ớ ngoài đời. Vậy mà có! Tấm lưng trần rnốc cời của ông cho biết ông khônq hề biết
đến cái áo. Hơn nữa chiếc quần ngắn tả tơi của ông chỉ là một tấm bố tời buộc
ngang lưng bằng một sợi dây thô để lòi ra cặp chân ống sậy đen như hai que củi
cháy sắp gãy gập đến nơi.
Người ta đồn rằng ông Chín là con nhà giàu, nhưng vì ông
phung phí tiền bạc quá trớn nên cha mẹ rầy, ông hờn giận bỏ nhà đi, không trở về.
Thân mẫu tìm được, cho người tới năn nỉ rước về, ông nhất định không, bèn cho
mang thực phẩm và quần áo tới ông cũng từ chối. Giá mà cất được một ngôi nhà ở
đây cho ông, cha mẹ ông cũng thừa sức làm, nhưng ông Chín nhất định sống một cuộc
đời “tự đày đoạ thân mình”, từ chối mọi sự giúp đỡ. Ông sống bằng những cọng
rau cải héo, những con cá con tép rơi rớt lại chợ, không hề xin xỏ của ai mà
cũng không lấy của ai bất cứ món gì. Ông được tiếng là người đàng hoàng của chợ
này.
Đám học trò nhìn ông như một “kỳ quan” với những cặp mắt lạnh
lùng, không chọc ghẹo cũng không chế giễu ông. Chúng để cho ông yên ổn sống cuộc
sống với những ý nghĩ của ông. Đôi khi có đứa nhặt được một cái hộp lon, hay một
mảnh giẻ rách, đen ném vào thum cho ông. Để trả ơn, ông nhặt những trái gáo
chín rửa sạch xếp trên rễ cây để chúng lượm lấy ăn. Đôi khi có dư thời giờ,
chúng ngồi xem ông nấu thức ăn trong một cái mẻ ơ đặt trên ba hòn đá. Một con
cá khoai ươn, một tí muối, vài ba cọng ngò úa và một trái gáo. Thế là thành
canh chua. Cứ thế, cứ thế, ngày này qua ngày khác, cuộc sống của ông Chín không
có gì thay đổi, trong lúc cái thum của ông được đắp thêm bằng những cái mo và
những mảnh đệm. Tấm lưng của ông càng ngày càng cụp xuống, người ông càng ngày
càng rạc đi. Học trò học xong lớp Élémentaire thi đậu tiểu học, lên trường quận,
học trò lớp chót lên lớp nhì, và con nít bên ngoài vào lớp chót. Cũng những ông
thầy đó, những bàn ghế và bài vở đó, có những đứa đã học đỗ bằng thành chung về
thăm lại thầy cũ trường xưa nhưng ông Chín vẫn còn ở trong cái thum dưới gốc
gáo với những chiếc rễ mọc nhô ra mé sông xa hơn và bò ra phủ kín mặt đường.
Lớp của Trí quá đông, sổ gọi tên gạch sẵn 50 hàng, nhưng thầy
phải thêm chừng mười tên “ngoại càn khôn”. Có những đứa bắt buộc phải “trùng
tên” đứa khác. Trí ngồi đầu bàn gần cửa sổ, có thể nhìn ra thấy Cầu Mống. Mỗi lần
thấy chiếc xe Citroen trắng 2 chỗ ngồi của ông Đốc bò qua cầu thì Trí
thưa cho thầy hay. Để thầy ra dấu cho mấy “con quỉ ngoại càn khôn” nhảy cửa sổ
ra ngoài sau, đợi xe ông Đốc đi hãy trở vô học. Nhưng cũng có khi Trí không thấy,
mà ông Đốc lại bất ngờ bước vô lớp. Vì cổng trường không có cánh cửa.
Trong trường hợp này thì những con quỉ không phóng cửa sổ được
mà phải ngồi chịu trận. Nếu ông Đốc gọi tên để xét bài thì trong ba tên A, chỉ
có một tên đứng lên trả lời, còn hai tên A kia cứ ngồi im chờ qua truông. Ông Đốc
chỉ hỏi vài câu rồi sang lớp khác chớ đâu có ở lâu và cũng đâu có biết thầy
đánh bùa. Nhờ lối đó mà những tên ngoại càn khôn vẫn học được suốt năm và lên lớp
như thường. Những kẻ đã từng học trường (Cầu Mống) không bao giờ quên các thầy
của mình. Thầy Ba đánh học trò bàng con roi mây ngắn. Thầy Nhì dùng thước khẻ
tay, gọi là cái bê. Mỗi sáng thầy đều xét tay. Tay đứa nào dơ, ăn khẻ. Còn
thầy Nhứt thì không dùng roi, bê, chỉ dùng tay véo vai, xách tai, hoặc vỗ một bạt
tai thấy hai ông trời. Thầy nào đánh đòn nhiều, học trò càng giỏi, thi đậu
đông.
Ở trước hàng ba trường có đặt một cái trống chầu, không biết
dùng từ thời nào, nay đã thủng. Mỗi sáng có ba hồi trống dự bị. Đám học trò còn
quen thói giang hồ thả rêu trước các tiệm để ăn kẹo ngó thì hãy lo rảo bước dần.
Kế đó là ba tiếng thúc giục. Đứa nào còn ở xa thì phải chạy bạt mạng. Sau đó là
hồi trống dài, lại ba dùi. Ít nhất phải có mặt ở sân trường để vào lớp. Mồ hôi
mồ hám lã ra, thở muốn hụt hơi, cũng phải có mặt. Thầy kêu tên mà không đáp “Présent”
(có mặt) bị ghi sổ absent (vắng mặt) là giấy chạy về nhà “nguy hiểm”
lắm!
Ngồi vào bàn xong, thầy đến, cả lớp đứng dậy, thầy có cho
phép ngồi mới ngồi. Ra đường gặp thầy phải giỡ nón cúi đầu. Đợi thầy đi qua mới
ngước lên và đội nón. Gặp chức việc và người già cũng phải làm như thế! Đứa nào
không theo điều lệnh đó trong bài Politesse (Học Lễ Phép) có đứa khác
bẩm lại thầy là bị phạt, hoặc quì gối dưới gạch, hoặc đứng xây mặt vô tường, hoặc
ăn ba bốn roi mây, tùy lỗi nặng nhẹ. (Ngày nay ta thấy học trò đối với thầy và
người lớn, sự kính trọng hầu như không còn nữa. Ai cũng như ai! Miễn đóng tiền
học đủ thì thôi!).
Nhà Trí ở tận cuối ấp, tên là xóm cổ Cò. Đó là cái tên dân
gian do địa dư hình thể của vùng đất, chớ trên bản đồ thì không tìm thấy. Các bạn
từng nhìn thấy con cò đứng trên đồng ruộng. Hlnh cái cổ nó ra làm sao thì con
đường lộ đất của vùng này làm vậy. Do đó có tên là xóm cổ Cò. Đây là xóm giáp
ranh giữa hai làng Hương Mỹ và Minh Đức. Đầu xóm có cây me sanh đôi trước cửa
nhà ông cụ của Trí, còn cuối xóm thì có cây sộp cổ thụ nơi đây có một ngôi miễu
cũ. Một bữa chủ nhật, Trí làm một cuộc phiêu lưu ký bèn ra đây hái trái kim
quít để lấy mủ dán travail manuel (thủ công). Các bạn hẳn còn nhớ cái
bài học này vào thời kỳ học trường làng chứ? Đó là việc cắt giấy màu dán hình
miếng chả, hình chữ nhật hoặc các hình khác trong hình học. Cần phải có hồ hoặc
mủ cây để dán. Do đó Trí cần mủ kim quít. Cây kim quít có gai người ta thường
dùng làm hàng rào trước ngõ. Trái nó chín đỏ, ăn ngọt ngọt the the, còn trái
xanh thì mủ dán rất dính. Nhưng nghe đồn miễu cây sộp có ma nên Trí hơi ngán,
bèn ghé nhà anh em thằng Tư Cồ và thàng Kiệu rủ chúng nó đi cho có bạn. Hai đứa
này ở làng Minh Đức nhưng lại học trường Cầu Mống vì ba nó làm ruộng trong làng
Hương Mỹ. Cây sộp lớn đến mức Trí chưa bao giờ thấy một cây nào lớn đến thế.
Tàn nó che mát một khúc đường. Đất ở đây lạnh ngắt vì không có ánh nắng. Người
ta đồn ở đây có ma, đàn bà đi chợ gặp luôn. Nhiều người quăng rổ chạy bò càng.
Khi thì đụng một con tinh cái trần truồng móc chân trên nhánh cây tóc xoã chấm
đất. Lúc lại thấy bốn con quỉ đực khiêng một chảo lửa chạy lủi vào sau miều, rồi
từng cục lửa bay ra lăn lăn trên mặt đường. Do đó đàn bà thì ít ai dám đi chợ
khuya còn những người đi qua đây vào ban ngày cũng phải đi nhanh và không dám
nhìn vào trong miễu.
Thằng Tư Cồ lớn hơn Trí 2 tuổi, lại nữa nó ở gần miễu, đi qua
đi lại luôn nên nó không sợ. Thấy Trí có vẻ sợ sệt, nó bảo:
- Đó là người ta đặt chuyện để hù mấy bà đi cấy đi chợ ngang
qua miễu thôi chớ ma quỉ ở đâu! Mầy không tin, tao dắt mầy vô miễu cho coi có
cái gì trong đó.
Tuy có hướng đạo dẫn đường nhưng Trí cũng nơm nớp lo sợ. Khi
gần tới cây sộp thì Trí thụt lại, đi chậm hơn và đủn thằng Tư đi trước.
Thằng Tư Cồ chẳng tỏ vẻ sợ sệt chút nào lại còn lớn lối thách
đố. Đi tới ngang cây sộp, nó dừng lại kêu to: “Ma ơi ma! ra đây đánh lộn với
tao nè! Ma, ma!” Tiếng “ma” vang đi vọng lại làm cho Trí giựt mình sụt lùi lại.
Thàng Tư Cồ nắm tay Trí lôi tới ngang gốc sộp rồi kéo tuột vào miễu. Trí cố vùng
ra mà không thoát, nên đành phải ngó những gì ở ngay trước mặt. Đã nhiều lần
Trí ra nhà Ngoại, phải đi ngang qua đây, nhưng không lần nào như lần này, Trí sợ
nhưng vẫn phải ngó.
Cái miễu đứng nép vào thân cây sộp để khỏi đổ. Nóc lá dột
nát, bên trong mấy tờ giấy đỏ có chữ nho đã phai màu, rách nát. Cái lư hương
ngã ngang, tro đố đầy bàn. Chung quanh miễu thì ngổn ngang những ông lò ông táo
bể nát sắp rã thành đất.
- Ma nè, ma nè! - Bỗng thàng Tư Cồ xô Trí vào gốc cây rồi chạy
trở ra. Vừa chạy vừa la to - Thằng Trí đó, bắt nó Ma ơi!
Lần này thì Trí không sợ nữa. Cái gì mình không hiểu rõ mình
mới sợ chớ khi đã nhìn tận mắt rồi thì không có cái gì là đáng sợ. Cây sộp to lớn
nhưng nó vẫn là cái cây. Cái miểu tuy linh thiêng nhưng mình có động tới nó đâu
mà nó hại mình! Còn ma, ma ở đâu? Sao không thấy con tinh cái bỏ tóc xoã hay mấy
con quỉ khiêng chảo lửa tới?
Thằng Tư Cồ cười ha hả làm Trí quay lại. Nó lôi tay Trí trở
ra đường và nói:
- Mầy thấy ma chưa? Hì hì… Mới đầu tao nghe đồn tao cũng sợ
như mầy bây giờ vậy, nhưng ba tao cứ biểu tao đi mua rượu, phải đi ngang qua
đây hoài. Rồi tao hết sợ. Tao không thấy ma quỉ gì hết. Đó, mày có thấy con ma
nào không?
Tư Cồ là đứa rắn mắt nhất trường. Nó dám bơi qua sông, dám
chuyền cây còng leo lên múa võ trên nóc trường. Và cũng chính nó bày đặt các vụ
phá đám con gái. Trời mưa học trò dồn vào hàng ba. Thì đó là cơ hội tốt cho thằng
Tư Cồ bày ra những trò chơi. Nó kêu mấy đứa con trai vịn vai nhau thành hàng do
nó dẫn đầu làm xe lửa. Nó đút hai ngón tay vô miệng oéc lên một tiếng vang vầy
rồi miệng kêu xình xịch, bắt đầu cho xe lửa chạy. Mấy đứa con gái, con Lự con
nhà giàu, tóc kẹp dài, luôn luôn mặc đồ trắng, con Phường mũm mĩm mặc đồ trang
đầm láng mướt, con Xinh mặc áo hường quần đen, ba đứa đẹp nhất trường, thường
đánh đũa ở cuối hàng ba, thấy xe lửa của ông Tư Cồ phát máy là phải liệu mà
tránh mau mau, không kịp thì sẽ bị xe lửa cán. Ông Tư Cồ còn đủ hai con mắt chớ
không mù như lão ăn xin, nhưng chiếc xe lửa cứ nhè vào mấy đứa con gái mà đâm
và té đè lên chúng. Con Lự là con cưng của thầy, nó thưa thầy, Tư Cồ bị ăn roi
mây mấy lần, nhưng nó vẫn không bỏ cái xe lửa. Hễ trời mưa là có ông Tư Cồ lái
xe lửa chạy rầm rầm.
Nó là một trong mấy “con quỉ ngoại càn khôn” vừa kể ở trên.
Nó to con lại lờ khờ trong lớp học, nên thầy xếp nó ngồi tận bàn chót và trong
xó hóc để ông Đốc không chú ý và gần cửa sổ dễ vọt. Mỗi lần vọt, trở lại nó
càng tỏ vẻ thích thú và mong bị thầy cho “ở nhà” luôn.
Nó lờ khờ trong lớp bao nhiêu thì ra khỏi lớp nó càng thông
minh hoạt bát bấy nhiêu. Để bù lại cái công Tư Cồ dẫn mình đi hái trái kim
quít, và cho coi tường tận cái miễu cây sộp không có ma, Trí cho Tư Cồ mượn cuốn Mille
mots (một ngàn chữ) Trí mới vừa mua giá 10 xu. Vừa đi, Trí vừa đọc trước
cho Tư Cồ nghe:
- Mère mẹ, père cha, peau da, chair thịt, canard vịt, coq gà, maison nhà, porte cửa, feu lửa, charbon than, foie gan, intestin ruột, souris chuột, renard chồn, ilot cồn, rivage bãi…
Tư Cồ phục lăn, nhưng đến đây thì anh ta cười lăn ra. bảo:
- Đâu, mầy đọc lại coi!
Trí đọc:
- Rivage, bãi…
- Không, chữ trước kìa.
- Ilot, cồn.
- I…lô-cồn! Há há há! "Lô cồn lô cồn!" Tiếng Tây ngộ
quá ta!
Trí ngớ ra không biết con quỉ Tư Cồ cười gì!….
Bộ truyện Tam-Tạng Thỉnh Kinh
Nhà lồng chợ xây bằng gạch, lợp ngói, cửa vòng nguyệt rất tiện
cho việc làm rạp hát, chỉ cần bao vải chung quanh là xong. Vì thế không mấy khi
vắng gánh hát. Những gánh thường đến đây là các gánh Bầu Bòn, Tân Thinh, Tân Đồng
Bang, Hề Lập… Đó là những gánh hát lớn diễn những tuồng trứ danh, tuồng Phật,
tuồng Truyện: Mục Liên Thanh Đề, Thập Điện U Minh, Tây Du, Tôn Tẫn Hạ San,
Tôn Tẫn Tái Sanh v.v… Mỗi lần gánh hát đến thì chợ dường như rộng lớn thêm
ra và mọi việc đều hối hả. Dưới sông thì ghe hát đậu, đào kép ăn cơm trên mui
ghe, người ta khiêng ghế lên nhà lồng, trống phách rao bảng đánh ùm ùm. Học trò
còn ngồi trong lớp nghe mọc gai dưới đít. Trưa ăn cơm căng-tin xong xin phép thầy
đi ngoài, thế là lẩn luôn biệt tích lên nhà lồng coi sơn thuỷ. Có bữa lẻn vô được
phía trong sân khấu coi râu coi hia mão thiệt đã. Đến lúc nghe trống đánh lần
thứ ba mới chạy đi. Đủ thứ râu, râu ngắn, râu dài, râu ba chòm, râu năm chòm…
mão vua, mão tướng, mão trung, mão nịnh. Rồi còn hia, giáp, long bào, cân đai…
Không thể nào hiếu nổi nếu không xem hát.
Một buổi chiều trên đường về, chú Vĩnh nói với Trí:
- Tối hôm qua Tôn Hành Giả bay đứt dây.
- Tôn Hành Giả nào? Trí ngơ ngác hỏi.
- Tôn Hành Giả chớ Tôn Hành Giả nào! Cái thằng! Chú Vĩnh trả
lời rồi tiếp:
- Còn đêm hôm trước thì Tôn Tẩn quên râu còn Bạch Viên thì dậm
chân hoài mà không bay.
Trí không hiểu gì cả vì không có đi xem hát. Sau khi tan trường,
trên đường về, qua chợ Trí chỉ ghé qua nhà lồng xem phong cảnh hoặc đánh ké vài
hồi trống quảng cáo thôi chớ không được như chú Vĩnh, về nhà ăn cơm xong, chú
quay vô chợ xem hát tới khuya mới về. Tía má Trí rất gắt gao, ngoài việc đi học,
không được đi đâu. Còn chú Vĩnh thì hát đình, hát tiều, hát cải lương, gánh nào
tới, chú cũng đi xem đều đều. Trí rất thèm được như chú Vĩnh. Xem xong chú còn
biết chê khen thiếu chỗ này, dư đoạn kia, không giống trong truyện, in như là
người lớn.
Thấy thằng cháu không biết Tôn Hành Giả là ai, chú Vĩnh hỏi
tiếp:
- Vậy chớ mày không có dọc truyện Tam Tạng Thỉnh Kinh hay
sao?
- Không có.
- Tôn Hành Giả là con khỉ do hòn đá đẻ ra, đi theo Tam Tạng
thinh kinh. Nhờ ông ta có thất thập nhị huyền công nên phò Tam Tạng qua không
biết bao nhiêu tai nạn.
Trí lại hỏi:
- Thất thập nhị huyền công là cái gì, chú?
- Cái thằng, sao mày không biết gì hết vậy? Thất thập nhị huyền
công là ông ta có 72 phép biến hoá, độn thuỷ, độn hoả, ngoài ra còn cân đấu
vân.
- Cân đấu vân là cái gì?
- Là hú một tiếng, bay xa 36 ngàn dậm! Thí dụ như ổng đứng ở
chợ mình, hú một tiếng là bay huốc Sàigòn xa, phải đằng vân bay
trở lại.
Trí lại hỏi:
- Đằng vân là cái gì chú?
- Thôi, về ghé nhà tao, tao lén ba tao cho mày mượn truyện về
đọc!
Chú Vĩnh còn dặn thêm:
- Nhưng mày phải hứa là không được chuyền tay người khác làm
mất ba tao đánh đòn tao.
Trí hứa chịu. Chú Vĩnh còn nói tiếp:
- Bộ truyện tới 16 cuốn. Tao cho mày mượn dần từng cuốn nghe
chưa? Ba tao ổng cất trong rương xe không dễ gì lấy được. Ông mà thấy mất dấu
là ổng truy tới ổ. Mày phải đọc cho mau chớ không được ngâm như ngâm củ kiệu
nghe không?
Trí nói:
- Được rồi, tôi đọc mỗi đêm một cuốn, sáng đi học trả lại
chú.
Hai bên đồng ý với nhau rồi Trí ghé vào nhà chú Vĩnh để lấy
truyện. Nhà chú Vĩnh như cái chùa. Cửa chính đóng im ỉm suốt năm chỉ mở vào dịp
Tết hoặc đám giỗ lớn. Nhà có một bầy trâu mười mấy con. Là một nhà nông có bề
thế nên ông Sáu sắm đủ hết các nông cụ làm mùa, không thiếu một món nào để phải
mượn của ai, ngược lại, ai muốn mượn đồ của ông cũng rất khó.
Trí theo chú Vĩnh vào sân nhà và đứng nép bên ngoài bẹ cửa để
chờ chú Vĩnh lòn truyện ra cho. Cây vú sữa trắng sai trái không chê được nên
Trí cứ dáo dác nhìn quanh, sợ có ai bắt gặp. Một chặp chú Vĩnh hé cửa ló đầu
ra, nói tiếng dược tiếng mất:
- Má tao cất chìa khoá, tao không mở rương xe được. Thôi, để
mai.
Thế là Trí ấm ức ra về, tay không đành chưa gặp được Tôn Hành
Giả.
Bữa sau trời mưa lâm râm, sân ngập nước, Trí đứng núp dưới
mái nhà, nước nhỏ từng giọt trên đầu nhưng cũng cắn răng chịu lạnh chờ lấy cho
được quyển truyện. Chặp sau, chú Vĩnh mở cửa chạy thẳng ra chuồng trâu, vừa chạy
vừa ngoắc. Trí đuổi theo. Ra đến gốc rơm, chú Vĩnh rút trong áo ra dúi vào ngực
Trí:
- Nè cất đi, đừng cho ai thấy. Má tao nấu cơm tao lén lấy đó.
Mai trả nghe hôn?
Trí mừng quýnh, không nói gì hết, cứ quay ra đâm đầu chạy dưới
trời mưa, tay ôm ngực che quyển truyện cho khỏi ướt.
Trí bắt đầu đọc và mê truyện từ đó.
Đêm nào học bài xong, Trí cũng mở ra đọc. Mới đọc chạy quốc
ngữ nên ham đọc. Mấy đêm liền mới thấy lố dạng Tôn Hành Giả, chớ không phải mới
giở vô là gặp ổng ngay. Trí mừng như tái ngộ bạn thân, cứ mải miết đọc phăng tới
chỗ thất thập nhị huyền công. Vào trường Trí quên các trò chơi để hỏi chú VTnh
về Tôn Hành Giả. Chú quát nạt:
- Truyện tao đưa cho đọc còn hỏi hỏi.
- Quyển 1 chưa có cục đá đẻ Hành Giả mà chú!
- Vậy thì để tao đưa cho quyển 2!
Chú nói vậy nhưng ngứa miệng chú không nín được, chú kể luôn
cho Trí nghe:
- Đó là cục đá bên bờ suối. Bầy khỉ trưa nào cũng đến tắm rồi
leo lên ngồi trên cục đá đó phơi lông. Lâu ngày chầy tháng cục đá “thọ khí âm
dương” nên nứt ra con khỉ đột. Đó là Tôn Hành Giả.
- Cục đá nứt ra sao có con khỉ ờ trong đó được? Trí hỏi.
Chú Vĩnh gắt:
- Thì cũng như trứng gà trứng vịt vậy chớ sao! Hỏi tới nơi,
tao không biết đâu.
- Rồi sao nữa?
- Con khỉ bèn bẻ nhánh cây quăng xuống suối rồi ngồi lên đó
cho nước trôi đi. Một ngày kia trôi ra “ngoại càn khôn”ế
- Ngoại càn khôn là ở đâu, chú?
- Là ớ ngoài cửa sổ mấy con quỉ vọt ra trốn mỗi lần ông Đốc
xuống xét lớp đó!
Hai chú cháu cười ngã nghiêng với nhau. Chú Vĩnh tiếp:
- Gặp ông Tổ Sư Bồ Đề dạy phép cho. Nhưng ổng biết trước con
khí mắc dịch này sẽ loạn thiên cung nên ổng dặn kỹ là không được nói tên ổng
cho ncười khác nghe. Sau đó ổng không dạy như những người học trò khác, mà chỉ
đưa cho con khi cái ống nhổ, biểu đem đi đổ. Mà không được đổ trên trời, không
được đổ dưới âm phủ cũng không được đổ ở trần gian.
Trí kêu lên:
- Không được đổ ớ đâu hết, vậy làm sao ?
- Vậy mới hay chớ! Con khi bèn ôm cái ống nhổ đi hoài mà
không biết tính cách nào, bèn nổi giận ngửa cổ lên uống rốc hết. Uống xong nghe
thân mình nhẹ như bông rồi khỉ ta bay bổng như chim.
- Sao kỳ vậy?
- Chẳng dè đó là cái ống nhổ phép. Gồm cả thất thập nhị huyền
công trong đó. Thế là ông ta có 72 cách biến hoá. Khi đem cái ống nhổ về trả
cho thầy, thầy đuổi đi luôn, không dạy nữa.
Trí ngó mông lung một hồi rồi chép miệng:
- Phải chi mình được cái ống nhổ đó chú ha!
- Ghê thấy bà, ai uống cho dô!
- Uống để có phép từ nhà vô trường chỉ hú một tiếng là tới
nơi. Còn con sông này, mình chỉ bước một bước là qua bờ bên kia. Ngoài ra tôi sẽ
hoá phép cho ông Chín Chầu một bộ quần áo mới, để ổng mặc bố tời hoài thấy tội
nghiệp quá hà!
- Tao được như Tôn Hành Giả thì tao bay chơi tối ngày trên
mây chớ đi học làm chi cho cực?
Đột nhiên Trí hỏi:
- Sao chú nói Tôn Hành Giả bay đứt dây?
- Đó là trong gánh hát người ta hát cái tuồng đó chớ không phải
Tôn Hành Giả thiệt bay, mày hiểu chưa?
- Vậy ra có Tôn Hành Giả giả và Tôn Hành Giả thiệt nữa sao?
- Tôn Hành Giả giả là trong gánh hát người ta mang lông khỉ
giống như Tôn Hành Giả trong truyện vậy đó, người coi hát tưởng là Tôn Hành Giả
thiệt mày hiểu chưa. Giả mà thiệt, thiệt mà giả. Cái thằng này không hiểu gì hết
ráo. Bữa nào đi coi hát với tao thì biết, khỏi phải hỏi lôi thôi nữa.
Trí lại hói:
- Giấy vô cửa mua mất bao nhiêu.
- Hạng cá kèo có một cắc thôi. Ngồ ghế thượng hạng phải tốn 6
cắc. Nhưng đám con nít chợ khôn quỉ, có thằng coi khinh không tốn xu nào hết!
- Nó chun vải bao vô à?
- Không! Nó chờ lúc sắp bán giấy thì nó lại đánh trống. Cái
trống chầu để trước cửa rạp, đứa nào đánh mỏi tay thì đưa dùi cho đứa khác. Đến
chừng đem cái trống vô trong thì hai đứa khiêng luôn làm như người của gánh
hát, rồi ở trong đó trà trộn với người xem. Đèn mờ ai mà biết mặt, mà có biết
chắc nsười ta cũng không lôi ra làm gì. Coi như trả công "đánh trống"
cho nó.
Mỗi khi có gánh hát lại chợ, Trí đeo dính chú Vĩnh để chú dắt
đi xem chỗ này chỗ nọ. Đây là mão của Quan Công, đây lá áo long bào của vua Trụ,
đây là hia của Tào Tháo.
- Chú nói Trương Phi quên râu là sao?
Chú Vĩnh cười ngất:
- Lâu lâu mới có một chuyện như vậy, chớ nếu đêm nào cũng xảy
ra, thì gánh hát cháy re, ai mà thèm đi coi nữa! Trương Phi quên râu là vầy.
Lúc nghỉ chờ diễn màn kế thì ông Trương Phi vào trong cánh gà kiếm chỗ ngồi cho
khoẻ. Hia mão lột ra, xà mâu xà miếc (võ khí của Trương Phi) dựng qua một bên
cho nhẹ người. Râu ria cũng gỡ xuống để bên cạnh, chờ tới vai là gắn lại, ra tuồng.
Nhưng lần đó ông Trương ra sân khấu hươi xà mâu gầm gừ ự ẹ dữ dội và đưa tay ra
vuốt hàm râu rễ tre. Bỗng thấy trống lỗng, hàm râu còn bỏ trong buồng quên đeo
lên. Nhưng lỡ bộ rồi, đành phải xưng danh cách khác: “Ta đây là Trương Phì, bào
đệ của Trương Phi”. Khán giả cười cái rần. Trương Phì bèn chạy vô buồng gắn râu
lên và trở ra lại vuốt râu nghênh mặt xưng tên: “Ta đây mới chính là Trương
Phi, bào huynh của Trương Phì!" Khán giả lại cười cái rần phát nữa.
Trí lại hỏi:
- Trương Phì là em Trương Phi thiệt sao?
Chú Vĩnh chắc lưỡi:
- Đã bảo là Trương Phi quên râu mà! Chớ ở đâu mà có cái
ông Trương Phì!
Trí lại hỏi:
- Còn tại sao Tôn Hành Giả bay đứt dây?
- Là vì sợi dây mục ông ta bay nửa chừng rớt cái rầm. Cũng
may, thằng cha kéo màn nhanh tay lẹ mắt, thấy Tôn Hành Giả rơi bèn hạ màn liền.
Cho nên ít ai biết.
Một hôm đi học về tía Trí đưa cho Trí cả bộ truyện Tam Tạng
thỉnh kinh. Trí lấy làm ngạc nhiên, đếm đúng 16 cuốn, y như chú Vĩnh nói. Giống
như những cuốn của chú Vĩnh cho mượn. Hình bìa màu vẽ Tam Tạng cỡi ngựa kim,
Hành Giả cầm thiết bảng bay là đà trên ngọn cây, Trư Bát Giái vác đinh ba đi
sau, còn Sa Tăng thì cổ đeo chín cái sọ người vai gánh hành lý.
° ° °
Ông Cụ còn mẹ già 96 tuổi. Trí kêu tới bàng Bà Sơ, tức là bà
cụ của tía Trí.
Người ta được “tứ đại đồng đường” là quí lắm rồi tức là ông Cố,
ông Nội, cháu Nội, cháu Cố. Nhưng với Trí thì tới “Ngũ Đại Đồng Đường” vì Trí
là chắt. Năm thế hệ cùng sống chung một thời. Bà Cụ rụng hết răng nên mỗi khi
ăn cơm người nhà phải lột một chiếc mo cau thật mỏng, chỉ còn lớp lụa bên
trong, bới cơm nóng vào đó mà nhồi cho thật nhuyễn rồi cắt ra từng khoanh như
khoanh bánh tét (chỉ khác bánh tét là không có nhưn). Như vậy bà Sơ mới ăn được.
Khi bà Sơ ăn cơm thì ông Cụ đứng một bên coi chừng từng miếng ăn của bà. Đôi
khi bà Sơ mắc nghẹn thì ông Cụ dâng tách nước và nói:
- Con lạy thánh thần giúp cho mẹ qua cơn.
Khi bà Sơ nuốt trôi miếng cơm thì ông Cụ lại cúi đầu cám ơn
thần thánh. Khi nào ông Cụ ốm hoặc mệt không hầu cơm được thì ông Nội của Trí
phải thay thế. Còn khi bà Sơ ngỏ ý muốn đi đến nhà đứa cháu nào thì đứa cháu đó
phải đem võng tới rước bà Sơ về ở. Đứa nào giữ bà Sơ được lâu, đứa đó có phước lớn.
Đôi khi bà Sơ khoẻ thì Trí dắt bà Sơ đi. Nhà trong xóm toàn là cháu chắt của
bà. Bà có tới mười người con cho nên rất đông cháu, chắt. Có lần bà thèm ăn keo
đậu phọng. Trí lấy cái cối đâm tiêu rửa thật sạch rồi quết nhuyễn, vò lọn nhò
bàng hòn bi đút cho bà. Thấy bà nhai lâu, Trí giục, bà cười:
- Bà đâu còn răng mà nhai nhanh được.
Bà luôn mặc áo vá quàng, cầm gậy trúc (nhẹ) và mang dép mo, kết
bằng dây lạt cà bắp. Dép mo (cau), nhẹ chân, lại đi không vấp. Bà không uống
trà cũng không ăn cay từ trẻ tới già. Bà Sơ là người thọ cao nhất mà Trí được
biết. Bà ngủ rồi đi luôn, không thức dậy nữa, vào lúc 98 tuổi, con cháu không
phải lo thuốc thang chi hết. Bà sống hiền và chết lành.
Nhà ông Cụ (ông Cố của Trí) rộng thênh thang, phần trước âm u
như chùa. Ông Cụ và bà Cụ chỉ ở phía sau. Bà Sơ mất, gian buồng để trống luôn.
Hằng ngày ông Cụ đều đi xuống phần mộ của thân mẫu, nàm trên chiếc ghế dài hằng
giờ, đế viếng mộ. Suốt mấy nãm liền như vậy, về sau Cụ không còn đi nổi mới
ngưng. Có lẽ vì buồn rầu nên ông Cụ đi lên chợ Huyện tìm mua truyện ta, truyện
Tàu về cho các cháu chắt đọc cho ông Cụ nghe giải sầu.
Bộ ván ông Cụ bà Cụ ngồi ăn trầu, trên nóc lợp bằng ngói có vẽ
bông hoa, con chim con hạc. Còn giường của ông Cụ nằm thì trải nệm. Bên cạnh là
chiếc bàn ăn và chiếc kệ hai tầng. Tâng dưới thì để ấm tích, cái vỏ dừa đựng
bình trà, dĩa trái cây, từng trên thì để truyện. Và đây là nơi Trí trổ tài đọc
quốc ngữ của cậu học trò trường làng.
Trí nhớ tất cả các tên truyện. Hầu như ông Cụ mua tất cả,
không trừ một loại nào. Thích thì ông Cụ bảo đọc đi đọc lại, không thích thì
nghe qua rồi xếp luôn: Thạch Sanh, Lý Thông, Chàng Nhái, Thoại Khanh Châu
Tuấn, Trần Minh khố chuối, Tiết Nhơn Quí chinh Đông, Tiết Đinh San chinh Tây,
Nam Tống Bắc Tốngị, Tây Hớn, Vạn Huê Lầu, Ngũ Hổ bình Tây, Bình Nam, Tây Du,
Đông Du, Bắc Du, Nam Du Thuyết Đườnq, Tam Hạ Nam Đường, Tàn Đường, Thập Nhị quả
phụ chinh Tây, Long Đồ Công Án... dịch giả là những nhà nho trứ danh: Trần
Phong Sắc ở Bạc Liêu, Nguyễn Chánh Sắt ở Tân Châu - Imprimerie Phạm Văn Thìn
năm 1911. Nhưng đặc biệt, không có hai bộ Tam Quốc và Thuỷ Hử vì
ông Cụ theo nề nếp “Trai không được đọc Tam Quốc Thuỷ Hử, nữ không được
đọc truyện Thuý Kiều.
Đày là kho tàng văn hoá của Trí. Nhờ truyện Tàu mà Trí đọc quốc
ngữ (chữ in) rất mau; cũng nhờ truyện Tàu mà Trí mở mang trí tuệ. Và cũng nhờ
truyện Tàu mà biết ham chữ nghĩa và lớn lên biết giá trị của chữ nghĩa khá sớm.
Nhưng phải nói là nhờ chú Vĩnh là người cầm chiếc gậy trao cho Trí để Trí dò đường
đi vào khu rừng truyện mà trước tiên là hạnh ngộ Tây Du - một bộ truyện
mà sau này khi học trường Tây, Trí dám cho rằng Tây Du là một tác phẩm số một về
truyện hoang đường, sản phấm của một sự tưởng tượng phi thường không có bộ truyện
nào sánh kịp.
Ông Cụ không kén giọng đọc, cũng không kén nghe. Đứa nào đọc
cũng được, truyện nào cũng được, lúc nào cũng được, đọc bao lâu cũng được, miền
là có người đọc thì cụ nghe. Các cháu chắt của cụ đọc cho cụ nghe đã đành. Những
đứa học trò lối xóm đến đọc cũng được cụ chấp nhận. Để khuyến khích, cụ trả
công hẳn hoi. Một xu cho 10-12 trang. Trong lúc một ngày làm công là một cắc
hai mà đọc mười trang truyện được lãnh một xu là cao lắm. Có đứa đằng xóm lại mới
đọc vài câu, ba má kêu về, ông cũng cho nửa xu. Hoặc đọc ba, bốn trang ông cho
cả xu. Thời kỳ đó giắt nửa xu trong túi cũng đã gọi là “có tiền” rồi, huống chi
là học trò mà có đồng xu trong túi. Vô chợ ngó hàng bánh cảm thấy mình oai phải
biết.
Đứa nào đọc muốn ra về thì lấy lá trầu ngăn ngang đó mai tối
đọc tiếp. Đứa khác tới lấy cuốn khác đọc hoặc đọc tiếp theo đó cũng được. Vì
ông Cụ thuộc tất cả, chỉ ghiền nghe để ngủ thôi. Bởi thế không được đọc nhảy hồi
nhảy đoạn. Nhảy một câu là ông biết ngay. Đang ngủ ông “ư” một tiếng, là phải đọc
lại cho đủ. Ông bảo: “Tao ngủ con mắt chứ có ngủ lỗ tai đáu!” chớ không rầy!
Đọc truyện, đám trẻ bọn Trí được lãnh xu ăn hàng lại còn nhiều
thú vui khác. Ở gần nhà có một cái xẻo, nước lớn tràn đầy, con nít lội ngập đầu.
Phải dùng “ngựa” bập lá để qua sông. Nước đã lớn mà Trí còn nằm trên ván đọc
ê-a thì dù “Phan Lê Huê Phá HồngThuỷ Trận” hay “Tiết Nhơn Quí lấy Ma thiên
lãnh “ cũng không hấp dẫn bằng đám quỉ đang phá nhà chay ở ngoài Xẻo Bần
(cái vũng nước ăn thông ra sông, có cây bần mọc ở mé bờ).
Đám tiểu anh hùng lối xóm tụ họp lại vào lúc nước lớn để lặn
lội, cút bắt rần ì trước khi vào đọc truyện kiếm xu. ít nhất là 5 con quỉ hón,
trong đó không thiếu mặt hai anh em thằng Tư Cồ, còn mấy đứa kia thì sau khi
nghe tiếng đập tầm vũng và tiếng reo hò sẽ kéo tới. Trí đang đọc tới khúc “Tiết
Nhơn Quí giết cha con Mao Tử Tranh để giả dạng đẩy xe cung tên lên núi Ma Thiên
Lãnh bán cho chủ soái là Tỉnh Tinh La Hải và Tinh Tinh Đơm Đởm, Tinh Tinh La Hải
hơi nghi ngờ Mao TửTranh giả nên gạn hỏi…” thì bất ngờ một cái đầu ở đâu
ló vô cửa sổ. Tóc tai ướt mem, nước chảy ròng ròng, tay nó gõ nhẹ vào cánh cửa.
Mắt Trí rời tờ truyện ngó lên. Đồ mắc dịch, thằng Tư Cồ. Mắt nó nháy nháy, tay
nó ngoắc ngoắc nhung không làm tiếng động thêm nữa, sợ ông Cụ thức dậy. Tuy
không nói ra tiếng, nhưng Trí vẫn hiểu “tiếng lòng” của người bạn tri âm. (Sau
vụ hái trái kim quít ở miễu cây sộp, Trí và Tư Cồ giao du thân mật hơn). Trí
bèn nháy trả, nhưng miệng vẫn ê a đọc: Tinh tinh La Hải hỏi… a a… nhà
ngươi có phải là… Mao Tử… Tra… Anh không..? Miệng đọc tay xếp sách lại rồi
liếc thấy ông Cụ nằm im, cặp mắt không chớp thì chắc là ông Cụ đã ngủ say bèn bỏ
một chân xuống gạch, thụt dần dần. Nếu Trí xin phép đi thì cũng được ông Cụ cho
đi đàng hoàng, nhưng rút êm như vậy để chốc nữa “báo cáo tô hồng”: con đã đọc tới
hồi… là cái hồi chưa đọc tới. Mục đích là lãnh thêm xu! (Trẻ con nào không nói
láo!) nhưng ngờ đâu khi đầu Trí vừa thụt xuống khỏi mặt ván thì ông Cụ “ư” lên
một tiếng. Trí chưa kịp trở về vị trí cũ thì ông Cụ đã bảo: “Con ra xẻo coi chừng
nước lớn hụt giò!” Thì ra ông Cụ nằm ở đây, một tai nghe truyện, một tai nghe
đám quỉ phá nhà chay ngoài xẻo. Ông Cụ biết trong bụng thằng bé toan tính những
gì ngoài Xẻo Bần.
Trí “dạ” một tiếng rồi bay ra xẻo như con chim sổ lồng, tuột
hết quần áo phóng ùm xuống nước như tam thái tử Ngao Bính trở về thuỷ cung.
Thằng Tư Cồ bảo ngay:
- Mày cỡi con ngựa kia cà, rồi đứng bên phe tao!
Trí nhào tới ôm cái bụp lá vô chủ và đập ùm ùm đến bên phe Tư
Cồ. Rồi hai bên xáp trận ầm ầm, bất phân thắng bại.
Dùng “vũ khí nước” tát vô mặt nhau thì đối phương đâu có
thua. Tư Cồ bèn lặn xuống móc bùn tô một phát vào mặt thằng Hành. Tên này tá hoả
tam tinh ôm mặt la oải oải và đầu hàng. Chiến tranh nóng xong, tới chiến tranh
lạnh. Thằng Hành vừa thua, thách Tư Cồ lặn đua. Thằng Cồ bịt mũi thằng Hành rồi
hai đứa cùng hụp xuống nước, thằng nào trồi lên sau, thằng đó thắng. Tuy thắng
hay thua cũng không được ăn cái gì nhưng thằng nào cũng thích làm kẻ thắng. Thắng
xong, rã bành tô cũng cứ ham thắng. Thằng Hành lại thua. Thằng Tư Cô
khoẻ hơn, bóp mũi chặt quá, Hành thở không được, phải trồi lên. Nhưng thằng
Hành lặn rút chân thằng Tư Cồ rồi thằng Hẹ em thằng Hành nhào tới trấn nước thằng
Tư Cồ. Tư Cồ mặc dù uống nước, vẫn không chịu thua. Trận chiến dây dưa cho đến
nước xẻo nổi bùn đen ngòm. Thằng nào thằng nấy mắt đỏ chạch cằm “mọc râu”
("bùn đóng cằm như râu) thì mới chịu leo lên bờ. Thằng Tư Cô còn rán vớt
trái bưởi thúi của ai quăng trôi lềnh bềnh, lột chia mỗi đứa vài múi, vừa cạp vừa
phun phèo phèo. Trí vỗ tay reo:
- Ông Tề ăn trộm đào tiên ngon quá!
Rồi cả lũ vọt lên cây dừa. Thừa lúc anh em thằng Hành không đề
phòng, Tư Cồ lấy vỏ bưởi nặn the vô mắt thằng Hành để trả thù vụ hai anh em nó
trấn nước mình lúc nãy.
Thằng Hành bị cay mắt nhảy tòm xuống nước. Thằng Tư Cồ lao
theo. Cuộc chiến phục thù giữa đôi bên làm nước bùn nổi lên tanh hơn khắp mặt xẻo.
Bỗng thằng Hành la lên:
- Có ổ chim trên ngọn bần kia tụi bây ơi!
Thằng Tư Cồ ngước lên thấy bèn đeo rễ dừa đánh đu leo lên
cây, và bảo:
- Của tao để dành đó hổm rày, đừng thằng nào rớ tới, không được
đa.
Rồi thằng Hành thằng Hẹ mỗi đứa tóm mấy cái rễ dừa buộc lại
làm võng ngồi, đánh đu tòong teng, thằng này co giò đạp thằng kia té xuống nước
rồi lại leo lên đưa tiếp.
Đưa võng một lúc lại xuống đất, rồi hò lên một tiếng cả lũ
đua nhau vọt lên cây, chuyền ra nhánh và nhảy xuống nước. Trí không dám chơi bạo
như chúng bạn thấy cơ hội vui bỏ qua rất uổng, nên cũng hưởng ứng nhưng chỉ từ
từ leo lên cây rồi chuyền ra meo, ngồi bứt lá vo làm kèn thổi te te và xem các
bạn làm trò.
Thằng Tư Cồ thấy thế bèn giục:
- Trí, nhảy xuống đi, nước đầy lội đã lắm!
- Tao không biết lội.
- Để chút tao cho mày cái phép biết lội ngay! Bây giờ để tao
làm tù và thổi cho mày coi, nghe!
Nói xong Tư Cồ nắm nhánh cây run mạnh làm Trí té xuống nước.
Rồi Tư Cô tét một tàu lá dừa nước, quấn một chiếc kèn dài, đưa lên miệng thổi
“túc, túc… tu!…u u.
- Đó mày nghe chưa?
Trí bị hụt giò, ực mấy hớp nước nhưng cố trồi lên chụp được
chiếc bụp lá, vuốt mặt hì hục bơi vô đứng chỗ cạn la to:
- Cái miệng mày kêu chớ đâu phải kèn!
Thằng Hành thằng Hẹ cười rộ lên:
- Nước xẻo ngọt bằng nước mưa bí nhà mày không,Trí? Trồng
trái thử vài cái coi mậy!
Rồi chúng tiếp tục đùa nghịch. Đứa thì lộn cù mèo, đứa thì
đưa võng. Tư Cồ lượm được cái mo cau bèn leo lên võng ngồi vắt vẻo, xé ra thắt
râu đeo lên miệng và nghênh mặt vuốt bộ râu dài làm hát bội: “Như ta đây!…”
Bỗng… ùm! Thằng Hành níu giò thằng Cồ giật mạnh làm thằng Cồ
nhào xuống nước. Cồ ta trồi lên vuốt mặt cười hắc hắc tỏ vẻ xem thường. Bỗng từ
trên bờ thằng Hẹ vẫy tay gọi:
- Cồ ơi! lên tao bảo cái này!
Hẹ vừa kêu vừa giơ cái gì lên rồi giấu sau lưng.
Tư Cồ hiểu ý leo lên ngay. Trí vừa ở trên cây dừa tuột xuống
định mặc quần áo đi về nhà, nhưng bị Tư Cồ cản lại:
- Khoan đã, nước còn đầy, ở lại gầy vài trận nữa rồi tao sẽ về
đọc truyện với mày.
Trí bâng khuâng nhìn mặt nước, nửa muốn về nửa lại muốn ở
chơi, thì Tư Cồ lại hỏi:
- Nãy giờ mầy có “uống nước” phát nào không?
Trí lắc đầu, nhưng Tư Cồ biết là cậu công tử này mới ôm “ngựa”
bập lá chập chũm thôi làm sao khỏi uổng vài hớp nước, bèn vỗ bụng Trí:
- Bụng mày binh rình đây, còn chối!
Nói xong Tư Cồ quay nhìn thằng Hẹ. Hẹ bước lại. Trí thấy
trong tay nó một con chuồn chuồn vàng chớp chớp cánh.
- Mày định làm gì vậy?
- Để tao cho mày cái phép, nghe! Tư Cô cười nói.
- Phép gì?
- Tôn Hành Giả bay trên mây không té, còn mày nhờ cái phép
này lặn dưới sông không uống nước.
Tư Cồ vừa dứt lời thì thằng Hẹ đưa con chuồn chuồn áp vào rún
Trí.
- Tụi bây làm gì vậy? Trí vừa la vừa thụt lùi, hai tay che
rún.
Tư Cồ giật tay Trí ra, nhìn cái rún lồi của thằng bạn và nói:
- Để nó cắn rún mày một cái là mày lội giỏi như rái à.
Thằng Hành bảo:
- Tụi tao biết bơi cũng nhờ cho chuồn chuồn cắn rún! Chút tí
thôi không có đau đâu mà!
Thằng Hẹ lại đưa con chuồn chuồn vào cuốn rún thằng bạn. Trí
nhăn mặt la: “ái uôi! ái uôi!” và chắt lưỡi hít hà: “Đau quá! Đau quá uôi!
uôi!”
Tư Cồ dọa:
- Đừng có la đau, không kết quả! Tao phải cho cắn lại lần thứ
hai thứ ba đó!
Thằng Hẹ càng dí đầu con chuồn chuồn vào, Trí càng nhăn nhó,
vặn vẹo người, bóp bụng, hai tay cấu vào bắp vế mình để qua truông đau.
Thằng Tư Cồ bảo:
- Thôi, được! Nó biết bơi rồi!
Thằng Hẹ tung con chuồn chuồn lên và bảo:
- Bây giờ mày lội giỏi hơn hồi nãy rồi đó! Hổng tin mày nhảy
xuống xẻo coi! Mày xem kìa, con chuồn chuồn bay mất là mày biết lội, còn nếu nó
rớt xuống đất thì mày phải cho nó cắn lại lần nữa. Mày may lắm!
Nói xong, thằng Hẹ lôi tay Trí nhảy xuống nước. Thằng Cồ hỏi:
- Mày có nghe nhẹ mình hơn lúc nãy không?
Trí cà hục cà hửi lội lại quơ ôm lấv con ngựa bập lá và gật đầu:
- Ờ, ờ, tao nghe nhẹ…ẹ lắm!
- Mày khỏi phải “uống cái ống nhổ” của Tổ Sư Bồ Đề mà vẫn được
phép như thường thấy không?
Nói xong Tư Cồ giật lấy cái bập lá quát:
- Từ rày không được ôm bập lá nữa, nghe chưa?
Mà thật, Trí bị giật mất “con ngựa” tự nhiên phải cố lội cho
khỏi uống nước. Con chuồn chuồn cắn rún có đau đớn gì đâu, chỉ hơi ê ê rún một
chút mà biết lội. Đám chim dòng dọc bỗng reo vang trên ngọn bần như chào mừng
chàng hiệp sĩ mới.
- Bây giờ mình bắt ổ chim đi tụi bây! Tư Cồ ngước lên, bảo.
Nhìn mấy chục cái ổ chim đòng đưa trên ngọn bần đứa nào cũng
nao nức muốn bắt nhưng không biết làm sao! Bản nhạc chim vừa dứt thì lại
nghe “cạch cạch… cắc kè".
Cả bọn nhìn lên. Một chú các kè bông nằm trên nhánh bần sưởi
nắng đang cười vang. Giữa thân cây bần già rỗng ruột có một cái miệng hang.
Không biết từ đâu con cắc kè đến ẩn náu ở đây như một thạch động an toàn. Mỗi
ngày ba bốn giác, sáng, trưa, chiều, tối… chú cắc kè kêu oang oang như để thách
thức người qua kẻ lại, hay để mang đến sự ấm áp cho xóm riềng. Có nhiều người định
bắt nó dem bán cho tiệm thuốc bắc nhưng mỗi lần động thủ thì cắc kè ta chui tọt
vô hang hoặc leo tuốt lên ngọn cây. Rồi đến giờ, nó lại từ cây bần phát thanh
trên làn sóng điện không tần số, nhắn tin cho mọi người.
Nhưng cũng có người bảo không nên săn đuối vì nhờ nó mà người
trong xóm đoán biết chuyện “rủi may” trong ngày. Cứ hễ cắc kè kêu lên thì người
cho là may, kẻ lại bảo là rủi, cứ thế cho đến lúc dứt tiếng kêu, may
ai nấy nhờ rủi ai nấy chịu.
Chú cắc kè vừa dứt tiếng cười, Tư Cồ hỏi:
- Rủi hay may tụi bây?
- Rủi hay may gì cũng bắt. Bắt ổ chim, bắt luôn cả cắc kè.
- Thằng Hẹ nhỏ con leo lên ngọn cây rứt ổ chim thảy xuống rồi
bẻ nhánh cây đập con cắc kè văng xuống đây! Tư Cồ bảo.
- Rủi nó chui vô bọng làm sao? Thằng Hành thắc mắc.
- Vậy thì mày móc bùn trám miệng hang nó trước. Còn tao với
thằng Trí ở dưới này hứng trứng chim và bắt con cắc kè, mai tao đi học ghé bán
cho thầy chệt, lấy xu chia hai.
Kế hoạch được phác nhanh và toàn thể đồng ý. Thế là thằng Hẹ
lội càn trên đám cặc bần mọc chung quanh gốc như rùng chông, leo lên cây. Thằng
Hành leo theo. Tư Cồ móc bùn đưa cho thằng Hành, trong lúc thằng Hẹ chuyền vun
vút lên gần đến nửa thân cây ngồi vắt vẻo như khỉ, nhìn xuống cười ha hả:
- Đứa nào muốn thành Tề Thiên tao hái bần quăng cho!
Thằng Hành đã tọng mấy cục bùn vào miệng hang nhưng chưa bít
được. Thằng Tư Cô móc ném tiếp cho thằng Hành và bảo thằng Hành tuột xuống.
- Hẹ, mày thấy con cắc kè ở đâu không? Thằng Hành ngước lên hỏi.
- Nó đang bò… lên ngọn cây kia kìa!
- Vậy mày leo thẳng lên đó, vừa bắt chim vừa đập con quỉ té
xuống đây cho tao!
Thằng Hẹ bèn bẻ một nhánh bần tuốt sạch lá rồi phăng phăng
trèo tiếp. Thằng Hành, thằng Tư Cồ và Trí, cả ba đều ngước nhìn theo thằng Hẹ
đang leo rung rinh tàn lá. Thỉnh thoảng một trái bần rơi xuống. Ba đứa chụp lấy
và chia nhau đứa cắn một miếng, chua lè thè lưỡi. Ai muốn biết “khỉ ăn bần” ra
sao thì hãy nhìn chúng nó.
Bỗng… Pạch. Lùm chủm, lũm chũm!
Thằng Hẹ từ trên ngọn cây la om tỏi:
- Tao quất con cắc kè rơi xuống rồi đó!
Cả ba ngó theo. Chú cắc kè vừa rơi xuống, đang bơi vào bờ. Cả
ba lao tới bơi theo. Nhưng con vật đã luồn vào đám lá, leo vọt lên ngọn lá dừa
nước. Chân nó nhám nên vẫn leo nhanh trên thân cây trơn. Tư Cồ nhanh trí nắm gốc
lá run mạnh. Con cắc kè rơi xuống lưng thằng Hành vừa trườn tới. Thằng Hành hốt
hoàng la bài hãi. Trí càng kinh khiếp nên thay vì cứu bạn lại nhảy vọt lên bờ đứng
ngó, Tư Cồ quát:
- Lặn xuống!
Thằng Hành hụp xuống nước. Con vật bị ngộp, buông lưng thằng
Hành bơi vào bờ. Tư Cồ đuổi theo nhưng nó đã leo lên cây dừa ở mé xẻo. Tư Cồ
móc bùn ném theo vun vút, làm dính lưng cắc kè nhưng nó vẫn thoăn thoắt bò lên
ngọn dừa và biến mất.
Bỗng rắc rắc…ùm. Chết tôi rồi!
- Cái gì đó?
Từ trên cao một vật to lớn rơi xuyên qua cành cây và lọt tỏm
xuống nước, sôi túa ục ục. Thằng Hẹ trồi lên và lội càn trên đầu đám cặc bần,
nhảy thót lên bờ nằm lăn ra kêu chõi trời chõi đất. “Nhức quá! Nhức quá! Bớ
làng xóm ơi!”
Thì ra Hẹ ta, sau khi đập chú cắc kè văng xuống nước, thừa thắng
rứt một ổ dòng dọc vòi dài - có con kêu chiêm chiếp bên trong - Còn đang nhủng
nháng thì đám ong bầu đóng gần đó bay tủa ra đánh túi bụi, làm Hẹ buông tay phó
thác cho trời. Cũng may Hẹ rơi xuống nước, nếu rơi trên đám cặc bần chắc sẽ bị
đâm lũng ruột.
Hẹ nằm lãn dưới đất kêu trời kêu đất. Thằng Hành chạy lên
xem. Mắt thằng Hẹ sưng húp. Hai gò má cũng phồng lên. Cái mặt như cái bánh bò.
Thằng Hành hốt hoảng nhảy xuống mé xẻo móc bùn tô kín mặt thằng Hẹ, miệng bảo:
- Đừng la! La lớn mặt mày sưng bằng cái sàng cho coi!
Còn thằng Tư Cồ thì thấy nguy to bèn lôi tay Trí, hét:
- Chạy mau!
Hai thằng quơ quần áo không kịp rướn vào, co giò phóng bạt mạng.
Trên ngọn dừa con cắc kè vừa thoát chết lại cười ran: “cạch
cạch… cắc cắc…” Không biết rủi hay may, hai “bộ giò ăn cướp”
cứ phang bất kể. Thằnq Tư Cồ thì vọt thẳng, còn Trí trở lại bộ ván thân mến…
“Tiết Nhơn Quí qua mắt anh em Tinh Tinh La Hải, Tinh Tinh Đơm
Đởm, đem quân lên Ma Thiên Lãnh…” Nhưng ông Cụ đã thức dậy. Cụ hỏi:
- Con có “uống nước” xẻo không?
- Dạ không! Con đã biết lội rồi ông à!
- Tụi nó cho chuồn chuồn cắn rún con rồi hả?
- Sao ông biết?
- Ông biết chớ! Nè, bác của Tiết Nhơn Quí là ai, cháu còn nhớ
không, nói ông nghe!
- Dạ, là Tiết Hùng.
- Tiết Nhơn Quí đi đầu quân làm chức gì, cháu nhớ không?
- Dạ Tiết Nhơn Quí đi đầu quân làm chức… nấu cơm.
- Phải rồi, nấu cơm gọi là “Hoả đầu quân”. Tại sao vậy?
- Dạ tại vì Trương Huờn cướp công.
- Trương Huờn còn có tên gì nữa.
- Dạ con không nhớ.
-Tên là Trương Sĩ Quí. Nó cướp công cùa Tiết Nhơn Quí bằng
cách nào?
- Dạ…. đầu tiên là do vua Đường “ứng mộng” hiền thần bạch bào
bạch giáp nên sai Trương Hườn đi tìm. Khi Tiết Nhơn Quí đầu quân thì Trương Sĩ
Quí bèn doạ rằng Bệ hạ nằm chiêm bao thấy bị nhà ngươi ám sát cho nên bệ hạ sai
ta đi tìm nhà người bắt giết. May cho ngươi ở trong cơ quân này, ta che chở
cho, nếu ra khỏi nơi đây quan quân sẽ bắt nộp cho vua, sẽ chịu chết chém ba họ.
Tiết Nhơn Quí sợ quá bèn ưng chịu dưới quyền sai khiến của Trương Sĩ Quí.
Ông Cụ hỏi tiếp:
- Trương Sĩ Quí có thằng rể tên gì? ăn mặc ra sao?
Trí giật mình, không ngờ ông Cụ nhớ nhiều vậy.
Trí ôn lại trong đầu một lúc rồi nói:
- Con quên rồi ông ạ!
- Con đọc truyện cũng như học bài thầy cho, phải rán nhớ. Hễ
con nhớ truyện thì học bài mau thuộc lắm. Để ông nhắc cho: Trương Sĩ Quí có thằng
rể tên Hà Tôn Hiến, cả đời làm quan, nhưng bất tài không lập được công cán gì hết,
cứ núp dưới trướng của cha vợ mà ăn lương. Nhằm dịp vua sai cha vợ đi tìm hiền
thần thì đi theo hụ hợ. Hắn cũng mặc “bạch giáp bạch bào” như Tiết Nhơn Quí. Do
đó hắn mạo nhận là Tiết Nhơn Quí! Đâu phải người nào mặc bạch giáp bạch bào
cũng đều là Tiết Nhơn Quí.
- Sao Hà Tôn Hiến cướp công người khác hả ông?
- Người trung thường hay mắc nạn, đứa nịnh lại có lúc lên
râu! Đời xưa cũng thế mà đời nay cũng thế. Trương Sĩ Quí dọa Tiết Nhơn Quí và nảy
ra độc mưu là dùng Hà Tôn Hiến để thay cho Tiết Nhơn Quí… Khi vua phán hỏi,
Trương Hườn bèn đem thằng rể ra, tâu: “đây là hiền thần của vua thấy trong mộng.”
Vua cả tin. Nhưng có quân sư là Từ Mậu Công cao kiến tâu rằng: “Muốn chắc đây
là hiền thần thì cho thử tài mới được!” Vua bèn cho dọn diễn võ trường để thi đấu.
Ngày mai hắn cho một võ sĩ tài ba đấu với Tiết Nhơn Quí. Tiết Nhơn Quí đánh gã
kia chạy dài, bèn đuổi theo níu được giáp cùa gã cắt một miếng. Khi về trại Tiết
Nhơn Quí đem nạp mẩu giáp cho Trương Sĩ Quí. Sĩ Quí bèn đưa cho Hà Tôn Hiến.
Khi vua gọi vào thì Trương Sĩ Quí lấy giáp bào của Tiết Nhơn Quí cho Hà Tôn Hiến
mặc để vào chầu vua và dâng mảnh giáp cắt được hôm qua và tâu rằng đây là “hiền
thần ứng mộng.” Vua tin thật bèn khen thưởng hai cha con Trương Sĩ Quí. Cuộc lừa
gạt vua và cướp công của Tiết Nhơn Quí kéo dài chín năm, sau này nhờ Từ Mậu
Công tìm ra manh mối đem Tiết Nhơn Quí ra khỏi làn khói bếp của Hoả đầu quân mà
làm nguyên soái chinh phạt Đông Liêu, thành ra có truyện Tiết Nhơn Quí chinh
Đông con đọc bây giờ đó!
Trí nghe xong ngẩn người ra, hỏi:
- Sao ông vua nghe lời nịnh thần vậy hả ông?
Ông Cụ cười:
- Thói đời mà con! Đứa nịnh thì làm ra vẻ trung thần. Như vậy
mới gạt được vua mà thăng quan tiến chức. Chớ nếu nó phô bày bộ mặt nịnh của nó
ra thì ai mà tin! Con đã đọc mấy bộ truyện rồi, con còn nhớ những tên nịnh
không?
Trí suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Trong truyện Vạn Huê lầu thì có Bàng Hồng, Tôn
Tú.
- Đó cũng là một cặp cha vợ, con rể như Trương Sĩ Quí và Hà
Tôn Hiến vậy! nhưng Bàng Hồng có quyền hơn Trương Sĩ Quí vì y vừa là thừa tướng
vừa là quốc trượng.
- Quốc trượng là gì hở ông?
- Quốc trượng là cha vợ vua. Con gái của Bàng Hồng là Bàng
Quí Phi đó! Hai cha con tư thông với ngoại quốc để bán nước và bày mưu gian hãm
hại người anh hùng Địch Thanh. Do đó vụ Bao Công xử án Bàng Quí Phi. Để
khi nào có gánh hát lại chợ hát tuồng đó ông cho con đi coi. Chẳng những một tuồng
thôi, còn tuồng Bao Công xử án Quách Hoè cũng rút trong truyện đó! Mấy
gánh hát đều lấy trong truyện mà làm ra tuồng chớ đâu có lấy ở đâu xa con.
Sẵn trớn, Trí nói luôn:
- Hôm trước con thấy có gánh hát lại chợ mình diễn tuồng Tam
Tạng Thỉnh Kinh.
Ông Cụ nói:
- Tam Tạng Thỉnh Kinh dài lắm! Tới 16 quyển lận! Gánh hát diễn
khúc nào?
- Dạ con hổng có coi hát, nhưng bữa đó đi học về ngang nhà lồng,
chú Vĩnh dẫn con ghé qua. Con chỉ thấy người ta vẽ hình Tôn Hành Giả đi trên
mây cũng giống y như trong truyện vậy.
Ông Cụ nói:
- Con muốn đọc thì sẵn kia, ông mua đủ bộ để trên kệ đó!
- Dạ tía con có đem về nhà cho con một bộ rồi ông à.
Ông Cụ cả cười vói tay qua vò đầu cháu:
- Hèn chi! Tía con nó khoe với ông là con đọc truyện giỏi lắm!
- Con đọc mới tới Hành Giả loạn thiên cung hà!
- Vậy thì chưa được nửa bộ. Kỳ sau con tới đây, con không phải
đọc mặt chữ. Con nói thuộc lòng cho ông nghe được không?
- Con không nhớ hết nổi ông à.
. Con cứ nói, chỗ nào quên ông nhác cho!
Ông giở mí nệm lấy xu cho rồi đi lại kệ bẻ cho Trí hai trái
chuối xiêm chín thưởng công. Thường thường một ngày chủ nhật của cậu bé trường
làng trôi qua như vừa kể trên.
Bây giờ thì cái bụng của Trí chia làm hai ngăn, một bên là những
tờ truyện Tâu, một bên là bài học. Mỗi chiều trên đường về nhà, Trí thường đi cặp
với chú Vĩnh để nói “truyện”. Trí đã có thể bàn luận chê khen những ông này ông
nọ trong truyện Tây Du, Phong Kiếm Xuân Thu, Trí cũng hiểu tại
sao Tố Sư Bồ Đề không để lộ tên của mình cho thiên hạ biết.
- Chú Vĩnh à! Tại sao Tôn Hành Giá loạn thiên cung?
- Tại vì Ngọc Hoàng cho ổng cái chức Bậc Mã Ôn. Ông ta tưởng
đó là chức cao lắm ai dè chỉ là tên chăn ngựa. Cho nên ổng phát khùng, ổng đánh
trả thù Ngọc Hoàng đã coi thường ổng. Ngọc Hoàng nghe nói tới tên ống thì run
eng phát rét.
- Rốt cuộc Ngọc Hoàng cũng đâu có phong cho ống chức gì!
- Không phong thì ổng tự phong lấy chức “Tê Thiên Đại Thánh.”
Ổng bỏ Thiên đình về ở với bà con khỉ của ổng và dựng cờ trước động Thuỷ Liêm.
Người ta gọi là ông Tề tức là Tề Thiên Đại Thánh đó!
Chú Vĩnh lại hỏi:
- Tao đố mày Tôn Hành Giả sợ ai?
- Sợ Lý Thiên Vương. Vì ông này có cái tháp mười tầng, hễ ai
bị nhốt vào đó thì trong vòng ba khắc, tiêu ra nước.
- Phải rồi, nhung sợ nhứt là ai?
- Là Thái Thượng Lão Quân có cái lò Bát Quái nấu linh đơn. Bất
kỳ tiên thánh, hễ ai bị bỏ vô lò ba khắc là hoá ra tro.
- Cũng phải, nhưng chưa phải là sợ nhất!
- Vậy thì ổng sợ Phật Tổ Như Lai, vì Phật Tổ xoè năm ngón tay
hoá núi Ngũ Hành đè ổng năm trăm năm dưới núi không ra được.
- Sợ thiệt, nhưng đè rồi còn sợ gì nữa!
- Vậy tôi chịu thua.
- Sợ Vương Tiễn nhứt!
Trí vỗ đùi nhảy tưng lên kêu:
- Phải rồi! Vương Tiễn có con mắt giữa trán nhìn thấu chân tướng
yêu tinh.
- Nhung nếu Vương Tiễn có mắt giữa thì ông Tề lại có cặp mắt
lửa tròng vàng mỗi khi trợn lên cũng trông thấy rõ yêu tinh vậy! Thiên binh
thiên tướng ông Tề cũng đáu có ngán, chỉ ngán một mình Vương Tiễn thôi. Nhưng
không phải vì Vương Tiễn có Thất thập nhị huyền công, mà vì VươngTiễn có con Hạo
Thiên Khuyển tức là con chó. Mỗi lần Vương Tiễn rũ tay, con chó chạy ra con khỉ
ốm dông lẹ.
- Tại sao vậy?
- Vì loài khỉ luôn luôn sợ chó.
Trí gật đầu thích chí:
- À phải rồi, hèn chi con khỉ ở tàu ngựa nhà ông Cụ^(nuôi khỉ
để dành trị bệnh kinh phong cho ngựa, hể ngựa bị kinh phong, khỉ nhảy lên ôm cắn
vào gáy thì hết bịnh) hễ thấy con chó nào tới thì nó liền nhảy phốc lên cây mà
ngồi dòm xuống.
- Ông Tề sợ chó là do cái tích đó!
Trí lại nói:
- Tôi thua chú một câu, bây giờ tôi hỏi lại chú!
- Ờ, tha hồ hỏi, truyện nào cũng được.
- Ông Tề lấy cây thiết bảng ở đâu?
- Dễ ợt! Tao cho mầy hỏi câu khác. Câu này “cơm sườn” tao
không thèm trả lời.
Trí lục lọi trong đầu một hồi và hỏi:
- Tại sao ăn một miếng thịt Tam Tạng sống ngàn năm!
- Đồ bỏ, hỏi câu khác đi!
- Phàn Lê Huê chém Dương Phàm bị báo oán thế nào?
- Máu của Dương Phàm xịt trúng mình Lê Huê có chửa đẻ ra Tiết
Cương. Tiết Cương đi coi hội hoa đăng, rủi ro đạp chết hoàng tử làm cho cả dòng
họ Tiết bị chết chém năm trăm người!
Chú Vĩnh nói luôn:
- Mày về tối nay lục lạo tìm câu hỏi khác đi. Mấy câu hỏi đó
mắc công tao trả lời.
Chú Vĩnh quả là con sâu truyện, Trí không làm sao địch lại
chú, thôi đành chịu thua luôn. Sự thích thú đọc truyện trở thành say mê chữ
nghĩa đối với Trí từ lúc nào không hay. Mới biết đọc gặp chữ thì ham đọc.
° ° °
Ở nhà Trí có một cái tủ để ở phía trước, đựng sách báo và giấy
tờ cũ của ông Cụ do tía Trí mang về cất giữ như một nơi lưu trữ hồ sơ. Tủ có
khoá, và chỉ một mình tía Trí sử dụng. Mỗi lần mở ra lấy sách báo xong, ông
khoá lại và giao chìa khoá cho má cất. Xâu chìa khoá có cả chục chiếc lớn nhỏ,
Trí không biết phải dùng cái nào, nên Trí phải rình mỗi lần tía mở tú. Trí biết
má cất xâu chìa khoá dưới mí chiếu trong giường ngủ. Một hôm chờ cho má đi ra
vườn thì ở trong nhà Trí chộp lấy, đi ra trước mở tủ. Ôi chao! Cơ man nào là
sách. Những sách là sách. Sách cũ sách mới, sách lớn sách nhỏ. Chưa cần đọc, chỉ
cầm lấy cũng đã mê tơi. Trí tha hồ lục lọi như một nhà thông thái đi tìm tòi một
vấn đề khoa học.
Trí ngồi xuống đất, bới mỏi tay rồi nhắc ghế lại ngồi lục tiếp
cho thoả thích. Chỉ trong chốc lát sách từ trong tủ bị tuôn ra đầy đất. Trí hấp
tấp, xem nhanh, chỉ lật qua vài trang là xong một quyển. Rồi ném chồng lên
nhau. Bỗng chốc Trí thấy hốt hoảng vì sự bừa bộn Trí vừa gây ra. Nếu có ai bắt
gặp tri hô lên thì sao? Còn rủi tía trông thấy chắc sẽ bị đòn nứt đít. Trí mau
mau xếp vô tủ trở lại. Nhưng bỗng thấy một cuốn hay hay bao bìa giấy dầu, cặp nẹp
tre và có tựa bằng chữ viết tay của tía: Kim Vân Kiều. Giở những trang đầu
thấy có hình. Trí mê quá, nên lật chầm chậm. Mỗi hình đều có tên. Hai người con
gái Thuý Kiều và Thuý Vân. Kế đó là Kim Trọng rồi là Vương Quan, Từ Hải, Mã
Giám Sinh… Hình nào cũng có điệu bộ chớ không phải đứng chết trân.
Trí đọc qua mấy câu thì nhớ ra đã từng nghe tía ngâm trong
lúc nằm võng hút thuốc. Xem qua một lượt Trí chọn lấy một cuốn rồi xếp trả lại
tất cả, cố không làm mất dấu và khoá cửa tủ, đem xâu chìa khoá để vô mí chiếu một
cách cẩn thận. Xong, lẳng lặng lên bồ lúa “tàng hình” luôn.
Bồ lúa còn đầy, có vài chỗ lõm, một tay Trí ôm hai cuốn sách,
một tay khoả lúa cho bằng mặt rồi rút chiếc đệm trái lên nằm im, trống ngực đập
thình thịch. Ở đây như ông Tề đứng giữa lung trời, yên chí không có ai trông thấy.
Mỗi lần làm cơm rượu, má bao Trí leo lên đây moi lúa để chôn vịm cơm rượu. Còn
chuối xiêm, chuối hột đốn xong cứ quăng lên đây chờ nó chín, có khi chuột lạ ăn
nhiều hơn “chuột Trí”.
Nằm ở đây mà đọc sách có khác gì “Thiên Thư Lầu” của ông Hàn
Kỳ trong Vạn Huê lầu? Trí giở sách ra lật từng trang, dán mắt vào đọc.
Toàn những câu ngắn, ít chữ. Ban đầu đọc thầm, nhưng dần dần Trí đọc nho nhỏ.
Nghe có vần thiệt khoái lỗ tai. Chữ nọ ăn với chữ kia nghe thật thích, Trí
không hiểu gì cả, nhưng cứ đọc phom phom, hết trang này lật sang trang khác. Có
“cái quạt “cái diều” thêm cả “Tây Trúc” là nơi Tam Tạng đi đến thỉnh kinh nữa!
Trí xem tới xem lui có bài thuộc gần hết tám câu. Đọc chừng một phần quyển sách
thì ríu mắt lại, tai mơ màng nghe mấy con chuột chút chít trên kèo nhà và mấy
con thằn lằn chạy rột rẹt trên vách bồ. Bỗng Trí ngồi choàng dậy vì có tiếng gọi
to. Mấy con quỉ đằng xóm tới rủ đi chơi. Bữa nay chủ nhật, đáng lẽ Trí phải lại
nhà ông Cụ đọc truyện kiếm thêm xu mua bánh, nhưng bị bận lục tủ sách, rồi lỡ
“thăng thiên” lên đây, không xuống được. Trí nằm im, không dám cục cựa. Trí
nghe má trả lời với mấy đứa bạn:
- Bác mới thấy nó nháng qua nháng lại trong nhà đây mà! Đâu
bây lại xẻo Bần coi nó có trầm nghịch ở ngoài đó không? Nếu không thì chắc nó đọc
truyện ở đàng ông Cụ.
Một đứa trả lời:
- Tụi cháu mới ở đẳng lại đây. Nó không có tắm xẻo mà cũng
không có đọc truyện ở nhà ông Cụ.
Má nói:
- Tụi bây chạy đi tìm nó coi! Đi chơi với nhau, bây giờ lại hỏi
tao!
Mấy đứa bạn lẳng lặng rút êm: “Biết ở đâu mà tìm!”
Má đi ra sân trước, vườn sau coi từng bụi chuối gốc dừa. Rồi
xuống bồ lúa, vỗ vỗ vách bồ, kêu:
- Trí ơi Trí, con có trốn trong kẹt bồ lúa không?
Nghe vậy, Trí càng nín thở, không dám nhúc nhích.
Má lẩm bẩm:
- Hay là nó té mương té vũng gì rồi? Để nhờ người ta lội mò
coi!
Nghe thế Trí vùng dậy la lên:
- Con đây nè má! - rồi tuột xuống đất.
- May làm gì ớ trển?
- Con bắt ong chuỗi cho lia thia ăn!
Má kêu tụi nhỏ trở lại, rồi cả bọn lại dắt nhau đi.
Đến chiều tía về, không thấy Trí, tía hỏi. Má nói: “Nó đi đọc
truyện đằng ông Cụ”. Tía tắm rửa xong đi xuống nhà trống coi qua mấy con gà
nòi. Tía Trí là thơ ký cho ông Cụ (gọi là biện tổng, tức là làm sổ sách giấy tờ
cho Cai tổng, cao hơn biện làng một cấp) không có ăn lương, nhưng muốn gì cũng
được vì tía là cháu nội cưng của ông Cụ. Tía “làm việc” ở nhà, hễ có chuyện gì
cần, ông Cụ cho người tới gọi. Ngoài công việc đó tía có hai thú vui: làm thơ
Đường và đá gà. Con nào “mặn” lắm tía mới nuôi, còn kỳ dư thì đi đá với ông Mười
là con trai út của ông Cụ và là chú ruột của tía.
Ông Cụ định cho ông Mười ra tranh chức Cai tổng nên cho ông
làm thôn trưởng để tạo đủ điều kiện ra tranh cử. (Muốn tranh cử Cai tổng phải
qua ba năm làm Hương Hào, Hương Thân hoặc Thôn trướng gọi là notables
exécutifs). Ông Mười làm thôn trưởng nhưng đến nhà việc thì ít, đến trường gà
thì nhiều. Sẵn có xe ngựa nhà, ngày nào cũng đi, trường gà nào cũng tới. Ông
còn rủ tía đi ôm gà và góp ý kiến khi cáp độ. Ban đầu ông nội Trí còn rầy rà,
ngăn cản nhưng mãi rồi cũng bỏ qua, bây giờ thành thói quen và tía thường đi
trường gà với ông Mười. Xem qua hai con gà cưng, tía Trí tắm rửa rồi lên võng nằm
ngâm nga Kiều rồi ngâm những bài thơ vừa làm. Tía có bốn tập thơ, đóng bìa rất
kỹ. Ba tập đề bên ngoài “Cổ Kim Thi Tập” để dành chép những bài thơ từ
trong sách ra. Một tập để chép những bài thơ của tía làm. Mỗi lần gặp bài thơ
hay, tía làm dấu và bắt Trí chủ nhật ở nhà chép vô tập cho tía. Ngoài ra tía
còn bắt Trí tập viết. Thời bấy giờ học trò có môn học gọi là Ecriture (Tập
Viết) quan trọng cũng như các môn khác. Cho đến lên Collège môn này hãy còn duy
trì. Không phải học trò muốn viết chữ A, chữ B kiểu nào thì viết, mà phải có
phương pháp theo đúng mẫu mực. Không có một đứa học trò nào cầm viết tay trái
và ngoáy theo kiểu tự do như bây giờ. Chữ xấu ê chề!
Bữa nay, Tía xem qua lượt các bài thơ Trí chép rồi bảo:
- Con viết dối đẻ đi chơi hả? Chủ nhật tuần tới con phải chép
lại, không được lấy gôm bôi cạo lem luốc.
Chép thơ là một cực hình. Trời ơi, đám bạn đá banh bưới pình
pịch ngoài sân kia, chữ nghĩa nào ăn lên mặt giấy? Nhưng phải ngồi nán lại
mà viết nên chép trật và phải bôi cạo.
Xong rồi Tía bắt trả bài, để mai vào lớp thầy kêu lên bảng khỏi
ngắc ngứ.
- Tuần rồi con trả Récitation (bài học thuộc lòng)
bài nào?
- Dạ bài Cây Vông! Rồi Trí đọc luôn:
Cao lớn làm chi vông hỡi vông
Uổng công tạo hoá mấy thu đông
Càng lớn càng già càng lộp xộp
Ruột qan chẳng có, có gai không…
- Giỏi! Bài gì nữa?
- Dạ bài Trăng Non. Rồi Trí cũng đọc luôn:
Khen ai cắc cớ bấm trời Tây
Tỉnh qiấc Hằng Nga khéo vẽ mây
Khỉ tưởng sọ dừa ôm ấp giữ
Trẻ ngờ trái bưởi hỏi han đòi
Ai rằng không cán Quỳnh xin cuộc
Hút thuốc mà xem: gáo hẳn hòi!
Tía cười:
- Con đọc bắt quàng rồi! Từ bài Trăng Non leo qua
bài Thơ Đầu Trọc. Nhung cũng khá, tía thưởng cho con cái cặp da tía mới
mua ở chợ quận kìa.
Tía lấy cái cặp còn gói trong giấy nhựt trình, mở giây ra.
Chiếc cặp đỏ tươi, có quai đeo, có chỗ cài cho khỏi rớt sách vở.
Tía Trí quàng vào vai rồi bảo Trí lấy sách vở xếp vào. Trời
ơi! Chiếc cặp này cả lớp phải trầm trồ. Tụi bạn cóc đứa nào có chiếc cặp như vầy,
giống in như trong hình sách tập học: i i đi học, u u đánh đu, ư
ư cái lư.
Má Trí dọn cơm xong gọi vọng lên nhà trên:
- Trí, hầu tía xuống ăn cơm!
Trí bước đến bên võng, khoanh tay cúi đầu:
- Má mời tía xuống ăn cơm!
Ngồi vào bàn ăn, tía còn khen:
- Con làm toán giỏi, tía sẽ mua cho con tập vở bìa cứng và
cây viết chì màu!
Nghe tía nói, má giẽ cặp trứng cá lóc vàng ngập bỏ vô chén
Trí. Trí cảm thấy sung sướng vô ngần, bưng chén lên lua một hơi nhưng ăn nhín cặp
trứng cá.
Tía lại hỏi:
- Con thuộc bài bữa mai chưa?
Mặc dầu từ sáng tới giờ chưa có mở tập vở ra, Trí vẫn đáp:
- Con thuộc rồi tía à!
- Bài gì?
- Dạ bài Rề-xi (Récitation, nói tắt là Rề-xi) Qua
Đèo Ngang.
Trí nuốt hết cơm trong miệng rồi đọc luôn:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Dừng chơn ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Thơ Bà Huyện Thanh Quan)
Tía khen giỏi và bảo:
- Chừng nào con lại đọc truyện, con đọc bài này cho ông Cụ
nghe, chắc ông Cụ sẽ thưởng xu cho con.
Trí thích chí nói luôn:
- Con còn thuộc một bài Qua Đèo Ngang nữa tía à!
- Bài Đèo Ngang nào nữa? Ở đâu mà con thuộc? Trí đọc
liền:
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa hang đỏ loét tùm hum nóc
Kẽ đá xanh rì lún phún rêu
(Thơ Hồ Xuân Hương)
Trí vừa đọc vừa nhìn sắc mặt tía, thấy tía không vui thì đọc
chậm lại Lắt lẻo cành thông….
Tía lắc đầu, bảo khẽ:
- Thôi!
Từ phút đó, bữa cơm kém vui. Cũng may mà Trí không thuộc hết
bài, vì đọc ngấu nghiến trên bồ lúa Tía hết chén cơm, má đưa tay đỡ lấy chén để
bới, nhưng tía đứng dậy thôi luôn. Tía đi vào buồng. Một chốc Trí nghe tía mở cửa
tủ đàng trước. Rồi im lặng. Má nhìn Trí như hỏi: “Có chuyện gì mà tía giận vậy
con?”
Chờ cho Trí ăn xong, tía quát:
- Thằng Trí lên đây biểu!
Má lo lắng bước lên, thấy tía cầm ngược trong tay cái chổi
lông gà máng trên vách để dành quét bụi trên ván ghế gõ. Má hỏi:
- Chuyện gì vậy ông?
- Kêu “thằng đó” lên cúi đây!
Má sợ quá trở xuống thấy Trí đang mếu, má không biết chuyện
gì nhưng vẫn lôi tay Trí, vừa đi vừa bảo:
- Con lên đi, má xin cho!
Má đủn Trí leo nằm trên ván. Tía gác cây chổi ngang mông Trí,
quát:
- Ai ở nhà mở tủ của tía?
Má gượng gạo trả lời trong khi Trí đã rơi nước mắt lộp độp
trên ván và run như thằn lằn đứt đuôi.
- Nó không có mở đâu mà!
- Nó không mở thì ai mở?
- Nó đi chơi với sắp nhỏ suốt ngày chớ đâu có ở nhà!
Tía cầm cây chổi lên nhịp nhịp lên mông Trí, hỏi:
- Sao tao không cho mày mở tủ mà mày dám mở hả, hả?
Trì oà lên khóc. Má nói:
- Mới có lần đầu, thôi ông tha cho con! - rồi lôi Trí dậy -
ngồi dậy lạy xin lỗi tía đi con, để khỏi bị đòn.
Trí khóc sướt mướt. Má lôi tuột Trí xuống đất đủn vô buồng.
Nhưng Trí chạy vọt ra sân rồi phóng thẳng lại nhà ông Cụ. Gặp lúc bà Cụ đang ngồi
ăn trầu. Thấy thằng chắt cung của Cụ nước mắt nước mũi chàm ngoàm, quần áo xốc
xếch thì Cụ bế xốc nó lên để ngồi bên cạnh cái đã. Chùi mặt cho nó xong Cụ mới
ngon ngọt hỏi nguồn cơn. Cậu bé như vừa qua cơn bão tố, càng được an ủi càng
khóc oé lên như bị ai giết hụt. Khóc với tất cả sự uất ức oan ức tức tưởi của một
kẻ bị áp chế lâu ngày không được ai bênh vực. Bà Cụ càng vuốt giận, thằng bé
càng khóc lớn làm rúng động cả nhà. Đợi cho thằng chắt dứt khóc, bà mới hỏi tiếp,
nhưng nó không nói mà cứ quệt nước mắt lia. Bà Cụ bế cháu lên, cho nó trái chuối
rồi đi ra tàu ngựa dỗ tiếp. Bà lột chuối cho Trí ăn rồi quăng cái vỏ… cho con
khỉ bắt. Nó luôn luôn ngồi trên đầu tàu ngựa chờ trẻ con đến quăng mồi, chọc ghẹo
để nhóp nhép chửi lại.
Bà cụ bảo Trí:
- Để chút nữa, bà bảo nó đánh xe đi chợ mua kẹo cho con!
Trời vừa bớt u ám thì má Trí tới. Bà Cụ giận dỗi, nói một
hơi:
- Có một thằng con trai mà nay đánh mai đánh… Đây nè, đem nó
về đẳng ăn thịt ăn cá gì ăn đi!
Má Trí nói:
- Thưa nội, tía nó đâu có đánh roi nào đâu nội.
- Không đánh sao nó khóc?
Má Trí đưa quần áo ra, nói:
- Con đem quần áo lại thay cho nó.
- Để nó ở đằng này luôn với tao!
Má Trí đem gởi quần áo cho các cô rồi lẳng lặng ra về. Các cô
cười om lên:
- Lêu lêu, đi học trường chợ rồi mà còn ẵm! Coi kìa cặp giò
chấm đất!
Bà Cụ để cu cậu xuống đất, vạch mông coi tới coi lui và càu
nhàu:
- Thằng nhỏ tươi tốt như vầy mà nó đánh roi mây lằn ngang lằn
dọc không biết mấy chục roi nữa! Rồi cụ thay quần áo cho Trí ẵm vô nhà.
Các cô cứ đi theo chọc ghẹo:
- Trời ơi! Cháu cưng của cụ mà bị đòn nứt đít như thế kia ai
mà không khóc! Hu hu…! Cháu tôi học giỏi như vầy mà bị đòn… Hu hu!
Trí như bị khêu lại bầu tâm sự, đổ thêm vài hột nước mắt xuống
vai áo bà cụ.
Bà cụ đặt thằng cháu lên ván rồi bảo:
- Thôi đọc truyện cho Cụ nghe đi con. Để mai nó lại đây Cụ
đánh đòn hết “hai đứa” nó!
Mối thù đã được rửa xong, oan ức tan biến hết, lại có cơ hội
lập công, thằng cu con nằm sấp xuống ván gõ, mát cái bụng mà đít không run như
lúc nãy nữa.
- Con đọc truyện nào?
- Dạ, Tam Tạng Thỉnh Kinh!
- Đây nè, con muốn đọc khúc nào thì đọc.
- Hồi thứ một trăm hai mươi mốt
Hành Giả giận thày bỏ về Hoa Quả Sơn
Tam Tạng bơ vơ bị yêu bắt
Đây nói về Hành Giả can Tam Tạng không được bèn bỏ về Hoa Quả
Sơn. Đám khỉ chạy ra mừnq rỡ bao vây nhảy nhót chung quanh Hành Giả. Con khỉ đầu
đàn thuật lại việc thợ săn đến đây bắt bớ bà con khỉ. Tôn Hành Giả cả giận bèn
giàn trận ra để chờ thợ săn đến trả thù…
Qua làn nước mắt vừa ráo, tiếng cậu học trò trường chợ vang
lên trong ngôi nhà xưa tĩnh mịch làm vui lòng hai mái tóc bạc phơ.
Trong lúc Trí đọc thì bà Cụ lấy ve dầu Nhị Thiên Đường ra mở
nút
xức từng “vết roi” trên mông thằng bé! Đó chỉ là những lằn roi tưởng tượng do
nước mắt của thằng chắt cưng tạo nên chớ thực ra nó có bị roi nào! Ai mà dám
đánh thằng chắt của Cụ? Không nhớ hay sao? Lúc ông Nội chở nó vô trường, còn dặn
thầy giáo: “Nó có không thuộc bài thầy nói với tôi chớ đừng đánh nó!”
Nghe giọng đọc của Trí còn đượm nước mắt, ông Cụ bèn chặn lại
và hỏi:
- Con nhớ nhờ đâu mà Tôn Hành Giả được thất thập nhị huyền
công hay không?
- Dạ nhờ Tổ sư Bồ Đề bắt uống cái ống nhổ.
- Con nhớ Tổ sư ra dấu thế nào không?
- Dạ, ổng cầm cuốn sách ổng đập trên đầu Hành Giả ba cái rồi
chấp tay sau đít bỏ đi.
- Rồi sao?
- Dạ, Hành Giả suy nghĩ một chút rồi hiểu ra rằng Tổ Sư bảo
canh ba hãy ra ngã sau gặp thầy. Thầy khen Hành Giả thông minh nhưng không truyền
dạy gì hết mà chỉ bắt đi đổ cái ống nhổ thôi.
Ông Cụ cười:
- Không thầy đố mầy làm nên! Nếu ông thầy không gõ đâu Hành
Giả ba cái thì Hành Giả không có phép gì hết. Con cũng vậy, đi học khi bị thầy
đánh thì đừng có giận thầy. Thày đánh là thầy thương con, thầy muốn dạy cho con
nên người. Tại sao tía con đánh đòn con?
Trí nói:
- Dạ tía con chỉ la thôi chớ chưa có đánh.
- Tại sao tía con la con?
- Dạ tại tía không cho con mở tủ mà con mở.
- Từ rày tía con biểu đừng làm gì thì đừng làm nghe!
- Dạ!
- Thôi, đọc tiếp đi.
Trí lại ê a đọc tiếp:
- Tôn Hành Giả nhảy lên mây che tay nhìn xuống về phía tây thấy
Tam Tạng đang bơ vơ không biết đường nào đi thì có một người đàn bà từ trong rừng
đi ra đón đầu Tam Tạng dâng một mâm cơm. Hành Giả bèn trợn mắt lên nhìn thì thấy
rõ là con Bạch Cốt tinh giả dạng. Hành Giả bèn bay xuống huơi thiết bảng hét:
"Yêu tinh, chớ hại thấy ta!”
Bữa tiệc thịt cầy vui vẻ
Dân dà Trí đọc hết mười sáu quyển bộ truyện Tây Du và những bộ
truyện trên kệ của ông Cụ cũng là lúc Trí đã lên lớp ba trường làng.
Một hôm trong nhà ông Nội có tiệc. Nhà có đám tiệc luôn.
Không có lý do thì đặt ra lý do. Kỳ này lý do là con chó Vàng sủa bậy. Chỉ có
thế là thành tiệc. Nhà ông Nội có hai người quan trọng nhất: Tía Trí và chú
Năm. Tía là “Thủ tướng” còn chú Năm là “Bộ trưởng bộ Nội vụ kiêm Kinh tế”. Chú
Năm nói với tía: “Con chó Vàng nó sanh tật anh à! Hôm qua em đi tới nhà ba mà
nó sủa !” Tía Trí đồng ý ngay nhưng còn đề nghị mời thêm vài ông Hội tề ra nhậu
cho vui.
Chú Năm bao nấu nướng còn tía thì lo việc ngoại giao và cho
người mua gia vị ở trong chợ. Chú Năm là đầu bếp chuyên môn món thịt chó, nhưng
muốn nấu ngon phải có đủ gia vị cho chú. Ít nhất trên hai mươi thứ chớ không phải
ít. Ngũ vị hương, tương chao, củ hành tàu, bún tàu, đậu phọng, đậu xanh, rượu ấp-xanh,
củ nghệ (loại thoa gà nòi)… Đó là những thứ ở nhà không có sẵn. Phải đi chợ mua
cho đủ. Đem về nếu món nào bị chú “bất” (chê) thì phải mua lại cho đúng. Quan
trọng nhất là con chó Vàng. Nếu không bắt được nó thì bất thành tiệc. Nhà có một
bầy chó mười mấy con. Mỗi lần đi vườn săn chồn săn chuột chỉ cần ba, bốn chú.
Còn ra đồng thì ném một cục đất, xuỵt một tiếng là cả bầy ào ra như “quân sở
đánh quân Tê”, như Địch Thanh tấn công Thợn Thợn quốc.
Điểm lại số quân, chú Năm mới thấy con Vàng vừa mới sanh tật
(xấu) nên lên án tử hình. Kể ra cái tật sủa bậy đó cũng chưa đáng tội cho lắm,
nhưng vì nó béo tốt mà lại hơi lười, bớt hăng càn bờ lướt bụi như đồng loại, chứ
còn tật xấu thì con Vện hay ăn vụng, con Luốc cắn chết hai con mèo con, tội nặng
hơn bội phần, nhưng vẫn không bị xử. Pháp luật bao giờ cũng cong queo mà.
Chú Năm gọi đám quân “chạy hiệu” tới và đọc cái thiệu làm thịt…
cầy.
Đứa nào xấu xấu xắt sả nạo dừa
Đứa nào bảnh trai, cạo lông thui chó
Đứa nào núp núp ló ló,
Bắt đi mua rượu chợ xa.
Dưới quyền của chú Năm, đạo quân chạy hiệu hoạt động tở mở.
Trí hỏi chú Năm:
- Bữa nay chú tính làm mấy món chú Năm?
- Thì cũng mấy món đó thôi. Mầy thích món nào?
- Món nào cháu cũng thích hết. Nhưng thích nhất là cạp cái
“xương mông bà La Sát”. Rồi kế đó là gặm “xương sườn ông Bao Công”.
- Cái thằng! Mây nói gì lạ vậy mậy?
Trí cười và giải thích:
- “Xương Mông bà La Sát” là cái đòn dông xương sống từ nửa
lưng xuống cái đuôi. Chú vẫn thường làm món đãi khách đó mà!
- Ừ, nhưng sao mầy đặt tên nghe lạ tai quá, làm tao không biết
là món gì!
- Tại cháu mới đọc truyện trên ông Cụ thấy Tôn Hành Giả chui
vô bụng bà La Sát mượn cái quạt Ba Tiêu để quạt tắt Hoả Diệm Sơn mở đường cho
Tam Tạng đi thỉnh kinh thì chắc là bà La Sát phải chết.
- Cái thằng! Bà La Sát là yêu tinh, thịt bả ăn tanh lắm, sao
mày không đặt tên nào ngon ngon hơn. Thí dụ như xương mông bà Võ Hậu vậy đó.
Trí nói:
- Cháu chưa đọc tới truyện Võ Hậu nên không biết.
- Còn sao lại xươne sườn ông Bao Công?
- Dạ ông Bao Công ngày đêm ngồi xử án “Quách Hoè ly miêu
hoán chúa” cho nên chắc xương sườn của ổng ốm không có mỡ, chỉ toàn thịt nạc
cạp ngon
lắm.
Chú Năm cười:
- Nhưng mầy nên nhớ là Bao Công già cúp bình thiếc, thịt dai
nhách nhai không có đứt đâu. Kế hai món đó mầy thích món gì?
- Dạ cháu thích món quay chảo thịt đùi với nước dừa xiêm. Hít
hà! quay chín xong xắt ra lát mỏng, mỗi lát đều có da, mỡ, nạc và tí sụm nhai vừa
ngọt vừa béo.
Chú Năm nói:
- Béo là nhờ mỡ của nó và nhờ đậu phọng. Mày phải đâm đậu phọng
(không được đâm nhuyễn) và rắc lên thịt, thì mới trúng điệu “quay chảo thịt cầy”.
Kế đó là món gì?
- Dạ ăn thịt quay chảo xong cháu chĩa tới dồi.
Chú Năm lác đầu:
- Dồi, học trò ăn dồi sẽ học không thuộc bài. Càng ăn dồi
càng tối dạ đó nghe mầy tụi!
- Tại sao ăn dồi chó mà tối dạ hả chú?
Chú Năm cười hì hì:
- Mầy có nghe học trò ăn giò gà bị run tay không? Ăn dồi chó
còn nặng hơn giò gà. Vì dồi chó làm bằng ruột cùng chó. Mày không nehe người ta
chửi: “Đồ ăn ruột cùng chó” hay sao? Tức là ngu lắm. Ruột chó thum thủm ăn vô mất
trí khôn con ơi!
Trí cãi lại:
- Dồi chó đâu phải chỉ làm bằng ruột chó mà thôi. Còn nhiều
thứ nữa chớ chú! Nào là gan phổi bầm nhuyễn trộn với thịt nạc, mỡ heo dồn vô!
- Ừ phải, nhưng mà khúc dồi vẫn còn mùi thum thủm! Dồi chó là
mồi của mấy ông nhậu chớ không phải đồ ăn cơm mày hiểu chưa? Giò gà cũng vậy. Mấy
ổng không muốn con nít chĩa hết, cho nên mấy ổng nói vậy để cản đũa tụi bây.
Tao nhắc cho tụi bây nếu được ngồi chung mâm với người lớn thì đừng có rớ tới
cái xương mông bà La Sát hoặc mấy miếng dồi nghe chưa. Xương mông của bà La Sát
thì gỡ ra một miếng bằng con cờ phải làm một ly đầy, còn dồi xắt mỏng ra, mỗi
lát phải đưa hai ly. Quý nhất trong con chó là hai món đó. Ai biết điều thì nên
nhường cho mấy ông nhậu.
Trí vốn đã từng nếm nhiều lần các món của chú Năm nấu, nên ra
vẻ thành thạo.
- Còn đùm lá cách nữa chi chú Năm!
Chú Năm lại cười:
- Cái thằng này rành dữ he. Nay mai mầy làm đệ tử “đạo Cầy” của
tao được đó. Đùm là món cũng quí như dồi, nhưng nó thuộc về đồ mềm để dành cho
các cụ hăng rết.
- Hăng rết là sao hả chú?
- Hăng rết là hết răng đó, nghĩa là mấy ông già
không còn răng nhưng vẫn ham vui. Đùm để dành cho các cụ. Món đặc biệt này có
hai loại, một loại cuốn lá cách nhỏ bằng ngón tay vừa miếng lủm, một loại to bằng
cái dĩa gói bằng lá bạc hà, ràng bằng lá sả xếp vô trả hon hấp cho chín rồi vớt
ra để trên dĩa bàn rưới nước cốt dừa lên, kỉnh cho các cụ. Các cụ gắp một miếng
đùm gói lá cách, hoặc lấy muổng xúc để trong chén, lua vô miệng trệu trạo rồi
nuốt chớ đâu có nhai được. Nếu gặp dồi dai, các cụ phải nuốt trộng hay sao?
Trí nghe chú Năm nói, nuốt nước miếng ừng ực. Thấy vậy chú
Năm tiếp:
- Để lát nữa tao lấy cho mày ít miếng đùm ăn thử nghe!
Trí lại hỏi tới:
- Sau món đùm tới món gì chú Năm?
- Sau đùm tới chả chìa, tức là ba sườn chó đó mậy! Nhưng tuỳ
thợ nấu mà làm ra món này món nọ. Có thể quay chảo. Khi chín thì sườn ló ra cho
con nít cầm cạp, ăn với cơm nếp. Mau no lắm! No rồi là hết đòi món gì khác mày
hiểu chưa? Nếu không quay chảo thì muối sả để trong mộc liễu bữa sau đem nướng
trên than gáo dừa. Mày nướng trong bếp, người đi ngoài đường cách ba cây số còn
nghe mùi thơm đói bụng nghe mậy. Mày muốn ăn sườn ló hay sườn muối sả, thì tao
để dành cho?
Trí vừa hít thở vừa nói:
- Món nào cũng muốn ăn hết.
- Nếu vậy thì mày làm một cục hon giằn bụng trước khi ngồi
lên mâm, chớ để bụng trống, ai ăn cho lại mày!
Hai chú cháu cùng cười. Chú Năm nói:
- Tự nãy giờ mình mới ăn thịt chó tưởng tượng thôi! Chớ trả
nước cạo lông chưa sôi còn con Vàng thì đang nằm kia cà. Nãy giờ mình bàn, hổng
chừng nó nghe hết rồi. Nó trốn mất thì khách tới không biết lấy gì mà đãi. Con
Vàng khôn lắm. Mấy con kia thì chỉ cần ném cục cơm nhử là bắt được thôi. Mày nhớ
không lần đó tao hở kẽ ván ra bỏ cái xương đầu cá trê là nhào vô sàn táp lấy,
tao thò tay xuống nắm giò lôi lên và khép kẽ ván lại, rồi thiến cái một. Nó chỉ
la oẳng oẳng thôi chớ cắn tao đâu có được?
Trí hỏi:
- Bây giờ con Vàng, mình tính sao chú?
- Mầy phải kêu nó lại, làm bộ như thương nó dữ lắm…!
- Thôi, cháu không muốn lừa nó chú à!
- Tao mần nhiều cầy rồi, có cô hồn, chó thấy tao đi tới đâu
là sủa rân tới đó. Tao đâu có lại gần nó được. Mầy cứ cho nó ăn rồi vỗ vỗ lưng
nó, bất thần tao xách cái bao bố tới, mày ôm nó bỏ vô, tao túm miệng lại rồi
đem ra vũng trấn nước.
Trí ngẫm nghĩ một chút rồi cực chẳng đã phải ưng chịu, nhưng
còn méo mặt:
- Gạt nó, coi kỳ quá chú à! Nó chết xuống dưới nó còn oán
cháu cho coi!
- Cho nó oán, tao “cúng” nó cặp dừa khô là hết oán!
Kế hoạch được thực hiện y như lời chú Nãm vẽ ra. Chú buộc miệng
bao lại và đem ra mé mương ném xuống nước rồi lấy cây sào chống ghe nhận chiếc
bao ngập. Con chó vùng vẫy một lúc, nước sôi ục ục, rồi êm rơ.
Chú Năm ngó ngoái lại sau bảo đám quân chạy hiệu:
- Đút củi thêm cho nước sôi lên để đem cạo lông, bây! Đứa nào
ra gốc rơm rút sẵn một mớ đặng thui. Mau mau lên, khách tới rồi cà!
Chẳng ngờ khi quay lại thì thấy con Vàng đã leo qua bờ bên
kia. Chú rút cây sào lên định đập nó, nhưng cây sào ngắn, không vói tới. Con
chó chạy vô vườn trầu rồi lẩn mất tăm.
Chú Năm hơi rối trí bèn tâu rằng con Vàng đã sửa tánh nết sủa
bậy, vậy nên tử hình con khác. Chú chỉ định con Luốc chết thay. "Ở
trên" đồng ý liền. Đám chạy hiệu đã hoàn thành công tác. Dừa khô đã nạo và
vắt nước cốt, nước dão xong, sả đã xắt để ướp thịt hon, đã bằm nhuyễn để làm nước
mắm thấm, rau cỏ đã cắt rửa sạch, rượu đã mua về, nghệ đang mài, ngũ vị hương
ngào thơm nực cả bếp! Tất cả đã sẵn sàng chỉ còn chờ ra thịt là lửa trên bếp
cháy tưng bừng. Mấy ông khách nhậu lai rai với củ kiệu tôm khô vài ly là có thịt
quay chảo dọn lên. Và bắt đầu từ đó tiệc kéo dài tới cái xương mông bà La Sát kết
thúc.
Nhưng… con Vàng đã vọt mất, còn con Luốc thì từ sáng tới giờ
đi biệt tăm. Chú Năm bèn ra lệnh:
- Bắt con gà giò luộc xé phay làm kế hoãn binh!
Khách tới thì thịt gà cũng vừa dọn lên. Các vị ngồi vào đưa
cay nhẹ nhàng, nhưng cũng có vài vị để dành bụng ăn thịt chó. Ông Hương Quản và
ông Hương Bộ vốn quen với chú Năm, nên ra áo đi xuống nhà bếp. Chú Năm chạy lên
chào thân mật và rủ hai ông ra sân sau coi ao cá nuôi. Ông Quản người to lớn dềnh
dàng, mặc áo lá để lộ hai cánh tay lực sĩ còn ông Hương Bộ thì nhỏ thó mặc đồ
bà ba trắng mang guốc vông, chỉ đứng cao quá vai ông Quản.
Ông Quản hăng hái nói:
-Trời mưa cầy trấng, trời nắng cầy vàng, mưa nắng làng nhàng,
trắng vàng quất hết! Tao biết bầy chó nhà này đông lắm, đủ sắc lông vậy
chú Nãm nó định xử trảm con nào?
- Dạ! Con Vàng.
Ông Quản cười hố hố:
- Vậy thì phải điệu “Đạo Cầy” rồi. Nhớ làm đừng có bỏ hai cặp
vựng nghe!
- Dạ đâu có bỏ ông Quản.
- Cặp vựng thui cho đều, gọt lóng cho sạch rồi bắc nồi cháo đậu
xanh lên, bỏ vào nấu cho nở toè loe ra don xuống… Cháo thì húp còn vựng thì cạp.
Ai say, làm một vài chén tỉnh lại liền. Hì hì! Mấy người theo “Đạo” kinh niên
như tôi mới biết. Món đó gọi là giải nghễ.
- Dạ tôi biết rồi ông Quản. Còn món gì ác xiêm lai nữa
không, xin ông Quản chỉ luôn cho đủ bộ.
Ông Quản ngoắc chú Năm lại gần và rỉ tai một hồi chú Năm tỏ vẻ
khoái chí cười vang.
Ông Quản tiếp:
- Mấy ông “cúp” rồi mà còn ham vui, một ông hai bà thì thích
món này lắm! Hồi xưa, Trụ Vương thích thịt cầy còn hơn khô lân chả phụng là vì
món “patê gân” này đó!
Chú Năm nói:
- Vậy để lát nữa tôi “bào chế” món này kính dâng lên hoàng
thượng nghen ông Quản!
- Dâng thì dâng, nhưng phải cho tui biết trước để tui…
-… để ông Quản tránh hả?
- Bậy nà! để tui… gắp cho mạnh đũa chớ!
Hai người cười hô hố. Ông Quản bảo chú Năm:
- Coi chừng ông Hương Bộ ổng hay, ổng lấy mất nghề mình!
Ông Bộ nói:
- Tui có một bà chớ phải hai bà như ông vậy sao mà cần cái
món đó.
Chú Năm hỏi ông Quản:
- Ông Quản có đặt tên cho nó là món gì không? Có tên mới dễ
nhớ!
Ông Quản ngẫm nghĩ một giây rồi nói:
- Cái đó cũng tuỳ người. Riêng tôi thì tôi gọi nó là món Nhị
Long Hoàn.
- Tại sao vậy ông Quản?
- Xe thuốc Ông Tiên tối bán ở chợ mình đến quảng cáo thần
dược là Cửu Long Hoàn, Tam tinh Hải cẩu bổ thận hoàn v.v… Một viên Cửu Long
Hoàn bằng mười thang thuốc bổ. Cửu Long Hoàn là Chín cái trứng rồng phải không?
Còn đây chỉ có hai trứng thôi, nên tôi tạm gọi nó là Nhị Long Hoàn hoặc
nếu ông nào muốn cho rõ hơn thì gọi nó là Địa cẩu thay vì hải cẩu
hoàn, chú Năm nó thấy tên nào có ý nghĩa hơn?
Chú Năm nói:
- Dạ, tôi thấy tên Nhị Long Hoàn hay hơn vì hai trứng hai bên
còn có con rồng nằm ở giữa.
Ông Hương Bộ nói:
- Hay ta có thể gọi nó là món Dã Hạc Giang Nam của vua Càn
Long thường ngự vậy. Món này dùng con gà làm con hạc và để dưới bụng nó mười mấy
cái trứng. Vừa ăn thịt vừa ăn trứng…
Cả ba cùng cười vui vẻ. Ông Quản ngó mặt trời rồi hỏi chú
Năm:
- Con “hạc” nằm ở đâu, mình vô đề sớm sớm đi để rồi còn gầy
thêm sòng khác.
Chú Năm thuật lại cái màn trấn nước hụt con Vàng và đòi đem
con Luốc thế mạng.
Ông Quản lắc đầu:
- Không nên! Không nên. Loài chó khôn lắm. Hễ đã tuyên bố tử
hình con nào thì phải hành quyết con nấy Nó nghe rồi, dù minh “tha Tào”, nó
cũng hờn, nó không trung thành với chú nữa. Huống chi chú đã trấn nước nó rồi.
Nếu tha nó, nó sẽ “nói” lại với mấy con kia bầy chó sẽ mất hiệu nghiệm như xưa.
Ông Quản nghiêm sắc mặt hỏi:
- Chú tuyên bố bắt con Luốc thế mạng phái không?
- Dạ!
- Nó có nghe không?
- Dạ không rõ. Nhưng mà hiện giờ nó không có ở nhà.
- Dù nó ở đâu nó cũng nghe hết. Như vậy con Vàng lẫn con Luốc
đều hết xài rồi, nuôi tốn cơm vô ích.
Ông Hương Bộ cười:
- Ông Quản muốn làm hai con một lúc đó chú Năm. Ổng tính nhậu nhị
long hoàn tại đây rồi bỏ túi một cặp đem về nhà đó.
Ông Quản cười hềnh hệch:
- Đem về tui chia cho ông một “viên”, được không?
Bỗng Trí kêu lên:
- Con Vàng nó nằm dưới đít khuôn bếp kìa chú Nãm!
- Uả, nó lỏn về hồi nào vậy?
Ông Quản nói ngay:
- Hồi nãy bị trấn nước suýt chết, nó đã biết mưu kế của chủ
nhà rồi, bây giờ không xài cái mửng đó được đâu mà phải dùng kế của Khổng Minh
cho phục Huê Dung Đạo.
Chú Nãm nói:
- Xin giao quyền quân sư cho ông Quản đó!
- Đóng tất cả các cửa và bít hết các lỗ trống lại, chỉ chừa một
lối thoát cho nó thôi. Nhưng phải làm nhè nhẹ, nếu nó nghe nó trốn mất!
Chú Năm cho thi hành kế hoạch của ông Quản và lấy làm đắc
chí:
- Ông Quản thiệt là người mưu lược.
Ông Quản cười vang:
- Xưa Khổng Minh cho Quan Công phục Huê Dung đạo để đón kẻ
thù. Tào Tháo cắt râu liệng mão chạy lấy thân vào cái ngõ hẹp này.
- Nhưng mà Tào Tháo vẫn thoát chết! - Ông Hương Bộ cãi lại.
- Tào ta thoát chết là vì Quan Công tha Tào chớ có phải vì kế
Khổng Minh không cao đâu! - Ông Quản nói thêm: - Phen này để tôi làm Quan Công
cho!
Nói rồi ông đi lục lạo tìm được cái cong ghe (bộ phận bằng gỗ
kết liền những tấm be ghe) cầm ra đứng ở bên lỗ chó. Ông giơ lên bảo:
- Nó ra đây, tôi phang cho một “búa” là hết có đường trốn nữa.
Ông Hương Bộ cũng đi tìm được một cái đai cuốc cán ngắn rồi
vo quần xán áo ra đứng đối diện với ông Quản. Chú Năm nói:
- Huê Dung Đạo có hai ông đại tướng chận đường, ông này sẩy
còn ông kia, Tào Tháo phen này là hết kiếp.
Ông Quản bảo chú Năm:
- Chú vô chọc cho nó chạy ra đi!
Chú Năm xách cọng củi dừa dài khom xuống. Trong ánh sáng lờ mờ
dưới khuôn bếp chú thấy con Vàng nằm khoanh, chung quanh nó một vũng nước chảy
lan trên gạch. Cặp mắt nó ươn ướt như muốn khóc. Chú thọc cây vào, nói nho nhỏ.
Chính chú cũng thấy tội nghiệp con Vàng. Nếu nó không về thì thôi, chú sẽ không
đi tìm.
- Ra đi con, ra đi con!
- Mau lên! - Từ bên ngoài ông Quản hét vọnq vào.
- Ra đi mày! - Chú Năm thọt mạnh và tránh qua một bên. Bụng lầm
thầm khấn - Vái cho mấy ổng đập hụt.
Con Vàng vọt ra và biến đi. Chú Năm chưa kịp nhìn theo thì
bên ngoài có tiếng kêu:
- Ôi trời ơi!
Chú Nãm tông cửa chạy ra thì thấy ông Hương Bộ năm chỏng gọng
còn ông Quản thì quăng cái cong ghe, khom xuống đỡ ông Bộ lên. Ông Bộ bám vào
vai ông Quản và rên rỉ:
- Anh đập bể cái bánh chè của tôi rồi! Hừ hừ!
- Tại con chó nó lủi vô chân anh!
Ông Quản rinh ông Bộ lên nhà trên để nằm trên ván gõ bên chái
nhà. Ông Cả nghe tiếng la thì chạy ra hỏi việc gì! Chú Năm thưa rằng: Ông Bộ trợt
té.
Nhung ông Cả thấy ông Bộ nằm rên hừ hừ, tay ôm đầu gối thì hỏi
ông Quản, ông Quản thưa thiệt cớ sự. Ông Cả bảo Trí lấy xe đạp chạy vô tiệm rước
thầy Son ra liền tức khắc.
Thầy Son không biết việc gì nhưng nghe lệnh ông Cả thì tức tốc
ra ngay. Ông khám qua và nói:
- Trầy da sơ sơ, không có pể xương. Chung quanh chỉ pằm chút
thôi. Xương ông Pộ già nên cứng như sắt.
Thầy Son sống ở đây đã lâu cưới vợ Việt Nam nên quen với
phong tục lẫn thủy thổ bèn bảo:
- Muốn cho mau lành nội thương thì lấy cây chuối cau non quết
với một con gà ác hoặc con bồ câu ra ràng đem lấy vải mùng bó vô bảy ngày là hết
đau nhức và đi lại như thường. Rủi bị gãy tay bó cũng liền xương lại.
Ông Quản hỏi:
- Còn cái vụ kia lược không ông thầy?
Ông thầy hiểu ngay, cười vui vẻ:
- Lược! Lược mà! Không có sao hết!
Rồi ông từ giã ra về. Ông cả trả tiền công, ông thầy không nhận.
- Há cái lỳ, ông Cả với uý ông hội tì có chút việc,
có đáng gì, mai mốt uý ông giúp lại chúng tôi còn diều hơn
mà!
Nói xong chào rồi phóng xe đi. Không ai ngờ rằng ông thầy Chệt
sốt sắng như vậy. Ông còn đưa cho Trí môt gói táo tàu bảo ngâm rượu đãi khách.
Con Vàng chết hụt lần thứ hai chạy mất tăm không trở về chui
vô đít bếp nữa. Ông Quản cứ làu bàu:
- Con Vàng quả là mạng Tào.
Chú Năm nói:
- Thua keo này bày keo khác ông Quản! Có lẽ khai dao không
coi giờ nên mới trớt lớt hết như vậy. Bây giờ bỏ qua vụ cầy bắt qua vụ vịt.
Ông Quản nói:
- Vụ gì thì vụ miễn sao cái bánh chè của ông Bộ còn nguyên
thì thôi. Nếu bị sứt mẻ ống “quì hai gối chống hai tay” làm lễ “vái bà” không
như ý, bà phiền lắm.
Chú Năm nói:
- Ông Quản lên cầm khách dùm tôi đi, chút xíu có mồi dọn lên
liền.
Chú Năm liền bảo đám quân chạy hiệu:
- Con vịt cồ nhà này sống dai nhách, nay cũng đến tuối rồi,
cho nó về chầu trời làm phước.
Rồi chú ra lệnh:
- Thằng Trí đứng ở mé ao cá nuôi kia, thủ sẵn một khúc tầm
vông!
- Củi dừa được không chú Nãm?
- Không được, củi dừa bở rệu, đập nó không chết. Vịt xiêm cồ
mạnh lắm chớ không phải như vịt ta.
Trí lại hỏi:
- Cháu chụp nó được không chú Năm?
- Không được đâu! Cỡ mày nó tha bay mất luôn không biết đâu
mà tìm.
Rồi chú cho giàn trận hẳn hoi. Đứa thủ sào dài, đứa cầm sào
có vòng như vòng bắt heo. Trả nước sôi để cạo lông chó còn kia, trụng mấy con vịt
cũng dư chán. Những món gia vị, chuẩn bị cho thịt chó có thừa, chỉ thiếu mấy củ
gừng. Ông Quản đến nói với chú Năm:
- Ông Bộ đi được rồi. Không chết chóc gì đâu. Mần con vịt
xiêm cồ cho tôi xin cái mật.
- Con vịt này sống bằng tuổi ông Bành Tổ đó ông Quản. Vịt mái
xóm này, nó bao sân hết ráo.
- Vậy tốt chớ sao. Vịt càng già cái mật càng tốt. Anh suôi
tôi cặp mắt hơi yếu. Chú cho tôi xin về nhỏ con mắt chắc sáng lại. Lâu nay chạy
thuốc cũng nhiều nhung đám mây cứ giăng ngang mặt trời.
- Dạ, tôi sẽ để dành cho ông Quản cái mật và “nhị long hoàn”
của vịt cồ cũng nên thuốc lắm!
Nói rồi chú Năm vô nhà xúc lúa kẹ ra trộn với chuối cây quết
nhuyễn đem ra sân trút vào chiếc vịm bể. Đây là món riêng cho họ hàng nhà vịt,
nhưng vừa trông thấy, đám gà cũng bu tới tranh nhau kêu chí choé. Thực khách gồm
cả nam phụ lão ấu vịt gà không [hiếu mặt nào.
Trí vác cây quơ lia đuổi lũ gà để giành phần cho vịt là mục
tiêu đang nhắm. Bầy vịt ta lông trắng như tuyết chân, mỏ vàng nghệ đang nằm im
bên kia bờ ao thấy bên này nhộn nhạo quanh vịm lúa thì bừng tỉnh, vội vã rủ
nhau nhào xuống nước bơi nhanh qua “đại dương”, nhảy lên bờ chạy tới chen vào xỉa
mỏ rỉa lia lia. Chỉ có mấy mụ vịt xiêm mẹ sề thì tỏ vẻ bất cần đời. Không phải
các mụ bình tĩnh trước cái ăn mà vì tấm thân nặng nề khó di chuyển như tàu dầu
của các mụ. Đến mé bờ, các mụ ì ạch leo lên bằng những cặp chân bè bè với bộ
móng sắc, quào đất cát đường trên bờ ao, làm cỏ mẹp xuống không ngóc lên được.
Các mụ đường bệ tiến đến vịm luá làm đàn gà phải vẹt ra hai bên nhường chỗ. Duy
có đám vịt ta ỷ họ hàng nên không chịu tránh ra. Đi ết-coọc các mụ là ông đại
tướng kỳ-lô xiêm cồ mặc giáp sắt, đầu đội “kim khôi” cẩn hạt cườm đỏ bầm như những
trái mồng tơi chín. Ông đại tướng oai vệ đi sau cùng dường như để bảo đảm an
ninh cho các bà.
Anh gà trống lông vàng như lửa cháy đứng trên đầu hàng rào, tự
cho mình là vua sân sau, nhìn địch thủ với cặp mắt gờm gờm, nhưng biết sức mình
không làm gì nổi nên chỉ cất tiếng gáy như để trấn an các mụ gà mái rằng “ta vẫn
còn đây để bảo vệ các mụ.” Anh chàng nghiêng mặt nhìn ông đại tướng xiêm cồ
khoác giáp sắt lừ lừ tiến vào vương quốc của mình như một cổ xe tăng đồ sộ
không gì ngăn lại được thì ái ngại. Mặc dù có đôi đoản kiêm thép và tiếng hét
làm mất vía nhân gian, nhưng gà ta cũng không háo chiến lúc này vì thừa hiểu rằng
khi lâm trận, ông đại tướng xiêm cồ không cần dụng miếng “đà đao” của Quan Công
hay miếng “hồi mã tam thương” của La Thành, ông ta chỉ nhử cho đối phương đến gần
mé mương rồi dìm xuống nước. Chính gà ta đã bị một lần nên tởn luôn.Trong lúc
ông đại tướng điềm nhiên mục hạ vô nhân thì ông nào có biết người ta đang bủa
vây chung quanh để sẵn sàng hạ ông. Ông vịt cồ đang lẹp kẹp lê chân thì bị giật
té ngang. Ông Cồ dùng hai cánh to lớn đập lia xuống đất để gượng đứng dậy nhưng
chân ông bị mắc vòng, lôi sềnh sệch trên sân rồi hai ba người nhào tới đè lên
lưng ông.
Trí buông gậy chạy tới nắm cổ ông. Nhưng ! chẳng may cái vòng
đứt tiện. Hai chân ông cồ quào trúng đối thủ làm họ hoảng kinh buông ra. Và ông
cồ quay đầu chạy vọt xuống ao là nơi ông sở trường các môn lặn hụp. Vài ba đứa
lao theo chụp bắt ông cồ, nhưng vô ích. Ông cồ coi như pha. Chi mất mấy cái
lông đuôi.
Đám mệnh phụ tình nhân mới cũ của ông đại tướng thấy vậy bèn
tỏ sự bất bình một cách đài các bàng những tiêng “kháp kháp” chỉ đủ làm vui tai
đám địch thủ của ông cồ. Các mụ xoay quanh ông cồ kề mỏ vào như bảo: “Anh đừng
sợ, có chúng em bao bọc làm hàng rào bảo vệ anh đây.” Chú Năm quan sát trận địa
thấy thế cờ quân bình thì vác cây sào lúc nãy chạy tới cáng cổ ông cồ. Cồ ta bị
tấn công bất ngờ bèn đập cánh văng toé nước như bão tố nhưng phải bơi theo hướng
điều động của ngọn sào, vô đến bờ. Một người lớn thọc tay xuống nắm cổ ông cồ
lôi tuột lên bờ. Một đứa đã hờm sẵn dây trói ngay. Thế là danh tướng, trong một
phút sa cơ trở thành bại tướng.
Chú Năm bảo:
- Cắt cổ ngay, kẻo nó chạy vuột lần nữa!
Chú vừa nói dưt tiếng thì thằng nhỏ bị ông cồ quào buông ra,
ông cồ vẫn bương chạy bằng hai chân bị trói với sự hỗ trợ của cập cánh đập mãnh
liệt làm cát bụi tung lên mịt trời như một cuộc phi sa tẩu thạch giữa các tiên
và đạo sĩ. Trong lúc các tiên đồng đứng dụi mắt thì đạo sĩ cồ thừa cơ đã lăn tuột
xuống ao. Nhưng lần này cồ không tin ở sự bảo vệ của các mệnh phụ nữa mà cồ ta
bơi dọc theo mương vườn leo bờ qua mương ranh và phóng luôn ra xẻo bần nơi chú
cắc kè bông vừa dứt tiếng kêu “rủi may” buổi trưa sau cuộc vượt thoát.
Chú Năm hò đám quân hiệu vác gậy đuổi theo. Sẵn chiếc xuồng
ai đậu dưới bến chú Năm nhảy xuống, kêu mấy đứa nhỏ thọc gậy vào đám ô rô tìm đạo
sĩ cồ. Có lẽ cồ ta thấy cái xẻo này quá nhỏ, nếu ở đây sẽ bị vây bắt dễ dàng
nên cồ ta phăng phăng rẽ nước bơi một mạch theo đường xẻo. Chẳng dè lại ra đến
sông . Trời ơi! vịt ra đến sông thì chẳng khác cọp về rừng! Không làm sao bắt
được nó nữa. Tuy vậy nhưng chú Năm vẫn phóng xuồng theo!
Đã từng bơi trong mương ao trong xẻo quen lặn hụp dưới nước,
nhưng ra đến sông, Trí vẫn sợ, vì sức lớn và vì dáng vẻ hung tợn của nó. Dòng
sông chảy mạnh, những giề rau mát (lục bình) trôi hàng đàn, cản mũi khiến xuồng
ghe thì không tài nào bương tới được. Chú xiêm cồ không biết đường đi nhưng
thoát đươc ra sông nó cứ bơi vượt tới trước dường như không cần biết sẽ đến
đâu.
Chú Năm quậy mái dầm vun vút bên này bên kia hông xuồng nhưng
không đuổi kịp. Trí ngồi trước mũi rạp người xuống hai tay quào nước và vén rau
mát cho trống mũi xuồng. Ban đầu, con cồ chỉ cách xa mũi xuồng có vài sải nước,
bây giờ đã xa vài tầm, và xuồng càng đuổi, nó càng xa.
Chú Nãm lắc đầu:
- Chắc phải về bắt vịt ta thế mạng nó quá Trí!
Trí làm thinh, hai tay quào nước cầm chừng. Bỗng ngang qua một
đám lá rậm, có tiếng kêu:
- Ê Trí!
Trí quay nhìn. Thì ra thằng Tư Cồ. Nó học xong lớp nhì
(Préparatoire) thì ớ nhà luôn. Trí hỏi:
- Mầy làm gì ở đây Cồ?
- Nhà tao ở đây chớ làm gì! À… mà tao đang câu cá chạch lấu.
Còn mầy đi đâu đây?
- Tao… ơ ơ đuổi bắt con vịt - Trí trỏ tới trước - Nó kia kìa.
Trí chưa kịp kêu thằng Tư giúp đỡ thì nó đã hỏi:
- Vịt ở đâu vậy?
- Có khách bắt về ăn thịt… Bắt hụt nó chạy ra xẻo bần.
Thằng Tư Cồ cười hắc hắc:
- Tại mầy không thử tiếng “rủi, may” của con cắc kè… Thôi được,
để đó tao bắt cho.
Nó ngó con vịt rồi nói:
- Tao có giàn rớ kia. Nhưnq chụp nó sẽ giãy, rách lưới hết. Để
tao chài nó cho! Mầy bơi xuồng ghé lại giàn rớ kia cà.
Nói xong thằng Tư Cồ chuyền bập lá lên bờ. Trí ghé xuồng lại
giàn rớ thì Tư Cồ ôm miệng chài bước xuống mũi xuồng, bảo:
- Mầy nói với ổng (chú Năm) bơi theo đi!
Chú Năm bơi rút theo con vịt, chỉ trong chớp mắt, Tư Cồ đã
vãi chài chụp được con vịt và lôi nó gọn lên xuồng.
Trí và chú Năm gỡ ra, bứt dây cóc kèn trói lại bơi về xẻo bần.
Ở đây lũ quân hiệu đang đứng chờ. Cả bọn áp lại đứa lôi cánh, đứa kéo cổ con vịt
đem về nhà. Chú Năm nói:
- Phen này đừng cho nó xẩy nữa! - Rồi chú lấy dao vừa liếc
vào đít vịm, vừa ra lệnh hẳn hoi: - Thằng Trí đạp hai cái cánh kia cà! Tao đạp
hai cái chân. Tuy bi trói nhưng nó vẫn còn khoẻ lắm!
Miệng nói tay chú nắm mỏ con vịt ngửa cổ nó ra nhổ lông dọn
chỗ lưỡi dao đưa cho ngót.
Lưỡi dao yếm đã cứa cổ không biết bao nhiêu gà vịt bây giờ lại
ban ân huệ cho con cồ. Chú Năm khứa nhát đầu mới đứt một làn cạn trên da. Máu
rươm rướm. Chú cứa nhát thứ hai, nhát thứ ba. Con vịt trân mình vặn vẹo định
thoát thân nên máu trào ra ướt cả vết cắt. Một tia vọt thẳng lên mặt chú Năm
làm chú nhắm mắt lại không còn thấy gì nữa. Chú liền bước qua một bên, bất đồ đạp
lên đầu củi dừa đang chụm trả nước. Khúc củi dừa bật lên làm thủng đít trả, nước
chảy tràn lan. Lửa tắt, tro bốc khói mịt mù. Trí nóng chân rút tránh chỗ khác.
Khi khói tan lửa tắt và chú Năm lau sạch máu thì con cồ đang
bơi dưới ao cá nuôi. Trên sân vạch một đường máu dài như chân rít. Con cồ bơi
thẳng qua bờ bên kia leo lên phóng thẳng vô bụi tre gai.
Chú Năm, Trí và bọn chạy hiệu đứng ngơ ngác nhìn theo, không
kịp ngăn bắt kẻ liều mình vượt chết.
Trí lấy chiếc muỗng dừa chạy vô xúc đầy gạo lức đem ra bụi
tre nhử:
- Ra ăn nè cồ. ra ăn đây con!
Trí thò tay qua chà gai cố nám lấy cái đuôi con cồ, nhưng vừa
đụng thì nó càng rướn vô sâu hơn, không tài nào lôi ra được.
Chú Năm đành ra lệnh:
- Bắt cặp vịt ta thế mạng.
- Chắc nó chưa tới số chú Năm à! - Trí ngao ngán nói.
Các mụ mệnh phụ vịt xiêm nãy giờ vẫn xoay tròn trên mặt ao
kêu cà kháp cà khớp, tỏ vẻ bất bình cực độ trước tai nạn của tình quân. Bây giờ
thấy tình quân thoát nạn thì dụm mỏ lại bàn tán hồi lâu. Rồi lần lượt từng mụ
leo lên bờ nằm rỉa lông dưới ánh nắng chiều, bình lặng như không có chuyện gì xảy
ra.
Chú Năm ngó mặt trời rồi bảo:
- Bắt cặp vịt để thế mạng! Nhưng vịt đẻ đâu có nhị long hoàn!
Chú nghĩ và đổi ý kiến ngay. - Bắt con gà trống Tàu kia cà tụi bây! Đừng bắt lộn
gà thiến nghe!
Bọn con nít không hiểu tại sao chú Năm cho mần con gà cồ…
Con heo quay cúng miễu
Từ ngày thằng Hẹ bị ong bần đánh rơi đài, Trí không gặp thằng
Tư Cồ nữa. Hai ba ngày liền không có ai kêu Trí đi học buổi sáng. Tiếng kêu của
nó trở thành thân mến “Trí ơi! đi học!” Tiếng kêu không có gì hoa mỹ hoặc thân
ái cho lắm. Đó chỉ là những tiếng bình thường, nhưng vắng nó Trí thấy buổi sáng
hơi lạnh lẽo. Đành rằng nếu nó không kêu thì Trí cũng đi học, nhung mấy bữa rày
không có những âm thanh quen thuộc đó thì Trí nghe thiếu thiếu một cái gì, như
chiếc nôm, dẫu mất một que nan, cá vẫn không chui ra được, nhưng có một lỗ hổng
bất thường.
Trước đây mỗi lần xếp hàng vào lớp, Trí đứng ở đầu hàng. Thằng
Tư Cồ đứng mãi ở cuối vì nó to xác hơn những đứa khác. Đáng lẽ nó phải lên lớp
nhứt mà nó còn ngồi lớp nhì. Do đó nó có tên là Cồ, Tư Cồ. Từ nay không còn ai
leo lên nóc trường, không còn ai bơi qua sông cho bọn Trí vỗ tay, cũng không
còn ai làm xe lửa nhủi đại vào đám con gái nữa. Thằng Tư Cồ đã nghỉ học. Thằng
Tư Cồ ở nhà thiệt rồi. Từ nay tập vở của nó không còn mở ra, bình mực của nó
không có cây viết nào chấm vô. Không đứa nào mượn gôm để bôi cạo… Và cuối cùng
không có đứa nào đi về cùng đường leo cây bắt ổ chim hoặc dắt nó đi ngang cái
miễu cây sộp nhát ma nữa.
Nó ở nhà để coi em cho ba má nó đi làm mướn. Má nó chuyên cấy
thuê gặt mướn. Còn ba nó thì làm công tháng công ngày cho người ta. Nếu không
có vụ con vịt xiêm thoát ra sông, thì chắc không đời nào Trí biết nhà nó ở đâu.
Và nó có cái rớ, cái chài để bắt cá bắt tép rất tiện.
Đối với Trí, việc Tư Cồ nghỉ học thật đáng buồn, nhưng cả lớp
không nao một chút. Dường như không đứa nào cần biết đến. Mỗi sáng thầy kêu sổ,
đứa nào cũng hãnh diện đáp: “Présent!” (có mặt). Đến tên thằng Tư Cồ, thì hai
ba đứa đáp “absent!” (vắng mặt) cả tuần như vậy, thầy không kêu tên nó nữa. Coi
như gạch tên. Có lẽ thằng Tư Cồ cũng không cần gì nữa. Absent hay présent thì
cũng thế thôi. Nó ở nhà rớ cá và coi em.
Một hôm ông Cụ hỏi:
- Con biết Phật Bà Quan Âm là ai không?
Trí ngẫm nghĩ một chốc rồi nói.
- Dạ, Phật Bà là người cho Hành Giả cái Kim Cô để Tam Tạng dễ
bề sai khiến.
- Phải rồi. Nhưng con biết gốc gác của Phật bà không?
- Dạ không. Trong truyện không có nói.
- Vậy để ông kể theo kinh Phật cho con nghe.
Rồi ông vừa ngoáy trầu vừa kể:
- Phật Bà tên là Thị Kính. Có chồng là nhà nho hiền đức.
Nhưng lại rủi gặp mẹ chồng và em chồng rất bạc ác. Thị Kính thờ chồng rất chu
đáo. Một hôm Thị Kính ngồi may vá bên chồng, vừa cầm quạt phe phẩy cho chồng
ngon giấc, bỗng thấy một sợi râu mọc ngược trên cằm chồng, bèn cầm cái kéo định
xắp bỏ đi. Rủi thay vừa lúc đó bà mẹ chồng lại. bước vào, trông thấy bèn tri hô
lên rằng “Con dâu định giết con trai bà”. Mấy đứa em chồng vốn qhét sẵn chị
dâu, nên cũng hùa theo đổ tội cho Thị Kính. Quan làng tới nơi nghe theo nhà chồng
và phạt vạ Thị Kính. Người chồng thương vợ ra sức bênh vực nhưng không kết quả.
Thị Kính bị oan ức bèn bỏ nhà lên chùa tu. Chùa là nơi cao cả cho mọi người tu
niệm và là nơi an ủi những người đau đớn mà không ai chia xẻ cho. Thị Kính lên
đây lánh tục, nhưng rồi lại bị tai nạn.
Trí kêu lên:
- Ủa ở chùa mà tai nạn gì Cụ?
- Ây vậy mà có. Để rồi ông kể cho nghe tiếp. Số là trongđám
khách thập phương có một người con gái trắc nết tên là Thị Mầu, lên chùa lễ Phật
rồi đem lòng say đắm chú tiểu Kỉnh Tàm.
Trí lại kêu lên:
- Chú tiểu Kỉnh Tâm nào hả Cụ?
- À, ông quên. Thị Kính lên chùa tu nhưng để tránh mọi việc
phiền phức bèn giả trai và lấy tên là Kỉnh Tâm, tức là Thị Kính đấy. Con gái mà
giả trai nên trông ngộ nghĩnh lắm, thành ra Thị Mầu mới say mê vì tưởng là con
trai thật. Ông có đĩa hát kia để bữa nào ông hát cho nghe (dĩa nhựa Quan Ẩm Thị
Kính) nhưng Thị Kính không đáp lại tình cảm của Thị Mầu… Sau đó Thị Mầu đi lang
nên có bầu và khai cho “Chú tiểu Kỉnh Tâm”. Chú tiểu có bụng nhơn từ nên nhận tội
để đứa con trong bụng Thị Mầu có cha. Đọ, đời có những sự éo le vậy nên mới có
tuồng hát. Cũng như con thấy trong truyện Tây Du đó, cha ruột của Trần Huyền
Trang bị tên cướp đánh chết và bắt ép bà mẹ phải ở với hắn. Cho đến sinh nở, đứa
bé là Tam Tạng sau này bị thả trôi sông và được sư cụ vớt đem về nuôi. Nếu
không vậy thì đã không có ai đi thỉnh kinh rồi. Ở đây, trường hợp của Thị Kính,
đứa bé cũng nhờ sư cụ trong chùa nuôi nấng.
Còn Thị Kính thì đau đớn vì bị oan ức mà không hé miệng được
với ai, nên ngã bệnh mà chết. Trước khi chết nàng cố sức viết cho cha mẹ một bức
thư nói rõ nguồn cơn. Cha mẹ nào không biết con mình là gái hay trai? Nhưng khi
nỗi oan ức được giải toả thì Thị Kính đã lìa đời.
Cái chết của Thị Kính làm thánh thần trời đất đều cảm động và
Phật Tổ Như Lai cũng lấy làm xót thương người con gái can đảm chịu hàm oan cả đời
mà không hề thán oán. Do đó Phật Tổ mới sắc phong cho là “Quan Âm Phật Bà”.
Trí hỏi:
- Quan Âm là gì hả Cụ?
- Đúng ra là “Quán Âm” - nghĩa là người biết lắng nghe tiếng
đau khổ của người đời để cứu độ - nhưng người mình nói ra thành là “Quan Âm”.
Chữ nho viết vầy nè con!
Ông Cụ chấm ngón tay trong đáy tách trà và viết trên mặt ghế
ăn trầu.
Nghe xong câu chuyện, Trí ngồi ngẩn ngơ. Ông Cụ tiếp:
- Trong suốt đường dài sang Tây Phương, thầy trò Tam Tạng bị
cả thảy là 81 tai nạn, nếu không có Quan Thế Âm Bồ Tát cứu độ thì làm sao thoát
nổi? Ngay như đối với Hành Giả, nếu Ngài không ban cái Kim Cô niềng đầu hán lại,
thì Tam Tạng cũng không điều khiển nổi!
Trí lại hỏi:
- Sao Phật Bà không cho Bát Giái một cái Kim Cô, Cụ?
- Bát Giái chỉ có một tật là ham ăn thôi chớ không có tánh
hung hăng bất trị như Hành Giả.
Ông Cụ lại hạch miệng thằng cháu:
- Bây giờ cháu hãy nói cho ông nghe những lần Bát Giái muốn bỏ
Tam Tạng trở về trần tục xem nào! Nếu cháu nói được, bữa nay ông miễn cho cháu
khỏi đọc truyện mà vẫn được lãnh xu. Nhưng không được ra xẻo đập tầm vũng nữa.
- Sao vậy Cụ.
- Vì ở gốc cây bần có ong.
- Sao Cụ biết?
- Mỗi lần ông đi ngang cây bần, ông đều nghe chim dòng dọc ré
um trên ngọn cây. Cây nào có chim dòng dọc đóng trên ngọn thì có ong bầu đóng kế
đó. Hễ ai bắt chim thì phải bị vài vít. Tía thằng Hẹ đến đây xin nghệ thoa gà
(nòi) của ông Mười con về xức cái mặt nó kia cà.
Trí lại hỏi:
- Tại sao lại ong bầu mà không ong khác hả Cụ?
- Đó là lệ thường cũng như con thấy hễ chỗ nào ruộng sâu thì
có bông súng mọc vậy chớ loại đó đâu có ai trồng!
Trí ngẫm nghĩ một hồi rồi nói về Bát Giái:
- Con nhớ lần nọ thầy trò Đường Tăng đến nghỉ chân ở nhà một
người đàn bà goá rất giàu và có bốn người con gái.
- Rồi sao nữa?
- Bà chủ nhà dọn cơm thết đãi tử tế, rồi ngỏ ý mời các thầy
trò ở lại làm rể cho nhà bà luôn. Mọi người đều từ chối, Bát Giái cũng từ chối,
nhưng thừa lúc canh khuya ai nấy ngủ hết thì Bát Giái giả bộ dắt ngựa cho ăn cỏ
rồi lẻn ra ngõ sau xin ở rể. Bà chủ nhà bảo: “Ta có ba đứa con gái”.
- Tên gì? - Ông Cụ hỏi bất ngờ.
- Dạ con không nhớ.
- Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên! … Tiếp đi con.
Trí tiếp:
- Bà chủ nhà nói, “Như vậy khó quá. Ta biết gả đứa nào cho
ngươi. Nếu gả đứa lớn thì đứa giữa buồn, nếu gả đứa giữa thì sợ con chị và con
út giận. Vậy ta có cách này. Ba chị em nó đều thêu thùa khéo cả. Mỗi đứa có
thêu một cái áo và có kết trân châu. Nếu người mặc vừa cái của đứa nào thì ta gả
đứa ấy cho người”. Bát Giái ung chịu. Bà mẹ vào trong đưa ra ba mối tơ bảo Bát
Giái rút xem được cái áo của ai. Bát Giái nắm gộp cả ba mối mà rút và đòi mặc cả
ba cái.
- Hễ mặc vừa cả ba thì lấy cả ba chị em! - Ông Cụ tiếp - Bà mẹ
không phản đối - Bát Giái mặc cái thứ nhất. Vừa mặc xong thì chiếc áo dần dần
siết lại, làm Bát Giái đau đớn la eng éc và té lăn cù.
Ông Cụ cười ngất. Trí kể tiếp:
- Còn nhà cửa thì biến đi đâu mất. Và Bát Giái thì bị treo
trên cành cây.
- Con biết đó là phép của ai không?
- Dạ của Phật Bà!
- Phải! Phật Bà hoá ra cảnh đó đế thử lòng chơn tu của bốn thầy
trò. Nhưng chỉ có Bát Giái là ló mòi… heo thôi. Trong lúc Tam Tạng, Sa Tăng và
Hành Giả ung dung lên đường thì Bát Giái kêu eng éc cầu cứu. Thiệt đáng cái đời
tu dối của hắn! Tuy vậy vẫn không bỏ tật đó. Con nói tiếp đi.
Trí kể:
- Khi đi qua Tây Lương Nữ Quốc cũng thế.
- Chứng nào tật nấy còn nguyên! Con có nhớ lúc lên yết kiến
Phật Tổ không?
- Dạ nhớ! Phật Tổ phong cho Tam Tạng chức Phật. Tôn Hành Giả
cũng được chức Phật.
Ông nói:
- Tam Tạng thì Chiên đàng Công Đức Phật còn Tôn Hành Giả thì
Đấu chiến thắng Phật.
Trí tiếp:
- Nhưng Bát Giái và Sa Tăng chỉ được chức La Hán. Sa Tăng thì
vui vẻ nhận, còn Bát Giái thì kèn cựa tại sao tôi cũng có công to như con khỉ ốm
mà Phật Tổ lại cho tôi chức nhỏ.
Ông Cụ hỏi Trí:
- Rồi Phật Tổ trả lời thế nào con nhớ không?
- Dạ con quên rồi.
- Phật Tổ bảo là chức đó được hưởng đồ cúng của bá tánh thập
phương. Nghe nói đến hưởng đồ cúng, Bát Giái không kèn cựa nữa mà nhận ngay.
Con heo không biết lề nghĩa, đạo đức gì cả, chỉ ham ăn.
Ông Cụ “hạch miệng” cậu học trò về bài học Tây Du xong thì bảo:
- Bữa nay ông muốn nghe máy hát, vậy con nghỉ đọc truyện một
kỳ.
Lâu nay Trí thấy cái máy hát để trong buồng, nhung không dám
động tới, nay nghe Cụ bảo thì mừng lắm, nhung liệu sức mình không rinh nó ra
ngoài nổi. Muốn dời nó đi phải có hai người khiêng.
Ông đến tháo cái ống tà-la (loa) ra để riêng rồi hai ông cháu
khiêng cái thùng máy ra ghế ăn trầu. Xong gắn cái ống tà-la vào. Nó không có nắp
đậy. Đó chỉ là một cái hộp vuông không biết bên trong máy móc ra sao, chỉ thấy
trên mặt có một cái vòng tròn to bằng chiếc dĩa bàn bọc nỉ xanh và ở góc hộp có
chỗ để tra tay quay. Ông Cụ vừa làm cho Trí coi vừa giải thích:
- Trước nhất con dùng cái tay quay lên giây thiều, xong rồi
con đặt cái đĩa nhựa lên đây. Kế đó là bê cái đầu máy có gắn sẵn kim lên dĩa rồi
kéo cái gạt bên góc. Thế là cái dĩa quay vòng tròn và phát ra tiếng. Khi cây
kim chạy vô tới tròng dĩa thì con kéo cái gạt ngược lại. Thế là cái dĩa ngưng.
Con lấy ra lật bề kia lên, đặt đầu máy vào hát tiếp.
Đĩa quay chầm chậm. Tiếng ca phát ra
"Vậy thì ngoài Tam Quan con ra ở tạm
Để cho thầy khỏi tiếng thị phi …
Ông Cụ giải thích:
- Đó là lúc chú Tiểu Kỉnh Tâm bị Thị Mầu khai tư tình với chú
tiểu sanh ra đứa bé và sư cụ bảo Kinh Tâm ra cửa chùa ở tạm…
Mặc dù ông Cụ giải thích tỉ mỉ, nhung Trí đâu có nghe. Ngoài
sân thấp thoáng mấy con quỉ xóm. Chúng nó đến không phải để nghe tuồng Tiểu Kỉnh
Tâm mà để rủ rê chú “Tiểu Trí” đi phá nhà chay. Trí nom thấy rõ cái đầu trọc của
thằng Hành.
Bỗng nhiên nó đi vô đại trong nhà, một việc Trí chưa bao giờ
dự đoán. Nó đã từng tới đây mài nghệ cho ông Mười thoa gà nòi, nên nó mới biết
có củ nghệ mà sang mượn về mài thoa cho thằng Hẹ.
Bữa nay nó đem củ nghệ sang trả. Nó cúi đầu cám ơn ông Mười.
- Thưa Cụ, ba cháu bảo cháu đem củ nghệ qua và cám ơn ông Mười.
- Sao không cất lấy mà xài, có củ nghệ mà đem qua chi cho mất
công.
Cái công của nó qua đây còn cao hơn củ nghệ, nhưng nó qua đây
không phải chỉ để trả củ nghệ. Trí hiểu như thế nên trong bụng cứ nôn nao. Mắt
cứ ngó chừng thằng Hành coi nó có ra mật hiệu gì không. Cho nên cây kim chạy vô
tròng đĩa, hết phát ra tiếng mà nó không hay. Đến chừng ông Cụ nhắc thì Trí mới
giật mình, đưa tay run run nhấc cái đầu cần máy hát lên. Ông Cụ rút cây kim ra
và bảo Trí đi lấy cái đĩa đá mài cây kim cũ cho bén để hát mặt sau. Trí bèn chạy
đi và thằng Hành chạy theo rỉ tai Trí rồi biến luôn ỏ ngõ sau.
Cái thằng khôn thiệt. Ông Cụ không nghi ngờ gì về việc đem trả
củ nghệ của nó. Trí trở lên, cầm cây kim và lật đít đĩa lên mài trên khu nghe sột
soạt, nhưng bụng thì bay theo chân thằng Hành. Ở đâu mà nó biết những chuyện ly
kỳ như vậy? Chắc thằng Tư Cồ mách nước cho nó?
Ông Cụ xem chừng cây kim đã bén thì tra vô đầu máy hát, rồi
cho hát tiếp dĩa Quan Âm Thị Kính - đến chỗ con rơi của Thị Mầu gán cho Tiểu Kỉnh
Tám thì trẻ con đằng xóm cũng bu lại coi, đứng đặc nghẹt cửa chớ không dám bước
vô phòng. Cái máy hát này không ai có, trừ ông Hội Đồng Nhơn (sau này Trí mới
biết cái máy hát hiệu là La voix du maître.) Nhà có đám giỗ mới đem ra
hát. Bữa nay ông Cụ đem ra hát thử coi dây thiều còn mạnh không để ngày mốt có
đám giỗ, khách tới đông lắm, thì hát cho họ nghe. Già trẻ sang hèn đều thích
nghe máy hát.
Khi nghe tiếng oe oe bật lên thì đám con nít niễn đầu xuống
xem dưới sàn ghế. Rồi kháo nhau:
- Con nít ở trong buồng.
- Ai ẵm nó té, nên nó khóc đó chớ!
Nghe đám con nít cãi nhau chí chóe, Trí kiêu hãnh trỏ cái máy
hát bảo:
- Nó đang ở trong cái hộp đó đó!
Đám con nít nghển cổ xem và nói:
- Con nít gì nằm trong cái hộp đó được?
Trí bảo:
- Không tin, tao biểu nó nín khóc cho coi! - Nói xong Trí cầm
cái cần máy hát nhấc nhẹ lên. Tự nhiên tiếng khóc im bặt - Đó thấy chưa? - rồi
lại đặt trở lại - Nó khóc nữa! Má nó dỗ đó.
Đám con nít thích chí vỗ tay cười vang rân. Bây giờ chúng mới
chịu tin rằng có đứa con nít nằm trong cái hộp kia. Trí lại tỏ ra rành mọi chuyện,
bảo:
- Bây giờ tao cho người lớn nằm trong hộp hát cho tụi bây
nghe! - Rồi Trí ngưng máy, lấy dĩa mới thay vào, mài kim rồi hát.
-"Thức trót canh gà, ngồi nhìn bónq trăng non, thương
con nhớ chồng gan xào ruột héo… hơ ơ ơ… tửng tưng tưnq ò e ò e…
… Hay là chànẹ đặng chữ sang giàu rồi quên tình cùng nhau dưa muối cùng là lều
tranh dột nát…
… Đau đớn lắm hỡi chàng ôi!…
Đám trẻ lắng tai nghe, vỗ tay vang rân. Bỗng có đứa hỏi:
- Còn mấy ông thầy đờn kia ngồi ở đâu?
- Cũng ở trong cái hộp đó chớ đâu!
- Cái hộp nhỏ tí làm sao ngồi được tới mấy người?
Trí không biết trả lời cách nào, bực tức nhìn thằng bé vừa hỏi.
Thì ra thằng Hành. Nó đã chạy đi nhưng nghe máy hát thì quành trở lại, coi.
Nghe nó hỏi, Trí không biết phải giải thích cách nào. Ông Cụ
thấy vậy bèn bảo:
- Mấy ông thầy đờn “núp” ở trong buồng kia cà Chỉ có người ca
thì nằm khoanh trong thùng thôi! Để chốc nữa ông “bắt” ra cho tụi cháu coi.
Thế là tụi con nít im hết.
Thằng Hành bèn nhơn lúc lộn xộn thì nháy Trí mấy cái. Trí rán
hát hết mặt dĩa, trở sang mặt bên kia:
Đêm khuya mờ mịt bóng vạc về
mà người thiếu phụ còn ngồi bên nhịp cầu ao.
mắt nhìn nơi xa thẳm…
Ông Cụ nói:
- Đây là cô Ba Bến Tre ca. Còn hồi nãy là cô Tư Sạng.
Trí ngứa ngáy tay chân ngồi không yên mà cái dĩa cứ quay chậm
rì nhưng không có cách nào bắt nó quay nhanh hơn. Chờ cho dứt tiếng ca, Trí bảo
tụi con nít:
- Thôi, về đi, ông tao mệt rồi, tao phải nghỉ, mai mốt hát tiếp.
Lại đây tao cho coi người hát nằm trong hộp.
Con nít nghe vậy tản ra. Trí cũng lẩn trong đám đông và đi
theo thằng Hành.
Bọn thằng Tư Cồ và thằng Hẹ đã chờ Trí ở ngoài sân đạp lúa.
Đó là một khoảng đất trống rộng chừng hai công đất. Mùa mưa
thì cuốc vồng trồng khoai lấy củ còn mùa khô thì dùng đạp lúa. Bên cạnh sân có
một cái xẻo lớn gấp đôi xéo Bần. Bên kia xẻo là làng Minh £)ức bên này là làng
Hương Mỹ, một đầu xẻo ăn thông ra sông (tức rạch Tân Hương) một đầu ăn ra cống
chảy xuống ruộng. Nó cũng như một cái hồ chứa nước của một hệ thống dẫn thuỷ nhập
điền thiên nhiên, là bãi “chiến trường” thường xuyên của đám con nít, cũng là
nơi mò tôm bắt cá của lũ tiểu yêu trong xóm.
Ra đến sân đạp lúa, Trí thấy như chim sổ lồng. Ở mé xẻo không
có cây bần rỗng ruột nhưng có cây gáo già cao lêu nghêu khỏi ngọn dừa. Thân cây
gáo treo một cây cần giọt thật dài vắt ngang một đầu có một cái móc để móc những
bó rơm đưa lên chất trên ngọn rơm! Còn một đầu thì buộc thòng thẻo một sợi niệc
trâu. Khi muốn đưa rơm lên ngọn cây rơm thì hai ba người đeo trên sợi niệc, đầu
cần giọt sẽ bật lên và người nắm sợi niệc điều khiển cho bó rơm hạ xuống đúng
chỗ. Ở trên ngọn rơm một người tháo bó rơm ra và trang trải rơm cho đều trên ngọn.
Bằng cách đó, nông phu chất rơm lên thành cây rất cao, gọi là Cây Rơm. Nhà nào
làm ruộng nhiều thì giắt được 2, 3 cây rơm dùng cho trâu ăn mãn mùa nước, ngoài
ra rơm còn dùng bện con cúi để cầm lửa, vì nông thôn không phải ai cũng có thể
mua diêm quẹt hoặc hộp quẹt máy (bật lửa) để dùng thường xuyên. Đây là lối xài
sang của nhà giàu. Bạn độc giả, quê ở Tiền Giang Hậu Giang vào lứa tuổi thất thập,
còn lạ gì khung cảnh nông thôn ta với gốc cây rơm, nơi chơi trò cút bắt những
đêm trăng. Gốc rơm là nơi hội họp của gà vịt quanh bữa tiệc ngon lúa đổ, gốc
rơm mọc những nấm rơm v.v
Ra đến gốc rơm là vào đề ngay với cây cần giọt. Thằng Tư Cồ,
thằng Hành, thằng Hẹ bảo Trí đeo cái móc. Còn ba đứa thì đeo sợi niệc. Ba đứa
quá nặng nên Trí bị bật lên không, hai giò chòi lia, miệng la oai oái: “Thả tao
xuống! Thả tao xuống!” Nhưng ba đứa kia đã bật Trí lên đến ngọn rơm.
Trí nhìn xuống thấy ngộp quá. Chưa bao giờ Trí đứng ở trên
cao phát chóng mặt như thế. Trí hét: “Đưa tao xuống!” rồi đeo vào cái móc. Chiếc
cần giọt quơ qua quơ lại đưa Trí lắc lư như cái trứng dái đồng hồ tạt ra mé xẻo.
Trí nhìn thấy dưới chân mình là nước. Trí la oé lên và nhắm mắt buông tay. (Bạn
nào có đi lính thì từng nếm mùi đi dây tử thân với cái ròng rọc quái ác. Ở đây
cậu bé Trí cũng gần như đi dây tử thần vậy).
Ùm! Trí thấy một vầng hào quang toé lên rồi toàn thân chìm lỉm.
Hai lỗ tai nghe e e rồi nổ lụp bụp như pháo chuột. Trí càng quơ càng bơi nhưng
thân thể phàm nặng như chì. Hai chân Trí đụng bùn. Trí cố chòi một phát, đầu
nhô lên khỏi mặt nước, rồi lại chìm xuống. Tai văng vẳng nghe tụi thằng Tư Cồ
cười vang. Thằng Hành hốt hoảng nhảy ùm xuống cứu bạn.
Nhưng thằng Tư Cồ kinh nghiệm đầy mình, nó lượm một cái tàu dừa
khô chìa ra. Trí níu lấy và nó lôi lên bờ khoẻ re. Tư Cồ cười khì khì:
- Uống nước chưa?
Trí cứ ngồi vuốt mặt, và cố nín khóc, sợ chúng bạn cười. Tư Cồ
bảo:
- Hôm trước tao bảo mày để cho chuồn chuồn cắn rún mày khóc
la, không chịu, nên nay mới chìm tuốt. Bữa nay cho “cắn” lại nghe!… Mày coi tụi
tao nè!
Nói rồi Tư Cồ đeo cần giọt cho thằng Hành thằng Hẹ bật lên
đưa ra xẻo. Nó vừa buông tay vừa cười hô hố và giăng chân giăng tay ra không sợ
sệt chút nào. Rồi nó leo lên bờ. Tới phiên thằng Hành đeo móc. Cứ thế… ùm, ùm,
ùm, liên tiếp. Ba con quỉ nhào lộn vui vẻ. Xuống nước xong lại bò lên đeo móc để
được cần bật đưa ra xẻo và… buông tay.
Trí xem vài lượt thì hết sợ. Tụi nó dám làm, mình dám làm. Thế
là Trí lại đeo móc và lại buông tay. Lần này đã chuẩn bị tinh thần, nên Trí
không sợ. Trí bình tĩnh bơi chó. Vô tới bờ, Trí hăm hở tuyên bố:
- Chuồn chuồn cắn rốn linh thiệt. Cho tao đeo phát nữa coi!
- Ừ, mày “cân đấu vân” gần bằngTôn Hành Giả nhưng không phải
uống ống nhổ, chỉ ực vài ngụm nước bùn thôi..
Trí cảm thấy mình trở thành hiệp sĩ giang hồ sau hai ngày được
chuồn chuồn cắn rốn.
Trong xẻo có mấy chiếc xuồng chở lúa của ai neo lại đó. Bên cạnh
có chiếc xuồng bể. Tư Cồ lặn hồi lâu móc đất sét lên trét mấy chỗ cháy rồi bảo:
- Tụi bây ra sông với tao. Mau lên! Có chuyện ngộ lắm. Nếu trễ,
nước ròng là mất ăn!
- Ăn cù thoi hả?
- Đi theo tao rồi biết!
Cả bọn chặt bập lá làm dầm và bơi ra sông. Từ đây tới chòi rớ
của Tư Cồ không xa. Chúng bơi xuồng lại đó lấy cái chét lá vừa đi vừa đốn dừa
nước ăn. Dừa nước mọc theo sông không có chủ. Mạnh ai nấy đốn. Trái dừa nước to
một ôm. Đập vỡ ra có đến cả chục trái con. Chẻ ra từng trái, ruột ngon như cơm
dừa nạo, ăn tại trận cũng ngon mà đem về nhà nấu chè với nếp và vắt nước cốt dừa
húp thì bổ vô song.
Lá dừa nước mọc theo hai ven rạch um tùm rậm ri. Ở nhiều nơi
thành rừng. Như ở Gò Công có đám lá tối trời lịch sử của nghĩa quân chống Pháp.
Vào đó không biết đường ra. Hàng trăm lính Pháp bỏ mạng vì đột nhập căn cứ này.
Những đám lá nhỏ hơn thì cho ta lá lợp nhà dừng vách, và rất hữu dụng trong
nhũng việc đồng áng như làm bồ ví lúa. Lạt cà bắp dùng lợp nhà, dây dừa nước
dùng làm niệc trâu rất bền…
Tư Cồ đốn luôn mấy buồng bỏ lên xuồng rồi bơi thẳng vào Giáp
Nước. Đây là nơi gặp nhau giữa hai luồng nước chảy ngược chiều trên một dòng
sông. Khi nước lớn, từ Hàm Luông nước đổ vào, từ Cổ Chiên nước cũng đổ vào con
rạch Tân Hương. Hai dòng nước gặp nhau ở quá ranh Minh Đức một quãng ngắn. Nơi
đây gọi là Giáp Nước. Ở đây nước ngừng chảy, không xoáy mạnh, nhung rác rến
xoay vần không trôi ra Minh Đức mà cũng không trôi vào Hương Mỹ được. Đợi nước
ròng thì mới theo dòng nước “định mệnh” bên nào mạnh thì trôi theo.
Thằng Tư Cồ bơi lái còn ba đứa kia thì bơi mũi hoặc vén rác,
lục bình cho xuồng lướt tới. Thàng Tư Cồ hỏi Trí:
- Bữa đó mày có đem được con vịt về nhà không?
- Được, nhưng nó chui tuốt vô bụi tre gai.
- Sao vậy?
- Nó dãy làm bể trả nước sôi, ai nấy hoảng hồn bỏ chạy.
Bỗng thàng Hành kêu:
- Cái gì trước mặt lạ lạ kia kìa Tư.
Tư Cồ nghiêng đầu qua nhìn, thấy một cái bè chuối cắm đầy cờ
đỏ cờ xanh đang xoay tròn theo nước xoáy thì la lên:
- Đúng rồi! Đúng rồi! Mau lên!
Rồi Tư Cồ bơi lia lịa. Khi chiếc xuồng tới nơi thì thấy con
heo quay “nằm ngủ” trên bè bất chấp thế gian. Thằng Tư Cồ bảo thằng Hành:
- Mày rê con heo qua xuồng mình đi! Mau lên!
Thằng Hành bảo:
- Một mình tao rinh không nổi.
- Chút nữa, ăn nổi không? - Thằng Tư Cồ dọa - Làm biếng tao
không cho mày chơi! Mau lên!
Thằng Hành vừa khoái con heo vừa bị thằng Tư Cồ thúc giục nên
vói tay lôi chiếc bè sát lại be xuồng và quát thằng Hẹ và Trí. Mỗi đứa giúp một
tay đem con heo qua xuồng. Mấy chiếc ghe đi qua thấy thế chỉ lấy mắt ngó chớ
không nói gì hết!
Cuỗm xong con heo quay, thằng Tư Cồ quát đám lâu la bơi riết
về giàn rớ của nó, rồi hè hụi khiêng lên để trong chòi chớ không dám đem vô
nhà. Xong nó kiêu hãnh nói với bạn:
- Tao biết thầy Tư cúng miễu tối hôm qua. Lúc đó nước lớn.
Cúng xong thế nào thầy cũng để nó lên cái bè tống quái mà đưa đi. Tao đoán chừng
nó trôi vô tới Giáp Nước thì ngừng lại. Nước ròng nó lại trôi ra. Sáng sớm nước
lớn nó lại trôi vô tới đây lại ngừng, rồi vướng lục bình không trôi đi đâu nữa
hoặc tấp vô mé lá. Cho nên tao hối tụi mày bơi mau mau kẻo xuồng ghe vớt mất,
là vì vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét