Về thôi, Nguyễn Lương Vỵ
Mặc dù thơ cần có nhiều giọng điệu tuy nhiên rượu ngon dù bất
cứ chiếc bình nào vẫn ngon, vẫn nồng thơm. Bình cũ mà rượu mới ấy là trường hợp
thơ của Nguyễn Lương Vỵ. Bạn đọc khó tính không thể quên Nguyễn Lương Vỵ qua ba
tập thơ Âm vang và màu sắc, Phương ý, Ca xang trắng đỏ thuần nhất hơi
cổ phong ý lại lạ mới. Đặc biệt qua thơ, bạn đọc được thông tin có một tâm hồn
hào sảng sống và viết như vậy nên thầm xếp Nguyễn Lương Vỵ vào số ít người làm
thơ hiện đại. Tôi bắt đầu chú ý tới anh từ khi được đọc bài Âm nhạc in
trong Tập san Văn chương.
Miền Nam kể cũng rất lạ, nhất là đất Sài Gòn, từng
thế giới song song phản chiếu nhau mà lại hòa hợp, tương thuận. Vào
năm 1974 chiến sự leo thang, đầu óc mọi người căng thẳng, chưa ai đoán biết được
điều gì. Về mặt văn hóa xã hội, đồng tiền lớn mà giá trị lại nhỏ, quan quyền
thi nhau vơ vét. Báo chí đưa tin. Muốn được trực thăng đến chiến trường cứu
thương cũng phải chung tiền. Vũ trường mở ra khắp nơi, ở miền Tây tỉnh lẻ cũng
có vũ trường. Không hiểu sao các quán nước lúc ấy tràn ngập nhạc Tàu, nhạc Ấn Độ
(bây giờ là Rap và nhạc Thái). Với bầu không khí xô bồ như vậy, Tạp chí
Bách Khoa đứng đắn cũng có bài hướng về thời sự. Ngược lại có nhóm bạn trẻ
lại họp nhau ra Tập san Văn chương, như là họ đang sống trên mây. Mấy tay
nầy ở đâu ra, mãi sau này hỏi mới biết số anh em chủ trương có người là thầy
Sáu xuất thân từ chủng viện, người ở trong chùa ra. Tập San tuy không tuyên bố
nhưng qua những bài tiểu luận cho thấy các tác giả như muốn tiếp tục hành trình
của nhóm Xuân Thu Nhã Tập trước đây với tham vọng đổi mới văn chương
và làm sống lại hồn phương Đông. Thơ khởi thủy là lời, kế đó là âm, hòa âm với
toàn thể. Thơ không vẽ mà thơ là tư tưởng, là cảnh tượng, thiên nhiên như vật tự
chiếu sáng. Phải nhận các bạn trẻ có trình độ, những điều tập san đưa ra cho thấy
các bạn là những người khuynh hướng duy mỹ. Quả nhiên tập san văn chương như là
một cuộc chơi ra được bốn số. Tuy sống ngắn ngủi nhưng tập san cũng đã gây được
một ấn tượng, vẫn có người nhắc nhở và đọc lại. Trong số có bài Âm nhạc của
Nguyễn Lương Vỵ. Nhưng ngay từ đoạn mở đầu bạn đọc ngạc nhiên khi đọc Âm
nhập cốt. Âm binh phiêu hốt tiếng tru - Ta tru một tiếng cho mù mắt. À ơi rượu
đỏ hoàng hôn tắt - Ta dắt hồn ta lúy túy chơi.
Không hiểu tác giả muốn nói gì, nghe ai chơi đàn cung thương
trầm xuống âm vực rào mà âm nhạc lại hóa ra âm binh, sao không là âm dương. Cảm
xúc của Nguyễn Lương Vỵ ở đây thật là kỳ dị bất thường. Nhưng dần dần tôi nhận
thấy rõ đúng là âm nhạc, bản giao hưởng thường có những chỗ rắc rối bí hiểm để
rồi thoát ra ngoài không gian dìu dặt. Bài thơ cũng vậy, từ chỗ hiểm nước suối ở
khe chảy ra bên ngoài róc rách, toàn thể bổng hiện lên.
Van kỷ cung thương còn réo rắt
Còn ta ru mãi quảng đời xanh
À ơi ai hát ngoài phương Bắc
Chờ nhau tinh đẩu sáng lung linh
Núi đá ngân nga chìm giếng lạnh
Sói đầu mây bạc áng thiên tinh
Ô hô quan tái đà xao xuyến
Giọt máu năm xưa bổng hiện hình
Hình ảnh một người chờ một người ra đi vì đại cuộc, hướng về
ánh sao Bắc Đẩu: Người còn sống hay đã chết chưa biết nhưng giọt máu người đi lại
đã tượng hình, tiếp theo bước chân của người. Tác giả thổi một mạch cổ phong,
chữ nghĩa cho dù có tượng trưng, qua bề mặt, bề sâu của ngôn từ tác giả coi như
đã để lộ tâm tư của mình. Lúc đó viết như vậy có thể gọi đó là người có gan.
Tôi không biết gì về Nguyễn Lương Vỵ, qua bài cái tên của tác giả lập
tức được tôi ghi vào bộ nhớ. Và trực giác mách bảo cho tôi biết Nguyễn Lương Vỵ
đích thực là một thi sĩ nhưng vận mệnh đã vận vô câu chữ. Tôi vẫn
chưa biết mình nhận xét đúng hay sai, từ đó bắt đầu dõi theo thơ của anh đăng
trên các báo Thanh niên, Tuổi trẻ, Văn nghệ TP HCM. Giữa bao nhiêu tên tuổi
ồn ào Nguyễn Lương Vỵ như có một cõi riêng, hơi thở cổ phong mà ý lại
mới. Tình cờ gặp thêm bài thơ của Vỵ gởi cho đứa em thật cảm động “E điên
ư? Sao người điên còn giọt lệ. Hay tiếng khóc kia là của đất trời”. Tôi vốn
không giao du, xưa nay chỉ quen hình dung mọi người qua tác phẩm, dù chữ nghĩa
khéo hay là vụng về nhất định vẫn để lộ ra cho biết người đã sống và
viết. Nhưng lần này tôi không dằn được tò mò tìm cách hỏi thăm về Nguyễn Lương
Vỵ. Lúc này mới biết anh là dân Quảng Nam. Cha của anh Huyện Ủy Viên đã hy
sinh. Có hai anh em mà em lại mắc bệnh điên, sống rất khổ rơi xuống sát đáy xã
hội. Sau đó Nguyễn Lương Vỵ là Trưởng phòng văn hóa Thông Tin quận Phú Nhuận cuộc
sống có khá nhưng nội tâm vẫn khổ. Và câu thơ “Ta tru một tiếng cho mù mắt” nhưng
ứng hiện vào con của Nguyễn Lương Vỵ, đứa nhỏ bị bệnh đau mắt. Anh
trời một thật là lạ, muốn được đời nhờ đến thơ nên dồn hết vận xấu vào cho anh.
Năm 95 tôi có dịp lên thành phố Hồ Chí Minh ghé thăm nhà thơ Trần Hữu Dũng. Hai
đứa ngồi trong quán cóc phường Hưng Phú. Bạn nói để gọi Lương Vỵ tới
chơi cho biết mặt để thôi văn kỳ thinh lại không gặp
nhau. Tôi can vì lúc đó đã 7 giờ tối, nghe nói Lương Vỵ cũng ở cách đây khá xa. Trần Hữu Dũng cam đoan nếu Vỵ không bận thế nào cũng tới. Quả nhiên gần tám
giờ Nguyễn Lương Vỵ chạy chiếc xe cũ kỷ đến, cùng đi có nhà thơ Ngô
Nguyên Nghiễm. Mới lần đầu gặp nhau anh em như quen nhau từ lâu lắm. Đến đây
như tôi đã nói Sài Gòn từng thế giới song song phản chiếu mà lại hoà hợp tương
thuận nhau. Có những nhà hàng khách sạn 5 sao, những phòng khách văn nghệ lại
có những nhóm cùng một lứa lên trời lận đận. Đêm ấy bên quán cóc anh em tứ xứ gặp
nhau. Vỵ dân xứ Quảng, Dũng người miền Tây gốc kỹ sư mê làm văn nghệ mà nghèo.
Nghiễm làm thơ chuyển qua hành nghề Đông Y sĩ phòng mạch vắng khách. Nhưng chẳng
ai tỏa ra mình lân đận vẫn giữ cốt cách phong độ vô tư nuôi dưỡng hồn thơ. Đêm ấy
tôi được biết thêm vợ, con của Nguyễn Lương Vỵ đưa người bạn thân còn giúp đỡ
đưa sang Pháp chữa trị, hiện anh đang sống một mình với đứa em bệnh hoạn.
Nguyễn Lương Vỵ, Tôi chỉ mới làm quen chưa đủ tình thân để viết
về anh. Có lẽ anh bực bội vì cuộc đời sao có lắm kẻ tò mò. Nhưng anh chắc cũng
hiểu cuộc sống của nhà thơ nó hoàn toàn khác với người. Nhà thơ rút ruột viết
ra những câu thơ để cho đời, nếu quên thì thôi, đời đã nhớ thì dù anh có đi
đâu, về đâu không người này cũng người kia dõi theo bước chân. Có thể anh cho
đó không được tự do nhưng đó lại là vinh hạnh. Cũng nhờ bạn
bè thông tin nên tôi mới biết anh được vợ bảo lãnh sang Pháp, sau đó
hai người lục đục nhau anh lại bỏ qua Mỹ. Mới đây một nhà văn từ Mỹ về nói
đã gặp anh trong tình cảnh ngồi dựa lưng vào tường, nón che mặt ngủ ngon lành
giữa phố đông người qua. Hỏi ra mới biết Lương Vỵ giờ rất nghèo, hàng ngày đẩy
xe vẽ thư pháp theo đường rao bán. Nghe kế tự nhiên tôi nghe có điều gì đó ngậm
ngùi, chợt nhớ hình ảnh ông đồ trong thơ Vũ Đình Liên, nay hình ảnh đó thật
tréo ngoe khi quan đất Mỹ nền văn hóa hoàn toàn khác biệt. Vỵ ơi cuộc đời là hư
vô, vận số mình là vậy, cuối cùng rồi nổi khổ cũng qua bôn ba chi nữa.
Hiện nay người Việt có mặt khắp nơi trên thế giới, nghe nói tận sa mạc Sahara cũng
có người Việt. Đi xa tha phương cầu thực rồi người cũng quay về, đàng này với
trường hợp của Vỵ cũng nên tìm đường về, mất một nhà thơ thì sẽ không có người
thứ hai, về đi thôi Vỵ ơi.
21/11/2006 Ngô Khắc Tài
21/11/2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét