Ba Bị, Ngáo Ộp bắt nạt trẻ con
Ngày xưa có ông Ba Bị, ông Ngáo Ộp chuyên đi bắt
trẻ con. Cứ nghe tên hai ông là đám tí nhau đã sợ rồi.
Ngày
nay có thằng ông mãnh Covid-19 doạ bắt người lớn. Không biết người lớn
có sợ thằng này hay không?Ờ
nhỉ, tại sao không lợi dụng lúc... mắc dịch, đi tìm ông Ba Bị, ông Ngáo
Ộp, nhờ hai ông đuổi bắt thằng Covid-19, đập cho chết nhăn răng?Khốn
nỗi chưa biết hai ông Ba Bị, Ngáo Ộp là thần thánh hay ma quỷ
thì tìm bằng cách nào? Phải mời nhà ngoại cảm, thỉnh bà đồng hay rước đệ tử của
Thái Thượng Lão Quân nhờ tìm giùm? May mắn có người khuyên không cần phải vàng
nhang, chiêng trống, chỉ thành tâm niệm câu thần chú "Úm ba la, lật Tự
điển ra, tra gần tra xa, cho ra manh mối, nguồn cội các ông" là
xong.- Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của
và Dictionnaire Annamite - Français (1898) của J.F.
Génibrel không có hai nhân vật Ba Bị và Ngáo Ộp.- Việt
Nam tự điển (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức định nghĩa Ba bị là
giống quái lạ người ta bịa ra để doạ trẻ con: Ba bị chín quai, mười hai
con mắt. Nghĩa bóng là tồi tàn, xấu xí: Đồ ba bị.Ngoáo (hay Ngáo)
là Vật tưởng tượng, đặt ra để dọa trẻ con.-
Tự điển Việt Hoa Pháp (1937) của Gustave Hue có Ông ba bị chín quai là
một ông già đeo ba cái bị có chín cái quai. Ông ba bị tiếng
Pháp là Ogre, croquemitaine.Ngáo
ộp (croquemitaine) là vật để dọa trẻ con. Hãi như trẻ con trông thấy
ngáo ộp. Làm ông ngáo nạt người. Mặt như mặt ngáo.- Tự
điển Việt Nam (1971) của Ban tu thư Khai Trí định nghĩa Ba bị là
một thứ ông kẹ bịa đặt để doạ con nít. Ba bị chín quai, ba bị y
hà là một thứ ba bị.Ngoáo là
Vật tưởng tượng đặt ra để dọa trẻ con. Ngoáo ộp là ngoáo lớn. Ông
Kẹ là kẻ hung dữ, đáng sợ: Mấy ông kẹ ở nhà quê.(Ông
Kẹ, được Tự vị Huỳnh Tịnh Của giải thích: Tưởng là ông Trị, là người
có công dày với đức Cao Hoàng, đến khi phục quấc, người ban cho một cái bài miễn
tử; bổn tánh ông ấy thật thà, hay khi bất bình, ai nấy đều sợ, cho nên có tiếng
nhát con nít rằng: ý hà ông kẹ!).- Từ
điển tiếng Việt (1988) của Hoàng Phê cũng định nghĩa Ba bị là
tên gọi một người có hình thù quái dị bịa ra để dọa trẻ con. Ba bị còn
có nghĩa là Xấu xí, tồi tàn. Thiếu nhân cách, lăng nhăng, chẳng ra gì. Anh
chàng ba bị. Đồ ba bị.Ngoáo
ộp là tên gọi một quái vật bịa ra để dọa trẻ con; thường dùng để ví
vật đưa ra để dọa dẫm, uy hiếp tinh thần. Con ngoáo ộp. Lấy vũ khí hạt
nhân làm ngoáo ộp dọa mọi người.-
Bộ tranh Oger (1908) có hai tấm Ông Ba Bị và Ngáo Ộp dọa trẻ. Ông
Ba Bị râu xồm, đeo ba cái bị đựng trẻ con. Ông Ngáo Ộp mặt mũi
méo xệch, xấu xí.Mấy
tài liệu kể trên cho thấy:Ba
Bị và Ngáo Ộp xuất hiện trên giấy trắng mực đen năm 1908.
Hai nhân vật này là Vật tưởng tượng để dọa trẻ con.Theo
Gustave Hue thì Ba Bị nghĩa là ba cái bị. Ba Bị, Ngáo Ộp của
tiếng Việt là Ogre, Croquemitaine của tiếng Pháp.(Từ
điển Robert giải thích rằng Ogre, Ogresse (giống cái) có
nguồn gốc từ tên hung thần Orcus của thần thoại La Mã.Trong
các truyện thần tiên, Ogre là một ông khổng lồ, mặt mày xấu xí khủng
khiếp, thích ăn thịt tươi, khoái nhậu... thịt người).Giải
thích của Gustave Hue mới lạ, sẽ được tìm hiểu sâu hơn ở phần sau.
|
Ông Ba Bị |
Ngáo Ộp dọa trẻ |
Gấp Tự điển lại. Mở đống sách ra...
Ngáo
Ộp của trẻ con
Trò
chơi Ngáo Ộp dọa trẻ của Tranh Oger (1908) vẽ một người lớn
làm Ngáo Ộp dọa trẻ con.
Vào
khoảng năm 1950, trẻ con Hà Nội còn chơi trò Ngáo Ộp. Hò hét vui nhộn.
Không cần phải đuổi bắt nhau. Chỉ cần cho mấy ngón tay vào miệng, cố kéo cho lệch
sang bên phải, méo sang bên trái. Hai ngón tay trỏ kéo vành mắt xuống. Tròng mắt
trợn ngược. Mặt mũi càng xấu càng hay. Mục đích của trò chơi là dọa nhau. Càng
sợ càng vui.
Tiếc
rằng chẳng cha mẹ nào ưa trò chơi Ngáo Ộp. Vì thiếu vệ sinh. Người lớn
sao mà khó tính thế! Có lẽ vì vậy mà Ngáo Ộp bị chết yểu.
Sách
biên khảo về Trò chơi của trẻ con Việt Nam (1943) của Ngô Quý
Sơn không có trò chơi Ngáo Ộp.
Ba
Bị của người lớn
Người
lớn có nhiều ông Ba Bị. Mỗi ông một vẻ.
-
Ông Ba Bị của lịch sử:
Sách Việt
Nam ngoại giao sử cận đại của Ưng Trình thuật lại sự nghiệp của các chúa
Nguyễn tại Đường trong, có đoạn:
(...)
Nguyễn Hoàng có chiến công, có tước Hạ Khê Hầu, sợ bị ám sát như anh, theo lời
dự ngôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung
thân", mới nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm điều đình với chồng, cho đi
cai trị một xứ dân Chàm; thành thử, được vào Ô châu làm Trấn thủ.
Đến
Nguyễn Phúc Hoạc là đời thứ tám, trong khoảng 170 năm, nhà Nguyễn Phúc đã có thổ
vũ từ Hoành Sơn đến Hà Tiên: còn dân chúng là cháu chắt của những trẻ
em, năm xưa (Mậu Ngọ) ngồi trên vai mấy "ông ba bị".
Chú
thích:
- Ba
bị: theo dã sử thì những tay hào kiệt, bị Trịnh Kiểm nghi kỵ,
đều đi theo Nguyễn Hoàng vào khai thác Ô châu, mỗi người có
mang ba cái bị trên vai, trong hai bị, ngồi hai trẻ em, còn một bị là
chứa đồ lương thực. Đến đâu cũng nghe tiếng khóc trong bị, người ta đồn rằng
"các ông ba bị, đi bắt trẻ em". Sau người ta dọa trẻ em thì cứ
nói: ông ba bị [1].
(Năm
Mậu Ngọ là năm 1558, Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ Ô châu. Nguyễn Phúc Hoạc
chính sử chép là Nguyễn Phúc Khoát (còn có danh hiệu là Võ Vương), cai trị từ
năm 1738 đến 1765).
Ba
Bị có nghĩa là ba cái bị. Ông Ba Bị có từ thời Nguyễn Hoàng.
Dã
sử kể chuyện khá hấp dẫn nhưng chỉ nên... nghe cho vui rồi bỏ. Khó tưởng tượng
được cảnh một đoàn người, mỗi người vai mang ba cái bị, hai cái đựng con nít, một
cái chứa lương thực... Trẻ con hơi bị nhiều. Nhiều bị quá. Ông bố nào cũng to lớn,
khỏe như Lê Phụng Hiểu ném đao của ta hay Hạng Võ cử đỉnh của Tàu.
Dân
ta từ xưa quen gồng gánh. Gánh gạo, gánh rau, gánh hàng... Đôi khi không còn đồ
để gánh thì vui vẻ gánh con.
Chuyện
các ông Ba Bị đeo trẻ con trên vai thời Nguyễn Hoàng khó tin.
-
Ông Ba Bị của Phật giáo:
Sách Việt
Nam Phật giáo sử lược của Thượng tọa Mật Thể kể chuyện Trung Đình hòa thượng:
Ngài
không biết người ở đâu, tên gì, vì thường trú ở trong đình, nên người ta gọi
tên ấy. Ngài thường đi khất thực các làng, trong mình thường đeo ba cái bị. Một
cái nếu ai cho cá thịt gì cũng lấy bỏ vào đó rồi cho kẻ ăn xin khác; một
cái đựng món ăn chay ngài dùng; còn một cái lớn để không, hễ tới đâu thì
ngài treo lên mái đình mà ngồi vào. Đêm thì trì tụng, ngày thì lang thang khắp
nơi, trông hình dung nhớp nhúa, tóc xù, áo quần không có phải đóng khố, trẻ con
trông thấy đều sợ hãi (cái danh từ "ông ba bị" để dọa trẻ con có từ
thời ấy, khoảng đời chúa Nguyễn Phúc Thuần 1765-1777).
Khi
tu hành đã đắc đạo, ngài tâu xin lập hoả đàn ở chùa Thiên Mụ, bố cáo cho thiên
hạ biết. Khi mọi người xin ngài lưu lại cho một chút di thể, thì ngài đưa lên một
ngón tay. Khi đốt lửa bốc theo gió lệch cái mũ Quan Âm của ngài đội do vua ban,
ngài lấy tay sửa lại, miệng luôn luôn tụng kinh. Người đi xem đông như kiến,
giành nhau lấy trầm hương liệng vào hoả đàn. Thiêu xong, quả nhiên còn một ngón
tay không cháy. Người ta nhặt tro ấy xây tháp thờ ở bên chùa Thiên Mụ [2].
Ông
Ba Bị Trung đình hòa thượng đeo ba cái bị, có hình dung nhớp nhúa,
tóc xù,áo quần không có phải đóng khố. Ông sống vào thời chúa Nguyễn Phúc
Thuần.
-
Ông Ba Bị của văn học:
Hai
hạp, ba chủ, một lũ nhà tơ, ngồi chờ quan lớn
Ba
bị chín quai, mười hai con mắt, vào bắt trẻ con
-
Theo sách Thơ văn Nguyễn Công Trứ (1958) của Lê Thước, Hoàng Ngọc
Phách, Trương Chính thì Nguyễn Công Trứ là tác giả vế trên của câu đối:
Hai
hạp ba thủ, một lũ nhà tơ ngồi chờ quan lớn
Ba
bị chín quai, mười hai con mắt, hay bắt trẻ con.
.jpg)




.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét