Rắn trong nghệ thuật điêu khắc
và kiến trúc Việt Nam
Nhắc đến rắn, chúng ta có thể hình dung ra một loại động vật
bò sát có máu lạnh với những nét uốn lượn mềm mại khi chúng di chuyển. Mỗi khi
nghe tới rắn, tôi lại rùng mình, thường có một cảm giác lạnh gáy chạy từ sau ót
xuống sống lưng. Nhìn thấy rắn trên truyền hình, trong nơi nhốt thú ở những thảo
cầm viên, tôi nhắm tít mắt không dám xem, tức là tôi rất sợ rắn. Tuy nhiên đâu
phải sợ là không gặp, hoặc không có cơ hội được thấy, nhất là ở miền nam Việt
Nam nơi tôi sinh trưởng và lớn lên, có rất nhiều rắn. Nơi khí hậu nhiệt đới mưa
nhiều khiến rừng rậm và ao hồ bao phủ những mảnh đất ẩm rêu, tạo cơ hội cho côn
trùng và nhiều loài bò sát sinh sôi nẩy nở. Bắt rắn, ăn rắn, làm thuốc rắn, rượu
rắn, cao rắn, kể chuyện về rắn, tất cả những điều này đã trở thành một nét văn
hoá sâu đậm trong đời sống của người bình dân Việt Nam.
Miền Bắc còn độc đáo hơn, có nguyên một làng "chuyên trị
rắn", nghĩa là mọi hoạt động sinh sống, văn hoá nghệ thuật đều quay quanh
con vật này. Làng Lệ Mật là một làng sầm uất, vừa cổ kính vừa hiện đại có rất
nhiều người thợ, nhiều dòng họ giỏi việc bắt rắn. Họ còn nuôi rắn, buôn bán, mở
nhà hàng đặc sản và kinh doanh những sản phẩm về rắn. Con rắn đã trở thành biểu
tượng của làng trong những giao dịch về rắn của toàn miền Bắc, Việt Nam và trên
thế giới.
Hơn thế nữa Việt Nam là một nước nông nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều đạo giáo
khác nhau mà trong đó tín ngưỡng thờ vật linh giáo là một trong những cổ tục.
Người dân ngày xưa đã coi rắn như vật tổ và tục thờ rắn khá phổ biến ở nước ta
và các vùng cư - dân nông nghiệp Đông Nam Á.
Do đó hình tượng rắn được nhắc đến không những trong nét văn
hoá dân gian Việt, mà còn được, chạm trổ, sao chép, vẽ hay trang trí trên các bức
phù điêu và kiến trúc cổ của đền, miếu, chùa chiền hay những nơi thờ phụng linh
thiêng. Nhưng so với các con vật thường được dùng trang trí trong kiến trúc cổ
như rồng, lân, ly, quy, phượng thì rắn ít được sử dụng hơn.
Rắn thời Lý miền Bắc
Trong mỹ thuật điêu khắc, rồng và rắn không phải lúc nào cũng
được phân biệt rành rọt. Đôi khi nó bị biến dạng như con rồng chạm trổ trên các
đồ đồng Đông Sơn mang hình con rắn nước, miệng há, đang chờ chim thiêng lao
vào. Vào đời Lý, chúng ta hay nghe thành ngữ "rồng, rắn lên mây" nên
con rồng chúng ta thấy trên các mái đình, chùa, thời Lý - Trần mang hình dạng rắn
gọi là rồng rắn. Đầu của chúng là đầu rồng nhưng thân hình tròn lẳn và dài, mượn
của rắn. Rồng nhỏ thì mình trơn, Rồng lớn, lưng có một hàng vây thấp nhỏ liền mạch
và đều đặn như riềm lá cờ đuôi nheo. Đặc trưng nổi bật của rồng Lý là thân uốn
khúc hình sin uyển chuyển, mềm mại, thanh thoát vút nhỏ dần về phía đuôi. Cách
uốn lượn mềm mại của thân rắn khiến ta liên tưởng đến dải mây lụa phơi phới bay
trong làn gió xuân hay vũ điệu của sóng nước ngoài khơi. Phổ biến là loại
rồng 11 -12 khúc uốn nhưng cũng một số con có tới 17 - 19 khúc uốn như một
số mẫu rồng ở tháp Chương Sơn (Ý Yên - Nam Định), chùa Phật Tích (Tiên Du - Bắc
Ninh), bia Quỳnh Lâm (Đông Triều - Quảng Ninh), bia Long Đọi (Duy Tiên -
Hà Nam).
Như vậy con rắn thời Lý lại chính là con rồng vậy.Hình 1- Phù điêu Rồng, Rắn thời Lý tại chùa Phật TíchVới văn hóa dân gian, rồng, rắn là hai phạm trù, hai khái niệm
phản ánh những mối quan hệ tình cảm của con người trong gia đình, xã hội. Chẳng
hạn: "Vóc rồng thì để phần vua, bao nhiêu vải rắn thì lừa cho dân"
"Lấy chồng thì phải theo chồng, chồng đi hang rắn hang rồng cũng
theo".
Ngày xưa người dân đã thờ thần rắn trong miếu Xà Thần tại Bắc
Ninh trong đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh (xã Đông Cứu, huyện Gia Bình), căn cứ
theo một số mảnh tượng có dạng rồng/ rắn đào được tại khu vực xung quanh di
tích. Ở các thời gian khác nhau, người ta đã khai quật một khối tượng với nghệ
thuật tạo hình rất độc đáo và hiếm thấy. Tượng có bộ mặt một con rắn hổ mang cỡ
lớn, thân có vẩy, cuộn xiết trong tư thế vật vã, miệng cắn chặt đuôi, các móng
quắp lấy thân đau đớn, đôi mắt như nhòa đi. Khối tượng này gồm những mảnh tượng
với chất liệu bằng đá cát do các chuyên gia khảo cổ tìm được. Sau khi phân tích
kết cấu pho tượng Xà thần và các truyền thuyết từ địa phương, có nhiều câu hỏi
và các phỏng đoán được dấy lên. Đây là tượng rồng hay tượng rắn thần? Tượng được
tạc vào thời nào? Lý Trần hay Hậu Lê? Do ai tạc? Tượng là hóa thân của vị Thái
sư bị khép án oan hay là lời ngầm trách móc vua Lý Thánh Tông vì nghe lời xiểm
nịnh mà tự "ăn thịt" bề tôi của mình?.Hình 2- Khối tượng Thần Xà khai quật tại Bắc NinhRắn trong chùa chiền, đền thờ ở Miền Trung, Nam.
Đi sâu vào lịch sử, trong quá trình dựng nước và mở mang bờ
cõi của nước ta, Chiêm Thành (Chămpa) đã được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam.
Văn hóa Chăm nghiễm nhiên được xem là một phần văn hóa của dân tộc Việt. Những
đền đài, chùa chiền phế tích còn lưu lại đến ngày nay cho thấy hầu hết các tộc
người Chăm chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ và thờ thần rắn Naga. Người Chăm xem rắn
Naga là biểu tượng cho tôn giáo, tượng trưng cho thần Siva tối cao nắm giữ
trong tay sự sáng tạo, hủy diệt và tái sinh.
Thần rắn Naga được chạm trổ nơi Tháp Đôi, ở Đống Đa, Quy
Nhơn, Bình Định. Tháp Ðôi còn có tên là tháp Hưng Thạnh, được xếp vào một trong
những tháp đẹp "độc nhất vô nhị" của nghệ thuật kiến trúc
Champa vào cuối thế kỷ 12. Công trình kiến trúc độc đáo này gồm 2 tháp nằm
cạnh nhau theo trục Bắc - Nam trong đó tháp Bắc cao 20m và tháp Nam cao 18m. Bởi
hai tháp đứng gần như song song với nhau nên được gọi là Tháp Đôi. Cả hai ngôi
tháp đều không phải là tháp vuông nhiều tầng theo truyền thống của tháp Champa
cổ được xây dựng mà được tạo thành gồm hai phần chính: khối thân vuông và phần
mái tháp mặt cong. Ở bốn góc của các tầng mái còn được tô điểm các hình rắn
Naga 5 đầu.
Trong số những phiến đá đó, đáng chú ý có một bức chạm khắc
mà đề tài trang trí là hình một con khỉ và rắn. Bức phù điêu này là một phiến
đá sa thạch màu xanh xám, hình chữ nhật, chiều dài 80cm; rộng 40cm; bề dày phiến
đá đoạn lớn nhất 18cm, đoạn nhỏ nhất 10cm. Phần chạm khắc thể hiện trên một mặt
phẳng của phiến đá. Đề tài trang trí thực hiện chỉ mới một đoạn bề mặt của phiến
đá khoảng chừng 40cm, phần kia để trơn chưa được chạm khắc. Nhìn vào phù điêu
này ta có thể nhận biết đây là một tác phẩm đang được chạm khắc dở dang. Phần
trang trí là hình một con khỉ đang trong tư thế bay trên không trung, vừa vọt
ra khỏi từ miệng rắn. Chú khỉ hai tay dang ra, hai chân đang phóng về phía trước,
đầu ngoảnh lại phía sau nhìn rắn, chiếc đuôi chưa lọt ra khỏi miệng rắn. Mồm rắn
há rộng, nhe hai hàm răng và đang trong tư thế tấn công khỉ trông rất dữ tợn. Với
hình tượng trên, chúng ta có thể nhận biết đề tài thể hiện là cuộc giao chiến
ác liệt giữa khỉ Hanuman với rắn Surasa trong một câu chuyện của thần thoại Ấn
Độ.Hình 3- Phù điêu khỉ và rắnNaga, theo tiếng Phạn, có nghĩa là rắn hổ mang - chúa tể của
loài rắn - với những chiếc răng sắc nhọn mà dù là con voi to lớn bị cắn phải
cũng sẽ trở nên bất động và chờ tử thần đến đưa đi.
Trong các kinh Phật, chúng ta thường nghe nói đến 4 chữ Thiên
Long Bát Bộ. Là 8 loại chúng sanh nguyện phát tâm bảo vệ chánh pháp, hộ trì Tam
Bảo, mà rắn là một bộ môn trong bát bộ, vì cũng biết nghe kinh, thính pháp, tu
tập hành trì, nên tâm linh thăng tiến. Và qua một thời kỳ tu tập lâu dài vài
nghìn năm, cũng có thể tiến hóa từ ngoại vật, súc sanh đến quả vị loài người,
và từ cõi người lên các cõi chư thiên, hay các vị giác ngộ và thành Phật. Ngày
trước, khi đức Thích Ca đang tu khổ hạnh, ngồi dưới cội Bồ Đề, trong dãy Tuyết
Sơn, có nhiều ngày bị mưa lũ hoành hành các thần rắn đến quấn quanh mình đức Phật,
dùng 7 đầu xòe ra che cho Phật khỏi bị ướt, cũng như trong các chuyện Tàu, các
mỹ nữ Thanh Xà, Bạch Xà cũng là các con rắn tu lâu năm, Đắc Kỷ hay Nguyệt Cô đều
do những con hồ ly tu lâu năm thành người v.v…
Một câu chuyện truyền thuyết khác lại kể rằng, rắn Naga chính
là vị thần Hộ pháp (Dvarapala) canh giữ viên ngọc của mọi điều ước, viên ngọc ấy
cũng tượng trưng cho Tam Bảo của nhà Phật (Buddha: Phật; Dahma: Pháp, Sangha:
Tăng). Trong tập Bổn Sanh Kinh (Jataka) cũng có những câu chuyện kể về tiền kiếp
của Đức Phật Gautama (Cồ Đàm) trong kiếp hóa thân của một con rắn Naga. Song có
lẽ câu chuyện nổi tiếng nhất có ảnh hưởng sâu đậm trong nghệ thuật điêu khắc và
kiến trúc cổ là câu chuyện về Đức Phật tọa thiền trên mình rắn Naga. Hình tượng
rắn Naga bảo vệ cho Đức Phật tọa thiền là loại đề tài quen thuộc trong Phật
giáo Nam tông.
Các kiến trúc sư thời đó đã kiến tạo nhiều chiếc cầu vồng có
hình rắn Naga trên nóc các ngôi chùa, đền cổ, tại các nước Á Châu như Ấn Độ,
Lào, Cam Bốt, Chiêm Thành, Thái Lan v.v... vì nó tượng trưng cho chiếc cầu nối
liền giữa cõi trần gian và Niết Bàn. Chúng ta còn thấy rắn Naga ngự trên các
mái, các đầu đao, hoặc chạm trổ bằng xà cừ uốn lượn quấn quanh những cánh cửa
chùa, trên những chiếc tủ đựng kinh sách, mục đích để xua đuổi tà ma và bảo vệ
đạo Phật.
Nói tới văn hoá đồng bằng sông Cửu Long là nói tới các miền
Tiền Giang, là nơi có di tích khảo cổ học thời Óc Eo, di tích lịch sử Rạch Gầm,
Soài Mút thời Nguyễn Huệ và ngày nay có trại rắn Đồng Tâm lớn nhất nước.
Thắng cảnh của tỉnh An Giang, Chùa Hang, tọa lạc nơi triền núi Sam (Vĩnh Tế
Sơn), Châu Đốc là một Di tích Lịch sử cấp quốc gia tại Việt Nam. Phước Điền tự
(chùa Hang) được biết đến như là một nơi trang nghiêm cổ kính với nhiều huyền
thoại, truyền tụng từ đời này sang đời khác, tạo sức hấp dẫn du khách có tính
hiếu kỳ. Chùa được xây dựng vào khoảng năm 1840-1845, với tượng Bạch xà, Thanh
xà, đã trở thành một điểm tham quan hấp dẫn đối với khách du lịch.Hình 4-Tượng Thanh xà, Bạch xà chùa HangChâu Đốc còn nổi tiếng với Miễu Bà Chúa Sứ và chùa Tây An.
Chùa Tây An còn được gọi Chùa Tây An núi Sam hay Tây An cổ tự, là một ngôi chùa
phật giáo tọa lạc tại ngã ba, cận kề chân núi Sam. Chùa cất theo lối chữ
"tam", mang phong cách nghệ thuật Ấn Độ và nghệ thuật Hồi giáo, kết hợp
với kiến trúc chùa cổ của dân tộc Việt. Chúng ta thấy thần rắn Naga 7 đầu được
trang trí như một hình thức che chở cho đức Phật.Hình 5-chùa cổ Tây An với thần rắn Naga 7 đầuNgười ta cũng tìm thấy rắn Naga ở trong các ngôi chùa Khmer ở
vùng Tây Nam Bộ như chùa Kh’Leang là ngôi chùa cổ nhất ở Sóc Trăng Trà Vinh
(nơi có đông đông bào Khmer sinh sống), cũng như chùa Xiêm Cán ở Bạc
Liêu.
Nói tóm lại, quan hệ của rắn với người dân Việt không những thể hiện trong những
điều thực tế qua các món ăn và sản phẩm từ rắn mà còn bàng bạc trong những
pho truyện cổ, những huyền thoại, truyền thuyết được lưu lại bao đời trên các
tác phẩm điêu khắc và kiến trúc. Hình tượng rắn trong kho tàng truyện cổ dân
gian cũng rất phong phú như các truyền thuyết về rồng vậy. Tuy nhiên có một sự
khác biệt trong các mô típ điêu khắc và kiến trúc là, rắn Naga chỉ xuất hiện
như một linh vật bảo vệ cho tôn giáo, còn con rồng lại biểu tượng cho quyền lực
thế tục của hoàng đế Việt Nam và Trung Hoa.
Tài liệu tham khảo:
- Dấu vết của một pho tượng rắn khổng lồ?
http://www.thanhnien.com.vn/.
- Làng rắn và lễ hội Lệ Mật
http://hanoi.dantri.com.vn/.
Trịnh Thanh Thủy
Trịnh Thanh Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét