WILLIAM STAFFORD: ĐI QUA BÓNG TỐI
Nhiều năm trước đây, trong một bệnh viện ở Mỹ, tôi ngạc nhiên
thấy trên tường của khu chấn thương, khắc nhiều câu thơ của một tác giả xa lạ.
Các tuyển tập văn chương mà tôi được đọc trước đó cũng hoàn toàn không đề cập đến
ông. Chỉ sau này tôi mới biết rằng đó là một nhà thơ được nhiều người yêu mến.
Ngày nay nếu cần chọn một bài thơ tiêu biểu cho nền thơ Mỹ trong vòng mấy chục
năm qua, một trong vài bài tôi chọn có lẽ là bài “Đi qua bóng tối” (Traveling
through the dark) của William Stafford, trong tập thơ cùng tên xuất bản năm
1962.
William Stafford thuộc thế hệ của John Berryman và Robert
Lowell, sinh năm 1914, mất năm 1993, lớn lên ở tiểu bang Kansas, học Đại học Kansas.
Tại đây, anh bắt đầu chọn con đường viết văn, tham gia vào cuộc vận động của
sinh viên chống phân biệt chủng tộc. Trong thời gian thế chiến thứ II, anh bị tập
trung vào trại lao động vì phản đối chiến tranh, thời đó gọi là các conscientious
objectors (người phản đối chiến tranh vì lương tâm). Anh lập gia đình
trong thời gian này, được trả tự do vào năm 1946, và hoàn tất chương trình tiến
sỹ năm 1954. Stafford làm nhiều công việc khác nhau, từ lao động trên các cánh
đồng củ cải đường, nhà máy lọc dầu, công việc xây dựng, ngành rừng và cuối cùng
là giáo sư Anh văn tại Portland, Oregon. Ngoài các tập thơ, ông còn
viết nhiều truyện ngắn, tiểu luận.
Có vẻ như Stafford không có một cố gắng nào để đưa ra các đề
tài lớn lao về xã hội; và hình như ông chỉ làm thơ để tự vui thú chính mình, mặc
dù thế, người đọc bao giờ cũng bắt gặp trong những bài thơ của ông một cuộc chiến
đấu gian nan nhưng đẹp đẽ của một lương tâm bền bỉ.
Đi Qua Bóng Tối (*)
Lái xe trong đêm, tôi nhìn thấy một con hươu
Chết nằm bên vệ đường
Tốt nhất là lăn nó xuống mương
Đường hẹp, xe tránh nhau nguy hiểm chết người.
Theo ánh sáng đuôi xe, tôi đi vòng lại
Đứng bên cái chết còn mới nguyên
Mình con hươu cứng lại, gần lạnh giá.
Tôi kéo ra, bụng nó phồng lên.
Khi chạm tay vào một bên tôi chợt hiểu
Da bụng ấm, bào thai còn sống
Đang đợi chờ, nhưng chẳng được ra đời.
Tôi đứng bên đường suy nghĩ bồi hồi.
Ngọn đèn sáng chiếu thấp dần phía trước;
Tiếng máy nổ rì rì bên dưới mui xe.
Tôi đứng trong vùng hộp máy hồng đỏ rực;
Quanh lũ chúng tôi lắng nghe thiên nhiên lắng nghe.
Tôi suy nghĩ rất lung cho tất cả chúng ta
Rồi đẩy nó qua bờ lăn xuống bến sông xa.
Giọng thơ giản dị, có tính chất mô tả, ít ngôn ngữ mơ hồ như
thường gặp trong một số bài khác của ông, mời người đọc đi vào cuộc đối thoại
trực tiếp giữa họ và ông, giữa con người và thiên nhiên. Một người bạn của tôi,
người Nhật, nói với tôi rằng bài thơ này rất khó dịch qua tiếng Nhật mặc dù
ngôn ngữ bề ngoài trông dễ hiểu. Tôi thử dịch ra tiếng Việt và cũng thấy đúng như
thế.
Ngôn ngữ của William Stafford hàm súc và mặc dù ông ít dùng
các biểu tượng, thơ ông chất chứa sự đa nghĩa, không phải là sự đa tuyến của lối
thơ hậu hiện đại, mà là sự đa nghĩa xuất phát trực tiếp từ một triết lý thâm trầm
nằm dưới những hiện thực được ghi nhận bằng cặp mắt trong suốt.
Đây là một bài thơ tự sự tiêu biểu: một câu chuyện kể có đầu
có đuôi. Ngoài đời, việc dừng lại bên một con hươu bị chết, có lẽ do bị xe cán,
và lăn nó xuống hố không phải là một hành động ngoại lệ hiếm hoi. Nhiều người sẽ
bỏ qua trường hợp này. Nhưng tác giả đã ngồi xuống, đặt tay lên bụng con hươu,
và vì vậy ông nhận ra hơi ấm, nhận ra sự sống. Bắt đầu từ đây có một mối xung đột
khởi đi. Anh có muốn cứu con hươu con trong bụng mẹ không?
Chúng ta phải làm gì trong trường hợp này?
Ai là người đưa ra quyết định cuối cùng? Càng suy nghĩ ta
càng thấy rằng người tạo ra quyết định không phải chỉ là nhà thơ/ nhân vật mà là
“our group” (nhóm chúng tôi, lũ chúng tôi). Lũ chúng tôi tức là ai? Tại sao tác
giả lại dùng đến nhiều câu như thế để miêu tả chiếc xe hơi đang rì rì nổ máy,
như thể đó là một vật biết suy nghĩ và đang suy nghĩ? Nhóm của chúng tôi gồm
có: người lái xe, con hươu mẹ đã chết, con hươu con hãy còn nằm trong bụng mẹ
chờ sinh ra, chiếc xe hơi và cảnh vật xung quanh.
Tóm lại, một thế giới.
Bài thơ nói với chúng ta về sự phân vân của một người đi giữa
cuộc đời, đang ở vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nghĩ đến bài thơ, tôi yêu mến
hơn phẩm chất cao đẹp của người trí thức: sự hoài nghi trước những quyết định
cá nhân và lịch sử. Những người không có đức tính hoài nghi, tuyệt đối tin tưởng
vào một thứ sự thật, thật là những kẻ đáng nghi ngờ. Hơn thế nữa, đôi khi đó là
những kẻ đáng sợ. William Stafford thường mở ra những cuộc đối thoại nhân sinh
gay cấn như thế trong những bài thơ mang vẻ ngoài giản dị (deceptively simple),
với giọng điệu từ tốn, dịu dàng của mình.
Mỗi khi chán nản, không có cảm hứng, ta nên nghĩ đến William
Stafford: tương truyền rằng mỗi ngày ông đều dậy sớm, viết một bài thơ trước
lúc rạng đông, kể từ lúc thanh niên cho đến cuối đời, đều đặn như thế. Mỗi
ngày, mỗi sớm tinh sương. Thật là một tấm gương cần mẫn. Có nhà báo thắc mắc hỏi
ông làm cách nào mà ông làm được thơ mỗi ngày, và nếu gặp những ngày không có cảm
hứng, chỉ làm ra toàn những bài thơ dở thì sao? Stafford trả lời:
“lúc đó tôi liền hạ tiêu chuẩn của tôi xuống”.
Tôi hình dung khi nói thế, ông đang tủm tỉm cười. Nhưng thật
ra những tiêu chuẩn đã hạ xuống ấy vẫn còn quá cao so với nhiều người khác.
(*) TRAVELING THROUGH THE DARK
Traveling through the dark I found a deer
dead on the edge of the Wilson River road.
It is usually best to roll them into the canyon:
that road is narrow; to swerve might make more dead.
By glow of the tail-light I stumbled black of the car
and stood by the heap, a doe, a recent killing;
she had stiffened already, almost cold.
I dragged her off; she was large in the belly.
My fingers touching her side brought me the reason
her side was warm; her fawn lay there waiting,
alive, still, never to be born.
Beside that mountain road I hesitated.
The care aimed ahead its lowered parking lights;
under the hood purred the steady engine.
I stood in the glare of the warm exhausted turning red;
around our group I could hear the wilderness listen.
I thought hard for us all - my only swerving,
then pushed her over the edge into the river.
William Stafford.
11/5/2009
Nguyễn Đức Tùng
Nguồn: David Lehman, The Oxford Book
of American Poetry, NXB Oxford, 2006
Theo https://vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét