Đằng sau lũy tre xanh đang suy tàn
Cứ mỗi lần được đi trên sông Hồng, tôi lại mê mải nhìn sang
hai bên làng xóm trù phú, và cố tìm những luỹ tre làng đang bị mất dần đi… Thế
mà, suốt bao đời nay, lũy tre làng là một trong những biểu hiện quen thuộc nhất,
sinh động nhất của châu thổ Bắc bộ. Nhà thơ dân dã Nguyễn Duy từng thốt lên:
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi!
Nhiều thế kỷ qua, các lũy tre đã bao bọc
quanh làng - từ cổng đầu làng tới cổng cuối làng. Các lũy tre làng dày đặc gần
như là thành quách tự nhiên bảo vệ an toàn cho những địa bàn dân cư cổ xưa nhất.
Vì vậy, luỹ tre cũng đã từng là biểu tượng của văn hóa làng người Việt. Lũy tre
làng lúc nào cũng xanh tốt và chịu đựng nắng mưa bão tố một cách kỳ diệu! Cổng
làng cũng thường làm bằng khung tre hình chữ nhật có thể mở ra đóng vào hoặc
giương lên hạ xuống. Vào ban đêm, có thêm những cành tre gai đắp vào cổng cho
thêm chắc chắn. Làng châu thổ rất chú trọng bảo vệ các lũy tre, chúng có tác dụng
ngăn trộm cướp. Nhiều hình phạt đã được quy định đối với những ai chặt tre mà
không cho phép, kể cả những búp măng. Trong khoản phạt do làng quy định có nói
đến tiền thưởng đối với những ai tố giác kẻ chặt tre tùy tiện. Cùng với việc bảo
vệ chống tai họa đến từ bên ngoài, lũy tre còn là một thứ ranh giới thiêng
liêng của cộng đồng làng xã, một cách biểu thị sự độc lập và bảo vệ tính riêng
biệt độc đáo của làng. Vào thời loạn lạc, có những làng đã bị triều đình trung
ương ra hình phạt: buộc phá bỏ luỹ tre làng, nếu như đã tham gia vào cuộc nổi dậy,
hay cho kẻ phiến loạn trú ẩn - hình phạt đó là một vết thương lớn của lòng tự
trọng, một dấu hiệu nhục nhã, tựa như người bị lột trần giữa đám đông mặc quần
áo!
Rời một lũy tre cằn còn sót lại, đi
vào sâu trong làng xóm, tôi vẫn được nghe người già kể về những phong tục thôn
quê còn lưu giữ tự bao đời - không ít tập tục lạc hậu, có hại, nhưng cũng có
nhiều tập tục đáng trân trọng. Trong một công trình nghiên cứu địa lý nhân văn
xuất bản năm 1936, tiến sĩ văn học Pierre Gourou có nhận xét chí lý rằng: nét
quan trọng của đời sống xã hội làng Bắc kỳ là sự kiểm soát tuyệt đối của công
luận đối với đời tư của mỗi người. Ông viết: "Làng là một cộng đồng mà sự
trong sạch về đạo lý đòi hỏi mỗi người phải thực hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ của
người dân và nghĩa vụ tôn giáo, chỉ cần thất hiếu với ông bà cha mẹ là chính
quyền có thể can thiệp và phạt vạ", "sự bình yên của làng xã phụ thuộc
vào sự phục tùng của mọi dân làng vào lẽ phải và làng có một niềm hãnh diện tập
thể khiến họ muốn cho tên tuổi của làng mình không bị hoen ố" (Người nông
dân châu thổ Bắc kỳ) (1). Không ít hương ước của nhiều làng đã quy định rất rõ về
sự đoàn kết làng xã này. Một ví dụ tiêu biểu: “Nếu ta thường nghe nói rằng: phải
đến sống tại những làng có đạo lý, phải chăng trong các làng đó đã tồn tại tình
huynh đệ giữa dân làng?... Trong làng ta cũng vậy, dân cư thuần hậu nhưng vì
phong tục biến đổi theo thời đại, sợ rằng một ngày kia thế hệ tương lai đánh mất
những tình cảm trung thực của dân làng ngày nay, chúng tôi thấy cần phải thiết
lập những quy tắc sau đây…” (Hương ước làng Thọ Đức - Yên Phong, Bắc Ninh). Phải
chăng, chính điều đó đã là cái gốc tạo ra tinh thần đoàn kết, tinh thần tương
trợ lẫn nhau trong cộng đồng mà mỗi lần đất nước bị lâm nguy, chúng đã được
khơi dậy và trở thành một sức mạnh ghê gớm đè bẹp quân xâm lược? Tình cảm gắn
bó với quê hương, với lũy tre, với cây đa bến nước sân đình… từ thuở ấu thơ đã
mau chóng trở thành tình yêu Đất Nước. Việc làng là việc nước, việc nước là việc
làng. Trong kháng chiến chống Pháp, nhiều làng đào hào đắp lũy, trở thành làng
chiến đấu, và khi cần, sẵn sàng “vườn không nhà trống” đối phó với địch… Người
Việt Nam dù đi tới chân trời nào, dù ở trong cảnh ngộ nào mà nhận ra người chỉ cần
cùng xã, cùng huyện, cùng tỉnh thì gọi nhau là «đồng hương» (thực ra «đồng
hương» theo đúng nghĩa là cùng làng); và lòng yêu nước càng được nhân lên khi
tình đồng hương hòa quyện.
Không ít người đến hôm nay vẫn còn
lưu giữ trong ký ức hình ảnh kinh hoàng của một thời: tiếng trống ngũ liên, tiếng
kẻng canh đê, tiếng quát tháo của tuần đinh, cảnh nhốn nháo như ong vỡ tổ...
lúc một quãng đê nào đó bị vỡ. Kèm theo đó là cái cuộc sống đói rách cơ hàn đến
tuyệt vọng và bị áp bức đến tàn nhẫn của người dân châu thổ Bắc bộ được miêu tả
quá nhiều trong phim ảnh, sách vở. Và đằng sau lũy tre xanh đã sản sinh ra
không ít mặt trái của đời sống làng xã - như tục lệ khao vọng nặng nề, là sự
tranh giành chiếu trên chiếu dưới ô nhục mà nhà văn Ngô Tất Tố đã miêu tả sinh
động trong tác phẩm “Việc làng”. “Một miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”, cái tâm
lý cổ hủ đó ăn sâu cả ở trong tầng lớp trí thức! Lũy tre xanh bao bọc xóm làng
cũng là bức tường thành mà trong đó, bọn địa chủ ác bá làm mưa làm gió, hoành
hành bóp nặn dân lành cùng khổ. Vì đói rách, bị ức hiếp, nhiều người đã phải buộc
đi tha phương cầu thực, bỏ làng tìm đến các đồn điền cao su trong Nam, bên Lào,
hoặc bên Tân thế giới làm phu mỏ… P. Gourou còn nêu ra cái "xu hướng của
người nông dân muốn họp thành phe nhóm", sự tranh chấp ngôi thứ trong
làng, cái thói quen "phép vua thua lệ làng" và, "theo đúng thói
quen đã được xác lập ở đất nước này, các vị chức sắc cai trị bằng đút lót và
dành hết công sức vào việc bòn rút của dân: ít ra là với những chức sắc có thế
lực" (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ). Điều P. Gourou viết cách đây hơn nửa
thế kỷ đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Những cuốn tiểu thuyết hiện đại viết
về châu thổ Bắc bộ gây xôn xao dư luận gần đây như "Mảnh đất lắm người nhiều
ma", "Ma làng", v.v..., là những minh chứng sống động...
Ngoài ra, nông thôn châu thổ tới nay còn
lưu giữ không ít tập tục cổ hủ khác cần phá bỏ: tệ cỗ bàn, cưới xin, ma chay tốn
kém (Bộ phim truyện truyền hình "To nhất làng" (2) được phát lại
nhiều lần trên các kênh TH Trung ương và địa phương đã miêu tả tệ nạn cưới xin
chạy theo tâm lý khoa trương, trả nợ miệng, và một xu thế của thanh niên nông
thôn mới phản đối kịch liệt tập tục đó!)
Tới đoạn sông Cái chảy qua một làng cổ,
tôi chợt nhớ đến câu chuyện bi thảm về một người con gái "vi phạm lệ
làng" vào năm 1911 mà nhà nghiên cứu Toan Ánh tả lại trong bộ sách "Nếp
cũ": cô gái hoang thai, bị làng gọt đầu, bôi vôi đặt trên một cái bè chuối
có mấy phong bánh khảo, rồi thả trôi trên sông... Những chuyện như vậy đã trở
thành ký ức đau buồn.
Mấy chục thập kỷ qua, dòng sông Cái
đã được chứng kiến sự thay da đổi thịt từng ngày của những làng quê châu thổ Bắc
bộ. Hơn 70 năm trước, tiến sĩ P. Gourou dự báo về mức độ tăng dân số gấp đôi
vào cuối thế kỷ XX tại châu thổ Bắc Bộ và lo lắng: "Vùng châu thổ vốn dĩ
hiện nay đang không nuôi được đầy đủ 430 người trên một cây số vuông, làm sao
mà lại có thể cung cấp cho những nhu cầu của một dân số đông gấp đôi!" -
"Có thể coi như chắc chắn là người nông dân sống ở giới hạn của đói kém và
nghèo khổ" (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ). Dự báo về tăng dân số thì
đúng, nhưng mối lo ngại của ông lại không hề xảy ra, vì châu thổ sông Hồng
không những giải quyết được đủ ăn mà còn dư thừa để xuất khẩu!
Sở dĩ châu thổ sông Hồng đã và đang giải
quyết được vấn đề sản xuất nông nghiệp của mình vì đã thực hiện được một điều
mà P. Gourou từng mong mỏi đề xuất: "Công việc bổ ích nhất đối với người
nông dân sẽ là đình chỉ sự phát triển của sở hữu lớn mà thậm chí xoá bỏ những sở
hữu lớn đang tồn tại, nếu cân bằng những đạo luật về ruộng đất nhằm tránh cho
những nguồn lợi nghèo nàn của người nông dân trên mảnh đất quá nhỏ bé còn bị
thu hẹp hơn nữa bởi việc phải nộp tô" (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ).
Như vậy là, sau khi đã thử trải qua nhiều mô hình sản xuất khác nhau, châu thổ
sông Hồng đã quay trở về với nền kinh tế gia đình, tạo tiền đề cho việc phát
triển sản xuất nông nghiệp thành công. Và sự quan tâm thích đáng cùng những
chính sách ngày một phù hợp với thực tiễn của Nhà nước đối với nông thôn nói
chung, đối với châu thổ sông Hồng nói riêng đã góp phần quan trọng đưa nông
thôn Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới. Tiến sĩ Salvatore Diglio của trường Đại
học phương Đông Naples Italia đã tổng kết trong bài "Vai trò của Nhà nước
trong chính sách nông nghiệp của Việt Nam": "Không còn nghi ngờ gì nữa, vai
trò của Nhà nước đối với nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm qua đã có những
thay đổi quan trọng. Kể từ cuối thập niên 1980, các hộ nông dân đã nổi lên như
là các đơn vị sản xuất nông nghiệp chủ yếu, và thị trường đã trở thành động lực
quan trọng quy định giá cả nông phẩm. Nhà nước vẫn là người đóng vai trò chính
trong khu vực kinh tế nông thôn (về sở hữu đất đai, hệ thống tiêu thụ nông phẩm
và tín dụng) và... đang duy trì ảnh hưởng to lớn của mình trong quan hệ giữa
nông dân với thị trường trong và ngoài nước" (Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết
về Việt Nam) (3)
Nhưng khi trở lại với nền kinh tế gia
đình, đồng thời một loạt vấn đề mới của cuộc sống đã nảy sinh tại châu thổ.
Trong bài viết: "Kinh tế hộ gia đình: 10 năm đổi thay ngành nghề tại các
xã nông thôn đồng bằng Bắc bộ", nhà khoa học Christophe Gironde (thuộc viện
nghiên cứu phát triển Genève, chương trình sông Hồng Hà Nội - Thụy sĩ) đã mở đầu
như sau: "Sự phục hồi nhanh chóng kinh tế hộ gia đình đã đem lại các thay
đổi lớn lao trong nông nghiệp cũng như trong các nghề phi nông nghiệp... Đối với
các hộ gia đình, việc phi tập thể hóa có nghĩa là có các cơ hội mới nhưng cũng
cả các ràng buộc mới". Sau khi đã khảo sát ba xã gần nhau trong huyện Châu
Giang (tỉnh Hưng Yên) và các nhóm kinh tế tại đây, nhà khoa học Thụy Sĩ đã đưa
ra những kết luận cần thiết giúp các nhà hoạt động chính sách, pháp luật... có
thể tham khảo nhằm hỗ trợ sản xuất ở nông thôn châu thổ tiếp tục phát triển (Các
nhà Việt Nam học nước ngoài viết về Việt Nam).
Đặc biệt, trong xu thế phát triển xã
hội, khi cơ cấu làng xã cổ truyền đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ, bị xóa nhòa, thì có rất nhiều nhà khoa học với tầm nhìn xa của mình đã đưa ra những ý
kiến, những đề xuất đầy tâm huyết và xác đáng. Tiêu biểu hơn cả là tiến sĩ Nguyễn
Tùng (thuộc trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp) với công trình nghiên
cứu: "Phân tích so sánh sự biến đổi nông thôn vùng châu thổ sông Hồng".
Sau khi tiến hành khảo sát nhiều năm ở xã Mông Phụ (Đường Lâm) đồng thời so
sánh với ba xã khác: Tả Thanh Oai, Mộ Trạch và Đông Ngạc (thuộc Hà Nội và Hải
Dương), ông đã rút ra những kết luận khá quan trọng: "Một làng không thể
có đời sống khá giả nếu chỉ dựa duy nhất vào nghề nông... Làm sao để có thể tạo
ra việc làm ở nông thôn?... Nếu những người nông dân tìm thấy việc làm cho
mình, mặc dù được trả công thấp, họ vẫn có thể ở lại trong làng, ngay trong nhà
của họ... Như vậy sẽ phát huy được mối đoàn kết truyền thống và sẽ có cuộc sống
tốt hơn ở thành phố…" Và nhà khoa học Pháp gốc Việt đã có một đề nghị mang
giá trị thực tiễn sâu sắc: "những khả năng của tính đồng nhất của làng xã
được biểu hiện qua lòng tự hào về quá khứ, về việc gắn bó với đình làng và với
một số nét đặc trưng của dân làng… Vậy thì phải làm gì để cho làng vẫn tồn tại
và giữ được bản sắc trong cơ cấu làng xã? Đây là vấn đề cốt lõi vì như kinh
nghiệm của lịch sử đã chỉ ra rằng, tính đoàn kết gắn bó của dân làng đã là gốc
rễ để người dân Việt gắn sâu vào đất nước và đã tạo nên những ngôi làng Việt Nam trong suốt hai nghìn năm, đó là những thành trì thật sự có thể bảo tồn các bản
sắc của đất nước trước quân xâm lược" (Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết về
Việt Nam). Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi mà “các cuộc xâm lăng văn
hoá đang thay thế cho những cuộc xâm lăng diệt chủng” - theo cách nói của một
chính trị gia quốc tế (4)!
Nhưng, điều mà những trí thức Việt Nam thật sự cảm
thấy lo lắng hơn cả, chính là sự vững bền trong tương lai của các gia đình truyền
thống Việt Nam tại nông thôn - có thể coi là cái gốc của bản sắc dân tộc. Cách đây
hơn hai phần ba thế kỷ, học giả người Pháp Léopold Cardière trong chuyên luận
công phu "Gia đình và Tôn giáo người Việt" đã có những dòng viết đầy
tâm huyết và đáng trân trọng: "Quả là có nhiều nguyên nhân giải thích sự
suy thoái luân lý hiện nay; nhưng một trong những nguyên nhân mãnh liệt nhất đó
là việc buông lỏng những mối dây liên kết của gia đình; đó là việc cá nhân
thoát khỏi ảnh hưởng giáo hoá của gia đình được hình thành như một cơ chế mà ở
đó người sống noi gương kẻ đã chết, ở đó mỗi thành viên đều có trách nhiệm với
danh dự chung của mọi người". Kết thúc chuyên khảo, ông thốt lên như một lời
kêu gọi: "Xin đưa ra một ước nguyện là xin đừng sử dụng bất cứ biện pháp
nào có nguy cơ làm yếu gia đình tại xứ Việt này, trái lại hãy củng cố nó bằng mọi
cách! Than ôi! liệu có được chăng?" (5)
Nông thôn Bắc bộ với những vấn đề nóng bỏng
cho đến hôm nay càng có sức hấp dẫn đối với các nhà văn, các nhà nghiên cứu lịch
sử, văn hoá, xã hội học, dân tộc học… trong nước cũng như nước ngoài. Trong
công trình "Các nghiên cứu về làng Việt Nam", tiến sĩ Hà Lan John Kleinen của
trường Đại học Amsterdam có nhận xét lý thú có thể mở ra một khoảng rộng cho việc
tìm hiểu những gì đang diễn ra đằng sau luỹ tre xanh: "… làng thường được
coi như là nơi sống ẩn dật của những người dân quê sau luỹ tre làng từ thời xa
xưa, các truyền thống được giữ nguyên vẹn, người nông dân thì được mô tả như những
người mộc mạc, thẳng thắn và bảo thủ. Văn hóa làng và các phong tục làng được
coi là mang tính nội tại và tính truyền thống sâu sắc. Các ấn tượng như vậy là
sai lầm... Làng Việt Nam đang trải qua những thay đổi sâu sắc. Đôi khi các thay đổi
này diễn ra chậm đến mức mà để biết nó, người ta phải xem xét một khoảng thời
gian rất dài cùng với vô vàn các sự kiện của lịch sử..." (Các nhà Việt Nam học
nước ngoài viết về Việt Nam).
Song, những thay đổi sâu sắc này lại đang
đứng trước những hệ lụy đau lòng do việc mất đất để làm khu công nghiệp, sân
golf... ( Xin tham khảo bài viết xúc tích và thời sự của nhà văn Nguyễn Quang
Thiều: "Tiền bạc, ruộng đồng, và... thân phận của người nông dân"
- lethieunhon.com). Những điều này đang cấp thiết đòi hỏi phải có một
chính sách vĩ mô thích hợp và nhân đạo về chế độ ruộng đất...
Và đằng sau lũy tre xanh ngàn đời
kia hiện đang diễn ra những chuyện khiến ta choáng váng được kể lại đầy rẫy ở bất
kỳ tờ báo chính thống hàng ngày nào: cha giết con, chồng chém vợ, thầy giáo bị
học trò làm hại, gia đình bệnh nhân đánh thầy thuốc, tội phạm vị thành niên
ngày càng tăng, nông dân bị chiếm đất ồ ạt đi khiếu kiện... Các vùng quê yên
tĩnh đang tràn lan sự dối trá, lừa đảo; chuyện chạy chức chạy quyền, cúng bái cầu
tài cầu lộc, mê tín dị đoan tràn ngập; tệ chặt chém người tiêu dùng và khách du
lịch trở thành bệnh kinh niên; cán bộ xã, tỉnh đánh bạc mỗi ván ăn thua từ hàng
trăm triệu tới hàng tỉ đồng… Sự thao túng của các nhóm lợi ích ngày một trắng
trợn, và hố sâu phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, tới mức độ rất dễ dàng bùng
nổ xung đột gay gắt trong lòng nông thôn của xã hội đương đại Việt Nam! Những
lũy tre làng đang dần mất đi để thay vào đó là "hào lũy" của chủ
nghĩa cá nhân cực đoan nhất được kích thích bởi kinh tế thị trường không kiểm
soát - hoặc kiểm soát một cách hình thức! Có dư thừa thóc lúa để xuất khẩu thì
cũng sẽ trở nên vô nghĩa - nếu như cứ mãi ở trong cái "hào lũy" đó,
nhân tính sẽ bị mòn mỏi, những giá trị tinh thần tốt đẹp được kết tinh ngàn đời
sẽ dần phân hủy, nát rữa, mọi thứ luân lý đạo đức mới đưa vào nhằm "giáo
hóa" dân chúng sẽ chỉ tạo thêm sự mệt mỏi và góp phần nuôi dưỡng tâm lý giả
dối phát triển thành căn bệnh ung thư ác tính... Điều quan trọng giờ đây là phải
phá bỏ cái "hào lũy" đó đi bằng mọi giá!
Nhưng trước hết cần phải tháo dỡ, dù là một
cách đau đớn - những rào cản trói buộc quyền tự do dân chủ thực sự, xây dựng một
chế độ pháp quyền lành mạnh mà trong đó tất cả mọi người - không từ bất kỳ ai đều
bình đẳng trước Pháp Luật. Song, những điều đó đang bị vướng víu bởi muôn vàn
quy định không viết thành văn bản, chúng có sức mạnh ma quái còn hơn mọi hương
ước từ xưa trong các làng quê - bởi các nhóm lợi ích cố kết với nhau hình như
đã bắt đầu mang màu sắc của "Mafia"...
Tôi đành mượn lời của Léopold
Cardière: "Than ôi! liệu có được chăng?"
Chú thích:
1. Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Nxb Trẻ, Tp. HCM,
2003
2. Hãng phim THVN(VFC) sản xuất năm 2003, Kịch bản và Đạo
diễn: MA NAT
3. Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết về Việt Nam, Nxb
Thế giới, Hà Nội 2002 (Hai tập)
4. Dẫn theo Phan Ngọc: Một cách tiếp cận văn hóa,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999.
5. Léopold Cardière, Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam,
Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006.
12/7/2021 Nguyễn Anh Tuấn
12/7/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét