Vài ý kiến trao đổi về niêm luật
của thơ tứ tuyệt đường luật
(Nhân đọc bài “Thơ tứ tuyệt: những đặc trưng thi
pháp thể loại” của PGS.TS Nguyễn Công Lý)
Kiến thức ngày nay số 668 (ra ngày 10/03/2009) có đăng
bài “Thơ tứ tuyệt: những đặc trưng thi pháp thể loại” của PGS.TS Nguyễn
Công Lý. Tác giả đã cung cấp cho bạn đọc những kiến thức cơ bản nhất của thể
thơ tứ tuyệt, đặc biệt là tứ tuyệt Đường luật, loại “hàn lâm” nhất. Để tham gia
dự thi và thưởng thức các tác phẩm trong cuộc thi Tứ tuyệt mở rộng của KTNN, việc
tham khảo những kiến thức này thiết nghĩ cũng là điều cần thiết. Trong bài viết,
tác giả cho biết (dẫn theo nguồn tư liệu từ nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi) thể
thơ tứ tuyệt Đường luật “được cắt (ngắt) ra từ thơ bát cú Đường luật
nên có 5 cách ngắt khác nhau”. Đó là:ngắt 4 câu trên, ngắt 4 câu giữa, ngắt 4
câu dưới, ngắt 2 câu đầu và hai câu cuối, ngắt câu 1 và 2 cùng câu 5 và 6. Phần
bàn về kết cấu và vần của thể thơ này hoàn toàn đáng tin cậy
nhưng phần chỉ dẫn của tác giả dành cho bạn đọc về niêm và luật thì
chúng tôi vẫn thấy rất băn khoăn. Xin được trao đổi cùng tác giả và rất mong
các bậc cao minh chỉ giáo thêm.
Tác giả viết:
“Về niêm, bài tứ tuyệt
Đường luật yêu cầu câu 1 niêm với câu 4; câu 2 niêm vói câu 3, tức các chữ (tiếng)
ở vị trí 2 và 4 (thơ ngũ ngôn) hay 2,4 và 6 (thơ thất ngôn) có thanh bằng hoặc
trắc giống nhau, theo lệ “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ (lục) phân minh” mà
thi pháp thơ Đường luật đòi hỏi.
“Về luật, bài tứ tuyệt Đường luật
cũng yêu cầu luật bằng trắc như bài bát cú Đường luật. Muốn biết bài
thơ viết theo luật trắc hay bằng thì xem chữ (tiếng) thứ 2
của câu một thuộc thanh nào, nếu là thanh trắc thì luật trắc và nếu
là thanh bằng thì luật bằng.”
Để tiện bàn luận, chúng tôi xin
giới thiệu các vị trí cần phải phân minh của thơ ngũ ngôn bát cú và
thất ngôn bát cú Đường luật (theo “Việt Nam văn học sử yếu” – Dương
Quảng Hàm) để bạn đọc tham khảo.
NGŨ NGÔN BÁT CÚ (vần bằng)
Luật bằng ------- Luật
trắc
VỊ TRÍ |
2 |
4 |
VỊ TRÍ |
2 |
4 |
Câu I |
b |
t |
Câu I |
t |
b |
- II |
t |
b |
- II |
b |
t |
- III |
t |
b |
- III |
b |
t |
- IV |
b |
t |
- IV |
t |
b |
- V |
b |
t |
- V |
t |
b |
- VI |
t |
b |
- VI |
b |
t |
- VII |
t |
b |
- VII |
b |
t |
- VIII |
b |
t |
- VIII |
t |
b |
THẤT NGÔN BÁT CÚ (vần bằng)
Luật bằng ------- Luật trắc
VỊ TRÍ |
2 |
4 |
6 |
VỊ TRÍ |
2 |
4 |
6 |
Câu I |
b |
t |
b |
Câu I |
t |
b |
t |
- II |
t |
b |
t |
- II |
b |
t |
b |
- III |
t |
b |
t |
- III |
b |
t |
b |
- IV |
b |
t |
b |
- IV |
t |
b |
t |
- V |
b |
t |
b |
- V |
t |
b |
t |
- VI |
t |
b |
t |
- VI |
b |
t |
b |
- VII |
t |
b |
t |
- VII |
b |
t |
b |
- VIII |
b |
t |
b |
- VIII |
t |
b |
t |
Về hai điểm kể trên chúng tôi xin có ý kiến như sau:
Vì “được cắt (ngắt) ra từ thơ bát cú Đường luật ” nên sự phối thanh của thơ Tứ tuyệt (Đường luật) hoàn toàn do luật phối thanh của thơ bát cú quy định, nó là một dạng “mệnh đề kéo theo”. Do vậy, quan niệm “bài tứ tuyệt Đường luật yêu cầu câu 1 niêm với câu 4; câu 2 niêm vói câu 3” là chưa thỏa đáng vì không hợp logic và cũng không đúng với thực tế. Ta thấy rằng, theo 5 cách ngắt kể trên thì có 4 cách sẽ tạo ra bài tứ tuyệt có câu 1 cùng thanh với câu 4, câu 2 cùng thanh với câu 3 ở các vị trí cần phải phân minh (được “mặc định” khi ta lựa chọn cách ngắt) còn cách “ngắt câu 1 và 2 cùng câu 5 và 6” thì bài tứ tuyệt sẽ có câu 1 giống câu 3 và câu 2 giống câu
4, không thỏa mãn yêu cầu như tác giả viết
Về luật, chúng ta cũng không thể xác định bài tứ tuyệt là luật bằng hay luật trắc thông qua việc “xem chữ (tiếng) thứ 2 của câu một thuộc thanh nào” cũng vì những lý do trên. Xem hai bảng trên ta dễ dàng nhận thấy nếu bài tứ tuyệt ngắt 4 câu giữa của bài bát cú luật bằng thì tiếng thứ hai của câu 1 sẽ mang thanh trắc và nếu ngắt từ bài bát cú luật trắc thì nó sẽ mang thanh bằng. Chưa kể, nếu chấp nhận cách hiểu này thì chúng ta sẽ phải đề ra 10 loại luật thơ tứ tuyệt (ứng với 5 cách ngắt ) rất phức tạp. Theo chúng tôi, chỉ cần xem xét luật thơ tứ tuyệt căn cứ vào luật thơ bát cú sau khi đã chọn cách ngắt là đơn giản và chính xác nhất. Tất cả những ai đã nắm vững luật thơ thất ngôn bát cú đều dễ dàng suy luận.(*) (Khi giới thiệu các bài thơ minh họa cho mỗi loại tứ tuyệt Đường luật, giáo sư Dương Quảng Hàm luôn lưu ý người đọc “so – sánh với biểu thất ngôn bát cú” tương ứng ).
Cuối cùng, xin gửi đến mọi người một thắc mắc phát sinh mà bản thân chưa thể tìm ra lời giải đáp. Trong số 5 bài thơ tác giả Nguyễn Công Lý dùng để minh họa cho 5 cách ngắt để tạo nên bài tứ tuyệt Đường luật thì 4 bài có sự phối thanh ở những vị trí phân minh hoàn toàn chính xác với “biểu thất ngôn bát cú” (đấy cũng là những bài thơ mà giáo sư Dương Quảng Hàm đã dùng trong “Việt Nam văn học sử yếu” ) . Riêng bài “Hạnh An bang phủ” mà tác giả Nguyễn Công Lý dùng làm ví dụ cho loại tứ tuyệt ngắt 4 câu dưới thì chúng tôi thấy hoàn toàn không phù hợp với luật phối thanh của bài ngũ ngôn tứ tuyệt nào.
Hạnh An Bang phủ - Trần Thánh Tông
Triêu du phù vân kiệu
Mộ túc minh nguyệt loan
Hốt nhiên đắc giai thú
Vạn tượng sinh hào đoan
Bài thơ này chẳng những không niêm 1- 4, 2-3 như 4 câu cuối của bài ngũ ngôn bát cú mà ngay cả tương quan B – T, T - B ở các vị trí 2 và 4 trong thơ ngũ ngôn cũng bị bỏ qua.
Phải chăng cha ông chúng ta khi sáng tác theo thể thơ tứ tuyệt Đường luật đã có thể phá cách đến mức chấp nhận “bất luận” hoàn toàn? Vì không đủ khả năng tra cứu trên diện rộng, chúng tôi không thể đưa ra một kết luận nào. Rất mong các nhà nghiên cứu cho ý kiến.
*Về cách ghi nhớ LUẬT PHỐI THANH CỦA THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ tôi đã có bài viết trên website www.thachgiatrang.com/ để tham khảo thêm.
20/3/2009
Nguyễn Đức Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét