Đỗ Quyên, cho ta
khóc một hệ người
Đỗ Quyên làm thơ như sống chính cuộc đời mình. Thơ trữ tình
và trường ca là công việc chính yếu của anh, mặc dù không phải là tất cả, và
trong nhiều năm kể từ thời thanh niên, anh đã dành những nỗ lực quý báu nhất
cho chúng. Anh hiểu rằng con người có thể làm được nhiều việc cho nhau, bày tỏ
mối quan tâm rõ ràng đối với các vấn đề xã hội, chính trị, trong khi đó, một
cách không hoàn toàn hiển nhiên, anh lại thuộc về chủ nghĩa hậu hiện đại. Đỗ
Quyên thực ra là một trong những người góp phần phát triển khuynh hướng ấy
trong thơ Việt, một cách chừng mực, ngay từ những năm chuyển tiếp của hai thế kỷ,
thời kỳ dồn dập biến động: cách mạng, tan rã, chết chóc, lưu vong. Đến nay anh
vẫn trung thành với chọn lựa của mình, với những biến đổi nào đó, tất nhiên.
Hôm nay
dương lịch
Mồng Năm tháng Năm
Mắt xen qua ba bông hồng sẽ không bao giờ nở được
Tôi ngồi
lập danh sách các bạn văn có thể vay tiền
Lúc này
em đừng về
Hồng thắm đấy
nhưng sẽ không bao giờ nở
Đi tìm khuynh hướng nghệ thuật của một nhà thơ, hay của một
thời kỳ, bạn có thể nhìn vào nhịp điệu. Nhịp điệu là nơi xảy ra những thay đổi
trước tiên, đó là nơi người viết bắt đầu tham dự vào trò chơi ngôn ngữ. Một nhịp
điệu thơ mới không từ trên trời rơi xuống, nó được sinh ra từ nhận thức mới, tư
tưởng mới, đến lượt chúng những nhận thức và tư tưởng ấy phải bắt rễ từ các
thay đổi rộng lớn và sâu xa trong xã hội, văn hoá. Chẳng hạn, thơ mới thời kỳ
1930 đi kèm với cái học phương Tây, luồng gió mới của thời đại, thơ tự do những
năm 1960 từ những thay đổi về đất nước, do chiến tranh.
Gộp hết thiên thu lá rụng không ghi hết lỗi chúng ta với mùa
thu
Nghĩ vàng về những mùa thu thực ra không màu vô sắc
Buồn quá lố bao mùa thu nhộn nhạo
Như các cô gái blonde óc hẹp đùi dài
dâm tình không quản ngại mà lưỡi lười vận động
Với mùa thu chúng ta ú ớ ngu đần
Sắp đặt một căn phòng building
Giá phải chăng sân trước rừng chạm
Balcony tựa lối đi cây vạt
Cho mùa thu tưởng đã sẵn một lòng
Trong se sắt lạnh mắt còn mở rộng
Cuộc ly hương của người Việt có sức mạnh lớn lao. Nhưng chúng
ta rời bỏ nó quá sớm, rời bỏ cái chết cũng vậy, hối hả từ giã mất mát, thua cuộc,
quay mặt đi sau chia tay, có lẽ vì vậy người Việt ít có tác phẩm lớn. Không một
tác phẩm nào có thể rung động người đọc mà không chịu chết và tình cờ được nhớ
lại. Chúng ta biết phân biệt các nhịp điệu trong cơ thể, trong thiên nhiên. Lắng
nghe nhịp điệu là lắng nghe sự sống, tan rữa, hồi sinh, lắng nghe đúng và sai,
bồi đắp và hủy diệt. Chúng ta không sinh ra các nhịp điệu, chúng ta tìm thấy
chúng trong thiên nhiên, vốn ở đó. Nhạc của thơ tự nhiên bao giờ cũng có sẵn
trong ngôn ngữ. Nhịp điệu một bài thơ dẫn chúng ta từ nhận thức đến đam mê, từ
chú ý đến vui chơi, cuộc đối thoại bất tận. Mỗi lời của chúng ta là một ẩn dụ,
mỗi ý tưởng là một mệnh đề. Sự xao xuyến của các nhịp điệu làm nên chính đời sống
này.
Mỗi đảo mới
– mỗi dấu chấm
sang những câu thơ mới và hơi sống tiếp
Ta nạp chúng vào Lòng – Hải – Lý
những viên đảo
và nã pháo từng trang thơ cũ
Thoạt nhìn, trường ca là thể loại lâu đời, với những đặc điểm
như thơ dài, truyện kể, tính lịch sử, anh hùng ca, nhưng thực ra trường ca và sự
hồi sinh của nó gần đây, là một hiện tượng lạ, là sự khám phá trở lại của nhịp
điệu trong thơ Việt. Sự thay đổi căn bản của trường ca ngày nay không còn ở
tính tự sự, tính huyền thoại, tính dân gian, ba tính chất căn bản của anh hùng
ca, mà nằm sâu trong nhịp điệu hay âm nhạc. Các mẫu chữ cũng tựa như hoa văn, họa
tiết, lặp đi lặp lại, chúng vừa tạo ra hiếu kỳ vui thú, vừa tạo ra cảm xúc. Trường
ca Đỗ Quyên đi về hướng ấy: tính nhịp điệu rõ ràng, bước đi đầy cá tính của
anh, sự dồn dập của xúc cảm, sự thong thả của suy tư triết học.
Cái chết rình ta
– thợ săn rình hổ thọt
Biết vậy vẫn ra rìa rừng
Ta cất lời ca
hòa nhịp lòng
Không một tình yêu nào không kiệt sức. Không một đời sống nào
không chán nản. Nhận thức trong thơ, giọng điệu, ngắt câu, chẻ đôi câu văn phạm
được Đỗ Quyên tính toán, nhưng như một người chơi bóng, không phải khi nào anh
ném cũng chính xác. Nhưng đường bóng ấy kẻ làm thơ khác ắt biết: cái trật của
người am tường. Đọc anh, người đọc cần nghệ thuật riêng. Thực ra đối với mỗi
nhà thơ đặc biệt, có một khuynh hướng thi pháp riêng, bao giờ người đọc cũng phải
có cách đọc thích hợp.
Ở Việt Nam hải ngoại có bao nhiêu cái chùa
bấy nhiêu Nguyễn Tất Nhiên ẩn mình trong đó
Anh có những câu tài hoa như vậy, nhưng chúng dễ bị bỏ qua. Bạn
lắng nghe, tìm ra nhịp thơ ấy, bạn hiểu ý nghĩa của chúng, nhưng đừng đi xa
quá, bạn cần trở lại với sự lắng nghe nguyên thủy, hài hước trong khi sầu muộn.
Vì thơ Đỗ Quyên sầu muộn.
Khi cánh chim đen là là hiên nhà
Lúc mặt trời xấu hổ
Hoa trên bàn văn không hoa trong phòng ngủ
Câu thơ đau không đổi mặt bao giờ
Chức năng chính yếu của vần điệu là kết nối các âm thanh. Âm
nhạc trong thơ không phải chỉ để êm tai, mặc dù đó là đặc tính quan trọng, mà để
tạo ra các trường tương tác. Vì những lý do mà chúng ta không biết rõ, trí óc
con người chỉ tiếp nhận tư tưởng của người khác qua những kênh đặc biệt, thích
hợp, tại một số thời điểm. Thơ tự do, trong khi loại trừ các vần điệu, phải xác
lập một âm nhạc riêng. Nhưng âm nhạc của thơ không phải là âm nhạc thuần túy,
nó dựa lên đặc tính sau đây, đặc tính quan trọng nhất: tính ý nghĩa. Không có ý
nghĩa hay ý nghĩa không thuyết phục, không một thứ âm nhạc nào của thơ có thể tồn
tại.
Ta đi mãi. Ðôi giày yêu cũng biết
chủ của mình chẳng nản bước chân xa
Mái tóc kiêu bồng không hề hỏi
có chốn nao ta chịu chọn làm nhà
Ta đi mãi. Lá vàng rơi quen lối
nẻo đường nào không chạm bóng thi nhân
Rừng sâu thẳm dang mình vẫy gọi
Bạn bè ta: đấy những chúa sơn lâm!
Không gian và thời gian là ám ảnh nghệ thuật của hầu hết nhà
thơ, nhưng ở Đỗ Quyên, thời gian chi phối huyễn hoặc hơn những ngăn cách địa
lý. Dường như Đỗ Quyên không phải là người theo đuổi một loại thơ- ngôn- ngữ, mặc
dù anh không xa lạ với chúng. Nhạc điệu trong thơ anh là một thứ nhạc điệu khó
nhận biết. Bất kỳ người nào quan tâm đến âm nhạc đều mơ hồ nhận ra một thứ nhạc
nền sau sân khấu, nhỏ, chìm xa, không mất.
Ta đi mãi. Nhật nguyệt kia thực ảo
Trải lên những con đường
dốc nhỏ thân đời anh
Di chuyển, nhưng không chỉ là di chuyển trong không gian, mà
cả trong thời gian. Các trường ca của anh ở những đoạn chảy xiết vang lên giọng
hợp xướng. Đỗ Quyên là người có trí tưởng tượng lớn, điều ấy cũng có khi làm sự
quan sát sút giảm, và các sự vật chỉ còn là biểu tượng hơn là chính chúng, đối
tượng. Anh nghiêng về khuynh hướng dàn trải, của nhà hát, nhìn sự vật trong những
kích thước bao quát, gần như hùng tráng. Điều ấy thích hợp cho thể thơ mà anh
chọn lựa, trường ca, và anh xoay xở khó khăn hơn, khi chuyển sang làm thơ ngắn,
thơ có vần, những thể thơ bị câu thúc bởi số lượng câu, chữ. Đỗ Quyên có những
câu thơ gây ngạc nhiên, những câu văn phạm vượt lên trước các ý tưởng, những
câu thơ bị gãy đổ, một thứ ngôn ngữ giản dị, bí ẩn.
Lá vàng
nôn nao và nhức nhối
Vì tính vàng của nó
Nếu lá cây úa đen
Nghệ thuật loài người sang một mỹ học khác
Và kể từ ngày đó có hai khu vực
Thơ vàng và Thơ đen
Chậc!
Gà mắc đẻ đã gì đâu mà lúng túng
Bằng chúng ta
Một bài thơ có thể có nhiều ý nghĩa. Người đọc có cảm giác họ
phải chọn lấy một ý nghĩa, và bỏ những thứ khác qua một bên. Thực ra không phải
vậy, bạn có thể sở hữu cùng lúc nhiều ý nghĩa của một bài thơ. Thực ra mọi thứ
sở hữu đều thế cả. Tương tự một bài thơ vừa có thể là thơ thế sự vừa có thể là
thơ chiến trận, có thể vừa nhạt nhẽo vừa hấp dẫn, vừa phi tình ái vừa quyến rũ.
Trong những trường hợp khó khăn khi ý nghĩa làm bạn bối rối, tôi đi tìm sự trợ
giúp của vần điệu hoặc hình ảnh, tôi lắng nghe hoặc nhìn chăm chú vào các dòng
chữ trên trang giấy. Thơ hiện nay bày ra sự nhạt nhẽo vô vị của cuộc đời, sự trớ
trêu của các hoàn cảnh, sự tầm thường của các nhân vật, sự lừa dối của lịch sử,
chẳng phải vì thế mà nó cần một ngôn ngữ tương hợp đó sao?
Nếu tuyết có tim
tuyết sẽ có máu
Tuyết có máu thì máu tuyết sẽ chảy
khi mùa xuân về
em không còn trong anh nữa
Tim tuyết ở đâu
mà dưới thân anh tuyết tan ngập đỏ
Thơ hiện nay nặng về ý tưởng, về hình ảnh, về cố gắng thuyết
phục, đôi khi hùng biện, nhẹ về gợi ý, tính chắt lọc, điềm đạm của ngôn ngữ. Ở
những bài thơ ngắn, tuy vậy, Đỗ Quyên chứng tỏ anh là một trong những nhà thơ của
cái riêng tư (the personal). Thơ ngắn của anh không chỉ khác với trường ca về độ
dài, mà chúng nặng về những trải nghiệm cá nhân, những bí mật riêng tư, tính
tâm linh. Trong trường hợp ấy, ký ức của anh trở thành giai thoại.
Sự sáng sủa và dễ hiểu làm cho câu chuyện mà nhà thơ kể lại
gây cảm xúc. Thơ Đỗ Quyên mới, sáng sủa, nhưng không dễ hiểu. Cánh cửa của bài
thơ của anh mở, nhưng không mở rộng. Các nhà thơ nhìn hiện thực theo một trong
hai cách: thế giới tồn tại trước khi anh ta sinh ra, và thơ ca dùng để mô tả thế
giới ấy, hoặc thế giới chỉ có mặt khi thi sĩ có mặt, và anh sử dụng ngôn ngữ
thơ để tạo ra một hiện thực chưa từng có.
anh tìm ở bài thơ nổi danh “Em có về không”
Hoàng Cầm gửi Tuyết Khanh
không thấy em
ở nhiều bài khác nữa
gửi nhiều người khác nữa
của nhiều người khác nữa
mới thấy được
xác em
Giọng điềm đạm, tuy vậy, trong một số bài thơ, đoạn thơ, anh
tỏ ra hài hước. Một trong những đặc trưng quan trọng của thơ hậu hiện đại là
hài hước, châm biếm, giễu nhại. Đó là một khuynh hướng đang ngày càng tăng lên,
trong khi vừa hấp dẫn người viết thì cũng hứng chịu sự phê bình và ghẻ lạnh của
công chúng. Thơ Đỗ Quyên nghiêng về hài hước, tự trào, và ít châm biếm, ít giễu
nhại.
Trong thơ
em cởi hết mình
Kể cả những kỹ xảo cuối cùng của thi pháp
Trên giường
em kín vô cùng
Bảo toàn dòng văn hiến tới tận từng sợi tóc
Thực ra chữ châm biếm hay giễu nhại cũng chưa thực sự phản
ánh khuynh hướng này của thơ hiện nay. Đó là một khuynh hướng muốn làm bộc lộ
trong thơ những xung đột bị ẩn giấu, ao ước thầm kín, những thử thách của hoàn
cảnh khắc nghiệt. Chẳng lẽ không có gì xảy ra trong hầu hết các trường ca Việt
hiện nay, trừ những thay đổi nội tâm? Đó cũng là điểm mạnh và điểm yếu của trường
ca đương đại. Sự mất mát là một trong những đề tài, như lạc đường, tha hương,
thiếu quê hương. Đỗ Quyên thiếu quê hương chứ không mất quê hương. Đó là may mắn
của anh, nhưng nó giữ anh lại ở đường biên giữa một người tha hương và một người
lưu vong. Người tha hương có ý định trở về nhưng người lưu vong thì không.
Tại anh anh chuộng dặm dài
chân nào để nhớ ngày mai thì về
Tại câu tại chữ làm mê
văn chương nào buộc ai thề với ai
Bên cạnh và bên dưới tính chất bông lơn, tán gẫu, là một nỗi
niềm câm lặng, sự ám ảnh của cái chết, sự đau xót ngấm ngầm và tình yêu vô bờ của
anh đối với quê hương, cuộc đời, đối với số phận. Những ý tưởng triết học, các
suy luận, những tranh cãi, dày đặc trong trường ca Đỗ Quyên. Đó là tính độc
đáo. Giá trị của chúng phụ thuộc vào chiều sâu không phải chỉ của suy nghĩ mà
còn của xúc cảm.
Anh và em
Hãy cùng nhìn vào mắt họ
Nhìn vào làn da họ
Nhìn vào tấm thân trắng trần họ đậy cho
nhau
Nhìn vào những đứa trẻ con của họ sinh ra qua mỗi cánh rừng
Trong mỗi câu thơ
Để biết những vô cùng
Chủ nghĩa hậu hiện đại đến sau chủ nghĩa hiện đại - về mặt lý
luận và thực hành sáng tác - tự đặt mình vào mối quan hệ với kẻ đi trước, tự
xem mình là một phong trào vận động văn hóa, và quan hệ với kẻ đi trước cũng
như vậy. Trong khi đó chủ nghĩa hiện đại tồn tại như một hệ thống quan điểm độc
lập, với khuynh hướng rõ ràng, tin vào sự tiến hóa, tin rằng có sự khác biệt giữa
cái tốt và cái xấu và khả năng của con người phân biệt được. Văn học hiện đại,
bất chấp những yếu tố khác nhau, nói cho cùng đều hướng tới sự tốt đẹp như một
chân lý phổ biến. Chủ nghĩa hậu hiện đại không tin lắm, xem sự tiến hóa chẳng
qua là thay đổi, các giá trị trung tâm và ngoại biên là bình đẳng, xem nhẹ
thành tựu, xem sự vật cái gì cũng ở mức tương đối. Trong văn học, chủ nghĩa hậu
hiện đại là một quá trình, trong khi chủ nghĩa hiện đại tin vào các thành tựu,
sản phẩm. Hãy nghe Đỗ Quyên trò chuyện về và với lịch sử, mối quan tâm hàng đầu.
Nhất Linh đã chết hay tự chết như thế nào?
Quay về sáu bảy mươi năm trước
Nước mình có mấy người lãng mạn tây học kiểu Việt Nam
Có bao nhiêu cuốn sách để xem vụng trong bếp
Tôi nghĩ đến câu thơ của Robert Penn Warren:
I know, I know - though the evidence
Is lost, and the last who might speak are dead
(Tôi biết, tôi biết - dù bằng chứng
Bị xóa hết, và kẻ cuối cùng kể lại cho chúng ta, đã chết)
Thơ trữ tình có thể đứng một mình, không cần dựa vào bất kỳ
giá trị nào khác, nhưng cũng có khả năng bổ sung những tính chất mới: thế sự,
tính tự sự, tính đối thoại, kịch, tụng ca. Thế giới được làm nên bởi các câu
chuyện kể. Thơ Đỗ Quyên chứa nhiều câu chuyện, và chúng có thể làm bạn bị ám ảnh.
Như người tha hương hay nhớ về:
Mẹ
ở đâu
trên bàn thờ?
trong lưu ảnh gia đình?
Người đàn ông trở lại một mình
khi người đàn bà đi khỏi
làm con khóc cái ngày mẹ khóc
Hôm nay đảo
nóng như ngày mẹ vào trong đất
Thơ Đỗ Quyên đòi hỏi cách đọc liên văn bản. Ký ức của con người,
do những lý do sinh học và nhân chủng học, là ký ức hình ảnh, vì vậy bài thơ chứa
đựng các chi tiết, các hình ảnh, tức là sự mô tả tỉ mỉ, so sánh ẩn dụ. Câu chuyện
trong thơ là kết hợp của ba phương pháp: ẩn dụ, chi tiết, cấu trúc.
Đồng hồ tôi quay trên
Khuôn mặt cha mẹ cho
Khi mắt nhắm miệng môi thôi mấp máy
Những chiếc kim ngưng kéo đời
Và những con số giục gọi sẽ lặng im
Cấu trúc của trường ca là lời dẫn chuyện. Trong khi tính
chất quan trọng của thơ trữ tình, thể tự do, là góc nhìn của thi sĩ.
Trong khi nhà thơ là người quan sát thế giới thì chính anh ta cũng bị quan sát.
Di chuyển từ vị trí người quan sát đến người được quan sát là một di chuyển
xuyên qua môi trường ký ức. Một trong những đặc tính của sáng tác hậu hiện đại
là phóng đại, nói quá lên, cực đoan hóa hoàn cảnh, đẩy sự vật đi tới tận cùng,
thách thức. Thủ pháp của hậu hiện đại là bẻ gãy, chuyển hóa. Tuy nhiên như
trong bất kỳ trường phái nào, người tài năng bao giờ cũng sử dụng có hiệu lực
các phương pháp mới, trong khi những người bắt chước, chỉ nghĩ tới phương pháp
mà ít nghĩ tới nghệ thuật. Làm thơ với một xúc cảm tươi rói và sự phê phán là một
kết hợp đầy khó khăn.
Bài thơ trắng từ đầu đến cuối
Và
Có một cái đỏ vương vào
Nhà chính trị không gọi đó là thơ
Nhà thơ gọi đó là bài thơ trắng
Nhà lý luận gọi là bài thơ
Nhà phê bình gọi là bài thơ trắng đỏ
Nhà báo gọi là bài thơ trăng trắng đo đỏ
Người đọc gọi là bài thơ trắng có một cái đỏ vương vào
Đoạn thứ nhất thuyết phục. Đoạn thứ hai khó hơn, một phần vì
anh rơi vào sự diễn giải. Một cảm giác bí ẩn mà tôi mơ hồ nhận ra đã bị giữ lại
ngoài bài thơ, nếu được anh mang lại gần hơn, người đọc sẽ nghe được hơi thở của
nỗi sầu muộn, chiêm nghiệm riêng tư. Tiếc rằng anh giữ nó ở quá xa.
Nóc nhà thờ ngang cánh chim
thánh rỏ lệ mát bàn chân lữ khách
Những đứa con thừa cha
chạy
ra
ném
các đụn tuyết không tan…
Nếu người ta đọc một trường ca của anh, người ta phải đọc nó
trong tâm trạng của tác giả. Đây là điểm mạnh và điểm yếu của thơ Đỗ Quyên.
Ngôn ngữ ấy như một món ăn, bạn phải ăn với gia vị ấy, trong mùa màng ấy, không
khí ấy, nơi chốn ấy. Không có sự tương đồng hoặc tương thông của tâm trạng, bài
thơ của Đỗ Quyên dễ bị bỏ qua. Thơ anh thường nói về tình yêu và cái chết, vả
chăng trên đời này có gì quan trọng hơn hai thứ ấy, tình yêu giữ anh lại và cái
chết đẩy anh ra xa.
Giao thừa
Hoan lạc âm dương
Lá và tuyết
Trong gió chờ nhau
Đợi chuông đồng hồ chậm gõ
Tiếng cuối cùng của năm
Cúi xuống nhòm
Hắn đến bên giếng im ắng
Những mầm chồi lên
Đó cũng là chất phồn thực, khá dày trong thơ Đỗ Quyên. Tuy vậy
anh không cho phép mình đi đến tận cùng các xúc cảm cá nhân và riêng tư, đôi
khi dung tục và cay đắng. Thường trong sự vật, tế vi là quan trọng, nhưng khi
chúng đi xa quá như một sự vật càng đi xa càng mờ ảo, trở nên không quan trọng
nữa. Vì vậy mà góc nhìn của tác giả và người đọc, xưa nay vốn khác nhau, trong
thơ Đỗ Quyên lại càng khác nhau. Tôi mong anh có nhiều hơn những câu như thế
này:
Tìm về tìm cho anh
Dòng âm thanh xưa khuất
Cây guitar muốn dành
Cho xứ nào trẻ nhất
Thơ Đỗ Quyên thường tự so sánh chúng với nhiều thứ khác, các
câu chuyện kể, những giai thoại, các trích dẫn, những kỉ niệm riêng tư. Thơ anh
giàu hình ảnh, mặc dù các hoàn cảnh không thay đổi nhiều. Anh chọn phong cách,
style, làm con chủ bài, thay vì các đối tượng, chất liệu thơ ca. Anh thường dừng
lại ở việc mô tả các nơi chốn, những khúc quanh, các nhân vật nhiều hơn là đi
vào câu chuyện của chính họ, trong khi chính câu chuyện dẫn dắt các trường ca,
ít nhất là trường ca theo nghĩa thông thường. Nhà thơ phải mô tả những sự vật
mà anh không biết tên, hay chỉ được đặt tên sau khi anh đã chết, và chúng ta đều
biết rằng đó là công việc khó khăn. Biết làm sao?
Có hai yếu tố quan trọng trong thơ, sự xúc động và sự phê
phán. Sự xúc động là sự bao dung, tầm kết hợp, sự chung chạ, trong khi tính phê
phán là sự nghi ngờ, sự quan sát, sự ghi lại. Đỗ Quyên có cả hai đặc tính ấy,
nhưng sự cân bằng giữa chúng khó khăn để giữ được.
Thơ còn một cuộc phong ba
Trên trang giấy mỏng lòng ta lót đời
Hai tay cầm mãi cũng rơi
Chữ đây đã rụng nghĩa rày đã tan
Có một nỗi buồn được che kín, một nỗi chán nản được làm nguôi
ngoai. Đó tất nhiên là một điều tốt, đáng khích lệ. Tôi tin rằng Đỗ Quyên có thể
có nhiều tính hài hước hơn nữa. Hài hước không phải chỉ là một thủ pháp nghệ thuật,
đó chính là một khuynh hướng sáng tạo, cách nhìn đối với thế giới, đối với sự
khổ đau. Anh có một ý thức sắc sảo đối với các hoàn cảnh, những nhận định tỉnh
táo chừng mực, trong suốt tựa như có một tiếng nói khác bên trong bài thơ.
Nhưng cũng có khi khá cũ:
Mái tóc dài mượt hỏi bộ ngực căng nở đêm nay chúng mình sẽ đi
đâu
Bộ ngực khóc
cúi nhìn trái tim
không nói
Mái tóc rủ xuống an ủi tôi sẽ che chở đừng buồn
đoạn lén quay sau lưng
lệ rớm.
Mục đích của thơ ca hôm nay, nếu có một mục đích như vậy, vẫn
là tiếp tục con đường mơ mộng của trí thức, hành trình đi tìm cái đẹp, đôi khi
lạc đường. Rất nhiều khi chính từ nơi hỗn độn ấy mà ngôn ngữ thơ ca được sinh
ra. Đỗ Quyên là một thí dụ sống động của một nhà thơ công dân, một người bạn,
người chồng, người tình. Thơ anh là sự nổi dậy chống lại tính chất chính thống,
các truyền thống văn học, lễ nghi, là một sự hỗn hợp giữa đời sống thôn quê và
thành thị, giữa tính địa phương và tính quốc gia, giữa tính mục đích và tính
vui chơi của văn học.
Em, Nghệ Thuật Và Đám Đông
Tôi nhận ngay ra em trong đám đông
Bức hình nghệ thuật với đủ đầy tiêu chí
Vẫn như ở các tấm hình bình thường và một mình
Tiêu chí nghệ thuật và đám đông không làm thay đổi em
Mà ngược lại.
Chúng ta nhìn thấy thế giới như trong một buổi sáng khi bạn
còn thơ ấu. Rồi bạn quay đi, bận rộn với những điều khác, nhưng sự nhìn thấy của
bạn còn ở lại, quay lui, nhìn ngắm một lần nữa. Như vậy một hình ảnh bao giờ
cũng đến trong tâm trí như một hình ảnh đôi, lần đầu như sự quan sát, lần thứ
hai như hồi tưởng.
Anh nhìn lên trời
và cúi xuống đất
để biết tại sao anh lại bỗng nhớ đến em khủng khiếp
Anh thấy
trời cũng cúi xuống đất
và đất cũng nhìn lên trời
không lẽ cũng
để biết tại sao anh lại bỗng nhớ em đến khủng khiếp.
Nhưng tâm trí của chúng ta không dừng lại ở một chỗ, nó thường
xuyên vận động. Tâm trí, từ bản chất là một kẻ tha hương, không nhà, không
nương tựa. Văn xuôi của Đỗ Quyên, trong tiểu thuyết, là một thứ văn xuôi trữ
tình giải cấu trúc. Anh xao xuyến đi tìm ý nghĩa, sự cần thiết của thơ và nghệ
thuật thơ ca. Anh không phải không có những bi kịch tiểu sử, mặc dù điều ấy
không được miêu tả tường tận trong tác phẩm của anh, nhưng các bi kịch tiểu sử
dường như bị cố tình gạt qua một bên. Đó là một trong những khó khăn của nhà
thơ trữ tình, khi anh nói về mình đến bao nhiêu thì vẫn là nhân loại.
Quá giang trường ca viếng bạn
đường lối trữ tình không thể riêng tư
thi tứ đến sau vần điệu
và dằn vặt đâu còn hiển lộ như xưa
Thơ anh khó trích dẫn. Không thể lấy một câu thơ để nói về một
khía cạnh. Muốn đọc, phải đọc toàn bài. Thơ nào cũng thay đổi khi chúng ta kể lại
chúng thay vì trích dẫn nguyên văn, nhưng thơ Đỗ Quyên biến dạng nhiều nếu được
trích dẫn. Thơ anh cũng bao gồm những mô tả sự tầm thường, sự ngớ ngẩn, sự phi
lý, như Raymond Carver hay Rae Armantrout. Trong những đoạn mô tả như thế, anh
thành công.
Tất cả
đời tôi đã xong
Chỉ duy nhất còn một việc
nhớ em
Nhớ cũng là loại việc trường kỳ kỷ luật
Tất nhiên
Khác với thơ phương Tây và nhất là Bắc Mỹ, thơ Việt còn lâu mới
mang tính tự sự, cùng lắm chỉ là trữ tình-tự sự. Đỗ Quyên là người đi xa về hướng
này, một cách có ý thức hoặc không có ý thức. Tôi lấy làm ngạc nhiên là anh ít
làm thơ xuôi, mặc dù tôi tin rằng anh có khả năng ấy. Những người làm thơ xuôi
không bị lệ thuộc vào câu thơ, hạn chế của nó, mà dựa nhiều hơn vào một thứ âm
nhạc nội tại.
Cuộc yêu đêm qua vắt kiệt cả hai
Người phụ nữ nói cần đi nghỉ sớm
Người đàn ông gật đầu
Và hai người nằm xuống
hạnh phúc
Họ nói mãi về những gì xảy ra hai mươi tư giờ trước
Lịch sử Việt Nam là chiến tranh, bạo lực, hiểu lầm, ký ức xáo
trộn. Một người viết thông thường dễ dàng trở thành nạn nhân của chúng. Một người
viết có tài năng nếu may mắn có thể vượt qua sự xáo trộn ấy. Khác với tất cả
nhà thơ người Việt hải ngoại, đi từ miền Nam hoặc đi từ miền Bắc, sinh ra trong
chiến tranh hoặc sau chiến tranh, Đỗ Quyên chọn một vị trí khó khăn, giữ được sự
trung hòa giữa tính tổng quát và tính cá nhân. Những cố gắng của anh trong thơ
không mệt mỏi, làm cho thơ trở thành một thứ giá trị trong đời sống, dung chứa
trong nó càng nhiều càng tốt các nguyên mẫu văn hóa dân tộc và các yếu tố thời
thế, chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Sự kết hợp giữa tính hào hứng
khó có một nhà thơ nào sánh được, với giá trị của những kinh nghiệm, không chỉ
dừng lại trong ngôn ngữ. Những hình ảnh trong thơ anh, phép ẩn dụ, là về những
cuộc gặp gỡ không thành, về một thứ lịch sử lẽ ra đã xảy ra nhưng không xảy ra.
Trường ca của anh xâu chuỗi chúng, vẽ lại các hoài niệm.
Sau khi em bỏ tôi
Một người phụ nữ khác đến
Chỗ của em bảo nơi này đã có chủ
Người đó mang chỗ của em tìm đến em
trả
Rồi không trở lại
với tôi.
Đặc tính của thơ Đỗ Quyên là cô đơn. Cô đơn không phải là một
quan điểm, mà là một tình trạng. Buồn rầu hay vui thú một cách thanh khiết, là
can đảm, lời kêu gọi, nhưng cũng có thể là một phòng giam giữ, sự bất lực, sự
suy kiệt. Cô đơn cũng có thể là khi bạn bắt đầu lắng nghe tiếng gọi, từ chính bạn
và từ tha nhân, là khi bạn nhận ra sự cần thiết của người khác hay của việc bạn
giúp đỡ họ, là khi bạn thuộc về.
Thơ không còn đường đi
Ngả nào trên bàn tay bỏ ngỏ
Năm ngón tay ai tiên tri
Gió thu về đọng lại
Thắp sáng góc ngực nốt ruồi
nâu
Trường ca đương đại thiếu một cốt truyện và các nhân vật, thiếu
các xung đột kịch tính, thay vào đó ngày càng nghiêng về phía những độc thoại nội
tâm, câu chuyện lịch sử biến thành câu chuyện cá nhân, sự việc khách quan biến
thành các diễn tiến trữ tình. Khuynh hướng chung hiện nay làm cho thể trường ca
Việt tăng cường sức mạnh của sự tương tác giữa người viết và người đọc, nhưng lại
thiếu hẳn sự sinh động theo cách chính xác và cụ thể của thế giới bên ngoài, thế
giới của các sự kiện, của một nhân loại biến động.
Sắp tới Trái đất sẽ bàn luận với Bầu trời
Ðề tài Mùa thu và Các nhà thơ không trí nhớ
Tại Giảng đường Ngày Mai Ðại học Sao Hôm
Mời anh và xấp bản thảo không biết úa mầu
Tới dự
Đỗ Quyên còn bị ám ảnh về tính liên tục của lịch sử, tính
nhân quả, sự kết hợp với tha nhân, nhu cầu tương thông, nhu cầu chuyển hóa. Niềm
vui thú của việc đọc thơ anh nằm ở chỗ can dự vào thế giới tưởng tượng, các câu
chuyện đằng sau chữ và nghĩa, bối cảnh nền của các diễn tiến hiện tại. Có lẽ
quan tâm đặc biệt của anh đối với văn hóa, một mối quan tâm mà tôi ít tìm thấy ở
các nhà thơ cùng thời, đã làm cho Đỗ Quyên trở thành nhà thơ trữ tình hiếm hoi
viết về những chủ đề thế sự rộng lớn thay vì chỉ cá nhân.
Chưa từng trao bất kỳ ai ngoài anh nỗi riêng tư nhất
Anh cũng thế
Để làm nên bí mật tình yêu hành tinh này không chứa nổi
Tất cả các ngôi nhà đều cắn lưỡi
Đọc Đỗ Quyên là đọc trong lặng lẽ hành trình tha hương-lưu
vong của người Việt. Anh không tin rằng chỉ có nghệ thuật là đủ cho các giá trị,
không tin vào những giấc mơ của chủ nghĩa hiện đại. Chối bỏ hoàn toàn truyền thống
là những kẻ hư vô chủ nghĩa, nhưng lệ thuộc vào chúng, dù một cách vô thức,
cũng tai hại không kém. Chính cái nhìn mỉa mai, châm biếm, phản kháng, thức tỉnh
đã tạo nên một thế giới gọi là ngoại vi. Thế giới ngoại vi ấy trong văn chương
không phải là một định nghĩa có tính loại trừ: không phải ở bên trong thì ở bên
ngoài, không phải chính thống thì ngoại vi, mà thế giới ấy là một tập hợp bất
xác định, những buổi họp không có người điều khiển, những xứ sở không có lãnh tụ.
Anh sẽ sớm quên mùi lưng gái trẻ
Nhởn nhơ để mặc nắng lùa
Quên người đảo hiền hiền hay hát
Khúc ca làm nguội bước hành nhân
Anh nói về điều gì? Về một vùng đảo, những tấm lưng trần của
thiếu nữ phơi nắng, nhưng hình như anh muốn nói một điều gì khác nữa. Đó là sự
khởi đầu của liên kết, tất cả những ý nghĩa cá nhân cùng một lúc chuyển động.
Về Sự Phải Trái Của Miệng
Tai trái hỏi tai phải
có đúng là cái miệng nó vừa nói "Em yêu"
Tai phải bảo tai trái
giá như miệng cũng có phải trái thì hai ta đỡ biết bao nhiêu.
Đó là ý tưởng lạ, nhưng phương pháp ẩn dụ cũ, sẽ không chịu
hoạt động cho anh. Thơ anh sử dụng nhiều điển tích nhưng đó là một thứ điển
tích kiểu mới, không phải một nhóm chữ, mà một ý tưởng nối kết giữa hiện tại và
lịch sử. Đằng sau nhiều câu thơ của anh có những câu chuyện từng được kể lại ở
đâu đó. Nghe anh kể, thật hay.
Sau cuộc yêu
mỗi người nằm về một hướng
như hai câu lục bát
rời ra
Thơ anh có rất nhiều hình ảnh mang tính tượng trưng. Tượng trưng là sự so sánh
nhưng không biểu đạt như một so sánh.
Khi bàn chân nằm xuống vẫn chỉ thẳng lên trời
Con đường chôn trong chân người
Người đọc hiểu bàn chân là biểu tượng của một điều gì khác lớn
hơn, nhưng biểu tượng ấy cũng có sự sống riêng của nó, vì vậy mà khi nằm xuống
thì vẫn chỉ lên trời, vì vậy mà bàn chân chứa được nhiều con đường.
Những người-nữ chuyển động trong bài thơ anh
Từng đoạn chương từng câu chữ
Như các y phục ẩn hiện thân hình một người phụ nữ
Phương pháp giải cấu trúc, mà các nhà lý luận hay nhắc tới,
là một hướng phê bình tuy cởi mở nhưng có thể mang lại hậu quả tai hại. Tuy
cách đọc giải cấu trúc cũng chú ý đến việc hiểu đúng và hiểu sai, nhưng thừa nhận
nhiều cách hiểu một văn bản. Đọc thơ cần nhìn thấy cái riêng rẽ, cái cụ thể,
tính độc đáo, originality, như thế là tránh sự phổ cập, đi tới những gián
đoạn của ý nghĩa. Một văn bản giàu có mang lại ánh sáng mới mỗi khi đọc lại.
Thơ Đỗ Quyên, những khi thành công, là một thứ văn bản như vậy.
Cây đỗ quyên trước cửa nhà
tháng năm đợi
chưa bao giờ được vào thơ Đỗ Quyên
Màu đỏ máu
đêm như ngày
Thơ anh mất đối xứng, nhưng khác với nhiều người khác anh lập
tức lấy lại thăng bằng. Các nhân vật, các đối tượng trong thơ, nhất là thơ ngắn
của anh, có một số phận đáng thương, chúng mịt mờ, hư ảo, như có như không,
cũng như chính số phận mỗi cá nhân chúng ta trong thời đại sắt thép kinh hoàng.
Khi bạn gặp họ, mới thấy sức mạnh của tư duy thơ Đỗ Quyên, lòng yêu dạt dào đối
với ngôn ngữ, sự ngây thơ đáng yêu và đáng thương của chàng.
Ðỗ Quyên,
Không biết anh còn nhớ đến thu?
Có còn dùng địa chỉ email này làm nơi sống gửi
Tính tặng anh một nửa thu chớm lạnh
Trên con đường dốc nặng sương
Nhờ anh check lại
Đỗ Quyên giàu liên tưởng, hay nhắc đến các đề tài chính trị,
mà nhắc ngang xương, tự nhiên, mặc dù thế, thơ anh không phải là thơ chính trị,
chẳng qua những vấn đề văn hóa với dân tộc đã trở thành một phần của đời sống của
anh.
Với tôi
không nệ áo khoác thầy tu khi nhằm đích tâm kinh
các nhân vật sẽ không địa chỉ tùy thân
thậm chí còn đánh tráo cho nhau chức năng nghệ thuật
Có quan trọng lắm đâu
chọn
lựa thi pháp
Thi pháp là gì nếu không chuyện cái cốc cái ly?
Câu thơ là một đơn vị của cảm xúc. Câu thơ là một đơn
vị của sự tập trung chú ý. Tuy nhiên sự mô tả của anh đôi lúc rơi vào tản
mạn, thuần túy mô tả hơn là bộc lộ những ý nghĩa mới, những diễn dịch mới của
hiện thực:
Nhìn từ sau lại cả một vùng thèm muốn
Hai tấc gang ngang không tới tường thành
Chỗ hẹp nhất chờ sự mạo hiểm nhất
Thực tiễn cắm ngút vào lãng mạn vừa tầm
Thơ Đỗ Quyên là một thứ hậu siêu thực: anh kêu gọi người đọc
từ bỏ hiện thực, đi vào các giấc mộng, nhưng cũng coi thơ là một tôn giáo bí ẩn,
từ đó người đọc có thể nhìn sâu vào thế giới và đôi khi cắt nghĩa các bi kịch.
Bằng cách cắt nghĩa, một người trở lại với hiện thực.
Ta đi mãi. Trời đâu nào cao tới
Mây dừng ngang vai mây dừng ngang vai...
Trí ta thấu trời tâm ta mây biết
Thôi cũng đành thôi thế thế là thôi!
Ta đi mãi. Gió mưa này đã khóc
đã than rằng, ơi hỡi Ðỗ Quyên ơi,
gió giật thổi một đời không lại
mưa trút gào trọn kiếp không thôi
Như thế, thơ anh có những nỗi đau sau cùng, bàng bạc, nhưng
người đọc có cảm tưởng anh sẽ được cứu rỗi. Đó là điều kỳ lạ, vì anh là người
vô thần, cũng như một số ít nhà thơ khác, và đó là một nỗi cô đơn khủng khiếp.
Dù sao, tôi tiếc là anh vẫn chưa bộc lộ hết những cảm xúc của mình, mặc dù nói
nhiều về cá nhân, nhưng đó là một cá nhân xã hội, một cá nhân gia đình, một cá
nhân bị ràng buộc bởi các trách nhiệm. Anh ít chạm tay vào những chi tiết cụ thể,
sống động. Khi anh làm thế, thật cảm động như khi nghe anh nói về bạn:
Đà Linh:
Sau khi trồng trên đời
các cuốn sách
xanh
bạn nằm xuống
Ý tôi còn muốn nói
Đẹp xiết bao những nấm mồ người-làm-sách
Đỗ Quyên chấp nhận và khuếch trương sự tầm thường, làm chúng
lan tỏa khắp các trang viết (absurdity), nhưng trong thơ anh tuyệt không thấy sự
dung tục. Anh vẫn là nhà thơ hướng tới cái đẹp, mặc dù không ít hơn vài lần tìm
cách chế giễu nó, tựa như khi mọi người đang than khóc thì có một người đứng cười.
Nhưng đó là một nụ cười đánh thức.
Em, quẹo ngả này,
Vô pick up Nhất Linh quá giang Montreal
Thật thú vị. Sự đảo lộn đời sống, sắp xếp lại câu chữ như một
trò chơi ngôn ngữ, đôi khi không phục vụ cho một mục đích nào cả. Chơi là chơi.
Nhưng tôi tưởng rằng thơ Đỗ Quyên không đi đến tận cùng tính vô mục đích như vậy.
Hầu hết, câu thơ của anh vẫn nạp đầy ý nghĩ như những đám mây tích điện trước
cơn bão.
Thơ anh đôi khi buồn, nhưng ít gây ra thương cảm. Thường là vào lúc anh viết những
câu ngắn, đều đặn giữ nhịp. Nhịp thơ chậm lại. Thơ thêm cái mênh mông của suy
tưởng, mà chữ vẫn đậm đặc.
Mở
Mở nữa
Mở mãi
Mở những gì có cửa
Mở những gì chưa có cửa
Bằng cách nào chúng ta dành lại tự do của mình? Trong những bối
cảnh kỳ lạ nhất, bất thường nhất: bị nghi ngờ, hải ngoại, lưu vong, bị kiểm
soát, ngoại vi, bên dưới. Thơ anh không phải là câu trả lời nhưng chúng tạo ra
một cấu trúc cho phép câu hỏi được vang lên, làm cho bạn trở lại với chính
mình. Bản ngã của một người chống lại tình yêu của anh ta, đối với đời sống, đối
với người khác, và trong trường hợp Đỗ Quyên, người khác là người nữ.
Thế giới nữ phủ đặt mùa thu tôi ba người
Ðầu của một người
Mình của một người
Tứ chi một người
Em tìm hết một thời chúng mình bên nhau có thấy hết mình ở những
chỗ nào trên tôi?
Thơ anh đầy những nhận xét nhưng không phải là sự phê phán.
Thơ ấy kêu gọi, không nhìn sâu vào những khổ đau của đời sống mà nhìn ra bên
ngoài, nhìn tới quan hệ với người khác, những trầm tư lịch sử. Nỗi đau không phải
bị kìm nén mà được dịch chuyển, hướng về đối tượng khác, và nhờ thế chúng trở
nên chịu đựng được. Có một cảm xúc hào phóng, mãnh liệt trong thơ Đỗ Quyên, như
trao tặng, sự nhẹ nhõm của lòng tốt. Thơ anh chống lại thành kiến, mối quan hệ
của anh đối với đời sống tuy sâu sắc mà nhẹ nhõm, đôi khi như một lời xin lỗi
hay tha thứ. Những chấn thương của anh không được khai thác đến cùng tận, vì
chúng được lý giải quá sớm. Đó là lý do vì sao trong thơ bàng bạc một niềm cô độc,
khó chia sẻ.
Những ai không còn không gian
Sau một cái vuốt tóc
Sợi đen sợi bạc sợi màu
Em bao nhiêu tóc đã từng đau
Ở không gian khác
Tư duy thơ không nặng về mô tả khách quan, một nghệ thuật
phát sinh từ khoảng cách. Thơ có những phát hiện tâm lý học về đời sống tâm hồn,
nhất là trong thơ viết về thơ. Trong vòng vài chục năm nay, Đỗ Quyên có lẽ là
người viết nhiều thơ về thơ nhất. Vốn từ vựng không thay đổi nhiều, từ bài này
sang bài thơ khác. Sự thay đổi nằm nhiều hơn ở giọng điệu, tâm trạng, chủ đề.
Tôi hiểu rằng có một sự khác nhau giữa chủ đề và đề tài, đề tài là nói về chất
liệu nghệ thuật, chủ đề nói về ý tưởng trung tâm.
Anh né mặt sau những trang thơ
Cho cuộc đời hiện diện
Càng đi xa càng thấy tháng ngày đau
Lá rụng xuống không để người cúi nhặt
Nghệ thuật làm cho cuộc đời lớn hơn hiện thực. Sự bẻ gẫy các
câu thơ, ngắt dòng, xáo trộn các ý tưởng làm cho con người có thể nhìn thấy sự
thực từ nhiều điểm nhìn, trong không gian và thời gian. Không có một chân dung
nào là tĩnh, chúng biến đổi. Thế giới thơ anh là thế giới trống rỗng, bát ngát,
nhưng đó là sự trống rỗng có thể làm một cái chuông ngân lên, sự bát ngát dễ
dàng bị thu hồi bởi bóng tối. Cuộc đời chắc chắn là ngày một xấu đi, nhân gian
chắc chắn là mỗi ngày một hỗn độn, nghệ thuật ngày càng ít có tiếng nói, đó là
sự thật hay là niềm tin của một số người, không ai trả lời được. Thơ là một
trong những cố gắng tìm câu trả lời ấy, khi thì bằng sự tập trung chú ý, có phần
nghiêm khắc, khi thì bằng sự buông thả, đôi lúc bông phèng, ba lơn.
Trong ba phần cuộc đời
Không phần nào có thể hiểu được hai phần còn lại
Sự hiểu được của thơ tựa như sự tiên đoán được, sự không thể
hiểu nằm ở sự không thể tiên đoán được.
Thơ anh ngày một cá nhân hơn, trữ tình hơn, nhưng vẫn dung chứa
cái nhìn nổi loạn đối với hiện thực. Trong trường hợp ấy, thơ mới hẳn, như khi
chạm tới cái đẹp, một trong những bận tâm chính của Đỗ Quyên. Cái đẹp là tình
trạng cân bằng giữa chú ý và rời bỏ bản ngã. Nhà thơ biết rằng ở nơi giao phối
giữa thời gian và mất mát, thơ tìm được nó.
Có gió bốc dưới mỗi bàn chân
và trong từng ngòi bút
Mùi trang giấy viết tinh khôi
ngửi suốt đời không ngán
Độ cứng ở những nơi thiếu bàn chân
kích thích
Đôi khi bài thơ đi tới tầng sâu hơn, đằng sau hiện thực. Tôi
nghĩ, đó là lòng thương xót.
Cho ta khóc một hệ người
Khi chúng ta bắt đầu nhìn thấy một người đau khổ, cảm xúc được
cảm xúc của một người bất hạnh, lúc đó bạn thôi không còn là đối tượng của số
phận nữa, mà trở thành chủ thể của thơ. Nếu thơ Đỗ Quyên được các nhà phê bình
chú ý nhiều hơn, được đọc kỹ hơn nữa, thơ ấy sẽ được người đọc yêu mến và đọc lại,
bởi vì ngôn ngữ mới mẻ của chúng, giọng điệu phóng khoáng và thân mật, đau đớn
và hào sảng, bởi vì những hình ảnh tầm thường và tuyệt đẹp, một sức nghĩ mạnh mẽ
khác thường của
tác giả. Điều đó bao giờ cũng từ hai phía, từ người đọc, nhà phê
bình, và từ người viết. Anh là một nhà thơ của những lịch sử nhầm lẫn, của sự
viết lại, của sửa chữa, đi tìm và đôi khi tìm lại được, của số phận nếu không
phải của cả dân tộc thì một số người, đôi ba thế hệ, năm tháng không quên.
Tới gần rồi,
Điểm cuối!
Đảo mưa trong anh
Ánh nắng trong em
Đường mòn đau thêm
Thổn thức lịch trình xoắn ốc
Câu thơ treo ngửa
nấc
Cuộc đời của mỗi bài thơ là ở trên đường, đi trong sự vắng lặng
của các hoàn cảnh, cái mơ hồ của sự thật, sự trống rỗng của mục đích. Bài thơ
như thế trở thành sự kiến tạo mỗi ngày của thi sĩ. Ngôn ngữ trở thành không phải
phương tiện giao tiếp mà là hiện thực. Thơ Đỗ Quyên mang tôi trở lại với cảm
giác nguyên thủy trong sáng tạo, có lẽ đó là một trong những đóng góp lớn nhất
của anh. Quá trình kiến tạo nghệ thuật gồm xây dựng và phá hủy, và thơ bắt gặp
lối đi cuối cùng, nhưng rồi bao giờ nó cũng vượt lên, đi xuyên qua giữa cái chết
và cái đẹp. Đọc Đỗ Quyên là đi tìm manh mối của một bài thơ. Những câu thơ đẹp
được làm nên như vậy, được tháo ra, được làm lại. Giữa những chặng đường ấy là
sự hài lòng và sự bất mãn, yêu thương và giận dữ, chống lại và làm lành đối với
số phận. Của đất nước và của chính mình.
Tài liệu:
1. Đỗ Quyên: Lòng hải lý, NXB Hội Nhà văn, 2011; tập hợp các
trường ca Lòng hải lý, Đống chữ, Buồn muộn cùng thế kỷ, Bài thơ không thuộc về
ai.
2. Đỗ Quyên: Ba người nữ một mùa thu (vanviet.info; trangvietmoi.com)
3. http://vanviet.info/
5. Nguyễn Đức Tùng: Thơ đến từ đâu/ Mục Đỗ Quyên, NXB Lao Động,
2010.
6. http://maivanphan.vn/
7. https://buicongthuan.wordpress.com/
8. http://chimvie3.free.fr/
9. Nguyễn Đức Tùng: Bốn mươi năm thơ Việt hải ngoại, NXB
Người Việt và Văn Việt, USA, 2017, p. 443-452.
10/12/2021 Nguyễn Đức Tùng
10/12/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét