Danh nhân Việt Nam: Trần Nhân Tông
(1247-1308): Minh quân
và đạo sĩ
"Nhà ta vốn là dân hạ bạn,
đời đời ưa chuộng việc hùng dũng...”
(Trần Nhân Tông)
Trong lịch sử Việt Nam, có những vị vua giỏi giang cáng
đáng và lãnh đạo nước trong những tình huống khó khăn. Trần Nhân Tông là một
trong những vị vua đầu khai triều và xây dựng nhà Trần. Triều ông là giai đoạn
cực thịnh nhất của nhà Trần. Ông lãnh đạo nước trong những thời kỳ gay cấn nhất
của lịch sử Việt Nam: chiến tranh xâm lược của đạo quân Mông Cổ reo rắc kinh
hoàng ở khắp lục địa Á-Âu.
Trong hai cuộc xâm lăng của Mông Cổ lần hai và lần ba, ông đã
cùng tướng sĩ và nhân dân đối phó và đánh bại giặc. Ông là người mở ra Hội nghị
Diên Hồng hỏi ý kiến toàn dân và cùng nhân dân đối kháng địch. Trần Nhân Tông
không những là vị vua cương chính và gần dân mà còn là một đạo sĩ Phật giáo hiền
tài, một trong ba sư tổ sáng lập ra trường phái Trúc Lâm duy nhất ở Việt Nam.
1- Con người và sự nghiệp
(a) Bản chất con người
Thái tử Trần Khâm tức Trần Nhân Tông lên ngôi vua thay thế
Thượng Hoàng Thanh Tông năm 1279. Ông là một vị vua có cốt ở dân và có một tâm
hồn Việt cội rễ. Ẩn tàng trong ông là ý thức về nguồn, gợi nhớ gốc tổ Rồng
Tiên, như lời ông từng nói với con Trần Anh Tông và Quốc Công Trần Quốc Tuấn:
"Nhà ta vốn là dân hạ bạn, đời đời ưa chuộng việc hùng dũng... thích hình
rồng vào đùi để tỏ ra không quên gốc." Tục xâm hình rất phổ biến trong dân
gian Việt Nam từ thời Hùng Vương, đến đời Trần Nhân Tông thì phát triển
mạnh mẽ. Từ vua quan đến quân dân đều vẽ xâm hình rồng trước bụng, sau lưng và
hai vế đùi. Lúc này người ta chẳng những quan niệm xâm hình rồng để khi xuống
nước không bị giao long làm hại mà còn ngầm nhắc nhở nhau về một nguồn gốc như
lời vua nhắn nhủ.
Tục này thịnh hành đến nổi người Trung Hoa trông thấy gọi là
"thái long" tức rồng vẽ. Theo sứ nhà Nguyên Trần Phụ, thì mỗi người
dân Đại Việt còn thích chữ "Nghĩa di quyền phụ, hình vu báo quốc" (Vì
việc nghĩa mà liều thân, vì ơn nước mà báo đền). Điều này cho thấy dưới đời vua
Trần Nhân Tông, quân dân đều một lòng và tụ tập quanh một ông vua có căn cơ là
gốc dân.
(b) Tư cách lãnh đạo
Nhân Tông là một vị vua anh minh, biết dùng và trọng dụng
nhân tài. Đời ông, nhân tài, anh hùng, tuấn kiệt lũ lượt kéo ra giúp nước, lòng
người như một. Bên ông, về quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có
các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần
Nhật Duật..., về văn học có các văn thi sĩ uyên bác như Nguyễn Thuyên, Trương
Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Riêng Nguyễn Thuyên là người khởi đầu dùng chữ Nôm làm
thơ phú, văn hay như Hàn Dũ bên Trung Quốc ngày xưa nên Nhân Tông cho đổi tên
là họ Hàn.
Sự hiểu người và dùng người của ông được thể hiện qua một câu
chuyện tiêu biểu sau. Trong không khí khẩn trương, khi con trai của Hốt Tất Liệt
là Thái tử Thoát Hoan đang sôi sục căm hờn điều động binh mã ở biên thùy để sửa
soạn tràn vào Đại Việt. Vào một ngày cuối năm Nhâm Ngọ (1282), tại bến Bình
Than có một cuộc họp lịch sử giữa vua Trần Nhân Tông và các tướng sĩ. Giữa lúc
vua Nhân Tông và mọi người đang bàn bạc sôi nổi, vua chợt nhìn ra ngoài sông và
thoáng thấy một chiếc thuyền lớn chở đầy than theo dòng đổ về xuôi. Nhác thấy
trên thuyền có một người đội nón lá, mặc áo ngắn, ngộ ngộ trông như người quen,
vua bèn chỉ và hỏi quan thi thần:
- Người kia có phải là Nhân Huệ Vương không?
Rồi lập tức sai quân cheo thuyền nhỏ đuổi theo. Nhưng lát sau
chỉ thấy quân trở về không, tâu với vua là ông lái ngang bướng ấy không chiu đến
mà chỉ trả lời rằng:
- Lão già này là người bán than, có việc gì mà vua gọi đến!
Nghe thấy thế, các quan rất đổi ngạc nhiên và lo cho người
bán than, cái tội khi quân mạn thượng này dù xử nhẹ cũng phải dăm chục trượng
là ít. Nhưng Nhân Tông vẫn tươi cười mà rằng:
- Thế thì đúng là Nhân Huệ Vương rồi, người thường không dám
trả lời ta như thế!
Rồi sai nội thị đi gọi: lần này "lão ta" chịu đến.
Vua quan nhìn ra thì đích thị không sai. Người lái thuyền bán than đó chính là
Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Đội chiếc nón lá và bận tấm áo nâu ngắn bạc phếch,
quần sắn tới đầu gối, trông ông ta thật phong trần. Nhưng lạ thay, cuộc sống
lam lũ vẫn không làm mất được cái vẽ tinh anh quắc thước và dáng dấp hiên ngang
ở người tướng vũ dũng của cuộc kháng chiến chống Mông Cổ năm xưa, vì nóng tính
và trót phạm lỗi với triều đình nên bị cách chức và tịch thu gia sản. Chuyến đi
hôm nay của ông tình cờ lại hóa hay.
- Thế nào, liệu khanh còn đủ sức đánh giặc hay không? - Nhân
Tông ướm hỏi.
Nghe thấy hai chữ "đánh giặc", mắt Trần Khánh Dư vụt
sáng:
- Dạ, thần còn đủ sức. Mấy năm nay vung rìu đẵn gỗ, cánh tay
thần xem ra còn rắn rõi hơn xưa.
Nhân Tông cười vui vẽ và ngợi khen:
- Quả là gan Trần Khánh Dư còn bền hơn sắt đá. Được rồi còn
phải xem khanh lập công chuộc tội ra sao?
Đoạn xuống chiếu tha tội cho Trần Khánh Dư, ban mũ áo, phong
làm phó tướng quân rồi cho ngồi ở ghế cuối hàng vương để bàn việc nước. Thế là
triều đình lại có thêm được một người tài giỏi đứng ra phò vua giúp nước.
Sự dùng người của Nhân Tông như thế xứng đáng phong cách của
một người lãnh đạo: hiểu và dùng người đúng chỗ.
(c)
Cách cư xử người
Trần Nhân Tông là một vị vua khí khái và nhân đức. Đối diện với
bao phong ba bão táp, ông lãnh đạo tướng sĩ và nhân dân chống đỡ những cơn hiểm
nguy. Nhưng không lúc nào là ông không để ý đến tình trạng của quân dân.
Khi quân Mông Cổ với khí thế hung tàn tràn vào Đại Việt, Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vì kém thế thua chạy rút về Vạn Kiếp. Nhân Tông nghe
Hưng Đạo Vương thua, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Dương rồi cho vời
Hưng Đạo Vương đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua, trong bụng không yên, mới
bảo Hưng Đạo Vương rằng:
- Thế giặc to như vậy, mà chống nó thì dân sự tàn hại, hay là
trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân?
Hưng Đạo Vương tâu rằng:
- Bệ hạ nói câu ấy thì thật là nhân đức, nhưng mà tôn miếu xã
tắc thi sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ
hàng.
Nhân Tông nghe lời nói trung liệt như vậy, trong bụng mới
yên.
Cũng vậy, đối với quân thù, trong trận chiến thắng lịch sử của
quân ta ở Tây Kết (Khoái Châu, Hải Hưng), tướng giặc là Toa Đô bị trúng tên chết
và Ô Mã Nhi phải chốn chui xuống thuyền vượt biển chạy về Trung Quốc. Khi các
tướng thắng trận đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân Tông thấy người dũng kiện mà lại hết
lòng với chúa, nên xúc động mới than rằng: "Làm bầy tôi nên như người
này" rồi cởi áo ngự bào đắp vào đầu Toa Đô, sai quân dùng lễ mai táng cho
tử tế.
Khi bóng quân Mông Cổ không còn trên đất Nam, triều đình
bắt được một tráp chứa các biểu hàng của một số quan. Số là khi quân giặc đang
cường thịnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy má đi lại với chúng. Đình thần
muốn lục tráp ra để trị tội, nhưng Nhân Tông và Thánh Tông Thượng Hoàng nghĩ xa
đến sự hòa giãi dân tộc nên sai đem đốt cả tráp đi cho yên lòng mọi người và
cùng nhau xây dựng lại cố đô. Duy chỉ những người thực sự hàng và hợp tác với
giặc mới bị trị tội.
(d) Trị nước
Trách nhiệm giữ nước đã xong, Nhân Tông còn phải lo việc ngoại
giao với giặc và xây dựng lại đất nước và con người. Với nhà Nguyên, Mông Cổ,
vua không kiêu căng khi thắng, mà hòa khí, khiêm nhượng nhưng nhân chính. Sự
tàn phá của quân Mông Cổ thật nặng nề đến nổi, lúc chiến thắng trở về Thăng
Long, vua không còn cung điện để ở mà phải tạm trú ở Lăng thị vệ. Trong tờ biểu
gởi Hốt Tất Liệt, Nhân Tông đã phải viết: "đốt phá hết chùa miếu trong nước,
khai quật phần mộ tổ tiên, cướp bóc dân gian, phá phách sản nghiệp trăm họ, mọi
tàn ác không việc nào trừ...".
Hậu quả của chiến tranh tan khốc như vậy cho nên phải có
chính sách an dân và ủy lạo dân. Sau cuộc chiến, Nhân Tông xuống chiếu đại xá cho thiên hạ. Nơi nào bị địch đốt
phá thì tha tô ruộng và tạp dịch toàn phần, các chỗ khác thì xét miễn giảm theo
thứ bậc khác nhau. Chính sách khéo léo và có tầm nhìn xa này, thể hiện một tinh
thần thương dân và ở một đầu óc có tư tưởng đầu tư xây dựng lâu dài, đã được kể
lại trong quyển "Long thành dật sự" như sau:
Sau chiến tranh, thành Thăng Long nhiều đoạn bị san bằng, vua
Nhân Tông định hạ chỉ gấp rút xây lại thành trì. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn can rằng: "Việc sửa lại
thành trì không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay không thể
chậm trễ được là việc ủy lạo nhân dân. Hơn 4 năm, quân giặc hai lần tràn sang
quấy rối, từ nơi núi rừng đến nơi đồng ruộng, đều bị tàn phá hầu hết. Vậy mà
nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài, xuết lộc, đi lính và đóng
thuế, làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống nhau với giặc. Nay nhà
vua được trở về yên ổn. Việc làm trước hết là chú ý ngay đến dân, những nơi nào
bị tàn phá, tùy tình trạng nặng nhẹ mà cứu tế; nơi nào bị tàn phá quá nặng, có
thể miễn tô thuế mấy năm. Có như thế dân mới nức lòng càng quy hướng về triều
đình hơn nữa. Người xưa đã nói: "chúng chí thành thành" nghĩa là ý
chí của dân là một bức thành kiên cố. Đó mới là cái thành cần sửa chữa ngay,
xin nhà vua xử lý."
Vua Nhân Tông vui vẽ nghe theo lời khuyên của Trần Quốc Tuấn.
Đây cũng là một bài học quan trọng mà gần đây chúng ta đã không nắm mà nguy hơn
nữa là đã làm ngược lại.
Cũng vậy để cải tổ bộ máy hành chánh, và thúc đẩy nền kinh tế
giúp dân giàu mạnh. Trần Nhân Tông quyết định giảm thủ tục, các quan lộc và
quan liêu trong nước. Trước một bộ máy quá lớn và quá nặng nề từ Thượng thư sảnh,
Môn hạ sảnh, Nội mật viện, đến các quan, các lục bộ, các cục (Nội thư hỏa cục,
Chi hậu cục...), các đài (Ngự sử đài), các viện (Khu mật viện, Hàn lâm viện, Thẩm
hình viện, Quốc sử viện, Thái y viện,...), các ty... khiến Trần Nhân Tông phải
thốt lên:
"Sao một nước bé bằng bàn tay mà phong nhiều quan thế!"
Lại một lần nữa, vấn đề này cũng là vấn đề mà hiện nay chúng
ta đang trực tiếp đối diện
(e) Trung hiếu và gia huấn
Trần Nhân Tông coi việc trung hiếu là quan trọng hàng đầu. Đối
với thượng hoàng và các bề trên ông đều hết lòng đáp nghĩa. Ông thường lễ long
trọng hàng năm trước các lăng tiền bối. Bài thơ của ông làm lúc về bái yết lăng
ông nội Trần Thái Tông vẫn còn để lại trong sử sách.
Trượng vệ thiên môn túc
Y quan thất phẩm thông...
(Qua nghìn cửa chào nghiêm túc,
Đủ áo mũ các quan của bảy chức...)
Khi ông là Thượng hoàng, đối với con ông là Trần Anh Tông,
ông để tự do nhưng đều khuyên bảo những điều nhân đức về phép trị dân. Sử sách
chép rằng, Anh Tông là người có hiếu nhưng thường uống rượu và lẽn đi chơi đêm
khắp kinh thành, đến gà gáy mới về. Vì thế có lúc Nhân Tông phải có thái độ cứng
rắn.
Tháng năm năm Kỷ Hợi (1299), vua Anh Tông uống rượu xương bồ
say quá. Thượng hoàng Nhân Tông từ phủ Thiên Trường (Nam Định), nơi các Thượng
hoàng thường ở an dưỡng, về kinh sư, quan trong triều không ai biết cả. Nhân
Tông thong thả xem khắp các cung điện, từ sáng đến trưa. Người trong cung dâng
cơm, Nhân Tông ngoảnh trông, không thấy vua, ngạc nhiên hỏi ở đâu?
Cung nhân vào đánh thức nhưng vua say quá không tỉnh. Ông giận
lắm, trở về Thiên Trường ngay, xuống chiếu cho các quan ngày mai đến họp ở phủ
Thiên Trường. Đến chiều, vua Anh Tông mới tỉnh, biết Thượng Hoàng về kinh, sợ hải
quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên Đoàn Nhữ Hài, mượn
thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm
đến phủ Thiên Trường. Nhân Tông xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho
Anh Tông. Từ đó vua Anh Tông không uống rượu nữa.
2- Xuất thế và thơ văn
Sau khi quân xâm lăng Nguyên Mông Cổ không còn dám có tham vọng
chiếm Đại Việt, năm năm sau (1293) Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con ở Thăng
Long rồi rút về Thiên Trường đi ngao du và bắt đầu xuất thế. Trước lúc đó, ông
đã là một nhà đạo sĩ và thi văn nổi tiếng đời Trần. Đời của ông lúc này chuyển
qua một giai đoạn khác, việc nước và gia đình đã xong giờ đến việc mình và đời
sống tinh thần của bản thân.
Ông cùng các đệ tử của mình lên núi Yên Tử (Quảng Ninh) xây dựng
các chùa. Một trong những chùa nổi tiếng nhất là chùa Hoa Yên. Ông là vị
"tổ" đã có công lớn trong việc xây dựng nên phái Phật giáo ở vùng Yên
Tử Sơn này. Trần Nhân Tông, cùng sư Pháp Hoa và sư Huyền Quang là tam tổ của
trường phái Trúc Lâm và thường được gọi là phái Trúc Lâm Tam Tổ vì chỉ riêng ở
Việt Nam mới có.
Sự nhập thiền của Trần Nhân Tông không phải là một tiêu cực yếm
thế. Thiền Trúc Lâm mang một hình thái nữa có nữa không, nữa thực nữa hư và có
một tinh thần biện chứng tích cực. Một thiền Phật giáo nhập thế mà tất cả mọi
người dân đều có thể áp dụng theo đuổi ở mọi nơi, mọi lúc trong đời sống không
phải chỉ ở cửa chùa. Bắt nguồn từ thiền Vô Ngôn thông, quan điểm cơ bản của thiền
Trúc lâm là “tức tâm tức Phật”, Phật ở tâm, ở trong ta, khi đốn ngộ thì ta là
Phật và Phật là ta. Từ Yên Tử Sơn, lâu lâu Nhân Tông đi ngao du các nơi, thăm
thắng cảnh thanh bình của quê hương mình. Lúc qua Thiên Trường vào một buổi chiều,
trong cảnh tranh tối tranh sáng của đồng quê Việt Nam, dưới con mắt Thiền của
mình, ông đã xúc cảm làm một bài thơ tựa đề "Thiên Trường vãn vọng"
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Xóm trước thôn sau tựa khói lồng
Bóng chiều dường có lại dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi hạ xuống đồng)
Những buổi chiều của đồng quê Việt Nam đẹp đẽ và yên tỉnh như
kia là một hiện thực, đã có từ nghìn năm nay trong đời sống nhân dân, và đã tác
động mạnh mẽ vào một tâm hồn Việt cội rễ của đạo sĩ Trần Nhân Tông.
Danh tiếng của đạo sĩ Trần Nhân Tông vang lừng khắp Đại Việt
đến tận đất Chiêm Thành. Trong cuộc thăm viếng lịch sử chưa từng có của một Thượng
hoàng nước Đại Việt, cả Chiêm Thành từ vua quan đến nhân dân một lòng tôn kính
một hiền sĩ từ phương xa ghé vào. Nhân Tông cũng xúc động và học hỏi nhiều từ một
nền văn minh khác. Đối với ông, con người đâu đâu cũng vậy. Biên giới chỉ là một
hàng rào giả tạo đặt ra bởi sự không thông hiểu giữa con người. Ông đã nhin xa
và muốn thắt chặt tình thân hữu anh em của hai dân tộc Việt-Chiêm. Ông đề nghị
với vua Trần Anh Tông kết hợp con gái Nhân Tông (tức em gái Trần Anh Tông) là
công chúa Huyền Trân với vua Chiêm Thành. Cả Chiêm Thành, từ sự kính trọng đối
với một đạo sĩ hiền tài này, đã hoan hỷ chấp nhận. Vua Chiêm là Chế Mân (Jaya
Sinhavarman III mà trước đây là thái tử Harijit đã cùng đồng minh Đại Việt chống
quân Nguyên đổ bộ ở Chiêm Thành) đã tặng Đại Việt hai châu Ô và châu Rí trong
cuộc hôn nhân lịch sử này. Nhưng tiếc thay sau khi Chế Mân và Trần Nhân Tông mất,
chiến tranh lại tái diễn giữa hai dân tộc.
Năm 1308, Thượng hoàng Trần Nhân Tông băng hà ở am Ngọa Vân,
núi Yên Tử. Sư Pháp Hoa thiêu xác ông, nhặt hỏa cốt và hơn ba ngàn hạt xá lị để
vào hộp, mang về chùa Từ Phúc ở kinh sư.
Mùa thu năm 1310, linh cửu chứa hỏa cốt Thượng hoàng được rước
về chôn ở làng Quý Đức, Phủ Long Hưng (Thái Bình). Khi nghe tin ấy, cả nước đều
muốn tiễn linh cửu người Việt hiền tài này lần cuối cùng. Trước hết, tạm quàn
Nhân Tông ở điện Diên Hiền, khi sắp phát dẫn, đã đến giờ rồi mà quan liêu dân
chúng đứng xem đầy khắp cung điện, ngay cả tể tướng cầm roi xua đuổi mà cũng
không thể giản ra được. Vua cho gọi Trịnh Trọng Tử đến bảo rằng: "Linh cửu
sắp phát dẫn mà dân chúng đầy nghẽn như thế này thì làm thế nào?". Trọng
Tử là người có tiếng là nhiều tài năng trí xảo nhất Thăng Long và cũng rất giỏi
về âm nhạc. Trọng Tử lập tức đến thềm Thiên Trì gọi quan Hải khấu và quan Hổ dực
do Trọng Tử trông coi đến ngồi la liệt ở thềm, sai hát mấy câu hát Long Ngâm. Mọi
người đều ngạc nhiên, kéo nhau đến xem, cung điện mới giãn người, linh cửu mới
rước đi được. Long Ngâm khúc là một lối hát vãn, giọng bi ai, nghe rất cảm động... Suốt mấy ngày ấy từ Thăng Long đến Thái Bình, Long Ngâm khúc của cả nước
theo linh cửu của ngài đến nơi an nghĩ cuối cùng.
Một ngôi sao sáng đã vụt tắt trên bầu trời nước Đại Việt. Mặc
dầu thể xác ông không còn và đã tan thành tro bụi như ông muốn, nhưng hồn ông vẫn
còn trong lòng dân tộc Việt.
Lời bạt:
Trong lịch sử trên thế giới rất hiếm người tài vừa là vua trị
vì vừa là một hiền triết. Văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia,
vừa minh trị an độ nhân dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học
nổi tiếng “Meditations”. Ở phương đông hơn mười hai thế kỷ sau có Trần Nhân
Tông, cũng một minh quân, sáng lập trường phái thiền Trúc Lâm Việt Nam với các
tác phẩm thiền “Khóa Hư lục”(1), “Thiền lâm thiết chủy ngữ lục”, “Tăng già toái
sự” (5) không kém sâu sa.
Thiền Trúc Lâm Yên tử tuy không còn, nhưng dư âm vẫn còn vọng:
cuối thế kỷ 18, Ngô Thì Nhậm mong tái lập lại dòng thiền này với tác phẩm “Trúc
Lâm tông chỉ nguyên thanh”, gần đây chùa Trúc Lâm ở Đà Lạt là một cố gắng mong
muốn khôi phục dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Hoàng thành cổ Thăng Long nay đã được
khám phá, một ngày nào đó tôi hy vọng là điện Diên Hiền sẽ được hồi phục. Người
người sẽ được đến tận nơi vua làm việc, đãi yến, nơi linh cửu vua tạm quàn,
hình dung cảnh quan và tưởng nhớ mùi hương thiền toả ngát sáu trăm năm mươi năm
trước và tưởng tượng trở lại thời vàng son của thiền Việt Nam với minh quân Trần
Nhân Tông. Núi Yên Tử giờ đã có cáp treo, nhưng đi hành hương đường dốc bộ vẫn
là tốt nhất theo dấu chân của Thượng hoàng Nhân Tông.
(1) Theo Thiều Chửu và một số nhà nghiên cứu cho là Trần
Nhân Tông là tác giả “Khóa hư lục” chứ không phải Trần Thái Tông
Tham khảo:
(1) Đại Việt Sử Ký toàn thư, Quyển
5 và 6, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1993
(2) Khuyết danh, Thiền uyển tập
anh, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990
(3) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật
giáo sử luận, http://www.quangduc.com/
(4) Tạ Ngọc Liễn, Vài nhận xét về
Thiền Tông và phái Trúc Lâm - Yên Tử đời Trần, Nghiên cứu Lịch sử, số 4 (175),
tháng 7,8/1977, p. 51-62
(5) Nguyễn Duy Hinh, Yên Tử -
Vua Trần - Trúc Lâm, Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (173), tháng 3,4/1977, p. 10-21.
9/10/2007 Nguyễn Đức Hiệp
9/10/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét