Các nhà văn tiền chiến 1
1. Thạch Lam (1909 - 1942)
Tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân,
sinh năm 1909. Quê nội làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê ngoại Cẩm Giàng, Hải
Dương. Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình ở quê ngoại, sau đó theo cha chuyển
sang Thái Bình tiếp tục bậc tiểu học. Lớn lên, ông cùng gia đình chuyển ra Hà Nội,
học trường Canh nông, rồi trường Trung học Albert Saraut.Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ 1932, thành viên của Tự
lực văn đoàn. Ông tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hóa, Ngày nay. Thạch
Lam mất vì bệnh lao năm 1942 tại Hà Nội.Tác phẩm chính: Các tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937), Nắng
trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), tiểu thuyết Ngày mới (1939), tập tiểu luận
Theo dòng (1941), tập bút ký Hà Nội băm sáu phố phường (1943).
Trong bài giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản trước
cách mạng tháng Tám, Thạch Lam viết:
"Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến
cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới
giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú
hơn".
Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên như là "Tuyên ngôn văn
học" của Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch
Lam, hầu như không một trang viết nào lại không thắm đượm tinh thần đó. Là
thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, được coi là một trong những cây bút chính
của nhóm ấy, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chảy riêng biệt một giòng.
Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa,
những mơ ước thoát ly mang mầu sắc cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước
sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch
Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội
đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng
quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết
đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng... Trong
khung cảnh ấy, các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số
kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, người đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ
Đoàn Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây
hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê
quen thuộc trong buổi hoàng hôn... Tất cả những cảnh, những người ấy đều được
mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực. Thạch
Lam không hề gắn cho nhân vật của mình những hành động, những ý nghĩ khả dĩ có
thể làm bi thảm thêm cuộc đời của họ. Trái lại ông cũng không như một số nhà văn
lúc ấy vẫn thường khoác lên cảnh vật hoặc nhân vật thứ "ánh trăng lừa dối" như nhà văn Nam Cao đã từng nhận xét.
Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy
nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị
Dậu của Ngô Tất Tố... Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là
ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật
Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái
Việt Nam. Mẹ Lê nghèo khổ đến cùng cực nhưng vẫn nguyên vẹn là một bà mẹ cần
cù, chăm chỉ chịu thương chịu khó, hết lòng vì đàn con. Liên và Huệ hai cô gái
điếm, hai con người tưởng như vất đi ấy, trong đêm giao thừa ngồi khóc vì nỗi
trơ trọi, thiếu quê hương và chán chường cho cảnh bèo bọt của thân phận mình.
Thạch Lam đôi khi còn đặt nhân vật của mình vào vùng ranh giới tranh chấp giữa
cái thiện và cái ác, để rồi tự bản thân con người bằng việc thức tỉnh của lương
tri, của phẩm giá xác lập chỗ đứng tốt đẹp cho mình trong cuộc sống đầy bùn nhơ
của xã hội cũ. Đó là trường hợp của nhân vật Thanh trong truyện ngắn Một cơn giận
hoặc Thành trong truyện ngắn Sợi tóc.
Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người, quý
trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút
tốt đẹp trong mỗi một con người.
Sống rất ngắn ngủi (sinh năm 1909, mất năm 1942), Thạch Lam
viết chưa nhiều. Một truyện dài: Ngày mới; một tập tiểu luận: Theo
giòng; hai cuốn truyện cho thiếu nhi: Cuốn sách và Hạt ngọc; một
tập ký: Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Phần quan trọng nhất, ba tập truyện
ngắn: Nắng trong vườn, Gió đầu mùa, Sợi tóc. (...)
Trích Lời Nhà Xuất Bản tập truyện Gió đầu mùa, Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội 1982
2. Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977)
Sinh 1903, tại Xuân Cầu, Nghĩa Trụ, Văn Giang tỉnh Bắc Ninh,
nay là tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình Nho học, mất năm 1977 tại Hà Nội.
Nguyễn Công Hoan viết văn từ năm 17 tuổi, năm 20 tuổi xuất bản
tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan, và năm 32 tuổi (1935), nổi tiếng với tập truyện
ngắn Kép Tư Bền.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan khá đồ sộ với hàng
trăm truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết. Các tác phẩm của ông đã được tái bản
nhiều lần và hiện được chọn lại trong bộ Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập,
Nxb. Văn học, 1983 - 1986).
3. Hoàng Đạo (1907 - 1948)
Sinh 1907, tên thật Nguyễn Tường Long. Quê Quảng Nam, sinh ở
phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.Em của nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và là anh của nhà
văn Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân).Năm 1927, làm tham tán Ngân khố Hà Nội. Năm 1929, đỗ tú tài
Pháp, làm tham tán lục sự tại các tòa án. Năm 1932, làm viên chức và tham gia
viết bài cho báo Phong Hóa, là một trong những nhà văn đầu tiên tham gia Tự lực
văn đoàn. Năm 1948 bị bệnh chết tại Quảng Châu.Các tác phẩm chính: Trước vành móng ngựa (1938), Bùn lầy nước
đọng (1939), Mười điều tâm niệm (1939), Con đường sáng (1940), Tiếng đàn (Nxb.
Đời nay, Hà Nội 1941).
4. Khái Hưng (1896 - 1947)
Tên thật Trần Khánh Dư. Sinh năm 1896; chết năm 1947. Quê gốc
Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Học trường tư thục Thăng Long (Hà Nội). Năm
1932 cùng Nhất Linh mở tuần báo Phong hóa. Năm 1933 cùng Nhất Linh thành lập Tự
lực văn đoàn. Tiểu thuyết đầu tay: Hồn bướm mơ tiên (1932). Thập niên 40 có hoạt
động chính trị, thành viên của đảng Đại Việt dân chính thân Nhật, bị Pháp bắt
giam. Tháng 3-1945 được thả. Sau cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách ra báo Ngày
nay kỷ nguyên mới.
Tác phẩm chính: tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên (1933), Đời
mưa gió (viết chung với Nhất Linh, 1933), Trống mái (1936), Gia đình (1936),
Tiêu Sơn tráng sĩ (tiểu thuyết lịch sử - 1937 - 2 tập), Thoát ly (1938), Hạnh
(1938), Thừa tự (1938), Đẹp (1940), Thanh Đức (1942)...
Các tập truyện ngắn: Anh phải sống (viết chung với Khái
Hưng - Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1934), Tiếng suối reo (Nxb Đời nay, Hà Nội, 1935),
Đợi chờ (Nxb Đời nay, Hà Nội, 1940), Cái Ve (Nxb Đời nay, Hà Nội, 1944).
|
|
5. Nhất Linh (1906 - 1963)
Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh 1906, mất 1963.
Quê quán Quảng Nam, nhưng sinh ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Năm 1932, cùng Khái Hưng
ra báo Phong Hóa, làm giám đốc và viết bài cho đến 1935. Năm 1933, cùng một số
nhà văn khác thành lập Tự lực văn đoàn. Sau khi Phong Hóa bị đóng cửa, ông ra
tiếp báo Ngày Nay. Sau 1951, thành lập Nhà xuất bản Phượng Giang, ra tạp chí
Văn Hóa ngày nay ở Sài Gòn. Năm 1963, ông đã tự tử trong cuộc dấu tranh chống
chế độ ông Ngô Đình Diệm.Nhất Linh viết khá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng
truyện ngắn, đã in Người quay tơ (Đời nay, H. 1927), Anh phải sống (Đời nay, H.
1934), Hai vẻ đẹp (Đời nay, H. 1934), Hai buổi chiều vàng (Đời nay, H. 1937), Mối
tình câm (S. 1961), Thương chồng (S. 1961).
6. Xuân Diệu (1917 - 1985)
Tên thật Ngô Xuân Diệu, sinh năm 1917 tại Bình Định. Quê
quán: Can Lộc, Hà Tĩnh. Mất năm 1985 tại Hà Nội. Sau khi đậu tú tài 1940, Xuân
Diệu làm viên chức ở Mỹ Tho. Năm 1943 thôi việc ra Hà Nội. Năm 1944 tham gia
phong trào Việt Minh.
Tác phẩm chính đã xuất bản:
Thơ: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn Quốc kỳ
(1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới sao vàng (1949), Riêng chung (1960), Mũi
Cà Mau - Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi giầu
đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976), Thanh ca (1982).
Văn xuôi: Phấn thông vàng (1939, 1967), Trường ca (1945,
1957), Miền Nam nước Việt (1945), Việt Nam nghìn dặm (1946), Việt Nam trở dạ
(1948), Triều lên (1958)...
Tiểu luận phê bình: Thanh niên với quốc văn (1945), Những bước
đường tư tưởng của tôi (1958), Dao có mài mới sắc (1963), Và cây đời mãi mãi
xanh tươi (1971), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ
cổ điển Việt Nam (tập I, II, 1981 - 1982), Công việc làm thơ (1984). Ngoài ra
còn một số tác phẩm dịch và giới thiệu những nhà thơ nước ngoài.
|
7. Thế Lữ (1907 - 1989)
Tên thật Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại Hà Nội. Quê quán:
làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), Bắc Ninh. Mất năm 1989. Thuở nhỏ,
Thế Lữ học ở Hải Phòng. Năm 1929 học xong Thành chung, ông vào trường Cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1932 tham gia Tự lực văn đoàn, là một cây bút chủ lực
của báo Phong hóa, Ngày nay. Ông làm thơ, viết truyện ngắn, tiểu thuyết trinh
thám và hoạt động sân khấu.
Tác phẩm chính: Vàng và máu (truyện vừa, 1934), Mấy vần
thơ (thơ, 1935), Bên đường Thiên lôi (truyện ngắn, 1936), Lê Phong phóng viên
(tiểu thuyết, 1937) Mai Hương và Lê Phong (tiểu thuyết, 1937), Đòn hẹn (truyện,
1939), Gói thuốc lá (tiểu thuyết, 1940), Gió trăng ngàn (truyện, 1941), Trại Bồ
Tùng Linh (truyện vừa, 1941), Thoa (truyện ngắn, 1943)... Ngoài ra Thế Lữ còn
viết nhiều kịch bản: Cụ Đạo sư ông (1946), Đoàn biệt động (1947), Đợi chờ
(1949), Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952)... Ông dịch nhiều vở kịch của Sếchxpia,
Gơtơ, Sinle và N.Pôgôđin...
8. Đỗ Đức Thu (1909 - 1979)
Sinh 1909, quê làng Mọc, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ học
ở Thái Bình, học trung học ở Hà Nội, bỏ học sau vụ bãi khóa để tang nhà yêu nước
Phan Châu Trinh. Truyện ngắn "Ba" của ông được giải thưởng khuyến
khích của Tự lực văn đoàn năm 1935. Sau 1954, Đỗ Đức Thu sống cuộc đời viên chức
tại Sài Gòn và mất năm 1979.
Những tác phẩm chính: Vỡ lòng (tiểu thuyết 1940, có in phụ mấy
truyện ngắn), Bốc đồng (tiểu thuyết, 1942), Nhà bên kia (tập truyện ngắn,
1942), Đứa con (tiểu thuyết, 1945)...
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét