Chiều hành quân qua những đồi sim những đồi sim những đồi sim
đồi tím hoa sim tím cả chiều hoang biền biệt
Thật ra lúc chín, mười tuổi tôi đã nghe Phương Dung hát Những
Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh, từ một chiếc máy quay đĩa của hãng Asia.
Trên các tạp chí cuối những năm sáu mươi, tôi cũng đọc một số tác giả viết về Hữu
Loan. Đang hát thì trời mưa, rào rào trên mái, trận mưa đầu mùa. Nhạc
Dzũng Chinh đơn giản, xúc động, nhạc Phạm Duy bi thương, hùng tráng. Có lẽ người
bình dân thích điệu rumba lãng đãng của Dzũng Chinh, người tâm sự buồn thích
cái phức tạp, biến điệu, sang trọng của Phạm Duy. Thế là từ sớm, đầu những năm
sáu mươi, nhiều người đã biết bài thơ của Hữu Loan là do các ca khúc. Theo nhiều
tài liệu, bài thơ này được công bố lần đầu trên báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính
năm 1956 ở Hà Nội, nhưng ấn bản hạn chế. Tôi chưa từng được đọc bài thơ ấy in
trên giấy trắng mực đen mãi cho đến sau này. Tôi nghĩ nhiều người cũng vậy. Năm
1978, đi lao động tập trung trên công trường Nam Thạch Hãn, trong một đêm lửa
trại, tôi nghe vài thanh niên và bộ đội tham gia công tác thủy lợi hát
bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà xen giữa những bài Trường Sơn Đông
Trường Sơn Tây, Dáng Đứng Bến Tre, Người Đi Xây Hồ Kẻ Gỗ.
Các nhạc sĩ khi phổ thơ phần nào sửa đổi, lược bớt, không giữ
nguyên bản. Nhưng bài thơ vẫn chinh phục lòng người. Vì sao? Trước hết
là vì câu chuyện được kể từ bài hát. Xưa nay trong tình yêu sự chia ly nào cũng
xúc động. Chia ly tột cùng là cái chết. Chúng ta đề cập đến câu chuyện, bởi vì
bài thơ của Hữu Loan là một trong những bài thơ trữ tình - tự sự đầu tiên của
thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ hai mươi. Tôi nghiệm thấy một tác phẩm
càng nổi tiếng, nó càng được ít đọc một cách cẩn thận.
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Trong thơ, câu mở đầu là câu đặc biệt. Thơ trữ tình là tiếng
nói cá nhân, là tâm sự của mình với chính mình. Thơ tự sự là nói cho người khác
nghe.
Bảy năm về trước em mười bảy
(Vũ Cao)
Là trữ tình mà không trực tiếp.
Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
(Nguyễn Văn Bình)
Trữ tình hơn, nói với người yêu.
Còn:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Là một câu thơ tự sự, nói cho thiên hạ nghe.
Bài thơ tự sự càng có tính trữ tình thì câu mở đầu càng quan trọng, và ngược lại.
Hữu Loan đã chọn phương pháp dẫn vào chuyện với nhân vật chính (nàng) mà vẫn giới
thiệu được gia đình. Hiệu ứng của ba câu đầu:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
nằm ở chỗ sự khác lạ của trường hợp: người vợ trẻ có đến ba người anh đi bộ đội,
nhưng các em lại còn nhỏ vừa sinh ra đời. Trong văn chương, sự thật chinh phục
chúng ta nếu nó xuất hiện một cách không quen thuộc. Tôi phân vân về khoảng
cách quá dài giữa các con đầu và các con sau trong một gia đình, chuyện có đến
ba người anh đi bộ đội và những người em chưa biết nói, nửa tin nửa ngờ. Đến
nay tôi vẫn còn nhớ nỗi thắc mắc về việc người vợ trẻ có một đứa em hay nhiều
hơn một đứa em. Cách đây năm mươi năm những sự thực về đời sống riêng của Hữu
Loan chưa được tiết lộ.
Câu chuyện gồm các nhân vật. Những người anh, người em, người
vợ trẻ, người mẹ, người chồng, người kể chuyện. Có hai câu hỏi: vì sao ta biết
người kể chuyện là nhân vật? Vì người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và cũng tham dự
vào câu chuyện như một nhân vật. Vì sao ta biết người kể chuyện chính là tác giả?
Có hai cách để biết như thế: văn bản và ngoài văn bản. Tiểu sử Hữu Loan. Vào những
năm 1960 không ai biết rõ tiểu sử ấy cả, nhưng tôi cho rằng hầu hết người nghe
đều tin tác giả đang kể chuyện của đời mình. Đó là nhờ giọng trữ tình mạnh của
bài thơ tự sự. Một so sánh:
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
(Giang Nam)
Có ấn tượng rằng “tôi” cũng chính là tác giả, nhưng mối liên
kết này không mạnh bằng trường hợp Màu Tím Hoa Sim (MTHS). Mức độ trữ
tình càng mạnh thì mối liên kết càng chặt. Nhưng mặt khác, có người có thể nghĩ
rằng tự sự và trữ tình trái ngược nhau, tính tự sự mạnh thì tính trữ tình giảm
bớt và ngược lại. Điều đó không đúng. MTHS vừa mạnh về trữ tình vừa rất mạnh về
tự sự, chúng không loại bỏ nhau. Giả thiết rằng nếu sự thật Hữu Loan không phải
là nhân vật tôi trong bài thơ, cũng như Giang Nam không phải là nhân vật tôi
trong bài Quê Hương, sự “thất vọng” ở người đọc sẽ lớn hơn trong trường hợp
Hữu Loan, vì liên kết càng mạnh, bẻ gãy càng chấn thương. Chúng ta có thể “thở
phào nhẹ nhõm” về trường hợp Hữu Loan. Nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa thấy có bằng
chứng nào cho biết Giang Nam ngày xưa có đi chăn trâu không, mà nếu ông có đi
chăn trâu thì cũng chưa chắc đó là nguyên nhân dẫn đến việc đi làm “cách mạng”.
Bởi vì: ai bảo chăn trâu là khổ?
Trong thơ Việt Nam, giữa những bài thơ khác nói về nỗi bi
thương sau cái chết của người thân: Gửi Người Dưới Mộ của Đinh
Hùng, Đám Tang Nguyễn Duy Diễn của Nguyên Sa, Quê Hương của
Giang Nam, Núi Đôi của Vũ Cao… bài Màu Tím Hoa Sim nhắc đến
nhiều nhân vật hơn cả. Tôi nói nhắc nhưng thật ra với nghĩa là các nhân vật đó
có tham gia hành động, tức là trong cấu trúc của câu chuyện. Những người anh:
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Từ chiến trường Đông Bắc
Là một hình ảnh, không chỉ là sự đưa đẩy của cốt truyện. Lúc
đọc, người ta nghĩ về một thời ly loạn, một vùng chiến khu rừng núi âm u, rét
mướt, mưa rừng bao phủ, mặc dù có thể chẳng biết Đông Bắc là đâu. Những người
em không chỉ là nhân vật hậu trường: họ có đời sống riêng của mình.
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Nhỏ quá nên không biết khóc, chưa biết đau thương.
Hình ảnh người mẹ:
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Má là thật, mặc dù tôi chẳng biết tại sao Hữu Loan gọi mẹ
bằng má. Là một người đọc, tôi tin như thế. Đó là sức mạnh của sự thuyết
phục. Chi tiết chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương là
một chi tiết đắt trong chuyện kể, dễ gây xúc động ban đầu, nhưng tôi không hoàn
toàn tin như thế. Tôi nghĩ nó là một ẩn dụ. Tài năng của Hữu Loan là ở chỗ đã kết
hợp được tính nghệ thuật cao và tính công chúng về ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu.
Thơ trữ tình là tiếng khóc và tiếng cười, là khổ đau và hạnh phúc, tình yêu của
Hữu Loan với người vợ vui ít buồn nhiều, sum họp ngắn, chia ly dài, nhưng không
phải không có những ngày vui ngắn ngủi.
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tiếng khóc làm nên khúc bi ai, hạnh phúc làm nên thơ
tình. MTHS vừa là thơ tình vừa là khúc ca ai oán. Một khúc ca bi ai, than
khóc về cái chết hay về sự chia biệt, thường tĩnh lặng, hình ảnh của nó ít khi
có chuyển biến, ít khi vận động.
Trăng của nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
(Vũ Hoàng Chương)
Nhưng MTHS là một bài thơ buồn mà vận động, thay đổi. Điều đó
trước hết là do sự vận động của cảm xúc. Đến lượt, cảm xúc vận động là thông
qua các hình ảnh. Hữu Loan giới thiệu màu hoa sim như thế nào? Đầu tiên là hồi
tưởng của người kể chuyện:
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Nhà thơ đã cẩn thận khắc sâu hình ảnh này một lần nữa:
Áo nàng màu tím hoa sim
Đây là một trong những hình ảnh mang tính tượng trưng hiếm hoi của bài thơ. Áo
màu tím là tượng trưng. Nhưng mặt khác, hình ảnh ít khi thay đổi, trong trữ
tình lại càng rất khó vận động. Nhờ phương pháp tự sự, chuyển từ kể chuyện
thành mô tả:
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa
mà Hữu Loan đã làm cho hình ảnh trở nên sống động, cảm xúc có
đời sống riêng. Khúc bi ai về cái chết của người thân trở thành một khúc hát
cho chính mình, tiễn biệt mình. Trong các màu sắc: đỏ, xanh, vàng, lục, lam…
thì màu tím là màu bâng khuâng hơn cả, rộng dài hơn cả, lưu luyến hơn cả đối với
người Việt Nam. Sim không phải là loài hoa vương giả, mọc từng cánh không
có gì đặc biệt, nhưng khi chúng tụ lại thành chùm, thành cây, thành rừng thì
mênh mông, dào dạt, xúc động cả đất trời.
Nhiều chữ mới trong vỏ thân thuộc. Ví dụ: biền biệt không
phải là một chữ lạ nhưng cách dùng mới. Biền biệt là gì? Xa cách,
không gian, thời gian. Chiều hoang là gì? Chiều hoang dã, hoang dại,
chiều mồ côi, bầu trời của người cô độc sau cái chết người thân. Chữ Hữu Loan
sáng tạo. Bao nhiêu năm người ta hát hoài mà không cũ vì nó sáng tạo. Làm sao
chống lại cái chết? Chỉ là bằng sự sống, bằng tình yêu đối với cuộc đời còn lại.
Và với thiên nhiên, đồng ruộng, núi đồi. Bài thơ MTHS không phải là bài thơ viết
về thiên nhiên nhưng câu chuyện buồn thương mà nó kể lại nhuộm đẫm mùi hoa cỏ.
Thiên nhiên là tái tạo, mùa màng là trở đi trở lại: sự khổ đau cũng trở đi trở
lại. Không có gì ngạc nhiên khi Hữu Loan dùng nhiều phương pháp điệp âm, điệp
ngữ.
Hoa sim tím/ màu tím hoa sim/ những đồi hoa sim/ những đồi
hoa sim dài/ màu tím hoa sim/ tím chiều hoang
Các nhạc sĩ cũng rất trung thành với phương pháp lập đi lập lại
này của nhà thơ, vì họ nắm vững hiệu ứng lập lại trong âm nhạc.
những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền
biệt vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím tóc thề đang chấm vai (Dzũng
Chinh)
tôi mới từ xa nơi đơn vị về tôi mới từ xa nơi đơn vị về thời
loạn ly có ai đòi áo cưới cưới vừa xong là tôi đi cưới vừa xong là tôi đi (Phạm
Duy)
Lập lại điều gì là hình thức giản đơn nhất của âm nhạc. Sự lập
lại gợi ra sự chú ý, tức tính hấp dẫn. Vì vậy các nhạc sĩ thường dùng kỹ thuật
này. Lắng nghe một ngôn ngữ lạ, bạn sẽ ghi nhớ nhiều các mẫu lập lại trong câu.
Trẻ con trong đồng dao cũng lập lại. Trong thơ sự lập lại tạo cảm giác thích
thú, đồng điệu, thỏa mãn, nương nhờ:
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
(Nguyễn Đình Tiên)
Có khi tạo cảm giác căng thẳng:
Chúng tôi nhảy múa hò reo
Thế là nó thoát thế là nó thoát
(Nguyên Sa)
Lập lại không những là một yếu tố về tiết điệu mà còn có ý
nghĩa cấu trúc đối với bài thơ. Hữu Loan cũng chọn từ rất kỹ; và trong nhiều
đoạn đã cố tình làm nhòa ngôn ngữ. Thay vì viết:
Thì thương/ người vợ bé bỏng/ chờ chiều quê
Thì ông viết:
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê
Nhờ thế, cả buổi chiều quê cũng trở nên bé bỏng. Người chết rồi
được tự do trở lại với thiên nhiên, đất trời, vũ trụ, an bình, vĩnh cửu đời đời,
trong khi người sống sót, người ở lại, sống trong thương tiếc bàng hoàng, ngậm
ngùi, tự trách, trên cõi trần tạm bợ. Một bài thơ tình viết về cái chết, viết về
người thân qua đời, sẽ thành công nếu nó truyền cho ta cảm giác trộn lẫn của đời
sống và cái chết, về khung cảnh, trong trường hợp này là đất nước chiến chinh,
và về ý nghĩa của sự mất mát, về hứa hẹn của một kết nối tâm linh.
Tôi nghe nói rằng Hữu Loan viết bài thơ một mạch, trong mấy
tiếng đồng hồ, viết một lần là xong. Chi tiết này, dù đúng, có thể gây ra ngộ
nhận đối với quá trình sáng tạo. Đọc kỹ bài thơ, quan sát Hữu Loan dùng chữ,
tôi tin rằng ông đã cân nhắc nghiền ngẫm rất lâu khi hạ những chữ ngỡ
ngàng, bé bỏng, biền biệt và rất nhiều chữ khác. Ông làm bài thơ bảy tháng
sau khi được tin người vợ mất: bảy tháng là thời gian dài đối với nỗi tiếc
thương, đủ để nung nấu một trong những bài thơ lừng lẫy.
William Wordsworth:
Poetry is the spontaneous overflow of powerful feelings: it
takes its origin from emotion recollected in tranquillity
(Lyrical Ballads)
Thơ ca chảy trào xúc động lớn: nó phải vọt lên từ cảm xúc được
lai rai hồi tưởng trong tháng ngày tịch mịch.
Hữu Loan không chỉ có bảy tháng chuẩn bị cho bài thơ của
mình. Ông còn “chuẩn bị” trước đó bằng bài Đèo Cả nổi tiếng, viết năm
1946, lấp lánh tài năng của một nhà thơ mới.
Núi cao ngút!
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương!…
Về bên suối đánh cờ
Người hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu
Cái nheo mắt của Hữu Loan đóng đinh bài thơ vào huyền thoại kháng chiến,
không gian tình tự dân tộc. Thơ tự do của Hữu Loan có hai đặc tính: sử dụng nhiều
vần điệu và tính đối xứng trong cấu trúc. Hai tính chất này cũng chi phối nền
thơ Việt tự do thời kỳ vừa ra khỏi thơ cổ điển có vần của Thơ Mới, phản ảnh sự
thay đổi về thẩm mỹ của các nhà thơ, tuy mới nhưng chưa hoàn toàn từ bỏ xúc động
mỹ học cũ. Thơ ông vì vậy dễ đọc, dễ ngâm, được công chúng rộng rãi đồng điệu
yêu mến.
Thơ dĩ nhiên là chữ nhưng các ý tưởng và cảm xúc mà thơ mang
lại bao giờ cũng, hoặc hầu hết là, thông qua hình ảnh, trước tiên là hình ảnh.
Cũng như ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ có ít nhất hai loại nghĩa: nghĩa hẹp và
nghĩa rộng hay nghĩa đen và nghĩa bóng. Sim vốn là một hình ảnh quen thuộc
trong đời sống, nhưng người dân quê thường nói đến trái sim nhiều hơn. Thời chiến
tranh chưa lan rộng, những ngày nghỉ học tôi cũng thường cùng bạn bè lang thang
trên đồi hoang Cam lộ, Gio linh hái những trái sim có vị chát, ngọt
bùi. Theo tôi biết Hữu Loan là người đầu tiên nhắc đến hoa sim trong văn học và
nhắc một lần thì không ai quên được. Sở dĩ như thế là vì hoa sim trong bài thơ
vừa là hình ảnh có thật, một hình ảnh đơn giản, vừa có vai trò như một ẩn dụ lớn.
Má tôi ngồi bên mộ con
Mộ là hình ảnh, nhưng chưa phải là ẩn dụ.
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Bình hoa là hình ảnh, bình hương là ẩn dụ.
Không những thế, với sự phổ biến sâu rộng, phần lớn nhờ các
ca khúc, hoa sim tím đã trở thành một biểu tượng. Sự khác nhau giữa ẩn dụ và biểu
tượng hoa sim là: ẩn dụ có tính đặc trưng, cá nhân, nặng về cảm giác, trong khi
biểu tượng có tính khái quát, tập thể, nặng về khái niệm. Người đọc và người
nghe hôm nay đã phát hiện trở lại cho mình một biểu tượng tâm hồn. Thật an ủi
biết bao. Người Việt cần đến chúng biết nhường nào trong giai đoạn hiện nay, một
giai đoạn mà các ký ức văn hóa, các giá trị tinh thần đã bị tẩy sạch bởi chiến
tranh và bạo lực tinh thần. Hoa sim được nhắc lại ba lần trong suốt bài thơ.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Được nhắc lại:
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Đừng quên rằng nhan đề của bài thơ là lần nhắc đến đầu tiên: vai trò của nhan đề
đã được Hữu Loan sử dụng sớm trong thơ Việt Nam cận đại. Không phải
cái nhan đề nào cũng quan trọng như thế. Nhờ sự lập đi lập lại này, mỗi lần lập
lại là một lần biến đổi, lật qua một khúc quanh của câu chuyện, hình ảnh trong
bài thơ trở nên vận động, có đời sống riêng, chuyển hóa thành một cái gì lớn
lao hơn là một màu hoa:
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Thiên nhiên, trong khi vô tình tàn nhẫn, cướp đi một người
thân yêu, thì lại mang khuôn mặt dịu dàng nữ tính, trở thành nơi nuôi dưỡng của
người sống sót, chốn trở về của chàng trai mồ côi tình yêu, của người lính đau
thương nhưng chung thủy hào hùng. Tôi chú ý đến chữ hát trong câu thơ
của Hữu Loan: câu ca dao áo anh sứt chỉ đường tà đã được ông hát
lên trước cả Phạm Duy, trước người khách của nhà tôi một chiều đầu thu năm
1975. Cái chết bao giờ cũng tìm cách đến giữa hai người yêu nhau. Nhà thơ có
hai công việc: thông báo nó đến người đọc và kết thúc nó ngay trong bài thơ. Hữu
Loan đã không chọn cách mô tả cái chết. Khác với các nhà thơ phương Tây, từ xưa
đến nay, các nhà thơ Việt thường không có thói quen làm điều này: họ chỉ thông
báo. Và, hệt như trong đời sống, đây là công việc khó khăn. Hữu Loan chọn
phương pháp chuẩn bị tâm lý:
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Số phận ba lần cay đắng: cái chết đã chọn không phải người
đàn ông mà người phụ nữ; không phải người lớn tuổi mà người trẻ tuổi; không phải
người trai khói lửa mà người gái hậu phương. Khuyết điểm của phương pháp tâm lý
này là người đọc không biết được nguyên nhân cái chết của người vợ trẻ. Tôi còn
nhớ thuở nhỏ đã có lúc ngờ rằng cô chết vì chiến tranh, cụ thể là vì bom đạn của
Pháp. Tôi không chắc rằng cảm giác nghi ngờ ấy đã làm tăng lên hay làm giảm đi
xúc động của mình như một người đọc, chỉ dựa vào văn bản thuần túy.
Một bài thơ tự sự cần “kết thúc”, nghĩa là sự kết thúc cụ thể,
trong khi với thơ trữ tình điều này mơ hồ hơn. Có nhiều cách. Thông thường tác
giả tìm cách tóm tắt câu chuyện và rút ra những “bài học”. Khuôn mẫu này được áp
dụng nhiều ở các bài thơ của các nhà thơ nặng về luân lý đạo đức hay chính trị.
Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
(Núi Đôi, Vũ Cao)
Kết rất chặt. Cách này điển hình, nặng về ý, nhẹ về tứ, mặc
dù vẫn đầy đủ hình ảnh, nhưng nếu nhà thơ không có tài dễ rơi vào sự sáo rỗng
như có thể thấy ở nhiều bài thơ khác.
Hữu Loan chọn cách kết thúc phóng khoáng, trung thành với
không khí u buồn hoài niệm của bài thơ mà vẫn mở ra:
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Nếu sự xuống dòng bậc thang của bài Đèo Cả có thể
được xem là thủ pháp nghệ thuật gây cảm giác chênh vênh hiểm trở, thăm thẳm của
một vùng rừng núi, cuộc kháng chiến gian khổ, hùng tráng, thì việc ngắt nhiều
câu thành những câu ngắn, thậm chí chia ra làm nhiều đoạn ngắn của bài MTHS là
vì một tác dụng khác. Đó là sự nới rộng không gian và thời gian. Nới rộng thời
gian có nghĩa là làm chậm lại một giây phút, kéo dãn nó ra, buộc thời gian chậm
lại. Tốc độ tình cảm càng nhanh, thời gian tâm lý càng chậm. Đó là phương thức
trầm tư, tập trung, trong đó nhà thơ không quan tâm lắm đến diễn tiến thời gian
từ quá khứ sang hiện tại đến tương lai, mà quan tâm nhiều hơn đến một quãng ngắn,
nơi quá khứ, hiện tại, tương lai chập chồng thành một.
Một bài thơ viết về cái chết, sự mất mát, sẽ thành công nếu
nó đạt được một trong hai điều sau đây: sự mặc khải huyền nhiệm đối với cái chết.
Và thứ hai, quan trọng không kém: tính chất liệu pháp đối với vết thương tâm hồn.
Chỉ khi nào bài thơ có những hiệu ứng này đối với tác giả thì bài thơ ấy mới
mong có tác dụng tương tự lên người đọc. Cấu trúc ngôn ngữ của bài MTHS có độ
dung nạp cao đối với các biến thể về nhịp điệu. Có một tác giả mà tôi không nhớ
tên mới đây đã nêu nhận xét thú vị rằng, bài thơ có nhiều phiên bản khác nhau,
nhiều cách ngắt câu phân đoạn khác nhau; ngay chính bản thân Hữu Loan khi được
yêu cầu ghi lại, thì mỗi lúc, cách ngắt câu xuống hàng cũng hơi khác.
Theo tôi, một lý do là bài thơ này dễ thuộc, có thể ngâm được,
trong khi hầu hết các bài thơ tự do khác chỉ có thể đọc trên giấy, khó nhớ,
không thể ngâm. Khi ngâm, người đọc sử dụng trí nhớ. Khi sử dụng trí nhớ, người
ngâm trở thành người sáng tạo, vô tình hay cố ý truyền cho bài thơ cảm xúc và
suy nghĩ riêng của mình vào chính thời điểm ấy đối với câu chuyện. Thử so sánh
một khía cạnh của ba bài thơ thuộc vào loại hay nhất của thời kỳ kháng chiến chống
Pháp: tính tổ chức âm nhạc của bài Màu Tím Hoa Sim thấp hơn bài Tây
Tiến của Quang Dũng nhưng cao hơn bài Bên Kia Sông Đuống của
Hoàng Cầm. Như thế là ba yếu tố: kể chuyện - ngâm thơ - hát lên đã hòa vào
nhau, khắc bài thơ vào trí nhớ của người đọc. Trong ba yếu tố ấy, nhịp điệu giữ
vai trò quan trọng nhất, dù là khi kể, khi ngâm, hay khi hát, vì nhịp điệu và
nói rộng ra là âm nhạc có khả năng tạo ra những trường tương tác vô thức mà các
phương tiện ngôn ngữ không làm được. Hữu Loan mất đi, để lại thương tiếc cho
nhiều người, vì nhiều lý do: số phận nghiệt ngã, quan điểm tự do, nhân cách
hùng tráng, nhưng trước hết là vì ông đã nhuộm tím không gian văn hoá bằng tiếng
khóc mối tình đầu. Suốt hai mươi năm của miền Nam, các ca khúc đã góp phần
nuôi giữ tiếng khóc ấy, làm nó thêm lừng lẫy.
Hình tượng trong thơ, gồm những hình ảnh đơn giản, ẩn dụ, biểu
tượng, tạo lập nên cái mà phân tâm học Jung gọi là vô thức cộng đồng. Ngay
khi không thể chứng minh sự tồn tại của khái niệm này, màu tím hoa sim cũng đã
trở thành một hình tượng của ý thức cộng đồng. Sự xúc động của công
chúng là sự xúc động nhân đôi: thương hương tiếc ngọc hai lần.
Mỗi người đọc yêu mến một nhà thơ nào đó thường có những kỉ
niệm về người ấy, khi này khi khác, dài lâu, như với một người bạn không bao giờ
biết mặt. Tôi lai rai nhớ về Hữu Loan như thế. Không phải là hiện tượng làm thơ
một bài, vì dù làm thơ ít, ông còn có những bài hay khác, mặc dù không quan trọng
bằng Màu Tím Hoa Sim, như Đèo Cả hay Tình Thủ Đô (do
nhà thơ Dương Tường ghi lại). Đầu những năm chín mươi, tôi tình cờ đọc một tập
thơ Hữu Loan xuất bản tại Hoa Kỳ, gồm nhiều bài thơ thời sự chính trị mới viết,
nhân một giải thưởng, hình như chưa thấy công bố bao giờ, nhưng trong đó không
có bài MTHS. Tôi không giữ tài liệu này nên nhân đây ghi lại theo trí nhớ. Tôi
cũng may mắn được nghe Thái Thanh hát Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà lúc người
ca sĩ này cùng Phạm Duy đến trình diễn ở Calgary nhiều năm về trước.
Chính giọng hát trong như xé lụa, mỏng như tơ trời của Thái Thanh làm cho bài
ca trở nên bất tử. Hoàng, ngồi bên cạnh tôi, quay lại hỏi: Hoa sim là hoa
gì hả anh? Tôi trả lời nàng cho qua chuyện: khi nào đưa em về Việt Nam,
anh sẽ chỉ cho. Mới đó mà đã hai mươi năm. Nhưng tôi lo lắng: nước mình bây giờ
có còn cây sim nữa không? Để những người yêu nhau:
Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương.
Nguyễn Đức Tùng
Phụ Lục: MÀU TÍM HOA SIM
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh.
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
Một mình
Đèn khuya
Bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
Ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng,
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
Trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...).
20/4/2010
Nguyễn Đức Tùng
Nguồn: Trích từ tuyển tập Thơ Việt Nam
thế kỷ XX, NXB Giáo Dục, 2004
Theo https://vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét