Cà phê dưới góc nhìn xã hội học
Học cách suy nghĩ dưới góc nhìn xã hội học, có thể nói, đó là
nhìn nhận sự việc với góc nhìn bao quát hơn, cũng có nghĩa là phát triển sự mường
tượng (imagination). Nghiên cứu xã hội không thể chỉ là quá trình lặp đi lặp lại
để có được kiến thức. Nhà xã hội học là người có thể thoát khỏi sự sa lầy vào
những tình huống cá nhân mà đặt sự việc vào bối cảnh rộng hơn. Công việc nghiên
cứu xã hội, theo nhà xã hội học người Mỹ Charles Wright Mills, được miêu tả
trong cụm từ nối tiếng - “mường tượng xã hội” (sociological imagination) [1] (Mills, 1970).
Điều quan trọng nhất là mường tượng xã hội đòi hỏi “suy nghĩ
thoát khỏi bản thân chúng ta” (“think ourselves away”) từ những lề thói quen
thuộc của cuộc sống hằng ngày và xem xét các thói quen ấy dưới góc nhìn khác.
Có thể thử quan sát hành động đơn giản như là việc uống một cốc cà phê. Chúng
ta có thể tìm thấy gì, dưới góc nhìn xã hội học, từ hành vi mà nhìn bề ngoài
không thấy gì thú vị? Sai lầm, một lượng khổng lồ thông tin ở đấy.
Có thể chỉ ra trước tiên rằng cà phê không chỉ là thức uống
giải khát mà còn sở hữu giá trị biểu tượng (symbolic value) - là một phần của
các hoạt động xã hội ngày này qua tháng nọ của chúng ta. Thường thì các nghi thức
(ritual) đi kèm với việc uống cà phê sẽ quan trọng hơn rất nhiều so với việc
tiêu thụ thức uống đó. Đối với nhiều người phương Tây, cốc cà phê buổi sáng đứng
ở vị trí trung tâm của thói quen cá nhân, là “thủ tục” đầu tiên để bắt đầu một
ngày mới. Sau cà phê sáng là những lần uống cà phê trong ngày với những người
khác - đó là điều cơ bản của nghi thức xã hội (social ritual). Đi uống cà phê,
những người này hầu như chắc chắn là sẽ hứng thú với việc tụ họp gặp nhau và
trò chuyện hơn là loại thức uống mà họ thực sự thưởng thức. Ăn và uống trong mọi
xã hội, thật vậy, mang đến cơ hội tương tác xã hội và hình thành nên các nghi
thức - những việc như thế này sẽ cung cấp một cánh đồng màu mỡ cho nghiên cứu
xã hội học tha hồ cày xới.
Thứ hai, cà phê là một loại thuốc kích thích (drug), chứa
caffeine, có tác động kích thích lên bộ não. Nhiều người uống cà phê bởi vì sự
“cộng thêm” này. Có thể chịu đựng được những ngày dài làm việc tại văn phòng và
những bữa tối nghiên cứu muộn là nhờ vào những cốc cà phê. Cà phê là một dạng vật
chất hình thành thói quen, nhưng nghiện cà phê không được xem, bởi hầu hết những
người tại nền văn hóa phương Tây, là người sử dụng thuốc kích thích. Cũng như
rượu, cà phê là một loại thuốc kích thích được xã hội chấp nhận, trong khi cần
sa, chẳng hạn, thì không. Cũng có nhiều xã hội chấp nhận việc sử dụng cần sa hoặc
thậm chí cả cocaine, nhưng không tán thành cà phê và rượu. Và các nhà xã hội học
quan tâm tìm hiểu nguyên nhân vì sao những điều trái ngược như thế này tồn tại.
Thứ ba, một cá nhân uống cà phê sẽ được đặt trong một tập hợp
phức tạp các mối quan hệ kinh tế và xã hội trải rộng trên toàn thế giới. Cà phê
là một sản phẩm liên kết phần nào những người giàu có nhất và những người nghèo
khó nhất hành tinh: cà phê được tiêu thụ với số lượng lớn tại các quốc gia giàu
có, nhưng lại được trồng chủ yếu tại các nước nghèo. Cà phê là loại hàng hóa có
giá trị đứng thứ hai trên thế giới (sau dầu mỏ) trong thương mại quốc tế; mang
đến nguồn ngoại tệ cho nhiều quốc gia. Sản xuất, vận chuyển và phân phối cà phê
đòi hỏi các giao dịch liên tục giữa những người trồng cách xa hàng trăm dặm và
những người uống cà phê. Nghiên cứu các giao dịch toàn cầu này là một nhiệm vụ
quan trọng của ngành xã hội học, bởi nhiều khía cạnh của cuộc sống chúng ta hiện
nay chịu tác động của những ảnh hưởng và truyền thông xã hội toàn cầu.
Thứ tư, hành động hớp/nhấp cà phê được xem như là toàn bộ quá
trình phát triển kinh tế và xã hội trong quá khứ. Cùng với các loại thức ăn thường
ngày hiện nay ở phương Tây - như trà, chuối, khoai tây và đường trắng - cà phê
bắt đầu được tiêu thụ rộng rãi chỉ từ những năm cuối 1800s (mặc dù trước đó cà
phê là thức uống thời thượng trong giới thượng lưu). Tuy thức uống này có nguồn
gốc từ Trung Đông, tiêu thụ nhiều kể từ thời kỳ mở rộng phương Tây cách đây khoảng
chừng hai thế kỷ. Gần như tất cả cà phê chúng ta uống hôm nay đều xuất phát từ những
vùng (Nam Mỹ và châu Phi) trước đây là thuộc địa của châu Âu; sẽ không hợp lý
khi nó là một phần “tự nhiên” của thức ăn phương Tây. Tài sản kế thừa thuộc địa
này có tác động to lớn lên sự phát triển của kinh doanh cà phê toàn cầu.
Thứ năm, cà phê là một sản phẩm đứng ở tâm điểm của các tranh
luận đương thời về toàn cầu hóa, thương mại quốc tế, quyền con người và sự tàn
phá môi trường. Khi cà phê được trồng phổ biến, nó trở thành “thương hiệu” và
chính trị hóa: quyết định uống cà phê loại nào và mua ở đâu đã trở thành những
quyết định lựa chọn phong cách sống (lifestyle). Các cá nhân có thể chọn uống
cà phê hữu cơ, cà phê giảm bớt lượng caffeine (decaffeinated) hay cà phê được
“mua bán công bằng” (“fair trade”) (thông qua các chương trình thanh toán theo
giá thị trường cho những người trồng cà phê quy mô nhỏ tại các nước đang phát
triển). Họ có thể lựa chọn lui tới những hãng cà phê “độc lập”, hơn là những
chuỗi cà phê “công ty” như Starbucks. Những người uống cà phê có thể quyết định
tẩy chay cà phê từ một số nước mà tại đó không quan tâm đến quyền con người và
gây tổn hại môi trường. Những nhà xã hội học quan tâm tìm hiểu bằng cách nào mà
toàn cầu hóa nâng cao nhận thức của mọi người về các vấn đề khuất trong những
góc xa của hành tinh và thúc đẩy họ hành động dựa trên kiến thức mới trong đời
sống của chính họ.
Nghiên cứu xã hội học
Mường tượng xã hội cho phép chúng ta nhìn ra các sự kiện có vẻ
như chỉ liên quan đến cá nhân, nhưng thực sự lại phản ánh các vấn đề rộng lớn
hơn. Chẳng hạn như ly hôn, có thể rất khó khăn khi ai đó phải trải qua tình trạng
này - Mills gọi đây là rắc rối riêng tư (personal trouble). Ly hôn, theo ông,
cũng là một vấn đề công cộng (public issue) trong xã hội, như nước Anh thời nay
có hơn một phần ba các cuộc hôn nhân đổ vỡ trong vòng 10 năm. Một ví dụ khác là
thất nghiệp, có thể là bi kịch cá nhân đối với những ai bị quăng ra khỏi công
việc và không thể tìm được công việc khác. Tuy nhiên, sẽ không còn là nỗi thất
vọng riêng tư của bất kỳ ai nữa nếu như hàng triệu người trong xã hội cùng lâm
vào tình cảnh giống nhau. Đến đây, điều này đã trở thành một vấn đề công cộng
thể hiện các xu hướng lớn trong xã hội.
Hãy thử áp dụng cách nhìn nhận sự việc này vào cuộc sống của
bạn (không nhất thiết chỉ nghĩ đến các sự kiện khó khăn). Ví dụ, thử hỏi tại
sao bạn lại đọc quyển sách này trước tiên, tại sao bạn quyết định nghiên cứu xã
hội học. Có thể bạn miễn cưỡng trở thành sinh viên xã hội học, học môn này chỉ
vì yêu cầu của chương trình. Cũng có thể bạn quan tâm, muốn tìm hiểu sâu hơn chủ
đề này. Cho dù động lực của bạn là gì đi chăng nữa, có thể bạn có điểm chung với
những người khác nghiên cứu xã hội học, tuy không nhất thiết phải biết về điểm
chung đó. Quyết định cá nhân của bạn phản ánh (reflect) vị trí của bạn trong phạm
vi rộng hơn, đó là xã hội.
Những đặc trưng sau có đúng với bạn không? Bạn là người trẻ
tuổi? Là công chức (white collar) hay là chuyên gia? Bạn đã từng, hoặc vẫn duy
trì, công việc bán thời gian nào đó để kiếm thêm thu nhập? Bạn muốn tìm công việc
tốt sau khi tốt nghiệp, nhưng không phải là công việc nghiên cứu? Bạn không biết
thực sự xã hội học là gì nhưng nghĩ rằng xã hội học là cái gì đó có mục tiêu là
nhằm tìm hiểu cách mọi người cư xử trong các nhóm? Hơn 3/4 các bạn sẽ trả lời
‘phải’ cho tất cả các câu hỏi này. Sinh viên trường đại học - là nhóm người có
những đặc điểm đặc biệt, và không là đại diện cho toàn bộ dân cư. Thái độ của họ
thường phản ánh thái độ của bạn bè và những người quen biết. Những quyết định
chúng ta nghĩ là phù hợp sẽ chịu ảnh hưởng nhiều bởi hoàn cảnh xã hội mà từ đó
chúng ta xuất thân.
Giả sử như bạn trả lời ‘không’ cho một hoặc nhiều hơn một
trong số những câu hỏi này. Bạn có thể đến từ một nhóm chỉ chiếm số ít hoặc
hoàn cảnh thấp kém/nghèo nàn. Bạn có thể ở trong độ tuổi trung hoặc cao niên.
Cũng như trường hợp trên, sẽ có nhiều kết luận được nêu ra. Chẳng hạn như, bạn
có thể phải đấu tranh để có được vị trí hiện tại; bạn có lẽ sẽ phải vượt qua những
phản ứng không thân thiện từ bạn bè và người khác khi bạn nói với họ rằng bạn
đang có ý định đi học, hoặc có ý định vừa có gia đình, con cái, lại vừa tiếp tục
học cao hơn.
Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi bối cảnh xã hội (mà trong đó chúng
ta tìm thấy chính mình) nhưng cách cư xử của chúng ta không chỉ phụ thuộc vào
các bối cảnh đó mà còn phụ thuộc vào chính mình - bởi chúng ta sở hữu và tạo ra
cá tính của bản thân mình. Và đây là công việc của xã hội học - nghiên cứu mối
liên kết giữa những gì xã hội tạo nên chúng ta và những gì chúng ta tạo ra
chính mình. Tất cả các hoạt động của chúng ta vẽ nên hình dạng của thế giới xã
hội xung quanh; đồng thời, các hoạt động này cũng được hình thành bởi chính thế
giới xã hội đó.
Khái niệm “cấu trúc xã hội” (social structure) là một khái niệm
quan trọng trong xã hội học. Nó ám chỉ đến sự thật rằng bối cảnh xã hội không
chỉ là những sắp xếp ngẫu nhiên các sự kiện hay hành động; mà chúng được định
hình trong những cách thức riêng biệt, chẳng hạn như các quy tắc ràng buộc cách
cư xử và mối quan hệ giữa ta với người khác. Nhưng cấu trúc xã hội không giống
như cấu trúc (thuộc khoa học) tự nhiên (physical structure), ví dụ như tòa nhà
- tồn tại độc lập với hành động của con người. Xã hội loài người luôn luôn ở
trong quá trình sáng tạo và tái tạo (structuration). Chúng được tái xây dựng từng
giây phút một bởi các bộ phận tạo nên chúng - đó là loài người như bạn và tôi.
Trở lại ví dụ về cà phê. Một cốc cà phê không tự dưng lại nằm
trong tay của bạn. Bạn lựa chọn, ví dụ, đến quán cà phê cụ thể, có thể uống
latte hoặc espresso. Khi bạn quyết định, cùng với hàng triệu người khác, bạn đã
vẽ nên thị trường cà phê và điều đó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của những người
trồng cà phê sống cách xa hàng ngàn dặm.
[*] Anthony Giddens (2006), “Sociology”, 5th edition,
tr. 4-7, Polity Press.
Chú thích:
[1] Có thể tham khảo thêm về Mills
và sociological imagination tại http://vanchuongviet.org/.
12/4/2012
Nguyễn Hoàng Mỹ Phương dịch [*]
Theo https://vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét