Chữ Quốc ngữ
Những con cừu chỉ hành động theo con đầu đàn. Thấy con đầu
đàn nhảy lên ở chỗ nào thì khi đi đến chỗ đó chúng cũng nhảy lên mà không cần
biết tại sao. Nhiều người Việt viết sai tiếng Việt với cùng "hội chứng"
như thế.
Trừ những người vì hoàn cảnh xã hội nhất định, không được học
hành nhiều, ít chữ nghĩa, nên vô tình họ viết sai chính tả tiếng Việt, bài viết
này, đề cập thói quen của những người có học hành, thậm chí những trí thức khoa
bảng đã hồn nhiên và cố ý viết sai tiếng Việt - như những con cừu nhảy lên ở chỗ
con đầu đàn đã nhảy trước đó.Đùi heo xông khói Đi-ôu-cơTrong một chuyến đi xuyên Việt từ Sài Gòn ra Hà Nội, theo
chương trình định trước, con rể tôi lái xe, từ Nha Trang ra sẽ chạy lên Đèo Cả
để được ngắm phong cảnh hùng vĩ của một trong những con đèo "trên núi dưới
biển" đẹp một cách "hữu tình" này và ngắm bãi biển Đại Lãnh. Thế
nhưng khi gần tới đèo thì trời cũng sắp tối. Vì hầu hết xe cộ đều chạy qua Hầm
chui Đèo Cả vừa an toàn và nhanh chóng, nên đường đèo rất vắng. Nghe nói xe chạy
lẻ loi lên đèo ban đêm rất dễ bị "kẻ xấu" trấn lột hoặc xin đểu. Xin
đểu cũng là một dạng trấn lột, hay cướp. Thế nên chúng tôi chạy vào hầm chui
Đèo Cả.Trước khi vào tới Hầm Đèo Cả chúng tôi phải qua một trạm thu
phí. Nhìn những chữ lớn HAM DEO CA phía trên trạm BOT này tôi bật cười nhớ lại
câu chuyện một người bạn đã kể trước đó.Anh bạn người Trung di cư vào Sài Gòn sống từ thời chiến
tranh. Bạn vừa đón vợ chồng người anh ruột cùng với đứa con trai 14 tuổi của họ
từ Mỹ về thăm. Sau đó họ đi du lịch ra Huế bằng xe đò. Khi xe dừng lại ở trạm
thu phí này để mua vé qua trạm, cháu bé 14 tuổi sinh ở Mỹ, không biết tiếng Việt,
nói với ba cháu bằng tiếng Anh: "Người Việt viết sai ngữ pháp tiếng Anh ba
nhỉ?""Con thấy họ viết sai ở đâu?" người cha hỏi.Cậu bé chỉ 3 chữ HAM DEO CA nói: "Đáng lẽ phải viết DEO
CA HAM mới đúng." (cậu phát âm là "Đi-ôu-cơ ham") do cậu tưởng
ba chữ ấy quảng cáo món... Đùi heo xông khói hiệu Đi-ôu-cơ, vì trong tiếng
Mỹ, Ham là đùi heo, hoặc thịt đùi heo được ướp muối hay xông khói.Hình do con gái Nina chụp từ trong xeVỡ đêTrong cuốn Chơi Chữ (Nam Chi Tùng Thư xb (?) Sài Gòn, 1960) của
cụ Lãng Nhân, kể một câu chuyện xảy ra dưới thời Pháp thuộc, vào khoảng đầu thế
kỷ 20. Lúc bấy giờ nền giáo dục và thi cử của ta còn dùng chữ Hán. Một nho sinh
từ nhà quê lên Hà Nội trọ học để đi thi mong kiếm một chức quan. Một hôm chàng
nhận được dây thép từ nhà đánh lên. Thời bấy giờ việc gởi một điện tín người ta
nói là "đánh dây thép".Phải có một biến cố gì lớn lắm người dân quê mới phải dùng đến
cách "đánh dây thép" để thông tin nhanh. Và để tiết kiệm tiền, người
ta phải viết thông tin rất cô đọng, càng ít chữ càng tốt.Mở tờ giấy điện tin đọc thấy vỏn vẹn 2 chữ "Vo de"
mặt chàng nho sinh biến sắc rồi tái ngắt. Chàng run rẩy suýt ngã quỵ. "Vo
de" là vỡ đê. Thời bấy giờ vỡ đê là chuyện sinh tử, cả một tai họa giáng
xuống làng xóm như cảnh Thủy điện xả nước theo lũ ngày nay, tất cả người và vật
chìm trong nước lũ, người chết, nhà cửa tài sản trôi theo dòng nước cuồn cuộn,
ruộng đồng chìm ngập trong nước, hoa màu mất trắng.Hình dung tai họa kinh hoàng như thế đã xảy ra ở quê nhà,
chàng nho sinh vội vã gác lại việc học, tất tả về quê. Nhưng về đến nơi chàng
thấy làng mạc vẫn yên ổn, cảnh vật vẫn thanh bình, chàng nhẹ nhõm trong lòng
nhưng vẫn hoang mang. Chỉ khi về đến nhà chàng mới vỡ lẽ: Vợ chàng vừa sinh con
trai đầu lòng, một chuyện vui vẻ tốt lành khiến cả gia đình mừng rỡ, đánh dây
thép lên Hà Nội cho chàng biết tin vui. Tuy đang còn đi học, đa số (hoặc hầu hết)
các vị học trò lúc bấy giờ đều đã trưởng thành và đã có vợ con. Và 2 chữ
"vo de" trong cái điện tín chỉ có nghĩa là... vợ đẻ!.
Hình trên mạngChữ Quốc ngữ đội mũ mang giầyTrong một bài viết, "Sao lại nói chữ Quốc ngữ Việt Nam
'rất nực cười'?" đăng trên trang mạng Nghiên Cứu Quốc Tế, tiến sĩ Nguyễn
Hải Hoành dẫn lời một học giả rất nổi tiếng của Trung quốc hiện đại là
"Quý Tiễn Lâm (季羡林 Ji Xian-lin, 1911-2009), người được
dư luận chính thống nước này tôn vinh là "Quốc học đại sư", "Học
giới Thái đẩu" (Siêu sao trong giới học thuật), "Quốc bảo" (Báu
vật của nước nhà)" vân vân, viết rằng "chữ viết của người Việt Nam
sau khi được La tinh hóa, đầu đội mũ, chân đi giầy, rất nực cười," (越 南 文 字 拼 音 化 之 后,头戴帽子,脚穿鞋子,很滑稽. [Việt Nam văn tự bính âm hóa chi hậu,
đầu đái mạo tử, cước xuyên hài tử, ngận hoạt kê]) [1]Ts Nguyễn Hải Hoành nhận thấy cái ông "đại sư"
"quốc bảo" của Tàu nói năng hồ đồ và chứng tỏ chẳng biết gì cả về chữ
quốc ngữ của người Việt. Dù vậy, hình tượng "đội mũ mang giầy" mà Quý
Tiễn Lâm gán cho chữ quốc ngữ của chúng ta, cũng ngộ nghĩnh đó chớ.
"Mũ" và "giầy" theo con mắt Quý Tiễn Lâm chính là các dấu
phụ nguyên âm (diacritical marks). và dấu giọng (accent marks) chúng ta "gắn"
vào chữ viết của mình.Chuyện là như vầy: Những ngày đầu tiên đặt chân đến Việt Nam
(xứ Đàng Trong), các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa Tây phương đã rất ngỡ ngàng
khi tiếp xúc với tiếng nói của người bản xứ: Lúc bấy giờ họ chưa có khái niệm
gì về các ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic languages) và họ nghe một thứ ngôn ngữ
không những hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, mà còn không giống chút
gì với các ngôn ngữ trong hệ Ấn Âu quen thuộc của người phương Tây. Giáo sĩ Đắc
Lộ (Alexandre de Rhodes), tác giả quyển từ điển "Dictionarium Annamiticum,
lusitanum, et latinum," thường được gọi là "Từ điển Việt – Bồ -
La," đã từng viết: "Riêng tôi xin thú nhận rằng, khi vừa tới Đàng
Trong nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng
như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ có thể học
được tiếng Việt". [...] "Linh mục Joseph Tissanier ở Đàng Ngoài từ
1658 - 1663 cũng ghi lại như sau: Tôi xin thú nhận rằng lúc đầu tiếng Việt làm
tôi phát sợ, vì thấy nó khác với các ngôn ngữ Âu châu quá, nên hầu như tôi thất
vọng trong việc học tiếng này" [2]. Giáo sĩ Đắc Lộ kể mấy ví dụ về sự khó khăn phân biệt âm và thanh của
tiếng Việt trong tai người phương Tây. "Một hôm Lm bạn với Đắc Lộ muốn bảo
người giúp việc đi chợ mua cá. Khi người giúp việc ở chợ về bảo cho ông
hay là đã mua như ý Lm muốn. Ông liền xuống nhà bếp coi xem đã mua loại cá nào,
thì ông bỡ ngỡ vì người đi chợ mua một thúng đầy cà. Lm biết ngay vì [ông]
đã đọc trại tiếng cá thành cà, nên ông xin lỗi người giúp việc.
Một Lm khác bảo người nhà đi chém tre [3], đoàn trẻ em [người Việt] trong nhà Lm nghe vậy sợ quá, bỏ chạy tán loạn. Thì ra
ông phát âm lầm là chém trẻ, nên làm cho đoàn trẻ em khiếp sợ. Phải giải
thích mãi trẻ em mới yên tâm trở về nhà với Linh mục" [4]Những ký hiệu ghi âm tiếng nói của người Việt để phân biệt ca,
cá, và cà, phân biệt tre và trẻ, cũng như phân biệt ham và hầm, vợ
đẻ và vỡ đê... chính là cái mà ông "Quốc học đại sư" Quý Tiễn
Lâm của Tàu gọi là tiếng Việt "đầu đội mũ, chân đi giầy!".
Chuyện là như vầy: Những ngày đầu tiên đặt chân đến Việt Nam
(xứ Đàng Trong), các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa Tây phương đã rất ngỡ ngàng
khi tiếp xúc với tiếng nói của người bản xứ: Lúc bấy giờ họ chưa có khái niệm
gì về các ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic languages) và họ nghe một thứ ngôn ngữ
không những hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, mà còn không giống chút
gì với các ngôn ngữ trong hệ Ấn Âu quen thuộc của người phương Tây. Giáo sĩ Đắc
Lộ (Alexandre de Rhodes), tác giả quyển từ điển "Dictionarium Annamiticum,
lusitanum, et latinum," thường được gọi là "Từ điển Việt – Bồ -
La," đã từng viết: "Riêng tôi xin thú nhận rằng, khi vừa tới Đàng
Trong nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng
như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ có thể học
được tiếng Việt". [...] "Linh mục Joseph Tissanier ở Đàng Ngoài từ
1658 - 1663 cũng ghi lại như sau: Tôi xin thú nhận rằng lúc đầu tiếng Việt làm
tôi phát sợ, vì thấy nó khác với các ngôn ngữ Âu châu quá, nên hầu như tôi thất
vọng trong việc học tiếng này" [2].
Alexandre de Rhodes Hình trên mạng |
Hình bìa Tự điển Việt - Bồ - La Hình trên mạng
|
Đội mũ mang giầy: chuyện không đơn giản.
Cái ông "siêu sao học thuật" (Học giới Thái đẩu) của
Tàu này không hề... rê đuốc vào chân mình, chỉ nói lấy được. Trong bài viết dẫn
trên, Ts Nguyễn Hải Hoành cho biết: "Tiếng phổ thông TQ có 4 thanh điệu,
vì thế chữ Latin trong phương án Hán ngữ Pinyin do Nhà nước TQ ban hành sử dụng
từ năm 1958 cũng phải kèm theo 4 dấu giọng, ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [lì], ngoài
ra các phụ âm kép như zh, ch, sh có thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ Hán ngữ
Pinyin (Bính âm) [5] cũng
"đội mũ," vì sao cụ Quý Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam
"rất nực cười"?"
Ts Nguyễn Hải Hoành nhắc lại lời học giả Hồ Thích từ 100 năm
trước "phán" về chữ quốc ngữ của người Việt: "Chữ viết Việt Nam
hiện nay xem ra giống như chữ Pháp bị nước mưa xối tan ra, giống như phiên bản
Latin của chữ hình vuông, vừa không thanh thoát cũng chẳng mỹ quan." Hồ
Thích cho rằng chữ quốc ngữ của người Việt Nam vửa không giống chữ Hán, không
giống chữ Nôm (đã đành!) lại không giống chữ Pháp, mà cũng không giống cả chữ
La tinh, "nghĩa là không đâu vào đâu, chẳng ra cái giống gì." [6].
Lời phán ấy có lẽ khiến một số nhà nho Việt Nam thủ cựu bài bác chữ Quốc ngữ thời
đó khoái lắm.
Xem ra các tay học phiệt Tàu không biết gì về chữ quốc ngữ của
Việt Nam, chỉ phán bừa vì họ rất hậm hực về việc Việt Nam "thoát
Trung" thành công về mặt văn tự. Với thứ chữ viết La tinh hóa này chỉ
trong khoảng 60 - 70 năm người Việt Nam đã hoàn toàn thoát ra khỏi hệ thống văn
tự Hán, điều mà người Nhật và người Hàn đã không làm được, dù họ cũng sáng tạo
được văn tự riêng cho mình.
Tiếng Việt có 6 thanh (Phù bình thanh - không dấu, Phù khứ thanh
-dấu sắc, Phù thượng thanh - dấu ngã, Trầm bình thanh - dấu huyền, Trầm thượng
thanh - dấu hỏi, và Trầm nhập thanh - dấu nặng), nên phải dùng 5 ký hiệu sắc,
huyền, hỏi, ngã, nặng để phân biệt thanh điệu. Tiếng Trung quốc (chỉ có 4
thanh: âm bình thanh, dương bình thanh, thướng thanh, và khứ thanh) không có
thanh "trầm nhập" như tiếng Việt nên chữ "bính âm" (pinyin)
của họ không mang dấu "nặng", tức là họ có đội mũ mà không mang giầy,
giống như anh chàng nhà quê đội mão mà không mang hia, hoặc như Táo quân mặc áo
mà không mặc quần chớ gì mà cười tiếng Việt!
Mặt khác, một chữ tiếng Việt dài nhất, chữ "nghiêng"
chỉ gồm 7 ký tự, trong khi một chữ Hán thường có đến hàng chục nét "vẽ"
rất rối rắm, khó học, khó nhớ. Ví dụ chữ "Hối" 匯 trong (Hối
đoái - 匯兌 ) có 13 nét; chữ "Tê" 虀 (một món
dưa chua) có 23 nét; chữ "Thô" 麤 (thô sơ) có 33 nét. Một chữ có âm đọc
là [piang], là tên gọi 1 loại mỳ sợi đặc sản của tỉnh Phúc Kiến, có đến... 54 nét!
Đó là một trong những lý do khiến người Trung quốc muốn La tinh hóa chữ viết của
họ cho dễ học dễ viết. Chuyện không dễ chút nào. Vậy mà họ lại chê chữ quốc ngữ
của người Việt "đội mũ mang giầy"!
Việt Nam là một trong số 124 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới dùng hệ chữ viết La tinh, và là một trong số rất ít các quốc gia châu
Á dùng loại chữ viết này. Với hệ thống chữ viết quốc gia bằng chữ cái La tinh,
người ta có thể học một ngoại ngữ có tính phổ biến quốc tế như tiếng Anh, tiếng
Pháp... và tiếp xúc thẳng với mạng Internet rất thuận tiện mà không phải học
thêm một hệ thống chữ viết nào khác. Người Tàu với hơn 1,3 tỷ dân, cũng muốn
dân họ có được sự thuận tiện đó để dễ thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Họ
đã nhiều lần nỗ lực La tinh hóa chữ viết, nhưng không thành công. Rốt cuộc người
Tàu đã phải tuyên bố bỏ cuộc. Họ có thể dùng chữ pinyin như một giải
pháp phụ để phiên âm cho từng mặt chữ Hán, giúp người học/ đọc đọc được từng
chữ ô vuông đó chớ không thể dùng nó thay cho chữ Hán để viết lách gì được,
trong khi người Việt đã hoàn toàn bỏ hẳn chữ Hán, và phát triển chữ quốc ngữ
hoàn chỉnh đến mức có thể diễn đạt mọi lãnh vực tri thức - tư tưởng, văn học,
và khoa học, mỹ thuật... một cách phong phú và chính xác.
Việc các học giả Trung quốc chê bai chữ quốc ngữ của người Việt
gợi mình nhớ chuyện chùm nho còn xanh của con... cáo!
Người Việt nói như hát
Tiếng Việt có 6 thanh điệu nên chữ quốc ngữ phải dùng 5 ký hiệu
(trừ một thanh không dấu) sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng tương ứng. Nhưng các dấu
thanh này không phải tự nhiên mà có. Các nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên La Mã
sáng tạo chữ quốc ngữ vốn là người Bồ Đào Nha. Họ dùng các kỳ tự La tinh trong
bảng chữ cái Bồ Đào Nha để ghi âm tiếng Việt. Nhưng bảng chữ cái Bồ Đào Nha,
cũng như nhiều bảng chữ cái của các ngôn ngữ Tây phương dùng chữ La tinh khác,
không có dấu giọng hay dấu thanh điệu. Vì vậy những chữ Việt sơ khai được viết
liền nhau như ngôn ngữ đa âm của phương Tây và không có dấu, ví dụ:
Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa/tức Thuận Hóa),
Cacham, Cacciam (Ca Chàm/ tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm),
Unsai (ông sãi),
Ungue, (ông nghè),
Oundelin (ông đề lĩnh),
Nuocman (Nước Mặn),
Ainam (Hải Nam),
Quanghia, Quamnguya (Quảng Nghĩa),
Quignhin (Quy Nhơn),
Bafu (Bà Phủ/ tức vợ quan phủ) v.v...
Giáo sĩ Ðắc Lộ đã nói tiếng Việt nghe líu lo như tiếng chim,
hoặc người Việt nói như hát. Ngay đến người Tàu vốn rất tự phụ với tiếng Hán của
họ và miệt thị các ngôn ngữ khác, nhưng vẫn nhận tiếng Việt như tiếng chim hót.
Có giai thoại kể ông Mạc Đĩnh Chi đi sứ bên Tàu, bị một viên quan Tàu ra một vế
đối:
"Quých thiệt chi đầu đàm Lỗ luận: Tri chi vi tri chi, bất
tri vi bất tri, thị tri." Nghĩa là Miệng lưỡi chim chích trên đầu cành bàn
sách Luận ngữ: 'Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, đó mới là biết.'
Ông Mạc Ðĩnh Chi đối lại: "Oa âm trì thượng độc Chu thư:
lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chúng nhạc lạc, thục lạc?" (Tiếng ếch nhái đọc
sách nhà Chu trên bờ ao: vui nhạc với ít người, vui với nhạc nhiều người, đằng
nào vui hơn?"
Vì đối phương trích sách Luận ngữ của Khổng tử dùng các âm
"tri chi tri chi" để diễu tiếng Việt như tiếng chim hót, nên ông Mạc
Đĩnh Chi trích sách Mạnh tử, với những âm "lạc nhạc lạc nhạc" để chê
tiếng Tàu như tiếng ếch nhái.
Nếu tiếng Việt mà viết bằng phẳng thiếu dấu giọng trầm bổng
lên xuống thì đâu còn ra tiếng chim nữa. Các nhà truyền giáo đã phải mượn một số
ký hiệu trong bảng chữ cái Hy Lạp cổ để ghi âm các thanh, và dần dần tách riêng
từng từ theo tính đơn âm của tiếng Việt.
Nhưng như thế chưa đủ. Tiếng Việt là một ngôn ngữ không những
giàu thanh điệu (tiếng Việt có 6 thanh, trong khi tiếng Hán chỉ có 4 thanh
thôi) mà còn có tính chất độc đáo: sự biến đổi độ dài ngắn cao thấp của âm
thanh cũng làm cho từ biến đổi, và theo đó ý nghĩa cũng biến đổi hẳn. Ðó là điều
các ngôn ngữ khác không có. Trong tiếng Anh, chẳng hạn, ý nghĩa của từ là cố định;
thay đổi ngữ điệu chỉ làm thay đổi ý người nói, chớ không thay đổi nghĩa của từ.
Ví dụ câu nói thông thường và phổ biến "I love you"
- Tôi yêu em. Ngữ điệu của câu nói có thể được diễn đạt theo một trong 3 cách:
1. Khi nói nhấn mạnh vào từ đầu, "I" : "I love
you" hàm ý: Tôi yêu em. Chính tôi đây yêu em, chớ không phải nó. Nó chỉ
nói xạo thôi. Tôi mới chính là người yêu em.
2. Nhấn mạnh vào từ thứ nhì, LOVE: "I LOVE you" hàm ý: Tôi
yêu em mà. Tôi thực sự yêu em, chớ tôi đâu có hận ghét gì em.
3. Nhấn mạnh vào từ cuối, YOU: "I love YOU" hàm ý: Tôi yêu em.
Tôi yêu chỉ mình em thôi. Cô bé kia tôi không quan tâm.
Trong cả 3 trường hợp, ý nghĩa của ba từ "I love you"
vẫn là 'Tôi yêu em', chỉ có ý người nói đổi khác.
Tiếng Việt thì không như thế. Sự thay đổi thanh điệu sẽ làm
thay đổi ý nghĩa của từ. Ví dụ một câu nói gồm các từ: "Bà Ba bả bỏ bã bà
Bá." (Bà Ba bả bỏ thuốc độc cho bà Bá.)
Nếu bỏ hết các dấu thanh điệu, các chữ còn lại, trừ từ
"bỏ," chỉ là một âm "ba"
Ba Ba ba (bỏ) ba ba Ba: không có nghĩa gì hết.
Về mặt nguyên âm cũng vậy, Đối với người Việt, An là An,
và Ăn là Ăn – hai từ khác nhau. Khi viết ra, chúng khác
nhau về chữ và khác nhau về nghĩa. Đối với tai của nhà ngôn ngữ học, hai từ đó
chỉ là một mà do nguyên âm chính của nó được phát âm dài ngắn khác nhau, Các
nhà truyền giáo dòng Tên sáng tạo chữ viết cho tiếng Việt là những nhà ngôn ngữ
học lỗi lạc. Họ nhận ra nguyên âm chính của từ thứ nhì (Ăn) chỉ là nguyên âm A
được phát âm ngắn. Tức là chỉ thay đổi độ dài ngắn, ngậm hay mở của nguyên âm,
ta có ngay một từ khác, mang nghĩa khác.
Thế là họ tìm cách đánh dấu âm A ngắn này bằng một hình trăng
khuyết nhỏ trên đầu chữ A. Ðó là chữ Ă. Tương tự như thế, các vị thừa sai
Thiên Chúa giáo ấy đã sáng tạo ra các chữ nguyên âm a, ă, â, e, ê, o, ô,
ơ, u, và ư cho một hệ thống chữ viết mới cho người Việt mà sau
này sẽ được gọi là chữ Quốc ngữ - thứ chữ chúng ta đang dùng ngày nay. Đây là một
công cụ tuyệt vời ghi âm tiếng Việt chính xác 100 phần trăm: tiếng nói thế nào
được viết ra như thế. Và viết thế nào được đọc đúng như thế.
Công cụ tuyệt vời này trong một thời gian dài từ giữa thế kỷ
17 đến cuối thế kỷ 19 chỉ được sử dụng trong nội bộ các nhà truyền giáo và con
chiên người Việt của các giáo đoàn Công giáo. Ngoài cộng đồng giáo dân Thiên
Chúa giáo ra, người Việt trong cả nước vẫn tiếp tục dùng chữ Hán và chữ Nôm
trong tất cả các hoạt động tri thức. Triều đình dùng chữ Hán như văn tự chính
thức của quốc gia. Giới trí thức bên ngoài triều đình, ngoài việc dùng chữ Hán
để sáng tác văn học, còn sử dụng chữ Nôm để ghi âm tiếng nói của dân tộc. Nhưng
cả hai thứ chữ viết này rất khó học, khó nhớ. Riêng chữ Nôm được nhiều người
cho là khó gấp 5 lần chữ Hán. Phải thật giỏi chữ Hán mới có thể dùng được chữ
Nôm. Vì thế số người Việt trong nước mù chữ là rất lớn. Người ta ước lượng đến
90 phần trăm dân số mù chữ.Cảnh trường thi ngày xưa Sĩ tử thi Hương (đeo "ống quyển" trước ngực)Hình trên mạng60 năm phát triển của chữ Quốc ngữ
Sau khi thiết lập nền đô hộ trên đất nước Việt Nam, người
Pháp thấy không thể dùng chữ Nho và chữ Nôm trong hệ thống cai trị. Học các thứ
chữ này khó quá. Họ quyết định dạy thứ chữ mới theo vần La tinh cho người bản xứ.
Thứ chữ do các nhà truyền đạo Thiên Chúa giáo sáng tạo gần với tiếng Pháp hơn.
Giới trí thức Nho học bản xứ phản đối kịch liệt thứ chữ mới "do người Tây
bày ra" này. Họ muốn giữ lại chữ Nho và chữ Nôm để "duy trì văn hóa
dân tộc".
Tuy vậy, từ năm 1861, người Pháp đã mở trường Thông ngôn tại
Sài Gòn, đào tạo một số người biết tiếng Pháp. Họ muốn dùng chữ Pháp thay thế
chữ Hán trong giáo dục từ cấp thấp nhất trong làng xã trở lên. Ngày 15/4/1865,
tờ Gia Ðịnh Báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên, ra đời tại Sài Gòn, sử dụng
chữ viết mới gọi là "chữ Tây quốc ngữ." Ngày 22/2/1869, Phó Đề đốc
Marie Gustave Hector Ohier, Thống đốc Nam Kỳ, ký nghị định bắt buộc dùng
"chữ quốc ngữ" bằng chữ cái La tinh thay thế chữ Nho trong các công
văn của chính quyền ở Nam Kỳ. Từ "Tây" trong "chữ Tây quốc ngữ"
được lược bỏ, và "chữ Tây" dành để gọi chữ Pháp-lang-sa. Từ đây, chữ
viết mới có tên gọi chính thức là "chữ quốc ngữ."
Ngày 6/4/1878, Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký Nghị định 82 ấn định
"Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định,
quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị... sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ Quốc
ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ Quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm
và thăng thưởng trong ngạch phủ, huyện và tổng..."
Từ cái mốc năm 1869 với nghị định đầu tiên của Thống đốc Nam
Kỳ Marie Gustave Hector Ohier đến khi cuốn Ðại Nam Quấc Âm Tự Vị của
Huình Tinh Paulus Của ra đời năm 1895 là 26 năm, và tới cuốn Việt Nam Tự
Ðiển của hội Khai Trí Tiến Ðức năm 1931 là 62 năm.
Đến lúc này vẫn còn có người đánh giá thấp tiếng Việt. Trong
cuốn "Vietnamese Tradition on Trail 1920 - 1945" David G.Marr ghi nhận:
"In September 1931, an aging collaborator politician, Ho Duy Kien, during
an otherwise routine Cochinchina Colonial Council discussion on primary
education, made the mistake of referring to the Vietnamese language as a
"patois"similar to those found in Gascogne, Brittany, Normandy, or
Provence." (Vào tháng chín năm 1931, một chính trị gia lão thành hợp tác với
Pháp, là Hồ Duy Kiên, trong một cuộc thảo luận của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ về
giáo dục tiểu học đã sai lầm khi nói ngôn ngữ Việt Nam như một thổ ngữ dân tộc
tương tự như những thổ ngữ thấy ở các xứ Gascogne, Brittany, Normandy, hay
Provence của Pháp.) [7] Nghe
nói về sau này, thạc sĩ văn phạm Pháp Phạm Duy Khiêm cũng đã phát biểu (không
biết ở đâu và trong dịp nào) rằng tiếng Việt còn mang tính thổ ngữ mường mán,
đã khiến dư luận phê phán sôi nổi một dạo.
Nhận xét về hiện tượng đánh giá thấp tiếng Việt này, Tiến sĩ
Nguyễn Thiện Giáp viết: "Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về tiếng
Việt thời thuộc Pháp được viết trên cơ sở lý luận của truyền thống ngôn ngữ học
châu Âu, vì thế không tránh khỏi có hiện tượng nhìn tiếng Việt qua lăng kính của
các tiếng châu Âu, cụ thể là tiếng Pháp mà sau này có học giả phê phán là có
tính mô phỏng, hoặc có người nặng lời gọi là "dĩ Âu vi trung" [8]. ("dĩ
Âu vi trung: Lấy châu Âu làm trung tâm).
Một năm sau cuốn Việt Nam Tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức
là sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn, 1932. Bất chấp những nhận định chủ quan và
tiêu cực về tiếng Việt của vài người như thế, trong thời gian 62 năm đó, tiếng
Việt đã được đôi cánh thần kỳ của chữ quốc ngữ nâng lên và bay cao rực rỡ. Vào
năm 1933, Việt Nam đã có được 155 tờ nhật báo và tạp chí định kỳ. Nếu so với với
"con số 3.812 nhật báo ở Đức vào năm 1926, hoặc 100 tờ báo hàng ngày chỉ
riêng của thành phố Paris," [9] thì
155 tờ báo là quá nhỏ bé. Nhưng chỉ mới hơn 60 năm chính thức phổ biến chữ quốc
ngữ bắt đầu từ Nam Kỳ và từ khoa thi chữ Hán cuối cùng ở Bắc Kỳ (khoa Ất Mão)
năm 1915, và Trung kỳ (khoa Mậu Ngọ) năm 1919, thì con số 155 tờ báo chữ quốc
ngữ vào năm 1933 là rất đáng kể.Ngay trong vụ Hồ Duy Kiên 1931, theo David G. Marr cho biết:
"For the next few months, from one end of Vietnam to another, the quoc-ngu
press denounced Ho Duy Kien as rootless (mat goc), unpatriotic, and
unrepresentative. Writers pointed out that Vietnamese had no less than 17
million speakers," (Trong vài tháng kế tiếp, trên khắp nước Việt Nam,
tất cả các tờ báo quốc ngữ đều tố Hồ Duy Kiên là người mất gốc, không có tinh
thần ái quốc, và không đại diện cho nhân dân Việt Nam. Các nhà văn chỉ ra rằng
tiếng Việt có không ít hơn 17 triệu người nói" [10]. Dân
số Việt Nam lúc bấy giờ vào khoảng 20 triệu. 17 trên 20 là một con số rất lớn.
Sau năm 1945, số người Việt Nam đọc được chữ quốc ngữ càng tăng rất nhanh.
Chỗ nhảy của những con cừuChữ quốc ngữ của người Việt bản xứ sớm xuất hiện trong các bản
tin trên các báo chí tiếng Pháp ở chính quốc và thường xuyên trên báo chí tiếng
Pháp tại Việt Nam bấy giờ là thuộc địa của Pháp.Khi sáng tạo chữ Quốc ngữ, trong nỗ lực ghi âm tiếng Việt
chính xác 100 phần trăm, các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tốn nhiều công
sức tạo ra các dấu phụ nguyên âm và dấu thanh điệu cho hệ chữ viết này. Thế
nhưng khi xuất hiện trên báo chí tiếng Pháp, tại chính quốc hay tại thuộc địa,
những từ tiếng Việt bị lột bỏ hết các dấu, trở nên trần trụi, trông không còn
là chữ Việt, mà cũng không giống chữ Pháp hay chữ La Tinh. Tình trạng này là do
sự hạn chế về kỹ thuật in typo lúc bấy giờ.Chữ Pháp không có các dấu thanh điệu và dấu nguyên âm (tuy
chúng có dấu sắc, dấu huyền, và dấu mũ trên chữ "e") Kỹ thuật in typo
lúc bấy giờ là đúc từng con chữ rời bằng một hợp kim chì, thiếc, và antimoon.
Thợ nhà in sẽ sắp các con chữ thành từng từ vào một "bát chữ" rồi đúc
thành "bản kẽm" để đưa lên máy in. Do chữ Pháp không có dấu, và họ
không thể vì để in đúng chính tả một vài chữ Việt mà phải đúc cả bộ chữ khác, vả
lại, họ không đánh giá cao và không thấy cần tôn trọng chữ viết của dân thuộc địa
bản xứ, cho nên các từ tiếng Việt xuất hiện trong các bài báo tiếng Pháp đều
không có dấu, "trông không giống ta mà cũng chẳng ra Tây". Đó là một
lỗi kỹ thuật. Các nhà trí thức Tây học bản xứ thời đó biết vậy mà cũng phải
đành chịu vậy khi bài viết hoặc sách của họ được in ra bằng tiếng Pháp phải chứa
những từ tiếng Việt "bất toàn" nếu không nói là què quặt.Chính sự hạn chế trong kỹ thuật in ấn này là thủ phạm chính
(mà một số người Việt tiếp tay đồng phạm) làm biến đổi không ít các địa danh tiếng
Việt trên đất nước mình. Chẳng hạn, làng Hương Bì dưới chân dãy núi
Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh, được viết không dấu thành Huong Bi. Trong tiếng
Pháp, chữ H không được phát âm (H muet: H câm), nên tên làng Hương Bì trở
thành Uong Bi, để dần dà thành ra Uông Bí. Tương tự như thế, một địa
danh Hồng Hải, biến thành... Hòn Gai!Khu vực bến Bạch Ðằng ở quận Nhất Sài Gòn, nơi đặt trụ sở
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Hội Trường Diên Hồng nơi họp Thượng Viện của
VNCH, ngày xưa thuộc làng Láng Thọ. Khi xuất hiện trên sách báo tiếng
Pháp, Láng Thọ trở thành Lang Tho. Rồi vì chữ H câm, nên Lang Tho thành Lang
To, và được đọc theo âm tiếng Pháp là "Lăng Tô." Trong sách Sài
Gòn Năm Xưa cụ Vương Hồng Sển có nhắc đến cái thú chiều chiều đi dạo
mát Lăng Tô của dân thượng lưu Sài Gòn xưa.Chữ Việt không dấu trên báo chí tiếng Pháp thoạt đầu là do hạn
chế và thiếu sót kỹ thuật khách quan. Nhưng sự khiếm khuyết này cứ được lập đi
lập lại thường xuyên lâu ngày, khiến người ta (giới trí thức tân học người Việt)
tưởng đó là điều đương nhiên phải là như thế. Từ đó, hễ phải viết một từ tiếng
Việt trong một văn bản tiếng nước ngoài, người ta hồn nhiên tự tước bỏ hết các
dấu phụ khỏi chữ viết của dân tộc mình. Họ là những người trí thức cả đó. Nhưng
họ không hiểu rằng khi bị mất hết dấu, chữ đó không còn là chữ Việt nữa, nó trở
nên vô nghĩa hoặc ý nghĩa không xác định hay khác xa với nghĩa gốc của nó. Người
ta không biết "Ham" là chữ "hầm" tiếng Việt, hay một chữ tiếng
Anh với nghĩa... thịt đùi heo xông khói; không rõ "vo de" là vợ đẻ
hay vỡ đê; "nghi ngoi" là nghỉ ngơi hay nghĩ ngợi; không thể phân biệt
Nguyễn Du, tác giả truyện Kiều, hay Nguyễn Dữ, tác giả sách Truyền Kỳ Mạn Lục.
Không những người bình thường không hiểu những chữ "không phải Tây mà cũng
chẳng còn ta" ấy, mà ngay cả những người có học nhưng kém tri thức có khi
cũng không hiểu nó là cái gì. Chẳng hạn, một tác giả (dịch giả?) của một bài viết
trên tờ tạp chí Heritage của hãng Hàng Không Việt Nam số Tết Canh Dần 2010 đã dịch
ba chữ Việt không dấu Gia Dinh Bao thành… Family News! (Tin tức Gia
đình!)Gia Ðịnh Báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam mà tên
của nó có đầy đủ dấu rõ ràng ngay trên trang nhất, đã bị người viết tước bỏ hết
dấu đi và trở thành... tờ Tin tức Gia đinh!Ngày nay kỹ thuật in ấn đã tiến một bước dài thần kỳ như đi
đôi hia ngàn dậm. Mỗi người, nếu có nhu cầu, đều có thể sắm cho mình nguyên một...
nhà máy in, đặt ngay trên bàn làm việc. Với hàng chục font chữ đủ loại, kể cả
ngoài hệ chữ viết La tinh, và khoảng 14 "bảng mã" ( "bộ gõ"
chữ Việt có dấu) từ VISCII (VIetnamese Standard Code for Information
Interchange), TCVN3 với các font chữ .VnTime, VNSouthernH; VNI
(Vietnam-International), BK HCM, Vietware, VIQR, vân vân, đến Unicode, người ta
có thể dễ dàng gõ chữ Việt với đầy đủ dấu. Thế nhưng, như những con cừu nhảy cẩng
ở chỗ con đầu đàn đã nhảy, người ta vẫn tiếp tục gõ chữ Việt không dấu trong
các văn bản tiếng nước ngoài!Trong một cuốn sách nghiên cứu âm nhạc viết bằng tiếng Anh của
các tác giả người Việt xuất bản trong nước, trong đó những từ tiếng Việt được
viết không dấu như thế này:"We used traditional technical terms still used by
popular artists such as the ngon nhan, ngon chun, ngon nhun… A tendency
has appeared among the young instrumentalists and teachers of the dan bau to
use a more explicative language for example, by calling the second
technique (ngon chun), the descending flexional technique (nhan luyen
xuong)" [11]Viết bằng tiếng nước ngoài hẳn là để cho người nước ngoài đọc.
Nhưng họ cũng phải viết chữ Việt có đầy đủ dấu thì độc giả người nước ngoài mới
có thể đọc và hiểu đúng tiếng Việt chớ. Tôi đọc không hiểu những chữ Việt không
dấu đó. Người nước ngoài hiểu được không? Thậm chí, trên các danh thiếp, một mặt
người ta in tên mình với đầy đủ dấu nghiêm túc, nhưng mặt bên kia người ta tự
loại bỏ hết dấu đi, cái tên như thể bị lột truồng. Họ không muốn người ta gọi
đúng tên mình sao? Tên mỗi người là một điệu nhạc êm ái thân thương nhất với
chính người đó. Xuyên tạc tên của ai là một sự xúc phạm không hề nhỏ. Vậy mà
mình tự xúc phạm mình. Những cái tên không mũ không giầy đó vô tình khiến người
ta có cảm giác mình tự ti (ông bà chỉ cần gọi tên tôi lơ lớ như vầy được rồi!)
chưa nói những cái tên trần trụi như thế dễ gợi người ta nghĩ đến những từ
không đẹp. Có lần tôi gặp một cái danh thiếp mang cái tên ba chữ: Ta Tham
Du. Như đã nói, chữ Việt không có dấu thực sự là vô nghĩa.Sở dĩ con cừu đầu dàn nhảy lên vì chỗ đó có khúc cây ngán
chân nó. Người ta đã dẹp bỏ khúc cây trở ngại đó rồi, mà những con cừu đi sau tới
đó cũng nhảy lên. Hãy bước tử tế đi. Nhảy ở chỗ không có gì ngán chân mình
thì... điên quá!.
Gia Định Báo thành... Tin tức gia đình!
|
Khay chữ trong nhà in Hình Google |
Chữ in đúc rời Hình Google |
Bản kẽm đã lên khuôn (trên máy in) Hình Google |
Ðọc thêm: Thiếu Khanh, Should We Anglicize Our Mother
Tongue? (http://www.art2all.net/).
[1] http://nghiencuuquocte.org/.
[2] Đỗ Quang Chính, “Lịch sử chữ Quốc Ngữ 1620 - 1659,” Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn,
1972, trang 12 -13
[3] Thời đó, thay vì nói chặt tre hay đốn tre, người ta
nói chém tre.
[4] Đỗ Quang Chính, Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, như trên, trang 17
5] Tức chữ La tinh phiên âm âm đọc của mỗi chữ Hán.
[6] Theo Ts Nguyễn Hải Hoành, đã dẫn
[7] David G.Marr, "Vietnamese Tradition on Trail 1920-1945" London,
England, 1981, page 136)
[8] Nguyễn Thiện Giáp, Khái quát về sự hình thành và phát triển của Việt ngữ học
(Phần 2) http://ngonngu.net/.
[9] David G. Marr, Vietnamese Tradition, ibid. page 138
[10] David G. Marr, Vietnamese Tradition, ibid. page 136.
[11] Đào Trọng Từ, et al., Essays On Vietnamese Music, Red River Foreign Language
Publishing House, Hanoi, 1984. Ghi chú (1) trang 36).
Thiếu Khanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét