Cảm thức lưu vong trong
tiểu thuyết của Milan Kundera
Có lẽ từ xưa đến nay các đại thi hào luôn phải đối mặt với
hoàn cảnh nghiệt ngã, cuộc sống trôi nổi, phận số đau thương. Hay chính những
hoàn cảnh bi đát đó đã làm nên thiên tài?
Nếu không mồ côi cha từ
năm 10 tuổi, mồ côi mẹ từ năm 13 tuổi và khi trưởng thành phải lăn lộn chật vật
hơn 10 năm… thì làm sao có được một Nguyễn Du với Truyện Kiều bất hủ
và những áng thơ thấm đẫm tính nhân đạo chắt lọc từ “con mắt nhìn xuyên
sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”; Nếu thời thơ ấu không phải
trải qua những giằng xé trong tình cảm gia đình, lớn lên phải chịu cảnh lưu đày
trong 15 năm thì làm sao có được một Huy- Gô với kiệt tác Những người khốn
khổ mang “tiếng vọng âm vang của thời đại”; Nếu không phải là người
Do Thái, sống trong cảnh bạo chúa của cha mình, ba người chị bị chết trong trại
tập trung thì làm sao có được một Kafka nhìn con người giãy giụa trong mê
cung cuộc đời sâu sắc và thê thảm đến thế; Nếu không tham gia vào Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, không lưu lạc từ Pháp đến Tây Ban Nha sang Cu Ba
và mang trên thân thể hàng trăm vết thương thì làm sao Hemingway gióng được tiếng chuông
nguyện hồn bi thiết cho nhân loại; Nếu không bị đưa vào trại học tập cải tạo
10 năm, cải tạo giáo dục 7 năm, phải bỏ quê hương sang Pháp thì làm sao có một
Cao Hành Kiện lang thang đi tìm ý nghĩa cuộc đời, đi tìm sự an bình với Linh
Sơn…
Có thể cuộc sống nổi trôi đã mang đến cho
các nhà văn nhiều trải nghiệm quý giá, vốn sống phong phú. Nhưng có lẽ sức nặng
bên trong mới là căn nguyên tạo nên những kiệt phẩm. Và, Kundera, một hiện tượng
trên văn đàn nhân loại cũng không nằm ngoài quy luật trên. Là một người Tiệp di
cư sang Pháp, Kundera trải qua kiếp sống lưu vong và điều này soi bóng trong
nhiều sáng tác của ông.
Theo các nhà Phân tân học thì bao giờ những
ẩn ức bị dồn nén cũng tìm cách để bộc lộ ra ngoài, nhiều khi sự bộc phát nằm
ngoài tầm kiểm soát của chủ thể. Vậy nên, trong tác phẩm văn chương ta vẫn nhận
ra thấp thoáng cuộc đời, thân phận, tâm trạng của nhà văn. Trong tiểu thuyết của
Kundera, cảm thức lưu vong có một ý nghĩa đặc biệt.
Trước hết, cảm thức lưu vong chi phối đề
tài, cách tạo dựng tình huống, xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Kundera.
Thường, mỗi nhà văn hào hứng với một số đề tài nào đó. Đề tài là sở trường,
là sở thích và hơn thế, là nỗi ám ảnh khiến nhà văn phải trở đi trở lại với
nó dưới nhiều dạng thức khác nhau. Vì lý do đó, tiểu thuyết của Kundera đều là
những cuộc hành trình. Với Đời nhẹ khôn kham là cuộc hành trình của
Tomas, Tezera; với Sự bất tử là hành trình của Agnés, Rubens;
Trong Bản nguyên là hành trình của Santal và Jan – Mark;
Trong Điệu Valse giã từ bắt đầu hành trình của Jakub; Và Vô
tri là cuộc hành hương vĩ đại của Irena và Josef… Mỗi cuộc đời của các nhân
vật in dấu ấn một đoạn đời mà nhà văn trải qua. Nếu xâu chuỗi những tác phẩm của
Kundera ta sẽ nhận ra sự trở lại của các nhân vật với những con người được hóa
kiếp không ngừng để làm nên lịch sử đời mình và lịch sử nhân loại: Mở đầu
là cuộc ra đi về một nơi xa xôi bất định, với quá khứ đóng lại sau lưng của
Jakub (Điệu Valse giã từ) nối tiếp là cuộc sống trôi nổi của Tomas (Đời
nhẹ khôn kham) và kết thúc là sự trở về của Josef (Vô tri). Đó cũng là từ
lúc Agnés (Sự bất tử) rời khỏi nhà đến cuộc sống tha hương của Tezera
(Đời nhẹ khôn kham) và cuối cùng là sự hồi hương của Irena (Vô tri).
Viết về những cuộc đời lưu vong không phải Kundera đang thuật lại thân phận của
mình; mà với ông, kiếp đời lưu vong tiêu biểu nhất cho thân phận con người hiện
đại. Bởi những người lưu vong là kết quả của cuộc biến động lịch sử, xã hội; những
người lưu vong luôn phải gặp nhiều hoàn cảnh nghiệt ngã; và, những người lưu
vong là hiện thân của thời đại bất ổn.
Các nhân vật trong tiểu thuyết của
Kundera dù thuộc nhiều lứa tuổi, tầng lớp khác nhau đều rơi vào một tình huống
là bị đánh bật ra khỏi cuộc sống bình an. Có khi là do những biến động của lịch
sử, có lúc là do sự đổ vỡ về tình cảm, và cũng có khi chẳng vì một lý do rõ
ràng nào … Tình huống bị đánh bật ra khỏi mái ấm êm đềm vừa chứa đựng một chiều
sâu tư tưởng vừa là một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc của Kundera. Bởi, khi bước
chân ra khỏi nhà, các nhân vật trong tiểu thuyết của ông sẽ nhận thức về thế giới,
về con người và về chính bản thân, để rồi cũng như chàng Don Kihote trong
tiểu thuyết của Cervantes nhận ra: sự việc ở đời phức tạp hơn anh tưởng.
Hoàn cảnh lưu vong buộc con người phải đối
diện với nhiều tình thế bất ngờ, những hoàn cảnh đặc biệt không thể lường trước
được. Chính điều này làm nên một đặc điểm nổi bật trong tiểu thuyết của Kundera
đó là tính ngẫu nhiên. Rym Kheriji qua chuyên luận Boudjedra và
Kundera, đọc cơ thể mở (Lyon, 2000) tìm hiểu hai tiểu thuyết Điệu
Valse giã từ và Đời nhẹ khôn kham đã nhấn mạnh vào
tính tùy hứng, sự ngẫu nhiên trong sáng tác của Kundera. Cũng tìm
hiểu về tính ngẫu nhiên trong tiểu thuyết của Kundera, Thierry
Parent đã khẳng định tính ngẫu nhiên là trung tâm văn bản của
ông; và qua ba tiểu thuyết Điệu Valse giã từ, Đời nhẹ khôn
kham và Sự bất tử Parent nghiên cứu các hiện tượng và
hậu quả ngẫu nhiên để nhìn nhận Kundera như một nhà văn cung cấp “lý
thuyết của tính ngẫu nhiên”.
Điều quan trọng là cảm thức lưu vong
mang đến cho Kundera một cái nhìn toàn diện về thân phận con người trong thời
hiện đại. Cảm thức lưu vong khiến nhà văn Tiệp nhận ra lưu vong không đơn thuần
là hoàn cảnh sống mà còn là tình thế lưu vong trong tim trong hồn mỗi con người.
Hay nói như Heidegger đó là Vong thể. Vong thể là con người không được sống như
mình mong muốn, không được sống thật với bản chất vốn có của mình. Họ bị chi phối,
bị điều khiển bị đẩy đi bởi một thế lực khác. Có thể nhận thấy qua các tiểu
thuyết của Kundera một chủ đề xuyên suốt: Sự biến mất của con người trong
thế giới hiện đại. Từ chủ đề lớn đó, mỗi tác phẩm của ông lại khám phá một tình
huống hiện sinh, một phương diện của cái tôi, một mẫu sự sống mới. Sự bất
tử bộc lộ tình thế của con người sống trong thời đại công nghiệp khi chiếc
máy ảnh của paparazi (người chụp ảnh trộm những người nổi tiếng) thay thế con mắt
của Chúa. Thay vì con người được chở che, dựa dẫm, an ủi nhờ con mắt của Chúa
soi thấu thì bây giờ con người bị lột trần, phơi bày, bêu riếu dưới ống kính của
cái máy ảnh. Nhân vật Agnés không thể sống như những gì mình mơ ước, như những
gì là thật với chính bản thân. Hình ảnh cô lấy tay ôm ngực nhìn vào gương được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần như gửi gắm niềm khát khao tuyệt vọng tìm ra chính
mình. Đó cũng là hình ảnh ca sĩ Jacques Brel bị những người thợ ảnh vây dồn trước
bệnh viện, nơi anh điều trị bệnh ung thư. Người ca sĩ ấy đang cố che mặt mình
trong cơn tuyệt vọng để chống lại ngàn ống kính ác nghiệt. Goethe, Beethoven,
Hemingway những nhân vật lịch sử tưởng chừng như bất tử nhưng cũng được hậu thế
đem ra tòa án vĩnh hằng. Bởi vì, thời đại thông tin khoa học không đánh giá những
tác phẩm của họ mà đi tìm hiểu giới hạn sự vĩ đại của họ, soi mói vào cuộc sống
cá nhân, sở thích riêng tư của họ. Đây là lời của Hemingway nói với Goethe: “Những
cuốn sách của chúng ta có lẽ sẽ chẳng được đọc mấy nữa. Từ cuốn Faust của anh
chỉ còn lại vở opera ngu ngốc của Guno. Và có lẽ may ra còn được câu thơ nói về
tính nữ vĩnh hằng hấp dẫn chúng ta... Nhưng cuộc đời anh thì mọi người sẽ không
bao giờ ngừng quan tâm, soi mói đến từng chi tiết nhỏ nhặt”. Chậm
rãi của Kundera lại đặt ra một tình thế hiện sinh khác. Đó là con
người đối mặt với tốc độ chóng mặt của thời hiện đại, bị cuốn vào vòng xoáy cuộc
sống, những vấn đề bên ngoài như lịch sử, chính trị, xã hội làm biến mất con
người. Tốc độ được coi là giá trị tối thượng của thế giới say mềm kỹ thuật.
Phương châm của Vincent, Julie là nhanh, nhanh hơn nữa và nhanh mãi biến họ
thành máy móc... Tiểu thuyết Chậm rãi cũng trở lại chủ đề xuất hiện
trong Sự bất tử. Đó là báo chí, truyền hình đè bẹp con người cá nhân, tô vẽ
hình ảnh của họ. Và khi được xem là vĩ nhân, là người nổi tiếng thì cùng lúc đó
phải đánh mất cái tôi của riêng mình: “Vinh quang đã nướng trụi của ông toàn bộ
sự tự do, và bây giờ thì ông biết: thời nay chỉ những đầu óc hoàn toàn vô thức
mới cảm thấy vui lòng khi tự nguyện đeo sau lưng họ cái chảo của sự nổi tiếng...
Ông cảm thấy mình bị lột trần ra và không có gì che đỡ. Đó là lần đầu tiên
trong đời ông khao khát mong mỏi được trở thành vô danh”. Nếu như ở Sự
bất tử các nhân vật cố gắng vùng vẫy phá vỡ hình ảnh để tìm ra mình thì ở Bản
nguyên nhân vật Santal và Jan - Mark lại cuống quít đi tìm hình ảnh của
mình. Câu chuyện về một đôi tình nhân lao vào một trò chơi thoạt tiên là để
giúp người yêu tự nhận ra mình, đã đi vào một cơn ác mộng. Và, hình như Santal
nhận thấy mình trong những giấc mơ cũng như Jan - Mark tìm thấy mình trong tiểu
thuyết của anh. Họ nhận ra điều ấy và hãi sợ khi không nhận ra đâu là bản
nguyên của mình. Trong tưởng tượng, trong giấc mơ hay trong sự thật? Một
câu chuyện thực trở thành một giấc mơ hủy diệt. Trong Đời nhẹ khôn kham, sự
biến mất cái tôi cá nhân không phải do máy móc kỹ thuật mà do nhà nước chuyên
chế. Nhân vật Jan Prochazka và giáo sư Vaclav Cerny chơi thân với nhau, nhưng họ
không thể ngờ rằng tất cả cuộc trò chuyện trong bàn tiệc đều được bí mật ghi âm
lại. Vào năm 1970 hay 1971, muốn làm mất uy tín của Prochazka, cảnh sát cho
phát những cuộc nói chuyện ấy trên đài phát thanh. Như vậy, cái riêng tư và cái
công cộng là hai thế giới khác nhau về bản chất nhưng lại bị nhập làm một. Nói
về thân phận con người trong xã hội hiện đại, Kundera nhận xét: “việc tiết lộ
đời sống riêng tư của người khác, khi nó trở thành thói quen và quy tắc, đưa
chúng ta vào thời đại mà cuộc được thua lớn nhất là sự sống sót hay biến mất của
cá nhân”. Và ông kết luận: “Nhà nước càng tù mù bao nhiêu, thì
các công việc của cá nhân càng phải công khai bấy nhiêu; chủ nghĩa
quan liêu dầu là đại diện của một việc công lại là vô
danh, bí mật, mã hóa, tối nghĩa, trong khi con người
riêng tư lại phải buộc phơi bày sức khỏe, tài chính, hoàn cảnh
gia đình của mình ra, và nếu bản án của các phương tiện thông tin đại
chúng đã quyết định như vậy rồi, thì anh sẽ không còn có được một
khoảnh khắc riêng tư nào hết cả trong tình yêu, lẫn trong bệnh tật,
cả trong cái chết. Ý muốn xâm phạm vào chốn riêng tư của người khác
là một hình thức cổ xưa của tính hung hăng, ngày nay được thể chế
hóa (chủ nghĩa quan liêu với các phiếu của nó, báo chí với các
phóng viên của nó), được chứng thực về mặt đạo đức (quyền được
thông tin trở thành quyền thứ nhất trong các quyền con người) và thi
vị hóa (bằng cái từ đẹp: công khai)”
Con người trong xã hội hiện đại bộc lộ
Vong thể rõ nhất trong tình dục. Bởi chính điều cá nhân nhất, riêng tư nhất, bản
ngã nhất lại không thuộc về mình. Ngay trong đời sống dục tình họ không hiểu nổi
mình, không nhận ra mình và cuối cùng họ ghê tởm chính mình. Các nhân vật Tomas
(Đời nhẹ khôn kham) hay Jaromil (Cuộc sống không ở đây) và Jan Mark (Bản nguyên)... mãi
mãi không hiểu tình yêu là gì. Họ tìm đến các cô gái như một thú vui, mà còn tệ
hơn là có khi họ chẳng có chút niềm vui nào ngoài nỗi khinh bỉ, vậy mà họ vẫn
âu yếm, vuốt ve người yêu như một tình nhân tuyệt vời nhất… Nhìn chung các nhân
vật của ông càng bội thực với dục tình bao nhiêu thì lại càng chết đói tình người
bấy nhiêu.
Cái tôi cá nhân ngày càng bị triệt
tiêu, con người lao vào cuộc truy tìm cái tôi của mình. Song, việc làm đó trở
thành không thể. Những giới hạn của lịch sử, xã hội, chính trị đã chặn đứng cuộc
truy tìm đó, và Kundera đã khám phá ra điều ấy. Ông đã từng khẳng định: “Việc
soi rõ những giới hạn đó đã là một khám phá to lớn”. Tác phẩm của Kundera đã đặt
ra một câu hỏi căn bản: đâu là khả năng còn lại của con người trong một thế giới
mà quyết định bên ngoài đã trở thành nặng trĩu đến nỗi những động cơ bên trong
chẳng còn chút trọng lượng nào nữa?. Chính vì lẽ đó, bi kịch của Sabina cũng là
bi kịch của nhiều thân phận người: “Bi kịch của cô không phải là bi kịch những
điều nặng nề mà là bi kịch những điều vô trọng lượng, những điều nhẹ như tơ.
Rơi xuống đời cô không phải là hệ lụy mà là cái kinh phù khôn kham của nhân
sinh”. Có thể nhận thấy trong tiểu thuyết của Kundera vấn đề này được trở
đi trở lại như một điều nhức nhối về thân phận con người. Từ cuốn đầu
tiên Chyện đùa: Tôi bước đi trên những vỉa hè phủ bụi đó và tôi nhận ra
cái nhẹ bồng nặng trĩu của hư không đè nặng cuộc đời tôi. Đến Điệu Valse
giã từ: Raxkolnikov đã chịu đựng tội ác của mình như một bi kịch và cuối cùng
đã quỵ xuống dưới sức nặng hành vi của mình. Còn Jakub thì ngạc nhiên thấy sao
hành vi của mình lại nhẹ bồng đến vậy, nó chẳng đè nặng lên anh, nó chẳng kéo
anh xuống chút nào hết. Và anh tự hỏi phải chăng cái nhẹ bồng kia còn khủng khiếp
hơn cả những tình cảm của nhân vật Nga nọ. Và trong cuốn Cuộc sống không ở
đây: Đôi khi Jaromil có những giấc mơ kinh hoàng: anh mơ thấy mình phải nâng
lên một vật cực kỳ nhẹ, một chén trà, một cái thìa, một chiếc lông, và anh
không làm sao nâng nổi, vật càng nhẹ thì anh càng yếu, anh qụy gục xuống dưới sức
nhẹ bồng của nó. Và ở Sách cười và lãng quên: Cái túi rỗng không trong dạ
dày anh đó, chính là sự phi trọng lượng không thể chịu đựng nổi. Và giống như một
sự quá mức lúc nào cũng có thể biến thành cái ngược lại với nó, cái nhẹ bồng bị
đẩy đến cực độ đã trở thành trọng lượng khủng khiếp của cái nhẹ bồng và Tamina
biết rằng cô không còn có thể chịu đựng được nó thêm một giây nào nữa.
Mất bên ngoài bởi các thế lực xã hội, mất
bên trong bởi không kiểm soát được bản năng… hình như chưa đủ; nhà văn Tiệp còn
nhận ra con người còn mất cả quá khứ, hiện tại và tương lai qua câu chuyện hồi
hương của Irena và Josef trong Vô tri. Nhân vật Josef trở về và thấy nhà cửa
của anh bị tịch thu và anh không còn hứng thú với việc nghĩ về quá khứ và tự nhủ “mình chỉ có một cuộc đời và mình muốn sống ở nơi khác”. Và anh sẵn
sàng chấp nhận lãng quên quá khứ cũng như chấp nhận mọi người quên lãng mình.
Còn với Irena, cuộc sống cô hiện tại và tương lai là ở Paris, nhưng Sylvie
không nghĩ như vậy và bạn bè của Irena ở quê nhà cũng không nghĩ như vậy nên họ
không hề quan tâm đến hai mươi năm xa quê hương của cô. Cuộc sống mà cô đã từng
sống và cảm nhận được hạnh phúc bị từ chối khi: Đám phụ nữ nói không ngừng và
gần như không thể áp đặt cho cuộc trò chuyện ấy một chủ đề… những lời của cô
tách xa khỏi những mối bận tâm của họ, không ai buồn lắng nghe cô nữa cả. Irena
mong muốn được hòa nhập với cuộc sống tại quê hương nhưng cô lại bị Josef bỏ
rơi. Vậy, với Irena, cô không thể nhận ra mình thuộc về nơi nào và cả thế giới
mênh mông kia cô không biết đâu là chốn dung thân.
Cách ứng xử duy nhất khi con người bị mất cả bên
ngoài lẫn bên trong là sự dối trá. Dối trá vì con người không được
sống với bản chất thật của mình, dối trá vì xã hội đầy rẫy sự
lừa lọc. Điều này Kundera gọi là Kitsch. Khai thác từ Kitsch như một
trụ cột của nhiều cuốn tiểu thuyết, Kundera chỉ ra những khía cạnh
biểu hiện cái Kitsch với các nội dung: có thái độ kitsch, cách ứng
xử kitsch, nhu cầu kitsch của con người. Sự dối trá xuất hiện trong
Thời Hiện Đại hiển nhiên trong các mối quan hệ như tình đồng nghiệp,
tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa… nên từ chỗ chỉ là cách tự làm
đẹp mình trong mắt của mọi người thì sự gian trá đã biến thành bản
chất cho đến mức con người tự dối trá chính mình (đỉnh điểm của sự
lưu vong trong tâm hồn). Đó là hình ảnh của Laura sau khi ly
hôn đã nhiều lần thay đổi bạn tình nhưng vẫn làm ra vẻ đau khổ và
ngụy trang cho mình một chiếc kính râm: “Hồi đó nàng không rời kính
ra và khi gặp bạn bè chỉ xin lỗi: “Đừng giận mình mang kính,
nhưng mình khóc đến sưng cả mắt nên không thể không mang được.”… Chiếc
kính trở thành vật thay thế của nước mắt, nhưng nó khác với nước
mắt thật ở chỗ không gây hại cho mí mắt, không làm đỏ, sưng mắt,
thậm chí làm khuôn mặt nàng dễ coi hơn.” Hình ảnh của Bertrand “làm
trò” trước ống kính truyền hình được Kundera tái hiện lại như sau: “Bertand ngồi cúi xuống người bệnh và ống kính cho thấy ông đang
truyền cho bệnh nhân hy vọng chữa lành bệnh. Khi ông thốt ra từ “Hy
vọng” lần thứ ba, thì người bệnh bỗng nhiên phát khùng…Bertrand khiếp
đảm: ông không thể nói nên lời được nữa, chỉ gắng hết sức cho khuôn
mặt tươi cười, và ống kính quay hồi lâu chỉ một nụ cười đông cứng
lại đó của con người đang run lên vì sợ hãi…” Câu chuyện tiêu
biểu nhất biểu hiện quá trình biến cái dối trá bên ngoài thành bản
chất bên trong là Edouard và Chúa. Vốn là người ngoại đạo nhưng
Edouard lại yêu một cô gái rất sùng đạo là Alice, để chiếm được tình
yêu của cô anh bắt đầu đọc Kinh thánh, nghiên cứu thần học và cùng cô
đến nhà thờ. Chuyện anh đi nhà thờ đã bị lãnh đạo nhà trường phát
hiện và bị thẩm vấn; tuy nhiên trước mặt bà hiệu trưởng anh vẫn nói
dối một cách trâng tráo về đức tin của mình. Bởi “Edouard không được
phép thoát ra khỏi bộ quần áo ngụy trang tôn giáo mà một ngày
nọ anh đã khoác lên mình”. Kết cục, dù đã chia tay với Alice, bản
thân không có chút đức tin nào nhưng anh thỉnh thoảng vẫn đến nhà thờ
và mỉm cười hạnh phúc.
Như vậy, cảm thức lưu vong đã khiến cho cái nhìn của Kundera về thân phận con
người đạt đến chiều sâu triết học, mang giá trị nhân bản sâu sắc mà ít nhà văn
đương đại nào có được.
Cảm thức lưu vong không chỉ mang đến cho
Kundera những chiêm nghiệm, suy tư về thân phận con người trong thời đại ngày
nay mà cảm thức đó còn là một nội lực bí ẩn tác động đến tư duy nghệ thuật của
ông. Bàn về tính chất bất định của tiểu thuyết Lukac đã có một hình ảnh ẩn dụ rất
thú vị khi cho rằng: “Tiểu thuyết diễn tả về cõi không nhà siêu việt”.
Còn với Kundera, ông cho rằng bản mệnh của tiểu thuyết gắn chặt với bản mệnh
con người trong xã hội hiện đại; Nên chăng vì thế, cảm thức lưu vong đã mang đến
cho ông quan niệm về tiểu thuyết mới mẻ và anh minh. Từ cuộc sống nổi trôi, bất
ổn của thân phận, Kundera chỉ ra tính bất định của tiểu thuyết. Tính bất định
được thể hiện qua quan niệm của ông về những khả năng, về tính ngẫu nhiên, về
cái hiền minh của sự lưỡng lự. Điều này có nghĩa là khi con người không thể
đoán định được tương lai đưa đẩy mình đến đâu thì cuộc sống (cũng như tiểu
thuyết) sẽ chỉ là cách đưa ra những tình thế giả định. Bên cạnh đó, khi mình
không thể làm chủ cuộc sống của chính mình thì cuộc đời chỉ là tập hợp của vô
vàn những sự kiện ngẫu nhiên. Và, khi tiếp xúc với nhiều hoàn cảnh và nhiều
quan niệm khác nhau thì con người sẽ nhận ra không tồn tại một chân lý vĩnh hằng.
Cuộc sống lưu vong cũng như tiểu thuyết sẽ giúp cho con người khám phá, nhận thức
được những tình thế của cõi người và những mặt khác nhau của tồn tại. Tiểu thuyết
đưa ra những khả năng, tính ngẫu nhiên, các tình thế của cõi người… là những
điều mà Kundera đã đề cập trong Nghệ thuật tiểu thuyết.
Những người sống trong cảnh lưu vong thường
được sống ít hơn những người bình thường khác; Nhưng, họ luôn được đền bù bởi họ
vẫn còn được sống tiếp dù họ đã qua đời. Chính những kiệt tác được nảy sinh
trong những hoàn cảnh nghiệt ngã sẽ làm cho tên tuổi các nhà văn sống mãi. Và,
trong vấn đề này, Kundera cũng không là ngoại lệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Kundera. M (2001), Tiểu luận, NXB Văn hóa Thông tin.
2. Kundera.M (1999), Tiểu thuyết: Sự bất tử, Chậm rãi, Bản nguyên, NXB
Văn hóa Thông tin.
3. Kundera. M (2002), Đời nhẹ khôn kham, NXB Văn học.
4. Kundera. M (2003), Cuộc sống không ở đây, NXB Văn hóa thông tin
5. Kundera. M (2004), Điệu Valse giã từ, NXB Hội nhà văn.
6. Kundera. M (2009), Những mối tình nực cười, NXB Văn học.
7. Kundera. M (2010), Vô tri, NXB Hội nhà văn.
10/4/2014 Trần Thanh Hà
10/4/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét