Những khúc dân ca
đậm nét Tây Ninh
(Nhân đọc Những làn điệu dân ca Tây Ninh, Sở văn hóa Tây Ninh xuất bản)
Nhắc đến việc sưu tầm dân ca ở Tây Ninh, không thể không nhắc
đến Võ Thành Thái, người đã mang theo cây đàn cò đi khắp các vùnh đất Tây Ninh
này để tìm về những câu lý, hò, vè mang sắc thái riêng của Tây Ninh cho kho
tàng dân ca Tây Ninh. Anh đã ngồi trên kia, mịt mờ cùng sương khói. Trong nhà, anh còn lại những người thân. Chẳng còn gì để ghi nhận anh một thời lăn lóc
kiếm tìm lại từng câu lý, câu hò, câu vè của xứ Tây Ninh này. Chúng tôi muốn
mang đến trước bàn thờ anh cuốn DÂN CA TÂY NINH, trong đó có những bài, những bản
mà anh sưu tầm. Tôi nhớ Võ Thành Thái là một người hóm hỉnh, hài hước. Cách
ngày anh mất một thời gian, anh giúp tôi làm một đoạnn nhạc cho một phim phóng sự
về những người lặn lội đi tìm mộ liệt sĩ. Ngày ấy, tôi hỏi anh về công trình
sưu tầm dân ca Tây Ninh mà lúc đó anh lãnh nhiệm vụ làm trưởng nhóm. Anh cười
cười: “Thì vẫn đi, thì vẫn làm, thì tưng, tửng, từng, tưng… ư hừ…”. Tôi hiểu
công việc của anh còn khó khăn, còn trắc trở… nhưng với anh thì vẫn cứ… cười
thôi. Bây giờ những tưởng những điệu lý, bài hò, hát ru đã dần biến
mất khỏi nền văn nghệ Việt Nam đương đại. Vơi những sân khấu ánh sáng
nhoáng nhoàng, ca sĩ nhảy tưng tưng, những tốp múa như tập thể thao trên sân khấu
được coi là nhạc trẻ thì làm gì có chỗ cho những câu hát dân ca mượt mà chân chất
nữa. Ở các tỉnh chủ yếu là đơn ca tài tử với sự tham gia của những người trong
cuộc ta hát và để ta nghe. Thế là, "không đánh mà tan" những bài dân
ca của các vạn cấy, hội hò từng quen thuộc với người nông dân từ hàng trăm năm
qua đã rơi rụng dần đi trước những làn sóng âm thanh của cơ chế thị trường náo
nhiệt. Thì với Thái công trình mà anh làm dang dở cũng vẫn chỉ là những trang bản
thảo mà thôi. Chúng tôi muốn lần theo dấu chân anh và những người cộng sự của
anh để tìm đến những nơi anh đến, những nơi có những câu hát còn truyền tụng đến
bây giờ.
Cách đây khoảng gần chục năm, nhóm sưu tầm do anh Võ Thành
Thái dẫn đầu đã tổ chức hẳn một cuộc hội thảo với sự tham dự củaả nhiều nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian như giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ, vợ chồng nhạc
sĩ, nhà văn Lưu Nhất Vũ và Lê Giang. Cảm động nhất là Thái đã mời cho được một
số cụ ông, cụ bà dân chính gốc, tuổi 70 - 80 đến hát tại hội trường. Đó là kết
qủa trong đợt đầu tiên với 125 bài mới sưu tầm. Đủ loại từ hát lý, bài hò các
loại, hát ru, nói thơ, đồng giao, vè, hát bóng…
Những bài ca hôm đó được nhà thơ Lê Giang, cũng là
người sưu tầm dân ca nhận xét là nồng đượm vị trầu cay và mặn mồ
hôi. Những bài ca như được trút ra từ gan ruột, thơm mùi đất mới cày
lên và mát ngọt nước sông quê. Thể loại phong phú nhất ở Tây Ninh nói riêng và
Nam Bộ nói chung chính dân ca và các điệu lý. Chẳng thế mà các nghệ sĩ Lê Giang
và Lưu Nhất Vũ đã sưu tầm tuyển chọn được đến 300 điệu lý Nam Bộ in vào một tập.
Riêng ở Tây Ninh Võ Thành Thái cũng "sơ tuyển" được tới 40 bài,
trong đó có những bài chỉ riêng Tây Ninh có và cả những bài có hơi hướng dân ca
của nhiều tỉnh miền Nam nhưng vẫn có nét riêng về lời hay cách trình bày của
Tây Ninh.
Tây Ninh có tự bao giờ. Chưa ai khẳng định. Người tứ xứ về
Tây Ninh mở đất, dựng quê, và những câu hát dân ca cũng hình thành giống như
bao nhiêu nét văn hoá riêng của mình. Không ngạc nhiên khi có người nói: trong
các làn điệu dân ca của Tây Ninh có cả bóng dáng của những câu ca của cả ba miền
đất nước. Nhưng những năm tháng mở đất ở Tây Ninh, người Tây Ninh cũng có những
cách thể hiện nỗi lòng mình qua những làm điệu dân ca của riêng xứ sở Tây Ninh.
Trường hợp thứ nhất điển hình là những bài liên quan đến địa
danh của miền đất Tây Ninh, nên không thể lẫn vào đâu được. Như bài "lý
quê chồng" Bài lý có những câu: ”Qua vàm Rạch Gốc/ tới
cái hóc Miễu Bà Thủy Long/ ơ…/ Qua luôn đất giồng là giồng cái Ông Quan Cựu/ rồi
mới tới cái quê chồng là tới cái quê chồng của tui?“
Các cụ bảo đấy là bài lý kể về quê lấy chồng của cô gái quê
miền đất Ngũ Long ở huyện Bến Cầu. Quê chồng ấy là miền đất các xã Long
Thành Nam hoặc Trường Đông, Trường Tây của huyện Hòa Thành. Ngày nay,
vẫn còn bập bềnh những bến sông quê ven sông Vàm Cỏ Đông như Bến
Đình ở phía sau Thánh Thất Trường Đông. Ta có thể theo một chuyến đò máy, để
sang Long Giang, Long Chí, hay Long Vĩnh thăm lại một tuyến đường xuồng những
cô dâu thời trước đã đi qua.
Trong bản "Lý tìm nàng" mà Lê Hữu Trịnh đã sưu
tầm trong đợt II, cũng nhờ có những địa danh mà có thể khẳng định ngay, nó sinh
ra từ miền nào trên đất Tây Ninh “Qua Sân cu, ơ rường ơ/ mới tới
miễu ông Tà/ ơ rường ơ/ lên đây rồi mới gặp/ ơ rường ơ cửa nhà em ở Bàu Năng/ ơ
rường ơ phải qua Ninh Hiệp/ ơ rường ơ mới đặng gặp nàng, ơ rường ơ…”
Đây lại là tâm trạng của chàng trai trên đường tìm tới quê cô
gái mà mình thầm yêu trộm nhớ. Sân Cu là một ấp nhỏ ở xã Long Thành
Bắc huyện Hòa Thành. Bây giờ đường xá đến Sân Cu đã mở mang, nhưng những ai ở xứ
này đều biết, ngày xưa đây giống như một ốc đảo. Rừng còn có cọp beo về. Đến
được Sân Cu thực gian khó, trần ai. Nên mới có những câu ca gập ghềnh như thế.
Và những người sưu tầm cũng phải gập ghềnh bước chân để tìm ra câu hát
Không chỉ có những điệu lý mang đặc trưng rõ nét về vùng đất,
mà ngay cả những thể loại dân ca khác, ta có thể nhận ra vóc dáng quê hương. Chẳng
hạn "Vè đất Trảng" hay nói thơ "Nhà em ở xóm Gò Dầu".
Nếu "Về đất Trảng" hóm hỉnh, tinh nghịch, nẩy nở những tiếng
cười sảng khoái qua những câu: "Có đến Trảng Mây xin đừng hảo ngọt/
vợ ghen nó đón/ có thể lết luôn/ còn đến Trảng Tròn/ có nhiều gái đẹp/ tròn
quay ốc mít/ chẳng sợ sút cân/ ai đó đào hầm/ đào ao đào
giếng/ xin đừng có đến/ Trảng Sụp có ngày…”. Thì trong nói
thơ "Nhà em ở xóm Gò Dầu" lại mang mác một nỗi buồn xa xứ,
bài hát này do Nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết hát và được Lê Hữu Trịnh sưu tầm: “Nhà
em ở xóm Gò Dầu/ ra đi nhớ mẹ lại rầu bốn phương/ Nhớ rồi cũng nghỉ cũng
thương…/ Bời Lời cũng thấy vui vui/ nhớ về hương mẹ Suối Bà Tươi thật dài”
Nhưng ở Tây Ninh không chỉ có những bài hát về địa danh quê
mình. Phần nhiều trong các bài dân ca của Tây Ninh đã sưu tầm được trĩu nặng
tâm trạng hay gửi gắm tình yêu đối lứa, tình người trong lao động. Những nét
riêng chỉ có thể nhận ra qua cách sử dụng từ ngữ có lúc còn thô mộc, đôi khi
cũng trau chuốt đẹp lời đầy ý vị. Nhưng tất cả đều là những ngôn ngữ xuất xứ từ
một nền lao động Nông nghiệp, chân chất, thiệt thà như củ khoai, hạt lúa quê
nhà.
Hát ru chẳng hạn, xuất xứ có thể là những bài ca dao, được lồng
vào những giai điệu thiết tha là thấm thía nổi lòng.
“Ù ơ/… con ong bầu nó hút nhị bông bầu/ cảm thương chị
bậu để dạ sầu tui mang…”. Cũng lại có lúc làm mặt giận: ”Ù
ơ…/ chớ giận ai mà cái mặt đầm đầm, cái môi mà xề xệ, chớ cái cằm xụi lơ…” .
Còn có những điệu hò, những đối đáp đầy ngẫu hứng trong những
mùa gặt giữa những vạn thợ cầy cấy trên đồng. Hầu như hò đã biến mất trên các
sân khấu ca nhạc dân tộc. Thế nhưng, may sao nó vẫn còn đọng lại trong tâm trí
người dân lao động Tây Ninh có cả người già và những người trẻ tuổi. Ở Tây
Ninh vẫn còn những nhóm người yêu thích những câu lý, hò, vè dân gian. Ở mỏ
Công Tân Biên có nhóm của chị Út Bên Chủ tịch Hội Phụ nữ xã làm thủ lĩnh.
Trong tình hình âm nhạc như hiện nay, còn được một nhóm như thế thực hiếm hoi.
Nhưng họ đã lưu giữ được trong nhân dân một nguồn vốn qúy đó là những câu hát
dân ca.
Có những cụ bà lớn tuổi rồi vẫn còn nhớ những câu hát mà mình
đã hát từ thời còn trẻ. Đó là trường hợp của bà Hồ Thị Hôn đã hơn 80 tuổi. Thời
trẻ có những câu hát thuộc nằm lòng, nhưng tuổi tác cũng làm phôi phai nhiều những
câu ca cũ. Có những câu hò chỉ nhớ được một vế: “Hò ơ… / Thấy anh
hay chữ nên hỏi thử đôi lời/ tại sao cây chi chi lại không trái/ gái
hồng đào hổng chồng lại có con/ tôi đố anh trai Nam nhân đối đặng/ tôi nguyền
theo anh không…”
Bây giờ nếu có biểu cụ Hồ Thị Hôn nhớ cho được câu hò đáp, cụ
chịu chẳng nhớ ra. Tuổi trẻ của cụ làm gì có những phương tiện thông tin như
bây giờ. Và cụ đã sống đến tuổi này cũng chỉ sống ở Tân Biên, thì câu hát mà
cụ hát chẳng thể học ở đâu, chỉ có thể có ở xứ Tân Biên này thôi. Cũng may,
nhóm sưu tầm dân ca Tây Ninh còn tìm được những câu hò có cả phần đối và phần
đáp. Như cô gái đối: “Hò ơ … thân em như cá biển đông, để nhảy lên
tam cấp lượn thành rồng cho anh coi?” Chàng trai đáp laị: “Hò ơ… em ơi phải chi anh hóa đặng thần thông, anh ngăn mây đón gió đặng bắt rồng cưỡi
chơi…”
Những điệu hò trên đây còn được người dân địa phương gọi là hò thơ tình, hò giao duyên chính là những hình thức tâm sự, tìm hiểu
gái trai hết sức trữ tình và cũng chứa đựng những nét đẹp của văn
hóa dân gian, dân tộc.
Một loại hình dân ca còn được lưu giữ ở khá nhiều miền quê
Tây Ninh chính là các làn điệu lý. Sau đợt hai cuộc nghiên cứu, các nhà sưu tập
đã tìm tới 144 bài lý trên tổng số 327 bài dân ca các loại. Ngoại trừ những bài
có địa danh đã kể trên, còn tập hợp phong phú các bài lý. Có bài không kể địa danh nhưng vẫn chỉ có ở Tây Ninh như lý Bòn Bon ở Tân Biên, có thể trong từ ngữ
đã có sự giao lưu văn hóa với người Khơ Me Nam Bộ: “Ai đi trong sóc đi ra
lung tung túng, lăng tăng tắng, run/ boon boon cái đối tơ hoàn tiền…”
Lại có những bài chỉ hơi khác đi so với những bài
có ở tỉnh khác.
Ví dụ, bài lý “xúc song” có nơi người ta hát: “Rủ
nhau đi xúc ròng rong. Ròng rong không xúc, xúc mông người ta”, thì ở huyện Tân
Biên - Tây Ninh lại hát là: “Rủ nhau đi xúc ròng ròng/ Ròng
ròng không xúc xúc chồng người ta”.
Rỏ ràng, bản ở Tây Ninh hay hơn bởi vừa chỉnh về thơ
lục bát, vừa dí dỏm, lại vừa hài hước. Còn một loạt những bài lý rất lạ khác
như: lý một chỏng, lý kéo đờn, lý rường giong bóng, lý
dĩa xôi, lý dây bầu, lý ngựa ô và lý con bìm bịp, lý lu là…
Ở Tây Ninh còn có những thể loại khác như đồng dao, nói thơ
và hát tín ngưỡng dân gian dùng trong các buổi lễ cúng miếu. Chúng tôi trích dẫn
một phần nhỏ trong các kho tàng văn nghệ dân gian mà các nhà hoạt động văn nghệ
dân gian Tây Ninh sưu tầm được. Đó là một số bài hát ru, bài hò, điệu lý mà
thôi. Có thể tham khảo thêm những đặc trưng nghệ thuật qua một quá
trình khá dài những người làm văn nghệ dân gian Tây Ninh như Lê Hoàng Minh, Đỗ
Thanh Hiền, Lê Hữu Trịnh. Võ Thành Thái… đã sưu tầm, ghi lại hoặc viết lời mới
qua các làm điệu dân ca còn lưu truyền trong cộng đồng dân cư Tây Ninh. Tuy
nhiên nhìn một cách tổng quát đã có thể nhận định rằng: Tây Ninh không chỉ là
vùng đất Thánh của cách mạng Niền Nam qua hai thời kháng chiến; Không chỉ là
vùng đất trung dũng kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nơi khai
sinh những sở đoàn chủ lực của Quân Giải Phóng Miền Nam; Tây Ninh với sông
Vàm Cỏ Đông, Núi Bà Đen còn là một miền quê lưu giữ nhiều vốn nghệ thuật dân
gian, trong đó cò những câu lý, hò, vè truyền tụng cả trăm năm. Vẫn những cánh
đồng ấy, con người ấy, dù đã thấy tiếng máy cày, máy kéo chạy reo vang trên những
cánh đồng, thế nhưng, những bài dân ca cứ thầm lặng truyền lan như ngọn khói đốt
đồng, lưu giữ đời này qua đời khác. Và đâu đó những nhóm nhen qua các tổ, các đội,
các câu lạc bộ văn nghệ Xã, Phòng văn hoá các huyện vẫn tiếp tục lưu giữ ngọn lửa
hồng của dân ca của ông bà để lại, như giữ gìn và phát triển một vùng đất quê
hương ngày một thêm tươi tốt.
Xin trở về với Võ Thành Thái, Hội viên hội văn nghệ dân
gian. Anh đã mất vào giữa năm 2002 sau một cơn bạo bệnh. Anh không phải là người
đầu tiên, cũng không phải là người cuối cùng sưu tầm những câu dân ca Tây Ninh. Trước anh đã có người, sau anh còn có nhiều người. Nhưng Võ Thành Thái có thể
nói rằng một quãng đời ngắn ngủi anh đã dành cho những cuộc tìm kiếm để lượm lặt
lại những câu hát dân ca đang mai một dần trên đất Tây Ninh này. Khi Thái qua
đời một nhà thơ Tây Ninh đã viết:
“Thái chẳng thể lo cho mình một mảnh riêng/ Đây một mái lá
trống toang/ và con/ và vợ/ Thái chỉ giữ cho mình một ước mơ nức nở/
Những bài ca”.
Những bài ca không phải của riêng Thái, mà của nhân dân
xứ Tây Ninh này. Những bài ca anh sưu tầm ngày ấy còn nằm trong dạng bản thảo.
Hôm nay, nó đã thành văn bản được in ấn đàng hoàng và đã dày thêm lên, với những
bài khảo luận, phân tích, giới thiệu, 75 bài hò vè, 22 bài vè, 17 bài hát ru,
21 bài nói thơ, thơ rơi, 3 bài đồng dao và 144 bài hát lý. Bởi có
thêm những bài mới do hội viên Hội văn nghệ dân gian Lê Hữu Trịnh, Soạn giả
Thanh Hiền, nhạc sĩ Lê Hoàng Minh, nghệ nhân Tuyết Hằng, nghệ nhân Hòai Sang…,
sưu tầm. Có cả sự đóng góp rất tích cực của giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ, nhạc sĩ Lư
Nhất Vũ, nhà thơ Lê Giang. Có cả công sức đóng góp của nhiều nghệ nhân khác của
các địa phương trong tỉnh Tây Ninh, trong đó nghệ nhân 70, 80, 95 tuổi, làm cho
cuốn Dân ca Tây Ninh phong phú và mang tính học thuật cao trong công tác nghiên
cứu vốn dân ca của người Việt Nam trên mọi miền đất nước.
12/6/2008 Nguyễn Đức Thiện
12/6/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét