Cuộc đời yêu dấu
Alice Munro
LỜI GIỚI THIỆU
Năm 2013, khi trao giải Nobel về văn học cho Alice Munro, người
phụ nữ thứ mười ba trên thế giới nhận giải thưởng này, đại diện của Hàn lâm viện
Thụy Điển đã gọi bà là "bậc thầy của truyện ngắn đương đại". Một đánh
giá cao về thành tựu nghệ thuật và tất nhiên khó khăn mới đạt được. Lúc ấy, nhiều
người đã ngạc nhiên hỏi nhau: bà này ở đâu ra?
Thật ra Alice Munro đã viết văn từ năm mươi năm nay, với tác
phẩm đầu tay Vũ điệu của bóng mờ hạnh phúc, xuất bản 1968. Trong các tuyển
tập truyện ngắn hay nhất của Hoa Kỳ, tôi nhận thấy tên bà xuất hiện rất đều đặn,
gần như hàng năm, được chọn lựa bởi các nhà văn hay nhà phê bình có quan điểm
khác nhau. Nhà văn cũng nhận nhiều giải thưởng, trong đó ba lần giải Governor
General danh giá của Canada, và Man Booker International, năm 2009. Giữa nhiều
nhà văn viết tiếng Anh, bà được kính trọng và yêu mến một cách đặc biệt. Tuy vậy,
tính tình kín đáo, khiêm cung, Alice Munro ít khi xuất hiện trên báo chí, ngoại
trừ bằng tác phẩm của mình. Cách đây vài năm, khi tôi đến dự một buổi hội thảo ở
Vancouver sau giải Man Booker International vừa nói, với sự tham gia của nhiều
nhà văn nổi tiếng như Margaret Atwood, họ đọc những tham luận xúc động về sự
nghiệp của bà và diễn đọc những trích đoạn tác phẩm, Alice Munro cũng đã không
có mặt.
Sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada,
Alice Munro có tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại,
mẹ là cô giáo. Bà trải qua tuổi thơ ở Huron County, rồi theo học đại học
Western Ontario, nhưng rời trường sớm khi lập gia đình năm hai mươi tuổi. Bà và
gia đình từng sống ở Vancouver và trên một hòn đảo ngoài khơi Vancouver nhiều
năm. Sau khi cuộc hôn nhân đầu tiên tan vỡ, bà trở về quê cũ ở Huron County, và
tình cờ gặp lại người bạn thời thơ ấu, một giáo sư đại học, và họ mau chóng trở
thành đôi bạn thân, sau đó lập gia đình với nhau. Ontario là bang lớn nhất
Canada, bên bờ Ngũ Đại Hồ. Vùng phía Nam của bang có khí hậu ôn hòa, cảnh sắc
xinh đẹp, đất nông nghiệp bằng phẳng, nhiều sông hồ. Nhờ vào những truyện ngắn
nổi tiếng của bà, quang cảnh vùng đất Huron County xuất hiện nhiều lần trong
truyện, trở thành một xứ sở được nhiều người biết, gần như huyền thoại.
Có nguồn gốc tổ tiên từ Scotland, truyền thống Thiên chúa
giáo, bà lớn lên trong thời Đệ nhị thế chiến và những giai đoạn kinh tế khó
khăn. Sự phân tích tinh tế, sự quan sát sắc bén đối với các hành vi cá nhân và
khác biệt giai cấp, cảnh giàu nghèo, sự hy sinh, tính chung thủy, sự dối trá,
những tình cảm gia đình, được ghi lại một phần nhờ những kinh nghiệm bà đã có
được khi lớn lên ở vùng thị trấn nhỏ. Có người nhận xét rằng Munro ít viết về
tình yêu, nhưng thật ra nhiều truyện của bà đều phảng phất một thứ tình tuy được
diễn tả chấm phá nhưng với nét bút mạnh mẽ, dường như đầy ẩn ý. Ngòi bút của bà
khi đề cập đến các đề tài khác như phụ nữ, tình dục, đều táo bạo bất ngờ.
Tác phẩm: Vũ điệu của bóng mờ hạnh phúc (Dance of The
Happy Shades) (giải Governor General), Cuộc đời những cô gái và đàn
bà (Lives of Girls and Women), Bạn nghĩ bạn là ai kia? (Who Do You Think You
Are), Những mặt trăng của Mộc tinh (The Moons of The Jupiter), Tiến triển của
tình yêu (The Progress of Love) (giải Governor General), Chạy trốn
(Runaway). Năm 80 tuổi, xuất bản tập Quá sức hạnh phúc (Too Much
Happiness). Tiếp sau đó, trước sự ngạc nhiên của nhiều người, năm 81 tuổi,
tác phẩm mới Cuộc đời yêu dấu (Dear Life). Một chuyện tình cảm động,
đã được Sarah Polley chuyển thành phim với các tài tử Julie Christie và Gordon
Pinsent.
Alice Munro viết về đời sống những người bình thường với ngôn
ngữ giản dị, trong trẻo, đẹp. Nhưng đó là bề ngoài dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn
của Munro không dễ hiểu. Người đọc cần chú tâm đến từng dấu hiệu mà bà để lại dọc
đường. Bên trong là sức mạnh của sự phân tích các xung đột, sự nghiêm khắc với
thói dung tục, tính hài hước, lòng trắc ẩn. Truyện của bà biểu hiện một nghệ
thuật quan sát mà mô tả xác thực, có khi tường tận, một cách cố ý. Nhưng đằng
sau bản mô tả khách quan ấy, đằng sau bức tranh về một cảnh vật cụ thể và sinh
động, bản tường trình về cuộc đời, người đọc cảm nhận có một điều gì khác nữa
như một hiện thực thứ hai, Alice Munro đã nói về lối đọc truyện và viết truyện
của mình.
"Tôi sẽ bắt đầu bằng cách giải thích cách tôi đọc truyện
của nhà văn khác như thế nào. Có thể nói, tôi bắt đầu đọc chúng bất kỳ ở đâu, từ
đầu truyện đến cuối truyện, từ cuối truyện ngược lên, từ bất cứ điểm nào ở giữa
chúng, theo hướng xuôi hay ngược. Như vậy rõ ràng tôi không nắm lấy một câu
chuyện và cứ đi theo như thể đó là con đường, sẽ mang tôi tới nơi nào đó, với
những quang cảnh và lối rẽ rất gọn gàng dọc theo con đường ấy. Tôi bước vào
truyện ngắn, đi lui đi tới, ngồi xuống nơi này nơi kia, hoặc ở lại đó đây một
lát. Truyện ngắn giống như ngôi nhà. Mọi người đều biết ngôi nhà là gì, nó chứa
các phòng, những cửa ngách liên lạc giữa các phòng và trình bày một khuôn mặt
ngoài mới mẻ như thế nào. Đây là cách gần nhất với sự giải thích mà tôi có thể
có về việc một truyện ngắn ảnh hưởng ra sao đối với tôi, như người đọc, và tôi
muốn những truyện ngắn của mình làm gì với người đọc của tôi."(1)
Thật ra các nhà phê bình có những cách nhìn nhận rất khác
nhau đối với nghệ thuật của Munro. Tác phẩm của bà là hiện thực hay là tưởng tượng?
Đầy xúc cảm hay hoàn toàn lạnh lùng? Những cuộc đời trong ấy là của những người
bình thường mà ta hay gặp hay là những số phận đặc biệt, lạ kỳ, ngoại hạng? Bà
là nhà văn của người đọc bình dân hay là nhà văn của giới tinh hoa, bác học? Là
một kiểu mẫu Chekhov thứ hai hay là người chống lại Chekhov?
Tập truyện Cuộc đời yêu dấu (Dear Life) gồm mười bốn
truyện: 1. Trôi về Nhật Bản (To Reach Japan), 2. Thị trấn bạch dương
(Amundsen), 3. Ly hương (Leaving Maverley),4. Sỏi đá (Gravel), 5. Tổ ấm
(Haven), 6. Lòng tự hào (Pride), 7. Người tình (Corrie), 8. Xe lửa (Train), 9.
Thấp thoáng mặt hồ (In Sight of The Lake), 10. Búp bê (Dolly), và bốn truyện
sau cùng được tác giả xem là tự truyện, vì có yếu tố tiểu sử: 11. Con mắt
(The Eye), 12. Đêm (Night), 13. Giọng nói (Voices) và 14. Cuộc đời yêu dấu
(Dear Life) (2). Đây có thể xem là một trong những tác phẩm cuối cùng của
Alice Munro, vì lúc nó ra đời năm 2012, bà đã ngoài 80 tuổi và tuyên bố không
viết nữa.
Những mô tả tỉ mỉ trong truyện của Munro có thể rất dài nhưng
bao giờ cũng nằm trong một cấu trúc cần thiết, đôi khi là sự chuẩn bị bắt
buộc phải có, như trong trường hợp chúng dẫn đường cho người già đi vào một
cõi trần gian khác (truyện Thấp thoáng mặt hồ). Một người thanh niên quen
với một thiếu nữ, nhập ngũ, trở về, rồi quen với một người phụ nữ khác, trải
qua bao biến đổi, tựa như một cuốn tiểu thuyết thay vì truyện ngắn, những nhân
vật lạ lùng xa lánh tình dục và sợ hãi sự thân mật của con người (truyện Xe
lửa). Câu chuyện phiêu lưu tình cảm của một nhà thơ, một người mẹ trẻ (truyện Trôi
về Nhật Bản). Cô đến dự một buổi tiệc của một tờ báo, uống say bằng một thứ nước
mà cô ngỡ là nước trái cây nhưng thật ra có rượu. Một ký giả từ Toronto lái xe
đưa cô về nhà, nhưng bất chấp sự chờ đợi, đã không hôn cô. Thế là cô đem lòng
thương nhớ. Rồi một dịp hai mẹ con cô và đứa con gái lên một chuyến xe lửa, bỏ
người chồng ở lại, và mối quan hệ vợ chồng của họ cũng có chút nghi vấn. Đó là
một chuyện tình yêu, nhưng lại không phải là chuyện tình chúng ta hay gặp. Có một
thứ tình cảm khác, sâu xa, ẩn mình phía sau, có một lời nói thầm, nửa cảnh
giác, một sự chú ý lặng lẽ đối với thói vô tâm của con người. Lặng lẽ nhưng đau
đớn. Cũng tương tự như thế, trong truyện Sỏi đá, việc ngoại tình của một
người đàn bà, thói phiêu lưu, sự thờ ơ trưởng giả của một người đàn ông, lối sống
phóng túng và vô trách nhiệm của chàng nghệ sĩ, đưa đến những hậu quả không ngờ.
Trong khi trong truyện Đêm, người đọc có ấn tượng tất cả mọi cảnh vật bên
ngoài đều chỉ là biểu hiện hiện thực của những tư tưởng thầm kín của một thiếu
nữ.
Trong một cuộc phỏng vấn với Geoff Hancock (3), Munro cho rằng
cả yếu tố cốt truyện và khung cảnh câu chuyện đều không quan trọng lắm trong
truyện ngắn. "Điều gì xảy ra như một sự kiện thật chẳng quan trọng gì. Khi
một sự kiện trở thành vấn đề quan trọng, truyện ngắn đó không có khả năng phát
triển". Sự cảm xúc, theo bà, đóng vai trò lớn hơn. "Tôi cũng không
nghĩ khung cảnh truyện là hệ trọng. Nhiều người nghĩ rằng tôi là một nhà văn viết
truyện địa phương. Và tôi sử dụng các địa phương nơi tôi lớn lên làm vật liệu
sáng tạo. Nhưng tôi không biết cách nào để diễn tả một điều gì đó, ở một nơi nào
đó, với mục đích định trước. Những việc ấy xảy ra và nơi chốn là một phần của
nó. Chẳng qua đó chỉ là sự tình cờ."
Có thể cho rằng cái mà Alice Munro gọi là cảm xúc (feeling)
chính là khí hậu của truyện. Khí hậu ấy thường xoay quanh một hình ảnh trung tâm,
hình ảnh ấy được chiếu rọi bởi một bên là khả năng quan sát khách quan, gần như
lãnh đạm, và một bên là khả năng thương yêu nồng nàn sâu kín. Hay phương pháp
hiện thực và khuynh hướng chống lại, gần như căm phẫn, đối với cái tệ hại. Truyện
của Munro phát triển qua một thời gian dài, tuy vậy khác với nghệ thuật tiểu
thuyết, sức mạnh của bà nằm ở các mối tương quan trong cùng một thời gian, như
trong một bức tranh. Bà nhìn thấy các nhân vật trong những chớp sáng của đời họ,
tức là trên những khúc quanh của số phận. Vì vậy truyện ngắn của bà, tuy dài, gần
như một loại tiểu thuyết ngắn, được viết với ngôn ngữ chân phương nhưng tinh tế,
tinh tế nhưng không hiền lành chút nào, thực ra phần nào gần với ngôn ngữ thơ
ca.
Sự mô tả đối với các tình huống, các tâm trạng, các diễn biến
đi vào chi tiết và chính xác, vì chi tiết nên chính xác, và vì chính xác nên
chi tiết. Chính vì vậy bà để mất một số độc giả không quen với việc đọc truyện
kiểu ấy, lối đọc tinh tế, tuy đồng cảm nhưng lại không thương cảm bi ai, và ngược
lại, trở thành nỗi quyến rũ không ngớt đối với nhiều người đọc khác, những người
cũng đặt cược vào sự chính xác như bà. Từ sự chính xác ấy mà các quyết định
riêng tư của cá nhân, những hy sinh và sai lầm của họ, các ngã rẽ của số phận bỗng
lộ diện bất ngờ, làm kinh ngạc bất cứ một người đọc điềm tĩnh nào.
Thật ra, sự chính xác cũng là bổn phận của tình yêu.
Lời giới thiệu
(1) The Art of Short Fiction by Gary Geddes, 1993,
Harper Collins, p.824.
(2) Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu các truyện này, theo thứ
tự được đánh số như trên. Các chú thích dưới mỗi truyện là của người dịch.
(3) Sách đã dẫn, p.513
TRÔI VỀ NHẬT BẢN
Tác giả: Alice Munro
Nguyên tác: To Reach Japan
Người dịch: Nguyễn Đức Tùng
Khi Peter đã mang xong hành lý của cô lên xe lửa, dường như
anh muốn bước ra xa. Nhưng không phải bỏ đi. Anh giải thích với cô rằng anh hơi
khó chịu vì đoàn tàu sắp rục rịch chuyển bánh. Đứng trên sân ga nhìn lên cửa sổ
toa tàu của họ, anh vẫy tay. Mỉm cười, vẫy tay. Nụ cười dành cho bé Katy rộng mở,
tỏa nắng, như thể anh tin, không chút nghi ngờ, rằng con gái của anh luôn kỳ diệu
đối với mình, cũng như anh với nó, như thế mãi. Nụ cười dành cho vợ đầy hy vọng
và tin tưởng, với vẻ xác định mạnh mẽ. Đôi khi có những việc không thể nói
thành lời, chẳng bao giờ nói được. Nếu Greta có lần nào nhắc đến điều ấy, anh sẽ
nói, Đừng có điên. Và cô sẽ đồng ý với anh ngay, nghĩ thật không tự nhiên đối với
những người gặp nhau hằng ngày, mọi lúc, mà còn đi giải thích dài dòng về mấy
chuyện lặt vặt.
Khi Peter còn bé, mẹ anh đã mang anh qua nhiều rặng núi mà
Greta không nhớ tên, trên đường chạy trốn khỏi nước Tiệp Khắc xô viết cũ, đến
Tây Âu. Tất nhiên có nhiều người khác nữa. Cha của Peter, mới đầu dự định sẽ đi
cùng họ nhưng hôm trước chuyến đi bí mật, ông bị chuyển đến viện điều dưỡng.
Ông muốn đi theo họ một khi khoẻ lại, nhưng ông đã chết.
“Em đã đọc những chuyện tương tự như thế”, Greta nói, khi lần
đầu Peter kể cho cô nghe chuyện của anh. Cô giải thích rằng trong những
chuyện ấy đứa bé bắt đầu khóc thét lên và nó sẽ bị người ta bóp miệng hoặc bóp
cổ để cho không có tiếng động nào làm nguy hiểm cả đoàn người chạy trốn.
Peter nói anh chưa bao giờ nghe mấy chuyện như thế và anh chẳng
phẩm bình gì việc mẹ anh sẽ làm sao trong tình huống như vậy.
Điều bà đã làm là tới được British Columbia, nơi bà học thêm
tiếng Anh và xin được một chân dạy cho học sinh trung học, một môn gọi là thực
hành doanh nghiệp. Bà một mình nuôi dạy Peter, cho anh học đại học, và bây giờ
anh trở thành kỹ sư. Khi bà đến căn hộ của hai người, rồi sau đó là nhà, bà lúc
nào cũng ngồi ở phòng khách, không bao giờ xuống bếp, trừ khi Greta mời bà. Đó
là phong cách của mẹ Peter. Bà tránh nhận xét. Tránh lưu tâm, không đường đột
đi vào, không gợi ý, mặc dù trong mọi việc nội trợ hay nghệ thuật bà đều giỏi
giang hơn đứa con dâu của mình.
Bà đã bán căn hộ nơi Peter lớn lên và dời vào một căn nhỏ
hơn, không có phòng ngủ, chỉ có một phòng với chiếc ghế dựa có thể kéo ra làm
giường. Vậy là anh không thể về nhà thăm mẹ được rồi? Greta trêu chọc bà, nhưng
bà giật mình. Sự hài hước làm bà đau đớn. Hoặc có thể là vấn đề ngôn ngữ. Nhưng
tiếng Anh là thứ tiếng bà dùng hàng ngày và đó cũng là ngôn ngữ duy nhất mà
Peter biết. Anh đã học môn thực hành doanh nghiệp – dù không phải từ mẹ mình –
vào lúc Greta học Thiên Đường Đã Mất (1). Cô tránh tất cả những thứ gì có ích
như tránh bệnh dịch hạch. Còn anh ngược lại.
Có một tấm gương ở giữa họ ngăn cách họ, và Katy không ngừng
vẫy tay với anh, họ nhìn nhau trìu mến. Cô nghĩ anh chàng quá sức đẹp trai, làm
sao anh không bao giờ biết về điều ấy cả. Anh mặc một cái áo cắt ngắn, đúng thời
trang – đặc biệt nếu như đó là một chàng kỹ sư – với màu da sáng nhưng không
bao giờ ửng hồng lên như da của cô, không bao giờ sạm đi vì ánh mặt trời, nhưng
có một màu ăn nắng đều đặn của các mùa.
Ý kiến của anh đối với chuyện này chuyện khác cũng hệt như
màu da của anh vậy. Khi họ đi coi phim, anh chẳng bao giờ nói gì sau đó cả. Anh
có thể nói đó là phim hay, hoặc rất hay, hoặc coi được. Anh dường như không thấy
có chuyện gì nói thêm nữa. Anh coi ti-vi, đọc một cuốn sách hay một cái gì đó
cũng tương tự thế. Anh là người kiên nhẫn với những thứ ấy. Người ta thường cố
gắng làm điều đó một cách tốt đẹp. Greta thì tranh cãi và hỏi thử rằng liệu anh
ta có nói giống mình không về một chiếc cầu. Người ta đã làm hết sức mình rồi,
em ạ, nhưng điều tốt đẹp nhất của con người vẫn chưa đủ tốt, vì vậy chiếc cầu
kia đã gãy và rơi. Thay vì tranh cãi, anh cười phá lên.
Mấy thứ đó không giống nhau, anh bảo.
Không?
Không.
Greta nhận ra rằng thái độ như thế - bao dung, tự tách mình
ra khỏi chuyện rắc rối – thật ra là một may mắn với cô, bởi vì cô là nhà thơ,
và những thứ trong thơ cô lại chẳng có cách nào có thể gọi là vui thú hay giải
thích được.
(Mẹ Peter và những người làm việc với anh – những người biết
rõ anh – vẫn gọi cô là nữ thi sĩ (2) . Cô đã dặn anh đừng gọi cô thế. Ngoài ra
chẳng có chuyện gì cần phải chỉ bảo anh cả. Những người bà con mà cô không bao
giờ gặp lại trong đời mình, và những người cô biết thì bây giờ đều trở thành vợ
hoặc mẹ, những người nội trợ, họ chẳng cần ai chỉ bảo dạy dỗ vì họ chẳng biết
gì mấy thứ ấy.)
Sau này, khi cô nhớ lại, thật khó giải thích tại sao lúc ấy
cái này lại đúng, cái khác thì không. Bạn có thể nói, ồ, nhưng chủ nghĩa nữ quyền
thì không. Nhưng bạn liền giải thích nữ quyền không phải là một chữ hồi đó được
dùng. Rồi bạn phải nói ngắn gọn rằng chỉ cần một ý tưởng nghiêm túc thôi, chưa
nói tham vọng này khác, hay ngay cả đọc một cuốn sách thực sự, cũng trở thành kẻ
đáng nghi, biết đâu chẳng vì thế mà con của bạn mắc chứng viêm phổi do bị bỏ
bê, và một nhận xét chính trị trong bữa tiệc văn phòng có thể làm chồng bạn mất
cơ hội thăng tiến. Bất kể bạn đứng về phe nào. Nếu là phụ nữ, hễ bạn mở miệng
ra có chuyện. Người ta sẽ cười bảo, Ồ, bạn nói giỡn chứ, và bạn phải trả lời,
À, cũng không đến nỗi tệ hại thế. Rồi bạn thêm, dù vậy, nếu làm thơ thì phụ nữ
an toàn hơn đàn ông. Có một thời danh hiệu nữ thi sĩ được dùng thoải mái, dễ
như ăn món tráng miệng xay đường vậy. Peter không cảm thấy thế, cô nói vậy,
nhưng bạn cần nhớ anh sinh ở châu Âu. Mặc dù anh hiểu tại sao cánh đàn ông đồng
sự có lối suy nghĩ thành kiến như thế.
Mùa hè năm đó, trong vòng một tháng hoặc lâu hơn, Peter phải
đi coi sóc công việc ở Lund, rất xa, trên đất liền, xa lắm về phía Bắc. Tại đó,
không có phòng ở cho Katy và Greta.
Nhưng Greta vẫn giữ liên lạc đều với bạn gái, một người có thời
làm việc chung trong thư viện Vancouver, nay đã lập gia đình và đang sống ở
Toronto. Cô ấy và chồng sẽ đi du lịch châu Âu một tháng hè – anh ấy là thầy
giáo - và cô đã viết thư cho Greta hỏi là liệu Greta và gia đình có vui lòng –
lời lẽ lịch sự - tới sống trong nhà của họ ở Toronto vào khoảng thời gian ấy
không, để cho nó khỏi trống vắng. Greta viết thư trả lời, kể cho bạn nghe về
công việc của Peter, vẫn ngỏ ý muốn đến ở nhà bạn, chỉ hai người, mình và Katy.
Vì thế giờ đây gia đình họ kẻ vẫy tay từ biệt trên toa tàu,
người thì vẫy dưới sân ga.
Thời ấy có một tạp chí, tên Những câu trả lời vang vọng,
xuất bản không đều ở Toronto. Greta tìm thấy nó trong thư viện và gởi đến toà
soạn vài bài thơ của mình. Hai bài thơ của cô được in, kết quả là khi người
biên tập của tạp chí đến Vancouver, mùa thu vừa rồi, Greta đã được mời đến dự
tiệc với nhiều cây bút khác, để gặp ông ta. Bữa tiệc được tổ chức tại nhà của một
nhà văn mà tên tuổi rất quen thuộc với cô. Tiệc tổ chức khi chiều muộn, Peter
đi làm chưa về, vì vậy Greta thuê một người coi em và lên xe buýt từ Bắc
Vancouver, qua cầu Sư Tử (3) xuyên công viên Stanley. Rồi cô phải đợi ở vịnh
Hudson để đáp một chuyến xe dài nữa tới khuôn viên đại học, nơi nhà văn kia cư
ngụ. Xuống xe buýt ở trạm cuối, cô tìm thấy đường vào và vừa đi vừa nhìn số
nhà. Cô mang giày cao gót nên bước chậm. Cô mang áo đầm đen cầu kỳ, dây kéo sau
lưng, may thắt ở eo, lúc nào cũng siết chặt ngang hông. Cái áo làm mình thật kỳ
quặc, cô nghĩ thầm, trong khi khập khiễng bước dọc theo đường vòng không có lề
đường, người bộ hành độc nhất trong chiều tà. Những căn nhà hiện đại, những cửa
sổ có tranh, như thường thấy ở ngoại ô sang trọng, không phải là xóm nhà cô tưởng.
Cô bắt đầu tự hỏi liệu mình có đi lạc không đây, và không khổ sở lắm khi nghĩ
là chuyện ấy đang xảy ra. Cô có thể vòng lại trạm xe buýt và nghỉ trên băng ghế
dài, có thể kéo tuột đôi giày ra và ngồi thong thả trên xe buýt suốt chặng đường
trở lại nhà mình.
Nhưng rồi cô thấy những chiếc xe hơi đỗ bên đường, thấy số
nhà, đã quá trễ để quay lại. Trong nhà đầy tiếng cười nói vọng ra sau lần cửa
đóng, cô phải rung chuông hai bận.
Một người phụ nữ ra đón nhưng trông bà ta dường như đang chờ
một người nào khác, cũng không tỏ vẻ chào mời- người đàn bà chỉ mở cửa và Greta
bảo rằng có lẽ đây là nơi có tiệc.
“Nhưng bữa tiệc đó ra sao?” Người đàn bà hỏi, và hơi nghiêng
mình bên khung cửa, vẫn đứng chắn lối đi, cho đến khi Greta nói, “Tôi có thể
vào nhà được không?” và bỗng có một cử động bất thần làm cô đau đớn. Bà ta
không bảo Greta đi theo mình nhưng Greta vẫn cứ đi, mặc kệ.
Không ai trò chuyện với cô, không ai để ý tới người mới đến,
nhưng chỉ một lát sau có một cô bé đi tới với cái khay trên đó có những ly đựng
thứ nước kiểu chanh đường màu hồng hồng. Greta cầm ly lên, uống ực một phát, và
lấy thêm ly nữa. Cô cám ơn con bé, cố gắng trò chuyện với nó về cuộc đi bộ dài
nóng nực, nhưng nó chẳng quan tâm, quay người đi làm bổn phận của mình.
Greta tiếp tục. Cô kiên nhẫn mỉm cười. Không ai nhận ra hay tỏ
ra vui vẻ với cô, mà cũng đúng, tại sao họ phải làm thế. Cái nhìn của mọi người
lướt qua người cô và rồi lại tập trung vào câu chuyện rôm rả của mình. Họ cười
nói. Mọi người trừ Greta đều có bạn, có chuyện đùa, có những bí ẩn riêng tư, ai
cũng có vẻ đang có người khác chào đón họ. Trừ những cô bé lượn đi lượn lại
mang những ly hồng hồng.
Cô không nản. Những ly nước làm cô quyết chí và cô quyết định
uống thêm ly nữa khi cái khay trờ tới bên cạnh. Cô quan sát một nhóm người đang
trò chuyện, nhận ra có một kẽ hở, nơi cô trượt ngay vào. Cô gần như tìm thấy được
một cái kẽ hở như thế khi cô nghe một người nào đó nhắc tên cuốn phim. Những cuốn
phim châu Âu bắt đầu được chiếu ở Vacouver thời ấy. Cô nghe một cái tên mà cả
cô và Peter từng coi. Bốn Trăm Ngọn Gió. “Ồ, tôi đã coi phim đó rồi.”
Cô cất tiếng khá lớn và nồng nhiệt khiến ai cũng quay lại nhìn, một người, có vẻ
nhân vật chính, nói, “Thế à?”
Greta rõ ràng say. Một loại rượu vang và nước bưởi hồng hồng
trộn nhau uống vội. Cô không uống bình thường. Cô biết mình say, nhưng cảm thấy
trong không khí thế này mọi thứ đều được phép, cũng không quan trọng gì nữa
chuyện có ai chịu làm quen hay không. Cô đi lòng vòng, thỉnh thoảng đưa ra nhận
xét này nọ.
Có một nhóm người ở bên vòm cửa có vẻ quan trọng. Trong số đó
cô nhận ra người chủ nhà, nhà văn mà tên tuổi và khuôn mặt cô biết khá lâu. Ông
ta nói lớn tiếng, câu chuyện lộn xộn, có tính chất nguy kịch bao quanh và những
người đàn ông khác nữa, như thể họ sẵn sàng ném vào mặt bạn sự tức tối. Vợ của
họ, cô tin thế, đứng bao quanh thành vòng tròn mà cô muốn xông qua.
Người đàn bà ra mở cửa cho cô không tham gia nhóm nào nhưng
là một nhà văn. Greta thấy bà quay đầu lại khi có ai đó gọi tên. Đó là tên một
người có bài trên tạp chí mà cô có thơ đăng. Trong một hoàn cảnh thế này liệu
người ta có nên đứng lên tự giới thiệu không? Một cú trả đũa cho thái độ lạnh
lùng ở cửa?
Nhưng bây giờ nhà văn nữ ấy đang bận cúi xuống vai người đàn
ông gọi mình và rõ ràng họ không thích gì chuyện bị cắt ngang.
Nghĩ thế Greta liền ngồi xuống, nhưng vì không có ghế, cô
đành ngồi bệt xuống sàn. Cô nghĩ ngợi. Cô nghĩ rằng khi đi với Peter tới những
bữa tiệc của kỹ sư, không khí ở đó vui nhộn nhưng các cuộc trò chuyện chán ngắt.
Là bởi mọi người đều biết sự quan trọng của mình và đều an tâm với sự thu xếp ấy.
Ở đây, không ai được an toàn như thế cả. Sự phán xét xảy ra sau lưng bạn, ngay
với những nhà văn danh tiếng, đã có sách xuất bản. Một khí hậu trí tuệ và lo
âu, bất kể bạn là ai.
Và ở chốn đây, cô ngồi đợi ai đó ném cho mình mẩu xương của đề
tài đặng mà bắt lấy.
Rồi cô xây dựng một lý thuyết về sự tức giận, và khi có nó trong
tay, lòng liền dịu lại, chẳng quan tâm gì nữa chuyện có ai them bắt chuyện hay
không. Cởi giầy ra, cô hoàn toàn thư thái. Cô ngồi trên sàn nhà dựa hẳn vào tường,
chân duỗi thẳng chắn lối đi hẹp của bữa tiệc. Cô không muốn rượu đổ lên thảm,
nên nốc cạn hết một hơi.
Một người đàn ông tới đứng ngay trước mặt cô, anh bảo, “Cô bạn
tới đây bằng cách nào?”
Cô cảm thấy tội nghiệp cho những bàn chân chụm lại của anh
ta. Cô cảm thấy tội nghiệp cho ai đó phải đứng lên. Cô trả lời cô được mời.
“Đúng rồi. Nhưng bạn tới đây bằng xe hơi của mình à?”
“Tôi đi bộ.” Nói thế chưa đủ, ngần ngừ một lát cô thêm.
“Tôi tới bằng xe buýt rồi đi bộ vào đây.”
Một người đàn ông ở trong nhóm những người bao quanh nhân vật
chính nay tới đứng sau lưng anh chàng mang giày kia. Anh ta bảo, "Ý tưởng
tuyệt vời". Và tỏ vẻ sẵn lòng trò chuyện với cô.
Người đến trước không chú ý đến cô gái lạ mặt này. Anh ta đem
đôi giày của Greta lại, nhưng cô từ chối, giải thích chân cô đau lắm.
“Hãy mang giày vào. Nếu không tôi sẽ tự mình mang cho cô đấy.
Cô đứng lên được chứ?”
Cô nhìn quanh tìm kiếm người đàn ông quan trọng kia, nhưng
ông ta không còn ở đó. Bây giờ thì cô bắt đầu nhớ lại những trang viết của ông ấy.
Một vở kịch về Doukhobor, đã gây nhiều dư luận, bởi vì những nhân vật phải khoả
thân. Tất nhiên đó không phải là những người Doukhobor thật, họ là các diễn
viên. Và tất nhiên họ không được phép tuột áo quần ra.
Cô cố gắng giải thích điều này cho anh chàng đến sau đang
giúp cô đứng dậy, nhưng anh ta chẳng chú ý tới vụ vở kịch. Cô hỏi là anh viết cái
gì, anh trả lời rằng anh không phải là nhà văn, chỉ là một ký giả. Anh tới đây
với đứa con trai và đứa con gái, cũng là những cháu ngoại của chủ nhà. Những đứa
trẻ ấy đang mang thức uống đến cho mọi người.
“Thứ đồ uống chết người”, anh ta nói, ám chỉ những ly rượu.
“Dở thậm tệ.”
Bây giờ thì họ đã ở bên ngoài. Cô bước đi chân mang vớ nhưng
không giày trên cỏ, suýt nữa dẫm phải một vũng nước.
“Có ai đó đã đổ nước ra đây,” cô bảo.
“Chắc thế,” anh nói, đưa cô vào trong xe. Không khí bên ngoài
làm thay đổi tâm trạng cô, từ hứng khởi đến ngượng ngùng, gần như xấu hổ.
“Bắc Vancouver,” anh nói. Chắc là cô đã từng nói với anh thế.
“Phải vậy không? Chúng ta sẽ đi. Cầu Sư Tử.”
Cô hy vọng anh không hỏi cô đã làm gì ở buổi tiệc. Nếu cô phải
nói rằng mình là một nhà thơ thì tình trạng hiện nay của cô, sự nhõng nhẽo quá
đáng, sẽ được coi là thói tệ hại tiêu biểu. Trời chưa tối, nhưng chiều muộn. Họ
dường như đang chạy đúng hướng, dọc theo bờ nước qua cầu Burrad. Rồi nhiều lối
rẽ nữa. Cô mở lớn mắt nhìn những hàng cây chạy dọc đường, nhắm mắt lại, không
phải cố ý. Khi xe dừng lại sớm, cô biết rõ họ chưa về tới nhà. Tức là nhà cô.
Có những tàn cây lớn ở trên đầu họ. Không thể thấy một ngôi sao nào cả. Nhưng
chúng chiếu xuống mặt nước, làm nước sáng lên ở khoảng giữa nơi họ ngồi và quầng
sáng đô thị.
“Hãy ngồi xuống và suy nghĩ”, anh bảo thế.
Cô thấy lòng tràn ngập niềm vui vì một chữ của anh.
“Suy nghĩ.”
“Làm sao cô có thể đi bộ về nhà, ví dụ thế. Làm sao xử sự
đúng mức?
Đừng liều mạng. Thản nhiên? Tôi đoán chừng cô có một ông chồng.
“Tôi sẽ cám ơn ông vì chở tôi về nhà,” cô nói. “Vì vậy ông
nên cho tôi biết tên ông là gì thì hay hơn.”
Anh bảo đã nói tên mình cho cô rồi. Có thể hai lần. Nhưng một
lần nữa cũng không sao. Tên Harris Bennett. Bennett. Anh là con rể của cặp vợ
chồng tổ chức buổi tiệc. Những đứa trẻ kia là con của anh, những đứa đi mời thức
uống. Anh và chúng đến thăm gia đình từ Toronto. Vậy đủ chưa?
“Thế mẹ chúng đâu?” cô hỏi.
“Bọn trẻ có mẹ chứ, nhưng cô ấy ở trong bệnh viện.”
“Ồ tôi xin lỗi.”
“Không cần đâu. Đó là một bệnh viện khá tốt. Chuyên chăm sóc
các bệnh tâm thần. Hay cô có thể nói các bệnh xúc cảm.”
Greta vội vàng nói cho anh nghe rằng chồng mình tên Peter và
anh ấy là kỹ sư, và họ đã có với nhau một đứa con gái tên Katy.
“Ồ, thật tốt,” anh nói thế, và thôi không trò chuyện với cô nữa.
Ở trên cầu Sư Tử anh bảo, “Tôi xin lỗi đã nói năng như vậy.
Có lúc tôi nghĩ không biết có nên hôn cô hay không, nhưng rồi tôi quyết định là
không nên.”
Cô nghĩ, tức là anh muốn nói ở người cô có một điều gì đó
ngăn anh lại. Thật mất mặt, bỗng dưng trở thành nữ tu khổ hạnh.
“Bây giờ chúng ta qua cầu rồi, liệu có nên chạy về đường
Marine không? anh tiếp tục. “Cô hướng dẫn tôi nhé”.
Suốt mùa thu và mùa đông và cả mùa xuân sau đó nữa không một
ngày nào cô không nghĩ về anh. Giống như giấc mơ tới chỉ vài phút trước khi bạn
ngủ thiếp đi. Cô ngả đầu lên gối trên ghế sofa, tưởng tượng đang tựa đầu
vào tay anh. Bạn không tưởng tượng được là cô có thể nhớ như in khuôn mặt người
đàn ông ấy. Nhưng cô nhớ từng chi tiết, nhớ khuôn mặt với những đường gân có vẻ
mệt mỏi, hài hước kiểu người ở trong nhà. Không phải vì cơ thể bạc nhược, mà giống
như một thứ bị hao mòn đi nhưng vẫn mạnh mẽ và đáng them khát khôn lường.
Cô gần như chảy nước mắt vì thương nhớ. Thế nhưng tất cả
hoang tưởng kia liền rơi vào giấc đông miên một khi người chồng trở về. Tình cảm
mỗi ngày giữa họ được thổi bùng lên, đáng tin cậy như bao giờ cũng thế.
Giấc mơ giống như thời tiết của Vancouver – một niềm thương
xót bùi ngùi, một nỗi buồn mưa gió li ti, một sức mạnh luân chuyển vòng quanh
trái tim ta.
Còn việc từ chối cái hôn, hình như một cú chơi không đẹp, cô
biết phải làm sao đây?
Chỉ giản dị là triệt tiêu nó. Thôi đành quên, mãi mãi.
Nhưng còn thơ của cô? Không một dòng, không một chữ. Không dấu
vết nào chứng tỏ cô còn nhớ đến chúng.
Tất nhiên cô dành cho những cơn nhớ nhung kia góc kín đáo
trong tâm hồn, mỗi khi Katy đã ngủ. Đôi khi cô gọi lớn tên anh, liều ôm lấy nỗi
xuẩn ngốc của mình. Sau đó cô lại phát ngượng, tự nguyền rủa mình. Đồ ngu. Xuẩn
ngốc.
Nhưng chuyện tình cờ kia đến, công việc ở xứ Lund, lời đề nghị
về căn nhà Toronto. Thời tiết âm u bỗng sáng ra, mở một lối cho nỗi đời táo bạo.
Cô bỗng nhận ra mình đang ngồi viết một bức thư, không phải bắt
đầu một cách thông thường. Không có câu Harris thân mến. Cũng không bắt đầu như
anh còn nhớ tôi không.
Em viết thư này như bỏ vào chai
Một tờ giấy, thế thôi, mơ ước
Sóng xô về nước Nhật một ngày mai
Bức thư này hơi giống một bài thơ.
Cô chẳng bao giờ biết địa chỉ người nhận. Cô đủ can đảm và thừa
điên khùng để nhấc máy gọi điện thoại cho người tổ chức bữa tiệc. Nhưng khi đầu
dây kia một người đàn bà trả lời thì miệng cô khô lại, há ra như vùng giá rét Bắc
cực, và cô liền gác máy. Rồi cô lại đẩy xe chở bé Katy tới các thư viện công cộng
và tìm được cuốn danh bạ điện thoại Toronto. Có nhiều cái họ Bennett nhưng
không có người nào có tên Harris hay H. Bennett.
Cô nghĩ ra một ý tưởng điên rồ hơn, tìm kiếm trong các mục
cáo phó, tin buồn. Cô không thể dừng lại được. Cô chờ đến khi một người đang đọc
phiên bản thư viện đã xong. Cô không đọc các báo phát hành từ Toronto bởi cô phải
đi qua cầu mới kiếm được chúng và Peter bao giờ cũng mang về nhà tờ Mặt trời
Vancouver. Lật dở nhiều trang, cuối cùng cô cũng tìm thấy tên anh trên một cột
báo. Nhưng anh không chết. Một nhà báo phụ trách chuyên mục. Tất nhiên anh
không muốn người khác làm phiền bằng cách gọi về nhà riêng.
Nhà bình luận chính trị. Bài viết của anh tỏ ra sắc sảo,
nhưng cô chẳng hề quan tâm tới chuyện ấy.
Cô gởi bức thư về toà soạn. Cô không biết chắc anh có tự mình
mở các thư không, còn nếu cô ghi chữ “Thư riêng” lên phong bì thì có thể phiền
hà, cuối cùng cô chỉ viết ngày đến Toronto, thời giờ chuyến xe lửa, sau mấy
dòng nói về cái chai đựng giấy kia. Không có tên. Cô nghĩ nếu có ai mở ra, sẽ
cho là có một người bà con già nua đâu đó viết lẩm cẩm. Chẳng có lời nào cụ thể
về anh, ngay cả bức thư kỳ lạ kia có tới nhà anh và vợ anh có đọc được, sau khi
cô ta từ bệnh viện về, thì cũng chẳng biết mô tê gì.
Rõ ràng Katy không hiểu việc Peter còn đứng trên sân ga có
nghĩa là cha nó sẽ không đi cùng họ. Khi hai mẹ con bắt đầu di chuyển còn người
cha thì không, và rồi khi tàu chạy nhanh lên bỏ lại người đàn ông một mình, con
bé không còn chịu được nữa. Nhưng rồi nó dịu xuống, sau một lúc. Nó bảo Greta rằng
cha sẽ tới cùng lúc với họ vào sáng hôm sau. Khi buổi sáng tới, Greta cảm thấy
sợ hãi nhưng Katy không nói gì nữa về sự vắng mặt kia. Greta hỏi con có đói
không, nó bảo có, giải thích cho mẹ - vì Greta đã từng bảo nó trước khi lên xe
lửa, - rằng bây giờ họ phải thay đồ mặc ngủ ra, và chuẩn bị ăn sáng ở một phòng
khác.
“Con muốn ăn gì đây?”
“Đậu chiên.” Đó là thứ gạo rang của trẻ con.
“Chúng ta sẽ xem trên tàu họ có thứ ấy không”
Họ có.
“Bây giờ mẹ con mình đi tìm cha chứ?”, cuối cùng con bé hỏi.
Có một phòng chơi của trẻ con nhưng khá nhỏ. Một đứa con trai
và một đứa con gái - chắc là anh và em, bởi bộ dạng chúng giống nhau - chiếm mất
rồi. Chúng chơi một trò đuổi chạy những chiếc xe hơi nhỏ va vào nhau. Ầm ầm.
“Đây là bé Katy,” Greta nói với chúng. “Cô là mẹ của nó. Tên
của các cháu là gì đây?”
Trò chơi ngày càng ác liệt nhưng bọn trẻ không ngước mặt lên.
“Cha không có ở đây,” Katy bảo mẹ.
Greta quyết định hai mẹ con quay trở lại và tìm cho Katy cuốn
Christopher Robin để mang lên toa có vòm kính (4) và đọc. Họ không muốn làm phiền
ai vì bữa điểm tâm vẫn còn và cuộc ngắm cảnh núi non chưa bắt đầu. Rắc rối xảy
ra khi cô đọc xong cuốn Christopher Robin và Katy muốn mẹ đọc lại ngay lập tức.
Trong lần đọc đầu tiên con bé giữ im lặng, nhưng bây giờ nó bắt đầu ngắt lời
vào cuối mỗi câu. Lần này nó bắt chước véo von chữ này chữ khác dù vẫn không tự
mình đọc lấy. Greta hình dung điều này làm phiền người khác khi mọi người đến
đông hơn. Vào tuổi Katy, trẻ con không biết sự đơn điệu là gì. Thực ra chúng rất
khoái trò lặp đi lặp lại, nhào lộn trong ấy, liếm các chữ thân quen quanh lưỡi
như thể đó là kẹo ăn được mãi.
Một chàng trai và một cô gái leo lên mấy bậc thang và ngồi đối
diện Greta và Katy. Họ chào hai mẹ con với vẻ vui tươi và Greta đáp lời. Katy tỏ
vẻ không hài lòng, tiếp tục đọc nho nhỏ trong khi dán mắt vào trang sách.
Từ bên kia lối đi, giọng của chàng trai, cũng nhỏ như giọng đọc
của Katy:
Họ đổi phiên gác ở cung điện Buckingham –
Christopher Robin đi xuống cùng Alice.
Sau khi đọc xong mấy câu ấy cậu ta liền tiếp theo. “Tôi không
thích chúng, Sam là tôi”.
Greta cười phá lên nhưng Katy thì không. Greta có thể thấy được
là con gái hơi chướng mắt. Nó thông cảm với những chữ lăng nhăng vô nghĩa được
đọc từ một cuốn sách nhưng không thích những chữ ấy được nói ra trống không như
vậy.
“Xin lỗi,” chàng trai nói với Greta. “Chúng tôi là trẻ mầm
non. Đó là văn học của chúng tôi”. Cậu ta nghiêng người về phía trước, trò chuyện
một cách trang nghiêm và dịu dàng với Katy.
“Đó là một cuốn sách hay, phải vậy không?”
“Anh ta muốn nói là chúng tôi làm việc với những đứa trẻ mầm
non,” cô gái đi theo chàng trai bảo Greta. “Đôi khi chúng tôi lẫn lộn lung
tung.”
Chàng trai tiếp tục câu chuyện với Katy.
“Tôi có thể đoán được tên em không. Tên gì nhỉ? Có phải là
Rufus không? Hay là Rover?”
Katy cắn môi nhưng không cầm được một câu trả lời bực tức.
“Tôi không phải là con chó,” nó nói thế.
“Không. Lẽ ra tôi không nên ngốc thế. Tôi là một chàng trai.
Tên tôi là Greg. Cô này là Laurie.”
“Anh ta chọc ghẹo em đó mà,” Laurie nói. “Hay là chị nên đập
cho hắn một cái?”
Katy ngẫm nghĩ một lúc, rồi bảo, “Không nên.”
“Alice sẽ cưới một chàng lính canh,” Greg tiếp tục, “Cuộc đời
quân nhân thật gian khổ, Alice than thở.”
Katy nói chen vào ở chữ Alice sau của Greg.
Laurie bảo Greta họ đang tập huấn lớp mẫu giáo, tập các lối
văn trào phúng. Việc đó gọi là tập đọc sách. Thật ra họ là những nghệ sĩ. Cô sẽ
xuống ga ở Jasper nơi cô có một việc làm mùa hè chạy bàn trong tiệm ăn và đóng
những hài kịch nhỏ. Không hẳn là công việc thực tập đọc sách. Môn giải trí người
lớn, thật thế.
“Lạy Chúa” cô ta nói. Rồi cười phá lên. “Kiếm được việc gì
thì làm”
Greg thoải mái hơn, và sẽ xuống ở Saskatoon. Gia đình anh ở
đó.
Bọn họ thật xinh đẹp, Greta nghĩ thầm. Cao, rắn rỏi, mảnh mai
một cách kỳ lạ, chàng trai có mái tóc xoăn màu sẫm, cô gái tóc đen, da thịt mỡ
màng như Madonna. Khi Greta nói tới sự tương tự này một lát sau đó, bọn họ bảo
là đôi khi họ cũng lợi dụng điều này, khi cần phải thu xếp chuyện ăn ở. Điều đó
làm cho mọi việc không kết thúc dễ dàng hơn, nhưng họ phải nhớ để đặt hai giường
ngủ và làm cho cả hai cái bừa bộn lên sau một đêm.
Và bây giờ, họ nói với Greta, bây giờ thì họ không cần phải
lo lắng nữa. Không có gì làm họ bực mình. Họ đang chia tay, sau ba năm ở bên
nhau. Họ vẫn còn giữ trinh tiết qua nhiều tháng, ít nhất là trong quan hệ giữa
hai người với nhau.
“Bây giờ thì hết chuyện cung điện Buckingham,” Greg bảo Katy.
“Bây giờ tôi phải làm bài tập của mình.”
Greta nghĩ thầm có lẽ anh ta sắp đi xuống phía dưới hoặc ít
nhất là tới chỗ lối đi để làm một vài động tác thể dục mềm dẻo, nhưng thật ra
chàng ta và Laurie chỉ ngẩng đầu ra sau, ưỡn cổ ra, và bắt đầu hót líu lo, kêu
lảnh lói và hát những bài nhạc kỳ quái. Katy rất thích thú, coi đó là món quà tặng,
như thể là một màn biểu diễn dành riêng cho mình. Nó bắt đầu tỏ vẻ là một khán
giả đứng đắn - ngồi rất im cho đến khi bài tập kết thúc, rồi phá ra cười ngặt
nghẽo.
Một số người tính đi lên bậc thang lại phải dừng lại ở chân
thang, không vui vẻ được như Katy và không biết phải làm gì.
“Xin lỗi,” Greg nói, không giải thích gì cả nhưng với một
dáng điệu thân mật. Chàng ta đưa tay ra cho Katy.
“Hãy tìm xem có một phòng chơi nào không.”
Laurie và Greta đi theo họ. Greta hy vọng rằng chàng trai này
không phải là loại người tìm cách kết bạn với trẻ con để tự đánh giá khả năng
giao tế của mình, rồi cảm thấy chán và bực mình khi nhận ra sự nhiệt thành của
một đứa bé là vô tận.
Đến giờ ăn trưa hay trước đó, cô biết mình không cần phải lo
lắng thế. Điều xảy ra không phải là sự thú vị đối với Katy làm Greg mệt mỏi,
nhưng là những đứa trẻ khác tham gia trò chơi và anh chẳng tỏ ra mệt tí nào.
Thật ra Greg không cố tình bày trò thi đua. Anh sắp xếp mọi
việc sao cho sự chú ý của mọi đứa bé tập trung vào anh chuyển thành sự chú ý của
bọn trẻ đối với nhau, và vào trò chơi, sống động, thậm chí ồn quá mức, nhưng
cũng không ngỗ nghịch quá đáng. Không có đứa trẻ nào tỏ ra tức tối. Những trò
nhõng nhẽo biến mất. Chỉ tiếc không đủ thì giờ - quá nhiều trò vui tiếp tục. Thật
là phép lạ, thói nghịch ngợm trẻ con đã được dàn xếp gọn gàng trong không gian
nhỏ hẹp. Bọn trẻ chơi đùa nhiều như thế sẽ ngủ giấc say vào buổi chiều.
“Anh ấy thật tuyệt,” Greta bảo Laurie.
“Gần được như vậy,” Laurie nói. “Anh ấy không sợ phí sức lực.
Chị biết không? Rất nhiều nghệ sĩ tiết kiệm sức lực của họ. Đặc biệt các diễn
viên. Ra khỏi sân khấu là y như chết vậy.”
Greta thầm nghĩ, đó cũng là điều mình đang làm. Mình đang tiết
kiệm sức lực đây. Thận trọng với Katy, cẩn thận với Peter.
Trong mười năm họ đi vào tình trạng ấy, mặc dù cô không chú
ý, gần như mọi thứ đều tập trung vào việc ấy. Đã tới tình trạng trước đây chưa
từng có. Trôi đi tự nhiên. Cho đi. Một số người cho đi, một số người không. Rào
cản giữa cái bên trong và bên ngoài của tâm trí bạn bị đạp đổ. Sự chân thực đòi
hỏi điều ấy. Những điều như thơ của Greta, không trôi ra một cách tự nhiên, trở
nên sự nghi ngờ và bị nhạo báng. Tất nhiên cô đã làm hết sức mình, bực bội tìm
kiếm, cứng cỏi một cách bí mật như những cái đinh đóng ngược. Nhưng lúc đó, bé
Katy đã chịu Greg, say mê những điều anh làm; việc ấy thì Greta biết ơn.
Về chiều, như Greta đoán trước, bọn trẻ ngủ vùi. Những người
mẹ một số cũng đi ngủ. Một số khác chơi bài. Greg và Greta vẫy tay cho Laurie
khi cô nàng xuống tàu ở Jasper. Laurie gởi một nụ hôn gió từ sân ga. Một người
đàn ông lớn tuổi hơn xuất hiện, cầm lấy vali của cô, hôn cô âu yếm, nhìn về
đoàn tàu và vẫy tay với Greg. Greg vẫy tay lại.
“Kẻ thế chỗ lúc này,” anh nói.
Nhiều cái vẫy tay nữa khi đoàn tàu rời đi, rồi anh ta và
Greta đưa Katy trở lại toa tàu, con bé ngủ thiếp giữa hai người, vẫn ngủ ngay cả
khi tàu giật sốc. Họ mở tấm màn cửa ra để có nhiều không khí, bây giờ không sợ
trẻ con rơi ra ngoài nữa.
“Có con thích lắm” Greg bảo thế. Mỗi lần lại có một chữ mới mẻ,
hay ít nhất cũng mới với Greta. “Đúng vậy” Greta nói.
“Chị rất bình thản. Sắp tới thế nào chị cũng nói, đời là thế
đó.”
“Tôi sẽ không nói thế đâu.” Greta bảo, nhìn anh ta trân trối
một lúc cho đến khi Greg lắc đầu và cười phá lên.
Anh nói với cô rằng anh trở thành một diễn viên cũng vì anh
đi nhà thờ. Gia đình anh theo đạo Thiên chúa, thuộc một giáo phái mà Greta chưa
hề nghe đến bao giờ. Giáo phái này không có đông giáo dân nhưng giàu có, ít nhất
vài người trong số họ. Họ xây một nhà thờ có rạp hát bên trong ở một thị trấn
thảo nguyên. Đó là nơi mà anh tập đóng kịch khi chưa tới mười tuổi. Họ diễn những
vở kịch có xuất xứ trong thánh kinh nhưng cả những chuyện mới, về những điều tệ
hại mà dân chúng mắc phải khi họ không có lòng tin vào Thiên chúa. Gia đình anh
tự hào về anh và chính anh cũng cảm thấy thế. Anh không bao giờ dám nghĩ đến
chuyện kể cho họ nghe về những chuyện xảy ra khi những người theo đạo tân tòng
giàu có đứng cầu nguyện và được ban phép lành. Dù sao cậu trai nhỏ cũng thích
được mọi người tán thưởng và quả thực anh thích đóng kịch.
Cho đến một ngày đứa bé nhận ra rằng nó có thể đóng kịch mà
không nhất thiết phải làm tất cả những thứ theo phép tắc nhà thờ. Anh dùng những
lời lẽ rất lịch thiệp để giải thích nhưng người ta bảo anh bị Quỷ ám. Anh cười
ha ha và nói tôi biết cái gì đang ám tôi.
Tạm biệt.
“Tôi không muốn chị nghĩ rằng những chuyện ấy là xấu. Tôi vẫn
tin vào cầu nguyện và mọi thứ khác. Nhưng tôi không bao giờ có thể kể cho gia đình
tôi nghe điều gì xảy ra. Bất cứ điều gì chỉ đúng một nửa cũng làm họ không chịu
nổi. Chị có biết những người như thế không?”
Cô bảo Greg rằng khi cô và Peter lần đầu chuyển về Vancouver,
bà nội của cô, lúc ấy vẫn ở Ontario, có biết một vị linh mục nhà thờ ở đó. Ông
gọi điện thoại và cô, Greta tỏ ra khinh khỉnh lạnh lùng với ông. Vị linh mục
nói rằng ông sẽ cầu nguyện cho cô nhưng cô nói thẳng rằng cô chẳng quan tâm. Bà
nội cô mất vào lúc đó. Greta cảm thấy xấu hổ và phát khùng lên về sự xấu hổ của
mình mỗi khi cô nghĩ tới chuyện ấy.
Peter chẳng hiểu gì cả. Mẹ anh chẳng bao giờ tới nhà thờ, mặc
dù một trong những lý do khiến ngày trước bà đã mang anh qua những ngọn núi là
để họ có tự do trở thành người Công giáo. Anh nói Công giáo là chọn lựa tốt,
bao giờ cũng giúp người ta có nhiều ưu thế trên đời.
Đó là lần đầu cô nghĩ tới Peter một lúc khá lâu.
Thực tế là cô và Greg đã uống một ít rượu trong khi cuộc trò
chuyện tuy buồn rầu nhưng dễ chịu của họ tiếp tục. Anh mang tới một chai rượu ouzo (5).
Cô thận trọng với nó như lúc nào cũng thế đối với rượu, kể từ buổi tiệc với các
nhà văn kia, nhưng rồi tác dụng của nó cũng xuất hiện. Đủ để họ ve vuốt tay
nhau, hôn hít và đụng chạm. Tất cả chuyện ấy xảy ra bên một đứa trẻ đang ngủ.
“Chúng mình phải dừng lại thôi,” Greta bảo. “Nếu không sẽ rất
tệ hại.”
“Có phải chúng mình đâu,” Greg bảo. “Những người nào khác.”
“Vậy bảo họ dừng lại. Anh có biết tên của họ không?”
“Chờ coi nào. Reg. Reg và Dorothy.”
Greta bảo “Vậy thì dừng lại, Reg. Con bé ngây thơ của em thì
sao?”
“Chúng ta có thể tới giường ngủ của anh. Không xa lắm.”
“Nhưng mà em không có”
“Anh có.”
“Anh không mang trên mình chứ”
“Tất nhiên không. Em nghĩ anh là thứ quỷ gì?”
Thế rồi họ sửa soạn chăn gối xô lệch, rời khỏi khoang tàu, cẩn
thận gài nút tất cả khoá trên giường Katy đang ngủ, và với vẻ mơ màng, cả hai
di chuyển lẹ làng từ chỗ của Greta tới nơi của Greg.
Việc ấy không cần - vì họ chẳng gặp ai cả. Hành khách nào
không ở trong toa vòm chụp hình những dãy núi bất tận thì cũng ở trong toa bán
rượu bia, hay say ngất ngư đâu đó.
Trong khoang của Greg lộn xộn đồ đạc, họ cởi những đồ mặc
trên người còn lại. Cái giường chật khó nằm, nhưng họ xoay xở được, nằm lăn lên
người nhau. Mới đầu họ cười phá lên, sau đó một niềm vui bất tận, và chỉ nhìn
vào mắt nhau để thỏa mãn. Cắn vào nhau để khỏi bật ra những tiếng kêu la inh ỏi.
“Thích quá,” Greg bảo. “Mọi thứ đều tuyệt.”
“Em phải trở về thôi.”
“Sao lẹ vậy?”
“Katy có thể thức dậy bất cứ lúc nào, không thấy em.”
“Được rồi, được rồi. Anh cũng phải xuống Saskatoon. Cái gì xảy
ra nếu đoàn tàu tới đó mà chúng ta đang làm chuyện kia? Chào mẹ ạ. Chào ba ạ.
Xin lỗi con đang bận làm cái này một chút. Ô hô!”
Greta trở nên kín đáo và buông Greg ra. Thật ra cô cũng không
quan tâm lắm ai là người cô đã gặp. Cô yếu đuối, hoảng loạn, nhưng bay bổng nhẹ
nhàng, giống như một đấu sĩ La Mã - cô thực ra cũng nghĩ tới điều này và mỉm cười
- sau một cuộc đấu trên khán đài.
Dù vậy cô biết cô chưa gặp tri kỷ.
Cái vòng khoá của màn cửa đã bị mở. Cô biết chắc cô đã kéo nó
lại rồi và đóng chặt. Mặc dù cái khoá đã mở nhưng Katy cũng khó mà bò ra ngoài
và con bé chắc không làm thế. Có lần Greta đã đi nhà vệ sinh và cô giải thích một
cách rõ ràng cho Katy là không nên chạy theo cô, và Katy đã nói con sẽ không
làm vậy đâu, như thể mẹ quá coi thường nó.
Greta cầm cái màn cửa mở toang ra, nhưng không thấy Katy đâu
hết.
Cô phát điên. Cô chụp cái gối như thể một đứa trẻ cỡ Katy có
thể núp đằng sau. Cô đấm vào chăn như thể con bé nằm im trong ấy. Cô bình
tĩnh lại và nghĩ xem chuyến tàu có lúc nào dừng không, và nếu có thì ở đâu,
trong khoảng thời gian cô đang ở bên Greg. Khi tàu dừng lại, nếu quả có một lúc
nó dừng, một tên bắt cóc trẻ em có lên được tàu hoả và bồng con bé đi mất
không?
Greta đứng giữa lối đi, cố nghĩ xem làm cách nào để dừng đoàn
tàu.
Rồi cô nghĩ, cố làm cho mình nghĩ, rằng thật ra chẳng có gì xảy
ra cả. Đừng nghĩ ngợi lung tung. Katy thức dậy, không thấy mẹ và đi tìm. Và nó
đi tìm mẹ một mình, thế thôi.
Greta đứng sững. Thân xác cô, tâm trí cô, trống rỗng. Điều ấy
không thể xảy ra được. Trở lại, trở lại nữa, trở lại cái lúc mà cô cùng bỏ đi với
Greg. Dừng. Dừng lại.
Bên kia lối đi là một cái ghế không có ai ngồi. Một cái áo
len phụ nữ và một vài tạp chí để trên ghế như đánh dấu chỗ ngồi. Bên kia nữa một
chỗ ngồi với dây an toàn kéo lên như thể cô đang - họ đang - ngồi đó. Greta kéo bật
chúng ra. Một ông già nằm ngủ trở người nhưng không thức dậy. Ông ta chẳng thể
nào che giấu một người khác sau lưng mình.
Thật quái lạ.
Một nỗi sợ hãi khác đến. Giả sử Katy đi một mình tới đầu này
hay đầu kia của toa tàu và mở được cánh cửa toa tàu ra. Hoặc đi theo một người
vừa mở cửa. Ở giữa hai toa tàu có một lối đi nhỏ bạn có thể bước qua chỗ chúng
nối lại với nhau. Ở đó bạn có thể cảm nhận được sự xô đẩy của toa tàu náo động ầm
ĩ và ghê sợ. Một cánh cửa nặng nề phía sau lưng bạn, một cánh cửa nặng nề phía
trước, và hai bên là những tấm sắt thép loảng xoảng va vào nhau. Những thứ này
che khuất bậc tam cấp khi đoàn tàu dừng lại.
Bao giờ bạn cũng vội vàng đi qua những chỗ nối hai toa tàu,
khi sự va chạm xoay chuyển kim loại nhắc bạn nhớ đến những điều sắp xếp không
phải bao giờ cũng hiển nhiên. Sự va chạm xoay vần của các tấm thép ngẫu nhiên
mà hối hả.
Cánh cửa cuối toa tàu quá nặng ngay cả với Greta. Hay cô đuối
sức vì sợ hãi. Cô dùng vai đẩy mạnh.
Và ở chỗ ấy, giữa hai toa tàu, trên một trong những tấm sắt
thép va đập ồn ào liên tục - Katy ngồi đó. Mắt nó mở to, môi hé mở, một mình, sửng
sốt. Nó không khóc, nhưng khi nhìn thấy mẹ, con bé òa lên nức nở.
Greta ôm lấy nó, kéo nó vào lòng và loạng choạng lùi lại bên
cửa, cánh cửa cô vừa mở ra.
Tất cả các toa xe đều có tên, nhắc nhở các trận đánh, những
cuộc phiêu lưu mạo hiểm hay những người Canada có công trạng lịch sử. Tên của toa
xe của họ là Connaught. Cô sẽ không bao giờ quên.
Katy không bị tổn thương. Quần áo của nó không bị mắc dính
vào các tấm sắt ở khoang giữa hai toa xe lửa.
“Con đi tìm mẹ.” Nó nói.
Khi nào? Mới lúc nãy, hay là ngay khi Greta bỏ con mà đi?
Chắc không phải thế. Nếu thế thì có người đã nhìn thấy, kéo
nó lên và kéo còi báo động rồi.
Mặt trời mọc nhưng thời tiết không ấm lắm. Mặt và hai tay cô
lạnh giá.
“Con nghĩ mẹ ngồi ở bậc lên xuống” con bé nói.
Cô choàng một cái mền lên người con, và ngay lúc đó cô bắt đầu
run lập cập như bị lên cơn sốt. Cô thấy ngấm bệnh, và có chút buồn nôn lợm lên
trong họng. Katy nói, mẹ đừng có đẩy con, và bước lùi lại.
“Mẹ có mùi kỳ quá hà”, nó nói.
Greta rụt tay lại, ngồi tựa hẳn lưng vào ghế.
Thật kinh khủng, cô nghĩ miên man về những điều xảy ra, thật
kinh khủng. Con bé vẫn cứng người lại vì phản ứng, tự ngồi xa ra.
Một người nào đó dễ dàng tìm thấy Katy, lúc nó ngồi một mình.
Một người tử tế nào đó, không phải kẻ xấu, nhìn thấy con bé ở đó và mang nó tới
nơi an toàn. Greta sẽ nghe được những thông báo lo ngại, tin tức loan ra là có
một đứa bé bị bỏ rơi trên xe lửa. Một đứa bé khai rằng nó tên là Katy. Cô sẽ luống
cuống bò dậy và chạy đi từ chỗ nằm của mình, sửa soạn cho tử tế một chút, chạy
thật mau đến chỗ con bé và sẽ nói dối, bảo rằng cô mới đi vào phòng vệ sinh. Tất
nhiên cô sẽ sợ hãi, nhưng vẫn còn hơn là bây giờ bị ám ảnh bởi hình ảnh của
Katy ngồi một mình ở đó nơi khoảng trống chật hẹp ồn ào kia, cô độc giữa hai
toa xe lửa.
Không khóc, không than phiền, như thể nó ngồi đó mãi mãi, và
không nhận được một lời giải thích nào của người lớn, không hy vọng. Mắt nó mở
to trống rỗng, miệng nó hé mở, trễ xuống, vào giây phút được mang đi và nó bắt
đầu khóc. Chỉ vào lúc đó con bé mới trở lại với thế giới của nó, quyền của một
đứa bé được đau khổ và được than vãn.
Bây giờ nó nói không buồn ngủ và muốn thức. Nó hỏi Greg ở
đâu. Greta bảo anh chàng đi ngủ vì mệt.
Katy và mẹ đến chỗ toa có vòm kính và ngồi suốt buổi chiều.
Chỉ có hai mẹ con ở đó. Những người chụp hình dãy núi Rocky Mountain chắc đã mệt
và đi nghỉ. Và như Greg đã từng nhận xét, những cánh đồng cỏ làm họ trở nên phẳng
lặng.
Chuyến tàu dừng lại một lát ở Saskatoon và vài người xuống
ga. Greg đi xuống giữa những người ấy. Greta nhìn thấy hai người đến đón anh
ta, có lẽ cha mẹ. Và có cả một người đàn bà lớn tuổi ngồi trên xe lăn, có lẽ bà
nội hay bà ngoai, và rồi một vài người trẻ tuổi hơn đứng vòng quanh vui vẻ, bối
rối. Không có ai ra vẻ thuộc nhóm đạo cuồng tín, hay những người khó tính hay dễ
ghét cả.
Nhưng làm sao bạn biết được một người như thế trong đám đông?
Greg quay lại và nhìn các cửa sổ tìm kiếm. Greta vẫy tay từ
toa xe lửa, anh ta nhìn thấy và vẫy tay lại.
“Kia là Greg,” cô bảo Katy. “Nhìn xuống dưới kia. Anh ta đang
vẫy tay. Con vẫy lại đi chứ?”
Nhưng Katy cảm thấy tìm anh ta thật khó khăn. Hay vì nó chẳng
cố gắng làm điều ấy. Nó quay đi với vẻ thản nhiên nhưng hơi bực bội và Greg sau
một hồi vẫy tay liên tiếp cũng quay đi. Greta tự hỏi có phải vì con bé trừng phạt
anh vì bỏ rơi nó, không muốn nhớ đến anh nữa hay không muốn biết.
Thôi được, chuyện đã như vậy thì quên đi.
“Greg có vẫy tay cho con mà.” Greta bảo khi xe lửa bắt đầu rời
ga.
“Con biết chứ.”
Đêm ấy khi Katy đã ngủ bên cạnh mẹ, Greta ngồi viết thư cho
chồng. Một bức thư thật dài, cô cố viết cho vui vẻ, về tất cả những người mà họ
đã gặp trên xe lửa. Họ thích nhìn qua những chiếc máy ảnh hơn là nhìn vào cảnh
thực, và tương tự thế. Con bé Katy cư xử phải phép. Không nhắc gì về vụ cô để lạc
nó, tất nhiên, hay nỗi sợ hãi kia. Cô bỏ thư vào thùng khi những cánh đồng cỏ
đã bị bỏ lại phía sau và những rặng cây vân sam trôi đi mãi mãi, và chuyến xe dừng
lại vì một lý do nào đó ở một thị trấn nhỏ hoang phế có tên Hornepayne.
Những giờ thức giấc còn lại qua hàng trăm dặm cô dành cho
Katy. Cô thầm biết sự săn sóc này chưa từng có trước đây. Tất nhiên cô là người
săn sóc con, mặc áo cho nó, cho nó ăn, trò chuyện, trong những giờ họ bên nhau,
Peter đi làm việc. Nhưng Greta cũng có những công việc khác trong nhà và không
phải bao giờ cũng chú tâm săn sóc con, sự âu yếm chỉ là đối phó.
Nhưng không phải chỉ vì cô bận việc nhà. Những ý tưởng khác dồn
dập đến làm cho đứa bé không còn trong tâm trí cô nữa. Ngay cả trước khi sự ám ảnh
vô ích, mệt mỏi, ngốc nghếch về người đàn ông ở Toronto, có những công việc
khác, và việc làm thơ cũng choán hết tâm trí cô. Điều ấy làm cô ngạc nhiên như
thể đó là một hình thức phản bội - đối với con gái, với chồng, với cuộc đời. Và
bây giờ, bởi vì hình ảnh trong đầu cô về Katy ngồi một mình ở giữa những tấm sắt
thép đụng nhau loảng xoảng kia - vì thế mà cô, mẹ của đứa bé, nghĩ đến chuyện vứt
bỏ tất cả.
Một tội lỗi. Cô để tâm trí vào chuyện khác. Cô tập trung vào
việc gì đó chứ không phải vào con mình. Thật tội lỗi.
Họ đến Toronto vào giữa buổi sáng. Trời âm u. Sấm chớp mùa
hè. Katy chưa bao giờ thấy chuyện ấy ở vùng bờ biển miền Tây Canada, nhưng
Greta bảo con gái không có gì phải sợ và Katy cũng không tỏ vẻ sợ hãi. Hay sợ
bóng tối được thắp sáng bằng điện trong một đường hầm hun hút khi tàu dừng.
Nó bảo, "Đêm".
Greta nói, Không, không, hai mẹ con chỉ việc đi tới đầu kia của
đường hầm, bây giờ họ đã xuống xe lửa.
Rồi vài bậc tam cấp, có thể một cầu thang, rồi họ đi lên một
toà nhà lớn và bước hẳn ra ngoài, nơi họ đón taxi. Taxi là chiếc xe hơi nhỏ, sẽ
chở họ về nhà. Nhà mới của họ, nơi họ sẽ sống một thời gian. Hai mẹ con sẽ sống
ở đó một thời gian, rồi họ sẽ lại quay về với người cha yêu dấu của con.
Họ đi lên đường uốn lượn, rồi một thang máy. Katy dừng lại và
Greta cũng đứng chần chừ, cho đến khi nhiều người đi qua vượt lên họ. Rồi Greta
nhấc Katy lên, bồng con một bên nách, kéo vali bằng một tay, khom người lôi xềnh
xệch lên các bậc tam cấp. Khi lên xong cô đặt con bé xuống và họ lại cầm lấy
tay nhau trong ánh sáng rực rỡ của Ga Lớn.
Những hành khách đi qua trước mặt họ bắt đầu tản mác theo những
người đến đón, những người kêu lớn tên người thân, hay chỉ đơn giản bước về
phía họ và nắm lấy quai xách vali, nhấc lên. Có một người nào đó cũng nắm lấy
vali của hai mẹ con. Nắm lấy vali của họ, ôm chầm lấy Greta, và hôn cô lần đầu
tiên, hôn một cách mạnh mẽ và hân hoan.
Harris.
Đầu tiên cô choáng váng, rồi run lên trong lòng, và sau cùng
cảm giác an tâm.
Cô muốn đứng sát vào Katy nhưng trong giây lát ấy con bé bỗng
tách ra khỏi mẹ, buông hẳn tay ra, để cho cô được tự do.
Cô không chạy trốn. Cô đứng đó mặc cho mọi chuyện tới đâu thì
tới.
Chú thích:
(1) Paradise Lost. Trường thi của John Milton (1608-1674),
nhà thơ lớn của Anh. Xuất bản lần đầu năm 1667, gồm mười cuốn, trên mười ngàn
câu thơ, được giảng dạy trong các chương trình văn học.
(2) Poetess.
(3) Lions Gate Bridge, lấy tên hai ngọc núi phía bắc
Vancouver, The Lions, là một cây cầu nổi tiếng, xây xong năm 1938, băng ngang
eo biển phía bắc công viên Stanley Park.
(4) Dome car, một toa hành khách trên xe lửa, có một vòm bằng
kính trên nóc để ngắm cảnh, có thể có phòng ăn, phòng ngủ, phòng sinh hoạt, phổ
biến ở Mỹ và Canada.
(5) Ouzo: một loại rượu của Hy Lạp.
25/6/2017 Nguyễn Đức Tùng
25/6/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét