Nguyễn Linh Khiếu,
nếu ta có một nắm đất
Thơ Nguyễn Linh Khiếu là dòng thơ trữ tình mới. Anh tin vào
khả năng của ngôn ngữ trong việc giữ gìn các giá trị văn hóa, mang đi ý niệm
truyền sinh, phồn thực, ca ngợi thiên nhiên, trong khi vẫn thường xuyên tra hỏi
các vấn nạn lịch sử. Đó là kết hợp giữa tự sự sinh thái và trữ tình xã hội. Những
điều ấy được thực hiện trong thể thơ tự do, với những câu dài, kỹ thuật trùng
điệp, với các nút thắt mở của trường ca. Nguyễn Linh Khiếu cần thơ trữ tình để
vượt qua các khoảng cách, kết nối sự vật trong không gian và thời gian. Anh
cũng vượt qua các tập quán, thiết chế, điển lễ, các rào cản xã hội, bằng cách đối
thoại với thiên nhiên; và tôi cho rằng đó là chọn lựa thích hợp. Thơ của anh mở
ra từng đợt như sóng, nhiều bài nối tiếp nhau, ngay cả những bài ngắn, độc lập,
cũng dễ dàng được đặt vào giữa các bài khác, thành những chuỗi, thành chủ đề.
nếu ta có một nắm đất
ta sẽ vùi hạt hạnh vào trong
cầm trên tay đợi khi mùa xuân tới
hạt hạnh trong tay sẽ lặng lẽ nảy mầm
nếu ta có một cánh đồng
ta sẽ cày bừa xới vun đất đai màu mỡ
trên cánh đồng ta chỉ trồng hoa hạnh
ai đi qua cũng trầm trồ cánh đồng hoa hạnh của nhà thơ
nếu ta có một quốc gia
trên lãnh thổ nhiệt đới phì nhiêu của mình ta chỉ trồng hoa hạnh
người yêu hoa khắp thế gian hành hương về chiêm ngưỡng
thiên đường hoa hạnh của thi nhân.
Câu hỏi của Nguyễn Linh Khiếu nhiều hơn câu trả lời. Câu trả
lời giới hạn trí tưởng tượng, trong khi câu hỏi mở rộng chúng. Câu hỏi của anh:
chúng ta đến từ đâu, chúng ta là ai, tự do là gì, chúng ta đi về đâu, ý nghĩa của
tồn tại của dân tộc. Thơ cũng cố gắng giải thích nhiều sự vật, tuy vậy giải
thích không phải là công việc chính. Ngôn ngữ thơ cần một tiếp cận toàn bộ, trọn
vẹn, không tách rời từng bộ phận. Câu hỏi: mỗi con người đứng ở đâu trong dòng
chảy của lịch sử.
đây những người đàn ông bị săn lùng dồn đuổi tận cùng tuyệt
diệt
đây những người đàn bà bị chà đạp bị giày vò hãm hiếp
Thiên nhiên đối với anh là hiện thực đẹp đẽ hoang dại, dung hợp
cao quý và dung tục. Chất dã thú trong thiên nhiên của Nguyễn Linh Khiếu là sự
hồn nhiên nguyên thủy. Cái tàn bạo đáng sợ, tính ác, cũng có mặt trong thơ anh
nhưng không nổi bật bằng tính cao quý, thiêng liêng, sự liên tục, như người mẹ.
ta có thể cầm nắm sự thật trên tay
ta có thể liếm lưỡi vào sự thật
ta có thể đong đầy sự thật trong hai mắt
anh yêu em chỉ là một khoảnh khắc
Thơ Nguyễn Linh Khiếu đầy cảm hứng khoảnh khắc, một thứ tự sự
có khuynh hướng triết học, vốn mang tính siêu hình, trừu tượng. Như vậy những
tư duy hình ảnh của thơ anh có thể dẫn đường đến tư duy triết học, là nhờ sự tiếp
xúc không ngừng giữa người và người, người và vạn vật, sự tương tác giữa chúng
có tính cụ thể, ngay lập tức.
dòng nước lạnh lẽo kia chẳng nói năng gì
Kỳ Cùng mùa đông tiếng thở dài vô bờ bến
những gì đã mất thỉnh thoảng đời ta lại mất
Thơ sinh thái đương đại, khác với cổ điển, là mối quan hệ tế
vi giữa cảnh vật và ý thức, là sự trở về với thiên nhiên, sự làm mới lại một
tâm hồn đi giữa cỏ cây, nguyên sơ, hoang dại, trong khi vẫn không từ bỏ những
quan tâm khác, chính trị hoặc xã hội. Xung đột của thơ anh là xung đột giữa những
người đi tìm sự toàn vẹn và quá trình phân rã tinh thần của xã hội Việt Nam.
một dân tộc lấy chiến tranh để giải quyết những bất đồng dân
tộc đó là dân tộc súc vật
một dân tộc luôn luôn phải tiến hành những cuộc chiến tranh vệ
quốc luôn luôn ngập chìm trong nội chiến đó là dân tộc đang đi trên con đường tự
hủy diệt mình
Những câu thơ như thế này hoàn toàn có thể được gieo xuống hoặc
đọc lên một cách tự nhiên giữa những câu anh viết về sông Hồng, về quan họ, về
bông mộc miên hay linh thảo hay khuôn mặt mê hồn của phụ nữ.
Đó là tính tích hợp. Trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, cảm giác,
nhận thức, ấn tượng về nơi chốn là mạnh mẽ. Thơ của nhiều người cũng vậy, nhưng
ở anh, nơi chốn không chỉ là đối tượng mô tả mà còn là một ẩn dụ, với những ý
nghĩa bên dưới, chìm khuất; bài thơ của anh, vì vậy, trông lớn hơn kích thước của
nó. Nhờ đâu có tác dụng ấy? Nhờ việc sử dụng sự biến đổi của các ý tưởng hay của
cú pháp. Khi đọc chúng ta chờ đợi những mẫu thức đã xảy ra, như khi bạn đọc thơ
lục bát, sau câu sáu tất phải đến câu tám, như khi bạn gặp một hình ảnh ví dụ vầng
trăng, bạn sẽ nghĩ đến, mặt nước, sương mù, tiếng vạc ăn đêm. Tôi gọi đó là kỳ
vọng (expectations). Nguyễn Linh Khiếu thay đổi các kỳ vọng, gây ngạc nhiên ở độc
giả.
chẳng hiểu sao lần nào qua biên giới
mộc miên cũng rực đỏ triền sông, rực đỏ vách núi, rực đỏ tâm
can
mộc miên đỏ một trời biên viễn
như máu tươi ròng rã ngàn năm
dưới gốc mộc miên người lính biên phòng cùng ta nâng chén
người xa nhà rượu ngô như lửa đêm đông
thanh vắng vẳng tiếng hoa tầm tã
khuya khoắt bóng ai rình rập dưới triền sông
có ai trồng mộc miên biên giới
hay biên cương cây tìm đến mọc lên
hoa cứ máu tươi suốt ngàn năm tê tái
cây cứ sừng sững mướt xanh cột mốc biên cương.
Phải lắng nghe thật lâu mới nghe ra "tiếng hoa tầm
tã". Phải thức thật khuya mới biết nơi "biên cương cây tìm đến mọc
lên". Phải canh cánh bên lòng mới thấy "khuya khoắt bóng ai rình rập".
Tính chất kỳ lạ của cuộc chiến tranh nằm ở câu này. Nguyễn Linh Khiếu ít nói về
bản thân mình. Cho đến khi anh chạm tới khái niệm tự do. Cái tôi Nguyễn Linh
Khiếu là một cái tôi ý thức; ý thức của anh là ý thức tự do. Chính ở đây mà anh
bước qua ranh giới giữa chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại. Chính ở đây anh làm
nên giá trị cốt lõi của tập Phồn sinh và những bài thơ khác. Thế
giới của Nguyễn Linh Khiếu là một trường tương tác. Mặc dù gắn bó với thiên
nhiên và nông thôn, nhà thơ không hề xa rời đời sống đô thị bộn bề, và một xã hội
ngày càng quay cuồng điên đảo, với những vấn nạn xã hội và chính trị, nhưng anh
biết dừng lại đúng lúc. Thái độ công dân và thái độ của văn chương có thể khác
nhau, nhưng khi chúng đồng nhất, Nguyễn Linh Khiếu bộc lộ khả năng sử dụng một
ngôn ngữ vừa khái quát, trừu tượng, vừa trực tiếp.
làm thế nào thì phải đánh nhau
làm thế nào thì không phải đánh nhau
Đó là anh nói về quá khứ hay về tương lai? Tôi nghĩ, cả
hai. Thơ anh, như thế, đầy nhận thức, các thông tin, hiểu biết, chứ không
phải chỉ là sự mô tả thế giới bên ngoài. Việc làm mới ngôn ngữ ở Nguyễn
Linh Khiếu dừng lại ở việc anh tạo ra được những câu thơ đẹp nhưng hoàn toàn
tuân thủ nguyên tắc văn phạm. Tôi mong được thấy nhiều hơn nữa những biến đổi
hình thức, sự tương tác giữa câu thơ và câu ngữ pháp, mong được thấy nhiều hơn
những ngạc nhiên trong câu, sự bất ngờ khó tiên đoán, các khúc quanh ý tưởng, sự
đột ngột của các hình ảnh.
Tư tưởng của bạn phóng khoáng: bạn cần một ngôn ngữ bất cẩn.
Có một quan hệ giữa các bài thơ, làm cho tiếng nói của nhà
thơ trở nên thống nhất, nhưng điều này cũng có thể dẫn đến việc lặp lại chính
mình. Tôi tin nếu các nhân vật trong thơ hiện rõ khuôn mặt của họ hơn, những tiếng
nói khác nhau được vang lên gần hơn, thì câu chuyện mà anh kể lại sẽ thuyết phục.
Câu hỏi là: liệu điều này có làm anh rời bỏ tính trữ tình hay không? Chỉ có nhà
thơ mới trả lời được. Một cấu trúc tự sự tốt đẹp giữ cho tiếng nói vang vọng
nhiều lần, các hình ảnh được chiếu sáng, trong khi một cấu trúc kém sẽ làm mai
một các cảm xúc tươi ròng.
nây nẩy những bắp non tươi ẩn hiện
mùa nước sinh đang hổn hển trở về
Vui thú và hân hưởng là đặc trưng của thơ Nguyễn Linh Khiếu:
hối hả, thúc giục, ca ngợi, hào sảng, tự do. Không phải người nào cũng
khao khát tự do; đối với nhiều người, những thứ khác quan trọng hơn: thói
quen, sự an thân, danh vọng, miếng ăn, quyền lực, tín ngưỡng. Tính hồn nhiên là
bản chất của tạo vật, sự tự nhiên là âm nhạc của trời đất. Thời ấu thơ chúng ta
từng sở hữu tính chất hồn nhiên, khi lớn lên chúng ta đánh mất.
không có tự do mọi sáng tạo thi ca chỉ là văn tế
mọi sáng tạo văn chương chữ nghĩa chỉ là điếu văn
mọi sáng tạo âm nhạc chỉ là bát âm nhạc hiếu
mọi sáng tạo điện ảnh chỉ là trình diễn nghi lễ cầu cúng
nghĩa địa
Thơ anh dày đặc chữ, đó là một thi pháp rậm rạp (macro), bao
gồm những câu tự do và thơ văn xuôi. Nhiều người tin rằng thơ là khởi đầu
của ngôn ngữ. Âm thanh của một chữ khi được nhân loại sinh ra gây cảm
giác vui thú, phù hợp với ý nghĩa mà nó biểu trưng. Tuy vậy qua
nhiều thời kỳ các nhà thơ bao giờ cũng có một cố gắng, đó là làm
cho ngôn ngữ thơ trở nên khác đi so với tiếng nói hằng ngày. Một ngôn
ngữ mới lạ sẽ tạo ra cảm xúc mới, và do đó làm giàu tiếng Việt.
Các nhà thơ khác nhau ở chỗ sau một vài chữ mở đầu, các chữ về sau
trong một câu có thể đoán trước được hay không. Những câu thơ cũ,
chúng ta đoán được. Ở những câu thơ mới, bạn không đoán được. Đó là vì
chữ mới, ý tưởng mới, hay hình ảnh mới. Đây là một trong những quan
điểm của nhà ký hiệu học Lotman.
là mỡ màu ta đả đảo những ngăn cấm chia cắt cục bộ địa phương
là mỡ màu ta đả đảo phong kiến tối tăm cha truyền con nối gia
đình trị
là mỡ màu ta đả đảo những giới hạn những định kiến những qui
định những khuôn mẫu những già nua những cỗi cằn mốc meo mục ruỗng những giả dối
nhân danh lừa phỉnh
là mỡ màu ta cổ vũ tự do
là mỡ màu ta cổ vũ dân chủ
Tiếng nói của Nguyễn Linh Khiếu dữ dội mà vẫn đĩnh đạc, đôi
khi mượt mà, là một tấm lụa dệt bằng tiếc thương, đau đớn bàng hoàng, lòng
thương cảm. Nhưng đó không phải chỉ là dải lụa, không phải chỉ có tình yêu, còn
là ý thức đề kháng: chống lại cái xấu, cái ác, cái độc tài, bất nhân. Anh chống
lại những kẻ chống lại nhân dân. Không một quan hệ nào giữa người và người mà
bình đẳng cho bằng tình yêu. Đọc thơ anh, có thể thấy hai quá trình, ca tụng
và phản tỉnh, thưởng thức và thách thức, phồn sinh và hủy diệt. Đó là một bút
pháp ở khoảng giữa hiện đại và hậu hiện đại.
thời đại của lịch sử đẫm máu những trời đẫm máu những đất đẫm
máu những biển đẫm máu những núi đồi đẫm máu những bình minh đẫm máu những ban
trưa đẫm máu những hoàng hôn đẫm máu những đêm khuya đẫm máu những quốc gia đẫm
máu những địa danh đẫm máu những dòng sông đẫm máu những thành phố đẫm máu những
bản làng đẫm máu những phố thị đẫm máu những thôn dã đẫm máu những cánh đồng đẫm
máu
Một người thường xuyên tra vấn các nhầm lẫn lịch sử, xem
xét lại các giá trị, thế nào cuối cùng cũng có lúc, dù chỉ đâu một
lúc, thấy mình là một với chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhưng chủ
nghĩa hậu hiện đại cũng là cái bẫy nhung: không một sáng tạo nào
không trở thành thói quen, không một ngôn ngữ mới nào, dù mới đến
đâu, mà không ghét bỏ sự thách thức đối với chính nó. Bài thơ là
đối thoại giữa tác giả và một nhà thơ đi trước. Nhiều người tin vào sự màu nhiệm
của sáng tạo, như kiểu nữ thần thơ ca, huyền bí, nhưng thực ra quá trình sáng tạo
bao giờ cũng gồm hai phần, phần được chiếu sáng và phần vô thức. Khi một bài
thơ xuất hiện, nhà thơ đứng trước hai lựa chọn, hoặc biến nó thành người phát
ngôn cho ý niệm, hoặc buông thả cho bài thơ hình thành trôi nổi, vô mục đích.
Hướng đi của bài thơ được quyết định vào giây phút khó khăn ấy. Hãy nghe anh
nói về chiến tranh. Và không phải chỉ chiến tranh.
trên tất cả thông tấn báo chí phát thanh truyền hình
trên tất cả các diễn đàn các hội nghị hội thảo tọa đàm giao
lưu gặp gỡ
trên tất cả văn chương sân khấu điện ảnh nhiếp ảnh hội họa
trên tất cả các lễ hội sinh hoạt cộng đồng
trên tất cả các lớp học giảng đường hội trường tiền sảnh
trên tất cả các nhà trẻ các lớp mầm non các lớp mẫu giáo
trên tất cả các lớp tiểu học các lớp phổ thông cơ sở các lớp
phổ thông trung học các trường dạy nghề các trường trung cấp các trường cao đẳng
các học viện các trường đại học
vẫn đằng đằng sát khí
vẫn mịt mù khói lửa chiến tranh
vẫn loảng xoảng súng đạn
Bất kỳ một biến đổi về cấu trúc nào cũng gây ra tình trạng áp
lực, khi ấy người đọc không còn chắc chắn về hướng đi của bài thơ nữa: sự êm ái
của thơ Việt từ đây buộc phải thay đổi. Một đặc điểm của Nguyễn Linh Khiếu là,
tuy vậy, những câu thơ của anh được sắp xếp sao cho hợp lý, ngay những câu dài
nhất, ngữ pháp vẫn không rắc rối, vẫn sáng sủa. Bức tranh của anh hấp dẫn nhưng
dễ hiểu, thiếu các nếp gãy nứt. Cánh cửa sẵn sàng mở ra trước người đọc, vừa là
ưu điểm vừa là khuyết điểm. Tư duy thơ anh là một tư duy hiện đại - tuyến tính,
mặc dù vậy, với chủ ý hay không , anh đôi lần vượt qua giới hạn của nó, tạo ra
tình trạng khác.
khi đó con người là thức ăn của ba ba thuồng luồng hay ba ba
thuồng luồng làm thức ăn của người
ta làm sao hiểu được Sông Hồng thuở xa xưa
sông Hồng thuở ta chưa từng có
không có ta liệu có Sông Hồng hay không
không có Sông Hồng liệu có ta hay không
Các hình ảnh của anh đẹp như hội họa, không yên tĩnh mà vận động
quanh các chủ đề. Anh nhìn sự vật trong chi tiết cụ thể, cảnh vật mà anh mô tả
là cảnh vật của tâm trí, cái mà Mặc Đỗ đặt là tâm cảnh. Chúng ta có những vùng
châu thổ lớn, sông Hồng, sông Cửu Long, những làng mạc quanh sông khắp ba miền
đất nước, vì vậy cảnh vật trong thơ anh không xa lạ gì với người Việt. Nhưng sự
mô tả ấy không chỉ là mô tả, chúng hướng tới câu hỏi siêu hình, gợi lại cho người
đọc biết bao nhiêu suy nghĩ về con người. Trong thơ Nguyễn Linh Khiếu,
qua chữ “phồn sinh” do anh tạo ra, như một quan niệm, lịch sử được tái xây
dựng. Sông và cánh đồng, cây cỏ và gió bão không chỉ là bản thân chúng, mà còn
là mùa màng, nhịp điệu của đất nước nông nghiệp, của đời sống thôn xóm, sự hiện
diện và trở về của người chết, sự nhớ lại. Trong một xã hội chịu ảnh hưởng của
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, đời sống người Việt gắn bó với thôn quê, với
thiên nhiên, mùa màng, vì vậy khi anh nói về đất nước, anh nâng khái niệm đất
nước lên thành một khái niệm ngôn ngữ và văn hóa. Lịch sử đất nước trong thơ
anh trở thành lịch sử thơ ca.
Đặc tính lớn của thơ Nguyễn Linh Khiếu là ở đây: anh lấy sự
ca ngợi làm hình thức phản kháng, cái nhìn của anh nghiêng về cái tốt đẹp,
nhưng không bao giờ rời bỏ ý thức phê phán đối với hiện thực. Thơ anh có thể đi
trước nhiều người cùng thời một bước, về khía cạnh này. Tôi cũng nghĩ quan niệm
phồn sinh của Nguyễn Linh Khiếu có hai nguồn gốc: tín ngưỡng phồn thực hay văn
hóa phồn thực, đó là tín ngưỡng ca tụng sự sinh sôi nảy nở, sự giao hợp của người,
muông thú, thực vật, và thứ hai là, các điển lễ và hình tượng đi kèm
chúng.
những giống đực thiêng liêng
những giống cái thiêng liêng
những cặp đôi thiêng liêng
những nhịp điệu giao phối thiêng liêng
chẳng có gì trong thế giới này vĩ đại
và thiêng liêng hơn đực cái
Quan niệm phồn sinh, phồn thực, tôi nghĩ, không xa tư tưởng
Phật giáo, đặc biệt là sự kính trọng và yêu mến sự sống muôn loài. Lòng nhân ái
đối với con người, phát triển thành lòng yêu thương đối với vạn vật, trong đó
có tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa anh chị em, bà con,
lối xóm. Ở phương Tây tình yêu ấy tạo thành các cuộc cách mạng, ở phương Đông
nó tạo thành những thay đổi cá nhân, sự tiến triển của tâm hồn mỗi người. Khi
tôi nói Nguyễn Linh Khiếu gần với tư tưởng Phật giáo là nói về mặt sinh thái học,
nhưng tư tưởng Phật giáo khác với khuynh hướng sinh thái học hiện đại. Tư tưởng
Phật giáo quan tâm đến thiên nhiên như một hiện hữu thường hằng, tác động của
thiên nhiên đối với con người, trong khi sinh thái học hiện đại ngược lại, quan
tâm nhiều hơn đến tác động của con người đối với thiên nhiên.
ta sống một giây thế giới này chỉ có một giây
ta sống một phút thế giới này chỉ có một phút
ta sống một giờ thế giới này chỉ có một giờ
ta sống một ngày thế giới này chỉ có một ngày
Không có gì xảy ra trong bài thơ này, thế mà dường như mọi thứ
đều chuyển động. Nếu chúng ta nhận biết bản tướng của thế giới, chúng ta sẽ
biết chúng ta đứng ở đâu trong thời gian và không gian, chúng ta biết cần phải
hành động như thế nào trong sự hòa hợp với cái khác, người khác, vật khác. Trên
đường đi tìm hòa hợp giữa cái ta và cái khác, Phật giáo tìm ra nguyên lý bất nhị.
Thơ Nguyễn Linh Khiếu là một kiểu hành thiền khác, thơ mộng, an trú trong hiện
tại, tăng cường nhân cách của con người. Thay đổi là nền tảng của sự vật.
Chính nhờ nhìn thấy sự thay đổi của vật mà con người có thể an trú trong rỗng
không, mất mát, tạm thời. Quan niệm vô thường ấy chiếu rọi bản thể của sự vật,
dưới sự quan sát thận trọng và chăm chú, sự quán tưởng, hành giả và thi sĩ sẽ
nhìn thấy ở thời gian những khắc thời gian nhỏ bé, những khoảng cách li ti.
Trong sự dịch chuyển, thế giới làm nên bởi trống rỗng. Thế giới hiện hữu thì vật
hiện hữu, nhưng đó là một hiện hữu kỳ lạ, tựa như giấc mộng.
Dọc con đường khất thực, các thí chủ quỳ gối trên những đệm mỏng
trước cổng nhà mình chờ sẵn. Họ bao gồm cả đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ.
Tất cả phải quỳ vì không ai được đứng cao hơn các nhà sư. Khi dâng lễ, người
dâng cúng tuyệt đối không được ngẩng lên nhìn mặt nhà sư. Nhà sư sau khi nhận lễ
chắp tay vái tạ và rì rầm đọc một đoạn kinh chúc phúc cho thí chủ thiện tâm,
người dâng lễ cũng chấp tay trước ngực và vái chào nhà sư buổi sáng.
Nhiều bút ký, du ký và tùy bút của Nguyễn Linh Khiếu là những
bài thơ văn xuôi (prose poems) thành công. Muốn biết sự sáng tạo của một
nhà thơ, cần xem mối quan hệ giữa tính truyền thống và tính độc đáo. Truyền thống
là sự kế thừa từ những người viết trong quá khứ, đôi khi như một ân huệ, đôi
khi gánh nặng. Khi viết, bất kỳ nhà thơ nào cũng tìm cách vượt ra khỏi cái bóng
của người khác, cái mà Harold Bloom gọi là anxiety of influence. Ngôn ngữ là một
lịch sử, mỗi chữ đều chứa trong nó nhiều cuộc đời, nhiều ý nghĩa, những phân
vân của người đi trước. Bởi vậy, viết bao giờ cũng là viết lại. Nguyễn Linh Khiếu
không xa các truyền thống; các câu thơ có cấu trúc mạch lạc. Anh không tìm cách
thách thức các mệnh đề, tôi ít khi thấy anh đảo câu, vì vậy chữ của anh đẹp, ít
bất ngờ. Mặc dù nhắc tới đề tài văn hóa, anh lại ít khi sử dụng điển tích. Hai
tính cách độc đáo của thơ anh, xét về hình thức ngh ệ thuật: đầu tiên là
việc sử dụng các câu thơ dài và nghệ thuật trùng điệp. Nhiều nhà thơ cũng dùng
kỹ thuật này nhưng ở Nguyễn Linh Khiếu chúng được đẩy đến tối đa, và trong nhiều
trường hợp, tối ưu hóa. Tính độc đáo thứ hai nằm ở các hình tượng lớn. Là một
nghệ thuật của trường ca.
bao nhiêu nắng mưa bao nhiêu nóng lạnh bao nhiêu hưng vong
bao nhiêu xa hoa bao nhiêu lộng lẫy bao nhiêu tăm tối bao
nhiêu bạo tàn
Thơ Nguyễn Linh Khiếu gần với Walt Whitman. Đó là một thứ hậu
lãng mạn, khởi động tâm lý học và triết học về con người bằng tư duy tình dục.
Viết về tình dục xưa nay vẫn khó; biết dừng lại đúng lúc là một trong những bí ẩn
quan trọng của thơ tình dục. Nhưng phồn thực, các xúc động nguyên thủy, vốn chống
lại lý trí. Đâu là tiêu chuẩn đạo đức và tiêu chuẩn cộng đồng? Người Việt cổ đại
đối xử với tình dục như thế nào? Tình dục vừa là văn hóa vừa là chính trị, vừa
là khởi thủy, vừa là kết tinh những phẩm tính cao cả. Các xúc động nguyên thủy
có lẽ chưa phải là văn hóa, mà cũng không phải sự chống lại văn hóa, đó là điều
gì đi giữa hai thứ ấy. Viết về phồn thực, phồn sinh, sự sinh nở, truyền giống,
bất kỳ tác giả nào cũng cần am hiểu muôn khía cạnh của đời sống một cộng đồng,
trong khi vẫn phải tự tin, thong dong đi giữa những cảm xúc cá nhân của mình.
Viết là một hành động chống im lặng, là sự thách thức các trật tự truyền thống,
chuẩn mực. Thơ Nguyễn Linh Khiếu trong khi ca ngợi rực rỡ những mối quan hệ giữa
người và người, cha mẹ và con cái, người nam và nữ, mối quan hệ giữa con người
và thiên nhiên, giữa hiện tại và truyền thống, vẫn dựng lên thách thức đối với
các giá trị, đặt ra những câu hỏi lớn, làm lay chuyển niềm tin, tái xây dựng
các diện mạo, khơi gợi ở người đọc sự đánh giá lại.
Một bài thơ phải làm gì để đập vỡ các huyền thoại: tấn công
vào sự không công bằng, những ảo tưởng. Trong một thời đại nhiễu nhương, thơ là
nguy hiểm. Trong nhiều thời kỳ lịch sử ở dưới những nhà nước khác nhau, có lúc
thơ ca bị cấm đoán. Đối với một xã hội tìm cách tước bỏ tâm hồn dân tộc ra khỏi
đời sống văn minh vật chất của nó, sự phát triển kinh tế điên cuồng của nó, thơ
là nguy hiểm. Bởi vì chúng tạo nên niềm tin vào cái giản dị, vào sự liên tục của
số phận, vào sự thanh khiết, và do đó, là cổ vũ cao nhất đối với tự do.
giải phóng khỏi lừa đảo lưu manh
giải phóng khỏi giả nhân giả nghĩa
giải phóng khỏi dối trá mị dân
giải phóng khỏi áp bức cường quyền
giải phóng khỏi lễ nghi thần tượng
giải phóng khỏi ràng buộc khuôn phép
giải phóng khỏi u mê mộng mị
giải phóng khỏi lãnh đạo bề trên
Có nhiều kiến thức trong một bài thơ của Nguyễn Linh Khiếu,
những kiến thức về cây cỏ, chim muông, về đồng bằng sông Hồng, về địa lý, về
khí quyển, có những kiến thức về lịch sử, về con người, về nhân chủng học. Tôi
cho rằng anh là một trong những nhà thơ biến thơ ca, nhất là những bài thơ dài
và trường ca, thành một thứ tùy bút, tiểu luận, phê bình. Thơ trữ tình thành một
nghệ thuật quan sát và ngược lại, lyric narrative. Sự nhạy cảm trong thơ trở
thành nhận định chính xác khách quan, trở thành những quan sát hóm hỉnh và
thông minh. Một người có tầm nhìn:
khi đó Sông Hồng chảy từ núi xuống hay chảy từ biển lên núi đồi
từ đất lên trời hay từ trời xuống đất
khi đó dòng sông chảy dọc hay chảy ngang
khi đó dòng sông uốn lượn hay một dòng thẳng tắp
Bài thơ tạm dừng lại. Sau khi nó đã triết lý, đã ca hát, đã
chạy trong những máng xối như nước, đã thổi qua khe núi như gió, bài thơ dừng lại
như người giữa hai giờ làm việc, ngồi xuống trên cỏ. Bài thơ có lúc dừng lại
như vậy. Phản ứng, áp lực. Sự không thỏa mãn. Như vậy khi một bài thơ dừng lại ở
chỗ nghỉ, đó không phải là sự nghỉ tuyệt đối. Sóng trên mặt lặng xuống, lực chảy
luồn dưới đáy. Trung tâm của bài thơ là hình ảnh quan trọng nhất, một ý tưởng
vươn lên thành hình ảnh, không phải một nhãn tự. Nguyễn Linh Khiếu ít có những
câu độc lập có thể trích riêng ra được. Khuynh hướng các nhà thơ hiện nay đều
thế. Các câu nương vào nhau như một hệ thống, bạn không trích xuất một cách dễ
dàng. Sự mô tả trong thơ nặng thuyết phục, giọng kể lưu loát, hình ảnh dày đặc,
giọng ấy là giọng hát, ca ngợi, sử thi.
mưa ròng ròng trên thịt da tinh khiết
thịt da ta mười ba
thịt da nàng mười ba
mười ba tuổi thịt da bồi hồi trong mưa
mười ba tuổi mưa thổn thức trên thịt da ngùn ngụt
Đời sống của nghệ sĩ là nguồn gốc của những bài thơ. Sự sáng
tạo xảy ra cùng lúc giữa người làm thơ và những vật liệu anh chạm tới. Những vật
liệu ấy như có linh hồn, thay đổi. Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào có giá trị
cũng đều lăm le xuyên qua biên giới của sự hiểu biết, đặt chân vào huyền bí. Dù
đó là thơ hay tiểu thuyết, kịch hay truyện chớp, bao giờ cũng có một phần gần
như linh thiêng của ngôn ngữ chờ bạn ở đó, bạn như một người đọc. Thơ anh
đôi khi có cái hư hư ảo ảo, mờ nhạt. Thơ anh là cuộc đối thoại, lời tâm tình
mang tính đối thoại, giữa tác giả và người đọc, giữa con người và hoàn cảnh,
giữa lịch sử và cái lẽ-ra-nên-là lịch sử. Những đối thoại ấy, thân mật nhưng thẳng
thắn, nơi người nói đặt hết lòng tin vào kẻ khác, xâu chuỗi các bài thơ. Đó là
tính thuyết phục trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, vì đối thoại làm cho sự tiếp xúc
giữa người viết và người đọc tăng lên, người đọc hóa thân thành tác giả, cùng
xúc cảm, lo nghĩ như anh.
vì sao phải đi thật xa chúng ta mới là mình
phải đến nơi không ai biết mình ta mới có một chút tự do nhỏ
bé
Ngay cả khi anh tuyên bố, kêu gọi, điều mà anh thường làm,
thì giọng của anh vẫn mở ra khả năng đối thoại. Ngay cả khi anh nói về những
cái to tát, thì chất giọng ấy vẫn tâm tình.
chỉ khi nào thực sự sống trong hòa bình tự do bình đẳng dân
chủ thì con người mới thực sự là con người
chỉ khi nào thực sự sống trong hòa bình tự do bình đẳng dân
chủ thì dân tộc mới thực sự là dân tộc
khi nào không có hòa bình tự do bình đẳng dân chủ thì con người
còn phải đi tìm giá trị của mình trên khắp thế gian
Nguyễn Linh Khiếu là người đi tìm những khoảnh khắc giao hòa
giữa cái tôi và tha nhân. Anh chú ý tới khoảnh khắc, làm sống lại chúng, tìm
cách đặt chúng vào tấm thảm dệt của thời gian, không phải để giải thích mà để tự
mình và người đọc có thể sống lại giây lát ấy, thuyết phục người khác về vẻ đẹp
của chúng, của sự tồn tại trong thời gian, vẻ đẹp của nhịp điệu. Anh thường
xuyên băng qua các ranh giới, ngã ba, ngã tư, kiên nhẫn và xông xáo, hồn nhiên
và có chủ đích, tìm kiếm bằng được trong hiện tại khuôn mặt của quá khứ. Vì từ
một khoảnh khắc, thơ có thể nhìn thấy vĩnh hằng.
đối diện với nàng ta khám phá ra mình
ta đồng hiện một chân dung cuộc sống
một khuôn mặt hiện ra một đất nước hiện ra
đất nước của mưa thuận gió hòa trời yên biển lặng
đất nước của bốn mùa xuân hạ thu đông thánh thót hoa thơm
trái ngọt
Nguyễn Linh Khiếu ít nói về thân phận cá nhân. Tôi không mấy
khi thấy anh thất tình. Anh ít nói về xúc cảm âm tính. Đó là một giọng thơ khỏe,
“vui”, hiếm gặp trong thơ Việt từ trước đến nay. Khi vui, người ta ít sâu sắc,
nhưng Nguyễn Linh Khiếu thì ngược lại, bàng bạc trong thơ anh những trầm tư lạ
thường, sâu xa, quyết liệt. Anh hướng nhiều hơn đến cõi đời, nhịp thở non sông
đất nước, lòng lo toan xã hội. Đó là một thứ thơ hướng ngoại, nhưng dù hướng
ngoại, lại không tách mình ra khỏi thiên nhiên. Người khác biến thế giới nội
tâm thành ngoại cảnh, trong khi Nguyễn Linh Khiếu biến ngoại cảnh thành nội
tâm: anh nhìn thấy số phận mỗi cá nhân qua số phận cộng đồng, anh nhìn thấy sự
suy tàn của mặt đất như những giá trị đạo đức suy tàn, anh lấy tình nghĩa cỏ
cây làm tình nghĩa con người. Anh thiết lập các mối quan hệ giữa cá nhân và tập
thể, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn.
để tồn tại trên thế giới này
để khám phá ra khuôn mặt mình
để xứng danh một đàn ông đích thực
để chứng tỏ kho giống nòi quí báu nhân loại
ta phải bắt đầu từ khuôn mặt thiếu nữ
Nguyễn Linh Khiếu sống trong hiện tại bão táp, không sợ cái
hiện tại ấy vì anh đặt nó trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Trong một
giọng thơ đôi khi nồng nhiệt, đôi khi trầm lặng, tôi ít thấy sự uể oải phế tàn,
tuyệt vọng, hay ngược lại, dửng dưng, cười cợt, chế nhạo. Khi quay về với đời sống
nội tâm, anh có giọng thơ lạ, vượt qua quy ước, lay động sự bình an ở người
đọc.
Những thời đại giả danh dân chủ con người chẳng biết sống chết
thế nào
Những thời đại giả danh dân chủ con người vô cùng hoang mang
vô cùng bế tắc vô cùng hoảng loạn vô cùng khiếp sợ vô cùng bi đát vô cùng tuyệt
vọng vô cùng không còn là con người
Nguyễn Linh Khiếu nhìn ra sự khác biệt giữa tối và sáng, giữa
sự thật giữa và cái giả tạo, chúng ngày một đầy rẫy trong xã hội chúng ta, và
ít ai nói được như anh. Thơ ấy hãy còn ít chất hài hước, sự châm biếm, chất dân
gian đường phố; cảm xúc chủ đạo vẫn là từ một tâm trạng suy nghĩ, đĩnh đạc nhiều
hơn bông lơn, mang tính hiện đại chủ nghĩa. Anh có một niềm cảm hứng đối với
những tình cảm lớn: tự do, quê hương, số phận con người, lịch sử, sự bạo động,
các tội ác, tình yêu tự do, tình dục tự do, phồn thực, nguyên sơ, cái tốt đẹp.
Tựa như cuộc trở về nguồn cội, nhưng cũng lại như hành hương tôn giáo, đi tới
vùng đất lạ để chiêm ngưỡng niềm tin. Một thứ thơ gần siêu thực hoặc huyền thoại.
trên xứ sở châu thổ Sông Hồng của ta rực rỡ sắc màu Sinh sôi
vang lừng âm thanh đâm chồi nảy lộc
sôi động thanh điệu cường tráng
xao xuyến giai điệu cành la cành bổng
lộng lẫy sắc màu căng mẩy
tràn trề tinh thần luyến ái
Nguyễn Linh Khiếu viết nhiều câu thơ tiếp cận văn xuôi,
có thể xem là thơ xuôi. Không có gì đáng ngạc nhiên là nhiều người nghĩ rằng
thơ anh là sự ca ngợi sự phồn thịnh của đất đai, sinh nở, của nòi giống. Tất
nhiên điều ấy là đúng, nhưng không diễn tả hết những khía cạnh khác của Nguyễn
Linh Khiếu: yếu tố trí tuệ, sự phê phán, sự cảnh tỉnh, sự so sánh các giá trị,
lòng khao khát tự do, cuộc chiến đấu thầm lặng của anh. Làm thế nào để không bi
quan trong thời đại này? Làm thế nào nhân dân được quyền nói thật và có
quyền nghe sự thật?
do công việc nhiều lần ta đến nhà một vị tướng
dáng vóc ông nhỏ nhắn
phong thái ông nhân hòa
tinh thần ông lão thực
đời sống ông giản dị
giọng nói ông ôn tồn
ông ân cần tận tâm như một ông giáo làng
ông thân thiết bao dung nhân từ như cha
ông hiền hòa độ lượng như một người ông
ông khoan thai ung dung tự tại như một tiên ông
không biết lực lượng nào trú ngụ trong ông để ông ra quyết định
những trận đánh vĩ đại của ông hàng ngàn người biến khỏi mặt
đất
mỗi chiến thắng đẫm máu của ông
khăn tang trắng xóa mặt đất
mỗi lần bắt tay ông ra về
bàn tay ông nhũn nhùn lạnh ngắt
bỗng nhiên lạnh buốt sống lưng nổi da gà
quốc gia tuy lớn mạnh hiếu chiến tất diệt vong
một dân tộc tìm vinh quang trong chiến tranh chém giết đó là
một dân tộc hạ đẳng
một dân tộc hung hăng hiếu chiến luôn luôn đi xâm lược luôn
luôn khủng bố luôn luôn gây chiến luôn luôn đè đầu cưỡi cổ dân tộc khác đó là
dân tộc man rợ dã thú
một dân tộc lấy chiến tranh để giải quyết những bất đồng dân
tộc đó là dân tộc súc vật
một dân tộc luôn luôn phải tiến hành những cuộc chiến tranh vệ
quốc luôn luôn ngập chìm trong nội chiến đó là dân tộc đang đi trên con đường tự
hủy diệt mình
mỗi khi chiến tranh xẩy ra thú tính được tôn vinh con người
hiện nguyên hình đó là loại thú dữ man rợ
trong chiến tranh ai giết được nhiều đồng loại đó là người lập
được nhiều chiến công người đó là dũng sĩ người đó là anh hùng người đó sẽ được
tôn vinh được ca ngợi trở thành thần tượng trở thành lãnh tụ
trong chiến tranh thần tượng của mọi người là dũng sĩ là anh
hùng là người được tôn vinh là tướng soái là chỉ huy là lãnh tụ
trong chiến tranh thần tượng của cả thời đại là những hung thần
tất cả mọi người bị giết trong chiến tranh đều do lãnh tụ
tất cả mọi người sống sót trong chiến tranh đều ngoài ý muốn
các lãnh tụ
lãnh tụ là người phát động chiến tranh
lãnh tụ là người tiến hành chiến tranh
lãnh tụ là người chấm dứt chiến tranh
trong chiến tranh tất cả mọi người có mặt trên chiến trường
nhưng lãnh tụ ở nơi an toàn nhất
Một bài thơ không có kết luận có mang chúng ta lại gần nhau
hơn, với những câu hỏi trong đó không? Những bi kịch của hòa bình và cuộc
chiến tranh dai dẳng không những đã chia rẽ một dân tộc, mà còn xé rách lịch sử ra
nhiều mảnh, tàn phá các cộng đồng, xóa trộn chúng. Tập thơ Phồn sinh là
những trải nghiệm cá nhân của thi sĩ ở vùng châu thổ sông Hồng, thơ ấy nói thay
cho người chết, nói thay cho những mất mát, thơ ấy nói thay cho hy vọng. Cuộc đời
rộng lớn hơn bài thơ, rộng lớn hơn triết học, hơn bất kỳ một lý thuyết cách mạng
xã hội nào.
ta hạnh phúc trong từ trường 23o5 nghiêng của trái đất
ta chẳng bao giờ thăng bằng cứ chênh vênh run rẩy sắp sửa đổ
ngã
trong thế giới nghiêng ngả
hạnh phúc là những khoảnh khắc không cân bằng
Trong thơ anh, có những cửa sổ, ở đó các sự kiện xảy ra bất
ngờ. Chừng nào các sự kiện ấy xuất hiện một cách tự nhiên, bài thơ liền được
nó dẫn đi, nhận được năng lượng từ nó. Tôi hy vọng trong những tác phẩm sắp tới,
Nguyễn Linh Khiếu phát triển hơn nữa khả năng của anh: sự quan sát tinh tường,
sự lắng nghe sâu, sự phê phán có tính xã hội và lịch sử, tính trữ tình thế sự.
ta ra đi từ châu thổ Sông Hồng
miền lúa nước huy hoàng
miền trâu nước hùng vĩ
miền chim nước sặc sỡ
miền nhân nước phì nhiêu
miền thủy sinh phi thường
miền lưỡng cư mộng mị
nơi vị thần tình yêu ngự trị
ngôi đền yêu bất tử miên man nhiệt đới miên man gió mùa
Ngôn ngữ thơ và cảnh vật đồng bằng sông Hồng, tạo ra một quyền
năng lớn lao, của sự hòa điệu và sự cô độc. Nguyễn Linh Khiếu sở trường về việc
làm bộc lộ tính yếu đuối, sự dễ đổ vỡ, tính thương tổn của thiên nhiên, một
thiên nhiên có con người ở bên trong, đi lại, cười nói, sống và chết, làm tình,
thù hận, tha thứ.
truyền giống là hành vi truyền thống
truyền giống là hành vi hiện đại
truyền giống là hành vi hậu hiện đại
Trong nhiều bài, anh cũng có lạm dụng điệp ngữ và lắp láy.
Một bài thơ có thể xóa nhòa người đọc hay có thể làm tác giả
biến mất. Hay là ngược lại, ngôn ngữ thơ ca làm chúng ta thấy nhau rõ ràng hơn,
tin cậy hơn, mặc dù một bài thơ không bao giờ có những kết luận. Bài thơ là một
tổ chức phức hợp, gồm âm điệu, chữ, ý tưởng, hình ảnh. Bạn lắng nghe một
bài thơ trước khi hiểu ý nghĩa của nó. Bạn thích bài thơ trước khi biết tại
sao. Sự duyên dáng, tức là tập hợp các cử động, sự chuyển động nhịp nhàng, là sức
hấp dẫn đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất đối với người khác. Tuy vậy sức mạnh
bên trong của bài thơ là cảm xúc.
ta sinh ra nơi châu thổ Sông Hồng
dòng mẫu hệ ngàn đời mênh mông bao dung chảy xiết
mẫu hệ là nhân từ
mẫu hệ là thịnh vượng
mẫu hệ là bản sắc
mẫu hệ là nguyên lý sắc tộc
Nguyễn Linh Khiếu là người yêu ngôn ngữ, mặc dù vậy anh không
phải là người chủ trương lấy ngôn ngữ làm trung tâm. Đó là một loại thơ dũng cảm,
là tiếng nói chân thực của một nhà thơ công dân, là cái nhìn thấu suốt các
duyên nợ, nhân quả, tìm cách mở nút thắt của các trò chơi lịch sử, dấu vết của
tội ác, bộ mặt của thỏa hiệp.
40 năm
chiến tranh vẫn nằm chềnh ềnh trên mảnh đất này không chịu ra
đi
40 năm
chiến tranh vẫn không ngừng quay cuồng tiếp diễn
những nhảy nhót vặn vẹo cụt chân cụt tay
những gương mặt tối tăm không mắt
những thịt da khâu vá chằng chịt
Các hình thức nghệ thuật được cảm nhận thông qua mối
quan hệ của chúng với quy ước, sức đề kháng với thói quen cũ kỹ.
Nếu việc làm mới được cho là quan trọng hơn cả, ngôn ngữ thơ có thể
trở nên tối tăm, mù mịt, bài thơ lạc lối. Ngược lại, nếu không quan
tâm đến chuyện mới hay cũ, nhà thơ dễ dàng rơi vào bẫy của những
cảm xúc và lối nói quen thuộc. Nguyễn Linh Khiếu đi nhiều, những hiểu
biết văn hóa của anh rộng rãi, tôi tin rằng anh đã từng đến chiêm ngưỡng những
đền đài tôn giáo và những chốn thờ phượng linh thiêng, của dân tộc và nhân loại,
tôi tin rằng anh đã nhận được ở đó nhiều điều mà tôi không thể gọi tên. Thay đổi
là trống rỗng, vốn là bản chất của sự vật. Khoảng trống rỗng ấy là nơi gặp gỡ
giữa tâm hồn và thân xác. Tôi nhìn thấy trong thơ anh tính bất đối xứng, sự triển
nở nguyên sơ, sự vận động của các huyền thoại, khía cạnh thiêng liêng huyền bí
của nhục cảm. Có một thiên nhiên riêng biệt của Nguyễn Linh Khiếu, những sông
núi của quá khứ, bị ám ảnh bởi những câu chuyện được kể lại qua nhiều thế hệ,
nhuốm đầy chất tín ngưỡng, các cổ mẫu văn hóa, nhịp điệu cơ thể.
cơ thể mỗi phụ nữ là một hoàn mỹ duy nhất
cơ thể mỗi phụ nữ là một viên mãn cao quý
cơ thể mỗi phụ nữ đều kỳ diệu phi phàm
cơ thể phụ nữ đó là kho báu bí mật vô tận nhân loại không bao
giờ khám phá hết
cơ thể phụ nữ chính là bí mật vĩ đại nhất của thế giới này
Sự giải thoát khỏi những đau khổ xảy ra ở cấp độ cá nhân cũng
như toàn xã hội. Tác động của chiến tranh, ô nhiễm môi trường, bạo lực xã hội,
phát triển vô tội vạ, sự tham lam và các chính sách phục vụ cho chúng, sự kém
hiểu biết đối với thiên nhiên, sự tiết mạn, góp phần to lớn vào tình trạng vô
minh của mỗi cá nhân. Thơ đi tìm lại sự cân bằng, từ chối sự chiếm đoạt của con
người đối với thiên nhiên, chống lại tình trạng đô thị hóa bừa bãi, không phải
là chống lại sự tiến hóa văn minh mà ngược lại đó là cách duy nhất để giữ cho
con người hạnh phúc trong một thời đại thay đổi. Những cố gắng tương tự bắt nguồn
từ lý thuyết bất nhị tin rằng ta và tha nhân, xã hội và môi trường, quá khứ và
tương lai, cái ta và cái khác, thực vốn không khác. Thơ Nguyễn Linh Khiếu hàm
chứa nhiều nhận thức về tự do. Tôi nghĩ rằng đó là cốt lõi của thơ anh.
mọi con đường trên thế gian đều dẫn ta trở về ngôi nhà của mẹ
mọi con đường trên thế gian đều dẫn đến ngôi nhà của người ta
yêu
mọi con đường trên thế gian đều dẫn ta đến với nàng
con đường không dẫn ta về với mẹ thì ta lạc lối
con đường không dẫn ta đến nhà nàng sẽ dẫn ta đến nhà tù.
Trong thời chúng ta, dưới ảnh hưởng của chủ
nghĩa hậu hiện đại, các tác giả thường được chú ý vì sự nghi ngờ
của họ đối với hiện thực, nhiều hơn là sự khẳng định, an ủi, khích
lệ. Một trong những đặc tính của thơ Nguyễn Linh Khiếu là kết hợp
giữa một mặt không ngừng tra hỏi đời sống, niềm tin, một mặt thơ là
bài ca hát lên về cuộc đời, tính chuẩn mực của giá trị. Sự kết
hợp có tính xung đột ấy chỉ có thể xuất hiện khi thơ là tiếng nói
chủ quan của một người, trữ tình, sắc sảo, lãng mạn. Chúng ta đọc
thơ anh không phải chỉ là để đi tìm sự thật bị khuất lấp, mà còn,
và chính yếu là, đi tìm sự thật về một người đi tìm sự thật.
chỉ nói lên sự thật
chỉ viết lên sự thật
đó là trồng một cái cây
đó là gieo một hạt giống
đó là cày một thửa ruộng
đó là cuốc một vạt đất ven sông
Thơ Nguyễn Linh Khiếu tiến v ề minh triết. Tôi
nghĩ đó là minh triết trữ tình. Những nơi chốn, sự vật mà anh kể lại đó đây
trong các chuyến đi xa, những nhân vật mà anh gặp, những tự sự, mảnh đời trôi dạt,
các truyền thống quen và lạ, v à tiếng nói phi chính thống, làm đầy
buổi hòa nhạc của anh. Tính liên văn bản của bài thơ đôi khi
quan trọng đến mức nội dung câu chuyện, kinh nghiệm cá nhân của tác
giả trở nên ít quan trọng hơn, so với rung động của người đọc.
Thơ trở thành ảo giác, hay chính là ảo giác được tạo ra
bởi phép tu từ, sự vang động của âm chữ. Nhưng các biểu tượng trong thơ
không phải là trang trí: chính chúng tạo ra trật tự xếp đặt của chữ,
là sự hợp lý của lời, là bản vẽ cấu trúc vô thức của nhà thơ,
các nguyên mẫu được sống lại bởi tài năng.
nước là tình yêu
nước là khát khao
nước là ham muốn
nước là nhục dục
nước là ta nước là nàng lênh láng ngày đêm dào dạt chảy xiết
sang nhau rộn rã hoan ca đắm đuối nhiệm màu
Thơ dàn trải như ở nhiều nhà thơ hiện nay có điểm mạnh là phô
tả cái rạo rực của đời sống, dòng chảy xiết của hôm nay, các khía cạnh khác
nhau của xúc cảm, nhưng điểm yếu của họ là vì vậy mà ít có những câu tập trung,
những bước ngoặt, như mũi kiếm nhọn. Để nắm giữ một giây phút của đời sống, bạn
cần một câu thơ, hay một bài thơ, và khi nắm giữ giây phút ấy bạn chạm tới cái
bất tận của thời gian, chiều sâu của giấc mơ.
trong chiến tranh mọi người lính đều là con đẻ của nhân dân
sau chiến tranh họ trở thành cha mẹ của nhân dân
Thơ không phải là phép lạ, không có một phương pháp nào làm
thay đổi bạn trong chốc lát. Thơ hay tựa như cơn mưa đầu mùa, gió mát, suối nguồn,
mang cho ta sự tươi mới của sự thật óng ánh, làm nhen ngọn lửa chiều hôm của
tình yêu người. Nhiều khi anh nói quá, lặp lại nhiều lần, có thể làm người đọc
mệt, nhưng hầu hết, Nguyễn Linh Khiếu chinh phục bạn dễ dàng sau khi bạn đọc lại.
Sống thật cuộc đời mình không phải chỉ là đạt được điều ta muốn trong đời, mà
là sống cuộc đời của tâm hồn mỗi người.
Anh không lên án ồn ào, không than khóc, tuy vậy có những
dòng thật quyết liệt, không ai có thể nhầm lẫn, nhất là khi anh nói về đau
thương mất mát, bài học của quá khứ, khi anh nghĩ về đất nước và chiến tranh.
Thế giới ngày càng thay đổi, con người ngày càng ít hạnh phúc, ngày càng lo âu
bấn loạn. Thơ như thơ của Nguyễn Linh Khiếu, ở trường hợp đặc sắc, lay động
lòng người sâu thẳm. Đó không phải chỉ là một loại thơ ca ngợi phồn thực, bảo vệ
sinh thái, giữ gìn các truyền thống dân tộc. Đó là một loại thơ trữ tình thực sự,
có khả năng chạm tới tầng sâu nhất, mang bạn trở lại với đời sống từ vực sâu của
thất vọng đối với người khác. Khi tôi đọc một bài thơ thành công của Nguyễn
Linh Khiếu, tôi thấy lòng mình sáng hơn, mở rộng hơn, tôi thấy lòng tin của tôi
chắc chắn hơn, tôi thấy lòng tin của tôi đối với dân tộc vững vàng hơn, sâu sắc
hơn. Thơ như thơ ấy có thể giúp chúng ta hồi phục những ký ức về quê hương. Anh
giúp tôi nhìn ra sức mạnh của sự tưởng tượng và của lòng trung thực. Thơ làm đầy
sự tưởng tượng ấy, làm giàu có chúng, có thể nói được những điều chúng ta không
nói bằng lời. Dù thơ cũng là lời, nhưng đó là lời kiểu khác, lặng lẽ, cô đọng,
mãnh liệt, khi như sấm sét, khi như tiếng nói thầm của người yêu dấu.
cầm tay em dưới vòm cổ thụ lá non mùa Hà Nội ta nói một lời
yêu
một lời lá non
một lời diệu vợi
một lời sắt son
một lời không tuổi
mơn mởn lá non ngày xuân bổi hổi
Ngôn ngữ thơ xuất hiện với hai lý do: tạo ra sự tương
thông giữa người viết và người đọc. Lý do thứ hai: chống lại sự liên
thông ấy, kháng cự sự hiểu biết. Khuynh hướng thứ nhất làm người đọc
đến gần tác giả, khuynh hướng thứ hai làm ngôn ngữ trở nên thơ mộng.
Nếu cứ muốn nói gì cũng phải cho dễ hiểu, thì con người đã không cần
đến thơ ca. Trong bài thơ, thế nào cũng phải có một điểm không thể
hiểu được.
Nguyễn Linh Khiếu không dừng ở tác động hình ảnh,
không dừng ở mô tả khách quan, như ở các nhà thơ theo chủ nghĩa hình
ảnh, imagism, mà anh xâu chuỗi chúng bằng cách kể chuyện, tạo ra phản
ứng ở người đọc, tương tự như phản ứng trong tâm hồn tác giả, làm
cho thế giới nội tâm và thế giới ngoại cảnh liên hợp. Sông Hồng chảy
trong lòng anh cũng chảy trong lòng chúng ta, đám cưới của anh với mùa
xuân, bản hòa tấu của nó, cũng vang lên trên mỗi trang giấy của chúng
ta, trong tiếng động của chiếc đồng hồ treo tường. Chữ của anh là chữ
bày tỏ, tâm tình, kể lại câu chuyện đời mình, nhận thức riêng tư, nhưng người đọc
tìm thấy ở đó tiếng nói của họ. Áp lực của đời sống ngày càng mãnh liệt, sự
tham lam của con người là vô độ, sự u tối lớn hơn nữa, nhưng Nguyễn Linh Khiếu
không chán nản. Trong thời buổi của chúng ta, yêu mến sự thật và khen ngợi lòng
tốt là một thái độ chính trị. Ca tụng thiên nhiên, cầu nguyện thần linh, trở về
tắm dòng suối mát quê hương, cúi đầu xuống uống nước ở đó, không
phải chỉ là một thái độ cá nhân, mà còn là một tuyên bố xã hội. Tôi đọc thơ
Nguyễn Linh Khiếu trong ý nghĩ này, và tôi tin rằng sẽ ngày càng nhiều người
hơn đọc thơ anh như thế, như bạn mở một cánh cửa, để từ đó đi tới cái rộng lớn
hơn, hàm chứa trong thơ anh, như những mùa màng sẵn chứa trong một hạt giống.
Chú thích - Các nguồn tham khảo:
1. http://vanvn.net/
2. http://vanvn.net/
3. Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu: Phồn sinh - thế giới bất tận của
Phồn sinh và sinh sôi, Cẩm Thúy thực hiện. http://daidoanket.vn/
4. Harold Bloom, editor: Selected poems, Walt
Whitman.
https://www.waltwhitman.org/
5. Fiona Sampson: Poetry writing, the expert
guide, Robert Hale, London 2009.
10/10/2021 Nguyễn Đức Tùng
10/10/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét