Văn Miếu Thăng Long Hà Nội
Liên hệ giữa Văn Miếu
Quốc Tử Giám - Khoa Cử 2
C- HỌC CHẾ - HỌC QUY
Học trò phải tôn trọng kỷ luật, quy chế nhà trường, nếu không sẽ
bị phạt hay bị đuổi.
1429 Bộ Lễ thấy Tôn sinh tọa Giám nhiều người tạ sự cáo nghỉ,
tâu: "Từ trước đến nay phép dậy chưa có chuẩn tắc, nên định rõ quy thức:
a- Học sinh Tôn học mỗi tháng quý [tháng cuối mỗi mùa] xét số
người học nhiều hay ít cùng nghĩa lý thuộc hay không, văn nghệ tập tành thông
hay không, chia ra hạng ưu, bình, thứ, liệt. Hạng ưu được tăng một nửa nguyên
bổng, hạng bình như thường, hạng thứ giảm một phần ba, hạng liệt giảm một nửa.
b- Định lại lệ xin nghỉ : Phàm gập ngày húy [giỗ] cha mẹ cho nghỉ
5 ngày, cha còn hay mẹ còn thì cho 3 ngày, húy ông bà, cụ kỵ mà cha mẹ mình
đều mất cho nghỉ 3 ngày ; đau ốm nhẹ thì điều dưởng trong phòng, nặng cho
nghỉ 10 ngày, chưa khỏi lại gia một hạn. Nếu vô cớ thác bệnh không ở tại phòng
thì bị đánh roi.
1483 Theo chế độ cũ, quan viên người nào thi Hương trúng ba kỳ
được sung vào Hiệu sinh trường học trong phủ mình, trúng bốn kỳ sung Giám sinh
trường Quốc học, còn quân và dân nếu ứng thi có trúng tuyển cũng không được
dự.
Nay ra sắc lệnh : Quân và dân thi Hương trúng ba kỳ được sung vào
Sinh đồ trong phủ mình, trúng bốn kỳ được sung Học sinh trong "Tăng
Quảng Đường" ở QTG. Giám sinh thi Hội trúng ba trường thì cho sung
vào Thượng xá sinh, trúng hai trường thì sung Trung xá sinh,
trúng một trường thì sung Hạ xá sinh. Mỗi xá là 100 người, cấp cho
tiền lương ba xá mỗi người 9 tiền. Khi bổ dùng, bộ Lại và quan QTG bảo cử
chọn bổ ba xá không phân biệt.
Bọn Phó Đô Ngự sử đài Quách Hữu Nghiêm tâu :"Tiền lương ba
xá xin đổi ‘Thượng xá thêm một tiền thành một quan, Trung xá giữ nguyên 9
tiền, Hạ xá giảm một tiền còn 8 tiền. Khi bổ thì cho Thượng xá sinh ba
phần, Trung xá sinh hai phần, Hạ xá sinh một phần. Như thế cấp bậc ba xá có
phân biệt mà nhân tài trong nước đều biết khuyến khích". Vua y.
1511 Điểm mục : Các Giám sinh, Nho sinh, Sinh đồ
đến ngày rằm, mồng một đều phải mặc mũ áo đến điểm mục đúng phép. Phải tuân
theo học quy, tập học nghiệp cho thành tài. Người nào rong chơi đường xá, trễ
bỏ việc học, thiếu điểm mục một lần thì phạt 20 tờ giấy trung chỉ, thiếu ba
lần thì đánh 40 roi, thiếu bốn lần tâu lên, giao cho bộ Hình xét hỏi, thiếu
năm lần tâu lên bắt sung quân.
1721 Định rõ quy chế việc học, phép thi Khảo tại các trường Quốc
học và Hương học. Tế tửu, Tư nghiệp giảng dạy, con cháu các công th̀ần và nho
sĩ đều được học. Mỗi tháng Học quan ra một bài Tiểu tập thi
khảo học trò đã được vào học do các quan Giáo thụ và Học chính quản lĩnh ; bốn
tháng trọng [tháng thứ nhì trong mùa] Giám khảo ra một bài Đại tập thi
khảo các Sinh đồ và Hương cống do quan ở QTG chịu trách nhiệm. Ai bốn kỳ [nội
khóa, 4 tháng trọng] đều trúng tuyển cho quan QTG đứng ra bảo cử, bộ Lại sẽ
theo thứ tự bổ dụng.
1825 Bộ Lễ bàn việc giảng dạy ở nhà Giám :
a-Hàng năm sau khi khai ấn đầu Xuân một ngày thì khai giảng. Giám
thần mặc mũ áo thường triều đến Di luân đường làm lễ cáo Tiên sư, các Giám
sinh mũ áo bồi bái. Lễ xong Giám thần đến Giảng đường ngồi, các Giám sinh
thay áo, làm lễ lạy chào, lễ xong ngồi nghe giảng.
b- Ngày thường thì trước giảng Kinh Truyện, chính sử, tính lý.
Ngày chẵn học Tứ Thư, Ngũ Kinh, ngày lẻ học sử, chư tử, tính lý. Đặc biệt chỉ
bảo những mối vinh nhục, liêm sỉ, nêu rõ nhân nghĩa, hiếu đễ, trung tín, để
chính tâm thuật.
c- Hàng tháng lấy những ngày mồng 3, 9, 17, 25 làm ngày tập văn
bài. Đầu bài theo văn thể bốn trường hoăc tập xen lối văn thù phụng. Có yết
bảng để khuyến khích. Những người lười biếng bị phạt roi, tội nặng ghi vào học
bạ. Quá dốt bị đuổi, giỏi được thưởng giấy bút.
d- Hàng năm những kỳ khảo hạch thì lấy bốn tháng trọng, do bộ Lễ
làm Chủ khảo, các Giám thần và Đô sát viện chấm.
e- Giám sinh rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, trai gái thì cho xét để
cách đuổi.
f- Hàng năm ba tiết lớn [Vạn thọ, Nguyên đán, Đoan dương] các Giám
sinh đều mũ áo vào sân điện Cần Chính để chiêm bái.
g- Hàng năm đến cuối tháng chạp sau ngày cất ấn một ngày thì nghỉ
học. Cũng tế lễ như ngày khai giảng. Vua chuẩn.
1826 Đổi cấp mũ áo Giám sinh :
1 mũ Tú tài bằng the nam, đằng trước đính một hoa bạc ;
1 áo tràng vạt bằng the nam mầu xanh lam lót lụa trắng ;
1 xiêm lụa mầu lam ;
1 khăn màng lưới [buộc tóc] ;
Hia, tất.
5 năm đổi một lần.
1827 Giám sinh tọa Giám được thăng bổ hay có lỗi phải cách thì mũ
áo thanh khâm nhà nước phát phải chiểu lệ nộp trả, người ốm chết thì cho đem
theo.
1829 Bộ thần bàn : "Phàm người nào được bổ Học sinh thì
quan Giám thần xét lại. Bậc nhất kiêm thông văn thể 3, 4 trường, bậc nhì thông
văn thể 1, 2 trường, bậc ba chưa thông văn thể. Cấp cho bậc nhất mỗi tháng 2
quan tiền, 2 phương gạo. Cấp mũ áo.
Việc Giảng tập thì trước giảng Ngũ Kinh, Tứ Truyện
rồi Chính Sử và Tinh Lý. Tập bài mỗi tháng chia làm
bốn kỳ : ngày 3, 9, 17 và 25.
Về Đề mục thì bậc nhất theo đầu đề mà tập,
bậc nhì và bậc ba thì chế nghĩa 6 đề, tập 1 Kinh, 1 Truyện ; thơ 1 bài, phú 6
vần ; văn sách tập 1, 2 đoạn văn sử. Bậc nhất hạn học 2 năm, bậc nhì hạn 3
năm, bậc ba hạn 4 năm. Nếu mãn hạn mà chưa học đủ văn thể 4 trường, chưa thi,
chưa trúng kỳ khảo sau 3 năm mà không được 1 ưu, 1 bình thì đều cách.
Học lười biếng, nết xấu, thiện tiện rời bỏ nhà trường thì đánh
đòn. Rượu chè, cờ bạc, trai gái bị cách đuổi.
Sau lại cho các con quan văn hưu trí hay đã quá cố từ tứ phẩm
trở lên mỗi viên được 1 người con làm Học sinh. Vua y.
1835 Ban cho QTG 50 bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tiểu Học Thông
Giám, Thi Sách, Chế Nghệ, Luật Phú, Thi Thiếp, Tiểu Học Thể Chú để cấp
phát cho Tôn sinh, Ấm sinh, Sơ học sĩ nhân. Lại sai khắc sách Tứ Thư,
Nhân vật Bị Khảo, Thi vận Tập Yếu in 1000 bộ cấp thêm cho sĩ tử mượn
về xem.
1836 Bộ Lễ tâu : Nhà Di Luân đặt bài vị Tiên sư để làm chỗ cho
học sinh bái vọng. Hàng năm khai giảng, nghỉ giảng, đều làm lễ triều bái ở
đó. Tiến sĩ tân khoa làm lễ Thích điện [cúng tế KT] cũng tại đó. VM ở bên tả
QTG, bái yết ở đó mới hợp nghi.
Từ nay hễ học sinh vào nhà Giám, Giám thần mặc phẩm phục làm
lễ tham yết. Khi các Tiến sĩ làm lễ Thích điện cũng xin cho làm ở sân miếu
mới tỏ được trang trọng, kính cẩn. Còn chỗ bái vọng xin đừng đặt nữa. Vua y.
1837 Ấm sinh học QTG một năm trở lên, xét kỳ
khảo khóa văn thể làm đủ ba trường thì gặp Thi Hương cho được thi không câu nệ
đủ hạn hai năm.
Tôn sinh ở
Giám từ xấp xỉ 13 phải học thuộc lòng giảng tập, 20 tuổi trở lên làm một bài
Kinh, một bài Truyện và văn thể khoa trường, văn sách hỏi về việc đổi hoặc
điều luật. Đến kỳ khảo khóa người nào ở hạng kém thì người ấy và Tư giáo phải
tội như lệ cũng như Giám thần, Học chính và cha anh ngày thường không biết bảo
thêm. Trong một năm và trong một hệ, đuổi về Tôn tịch đến ba người thì Giám
thần, Học chính, Tư giáo phải tội nặng hơn... Còn tư chất chậm dốt, đã lâu
năm sức học không tiến thì bẩm phủ rút về.
Tôn sinh như có việc, Tư giáo chuyển trình Giám thần, Học chính,
gia hạn cho về thăm nhà, hết hạn không đến thì răn phạt mỗi ngày thêm một
bậc, tội chỉ đến 50 roi, nếu vô cớ mà bỏ thiếu, Giám thần, Học chính và cha
anh phải đem trừng trị, dung túng thì giao cho Bộ nghiêm nghị [7].
1838 Bộ Lễ tâu xin chọn một đại thần giữ việc chỉnh lại khuôn
phép [QTG], cử Học sinh cống hàng năm thì lấy những người 40 tuổi trở lên, học
hành khá mới được ứng cử, để ngăn các thói tranh nhau. Sĩ nhân được vào Giám
học mỗi tháng có quan Khoa đạo đến xét. Kẻ nào lười biếng, chơi bời, thiếu
hạnh kiểm thì đuổi ra. Vua y.
1869 Định rõ chương trình QTG :
Tôn sinh chưa
tập đủ thể văn, chưa phân biệt chấm câu, chấm ngắt, do quan Học chính dạy bảo
đã tập đủ thể văn ba kỳ, sát hạch trúng hạng ưu, bình và đã thi Hương thì cho
được cùng học tập với sinh viên ở Giám chờ có tiến bộ lại theo lệ cho làm Tôn
sinh Thượng hạng.
Ấm sinh học
ở Giám phàm người đã đỗ Tú tài thì cho hội đồng khảo hạch [để thi Hương] không
câu nệ về niên hạn.
Hàng năm 2 tháng trọng sát hạch sinh viên, khi chấm xong đem suốt
cả sách học tập nửa năm trước xét kỹ học lực, chăm hay lười, cân nhắc, tính
khấu trừ định hạng.
- Sinh viên học ở Giám đã được xét bổ mà chưa có nơi khuyết, trừ
người tình nguyện ở lại Giám học thì chi học bổng còn thì cho về quê chờ bổ.
- Người mới vào Giám, tuổi 50 trở lên cũng chuẩn cho được chọn bổ
giáo chức.
- Người đã đỗ Tú tài, tuổi 40 trở lên, tình nguyện ra làm việc,
do quan ở Giám tư bộ được sát hạch cùng với Tú tài ở Kinh về các tỉnh để
bổ [8].
D - KHẢO HẠCH
Khảo hạch ở Giám có nhiều loại khác nhau, tùy
trường hợp và trình độ mà đặt câu hỏi khó hay dễ nhưng cũng không ngoài Tứ
thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Nam sử, Bách gia chư tử...
a- Thi vào QTG : Các Học sinh, Cống sinh được phủ, huyện, tỉnh tiến cử
hàng năm hay vài ba năm một lần, phải qua một kỳ thi do quan ở Giám sát hạch
có đỗ mới được vào học. Kỳ thi này cũng để xét trình độ mỗi ngườ̀i mà cho vào
học một trong ba xá sinh, hạng liệt bị thải, hạng ưu, bình thì dù không đỗ thi
Hương cũng được học.
1829 Bộ thần bàn : Người nào được bổ làm Học sinh thì do quan ở
Giám sát hạch chia làm ba hạng :
- Hạng nhất kiêm thông văn thể ba, bốn trường, mỗi tháng được 2
quan tiền, 2 phương gạo [30 bát gạt bằng miệng], 3 cân dầu ;
- Hạng nhì thông văn thể một, hai trường, gạo giảm 1/4 ;
- Hạng ba chưa thông văn thể thì gạo giảm một nửa, dầu được 2,5
cân.
Tháng nhuận cũng cấp.
b- Kiểm soát học lực : Những người học ở QTG hàng năm phải thi vào bốn tháng
trọng [tháng thứ nhì một mùa] để kiểm soát học lực xem có tiến bộ hay không, do
bộ Lễ chủ trì, có các quan Đô Giám Viện và Giám quan phụ trách. Sau mỗi kỳ
thi đều có bản phúc trình lên vua.
c- Thi lấy học bổng : Tùy hạng, do quan ở Giám và quan Học chính phụ trách :
- Tôn sinh thi vào 4 tháng mạnh [tháng đầu một
mùa] : ưu được tăng một nửa học bổng ; thứ giảm 1/3 học bổng ; liệt bị đình
lương ba tháng, 2 liệt đình lương 6 tháng, 3 liệt đuổi hẳn.
Học bổng của Tôn sinh được 2 quan tiền, 2 vuông [= phương] gạo, 3
cân dầu.
- Ám sinh thi vào 4 tháng trọng [tháng thứ nhì
mỗi mùa], chia ba hạng học 2 năm hay 3, 4 năm, học xong thi cũng giống Giám
sinh, được thi Hương, nếu không đủ khả năng làm văn thể trường thi thì bị đuổi.
Học bổng của Ấm sinh có ba hạng :
Hạng nhất [Ấm sinh thượng hạng / Thượng xá sinh] được 2
quan tiền, 2 vuông gạo, 3 cân dầu ;
Hạng nhì [Trung xá sinh] được 1, 5 quan tiền, 1, 5 vuông
gạo, 2, 5 cân dầu ;
Hạng ba [Hạ xá sinh] được 1 quan tiền, 1 vuông gạo, 2 cân
dầu.
- Học sinh, như Ấm sinh, những người được ưu,
bình, chưa đỗ Cử nhân, Tú tài giữ lại QTG, điểm xấu bị đuổi.
- Cử nhân thi vào 4 tháng trọng, được ưu hạng thì
tăng học bổng ; 4 lần thứ thì bị đuổi.
Học bổng của Cử nhân, Cống sinh là 3 quan tiền, 2 vuông gạo, 5
cân dầu, Sau khi thi : hạng ưu tăng 1 quan tiền ; hạng bình giảm 1 cân dầu ;
hạng thứ giảm 1 quan tiền, 2 cân dầu ; 4 lần thứ bị đuổi.
- Giám sinh tọa Giám ốm chết thì cấp tiền tuất.
1826 Lệ cấp học bổng cho Giám sinh tọa Giám :
Ưu : mỗi tháng được 4 quan tiền, 2 vuông gạo, 5 cân dầu ;
Bình : mỗi tháng 3 quan tiền, 2 vuông gạo, 4 cân dầu ;
Thứ : mỗi tháng 2 quan tiền, 2 vuông gạo, 3 cân dầu.
d- Hạch thi Hương thi Hội : Sát hạch ba năm một lần trước mỗi kỳ thi
Hương, thi Hội, để chọn người được phép dự thi. Sĩ nhân phải khai tên tuổi, quê
quán... đệ trình lên bộ Lễ rồi qua một cuộc Đình khiêu [chọn lựa] do quan
trong triều chủ trì.
1837 Ấm sinh học ở Giám từ một năm trở lên, kỳ
khảo khóa làm đủ văn thể ba trường, nếu g̣ặp kỳ thi Hương cho được thi không
câu nệ phải đủ hạn hai năm.
o O o
VM chỉ l̀à nơi thờ cúng để tỏ lòng tôn kính KT cùng các Tiên Nho,
dù đã tu sửa nhiều lần, song không thay đổi mấy so với lúc mới xây năm 1070.
Ngược lại, sự phát triển nhanh chóng, cải tiến không ngừng của QTG chứng tỏ các
triều đại thời phong kiến đã ý thức rõ tầm quan trọng trong việc đào tạo một
tầng lớp sĩ phu kế tiếp nhau lãnh đạo quần chúng, nắm vận mệnh quốc gia
trong tay, lấy Khổng giáo làm mẫu mực, tôn quân quyền để xây đắp một xã hội có
lễ giáo, có quy củ, trật tự, nền nếp, dạy dân ăn ở hiền lương, sống hòa
mục, trọng liêm sỉ, nhân nghĩa, trung tín. Kẻ sĩ có nếp sống bình dị, thanh
bạch, giữ gìn khí tiết, phẩm hạnh, trọng sự hiểu biết và nhân phẩm, một giai
cấp rất có uy tín xưa kia trong dân gian.
Nguyễn Công Trứ năm 1832 làm Bố Chánh Hải Dương. Vua biết ông
nghèo mà thanh liêm nên ban cho 20 bánh trà trong mỗi bánh có giấu một nén bạc
vì tôn trọng lòng khí khái của ông nên không ban bạc gói mà tế nhị giấu bạc
trong các phong trà [9].
Jules Boissière, , Phó Trú sứ Bắc kỳ, có tiếng là thực dân mà cũng
phải nhận xét các quan Việt Nam với những lởi lẽ kính trọng :"Các quan
Việt Nam thích giầu về uy tín và danh dự do những hành động đẹp đẽ của họ
mang lại hơn là giầu về tiền của, ruộng đất. Khắp nước Nam chỉ có độ 100 ông
quan có tài sản trên 100 mẫu ruộng..." [10].
Dân Việt ngày nay vẫn còn nhiều người dù không biết đến KT hay
Khổng giáo nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng phần nào cái giáo dục của KT, quý
trọng những người trí thức, có học vấn, có nhân phẩm...
Sự liên hệ mật thiết giữa QTG và VM không phải vì QTG được xây
ngay đằng sau VM mà chính là vì VM thờ KT mà nhiệm vụ của QTG là truyền bá đạo
Khổng.
CHÚ THÍCH PHẦN HAI
[1]- Hoa
Bằng, "Tài liệu tham khảo về Văn Miếu [QTG] Hà Nội". Đỗ văn Ninh
trích in trong Văn Miếu-Quốc Tử Giám Thăng Long-Hà Nội, .tr
518.
[2] -
Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Thi Hội-Thi Đình, tr 149.
[3] -
Ṇgô Đức Thọ, Văn Miếu-Qiuốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ, tr 40.
[4] -
Phan Thúc Trực, Quốc Sử Di Biên, tr 109.
[5]
- Muốn thi Hội bắt buộc phải đỗ Hương Cống/Cử nhân. Những người chỉ đỗ Tú
tài muốn có danh vị Hương Cống/Cử nhân phải thi Hương lại. Có những người thi
lại nhiều lần vẫn chỉ đỗ Tú tài. Đỗ Tú tài 2 lần gọi là Tú Kép, đỗ ba
lần là Tú Mền, 4 làn là Tú Đụp... đỗ 10 lần gọi là Tú Mười, như Phan Thúc
Trực, tác giả Quốc Sử Di Biên.
[6] -
Đào Duy Anh, Trung Quốc Sử Cương, tr 150, 271-73,
Nguyến Thị Chân Quỳnh, Thi Hội-Thi Đình, tr 413 và
417.
[7]-Đại
Nam Thực Lục Chính Biên, XX, tr 187-88.
[8] - Đại
Nam Thực Lục Chính Biên, XXXI, tr 309-10.
[9]- Trương
Chính, Nguyễn Công Trứ, tr 28.
[10] -
Jules Boissière, tr 100, 426-427.
Phần 3 : Khoa Cử
Bia Tiến sĩ và giếng Thiên Quang
Xã hội ta xưa đại khái chia làm
hai hạng người : quan và dân. Quan là người giúp vua điều khiển guồng máy
chính trị để đem lại trật tự, an ninh cho dân. Quan trường do Nho phái xuất
thân, cách kén chọn người ra làm quan gọi là Khoa cử gồm hai
kỳ thi quan trọng là Thi Hương và Thi Hội-Thi Đình.
Trước khi có Khoa cử kẻ sĩ đều do con đường Phật giáo hay Đạo giáo
mà được lựa dùng.
Khoa cử bắt nguồn ở Trung quốc, manh nha từ nhà Hán. Nước
ta
từ thời Bắc thuộc đã có trường học : Sĩ Nhiếp, Th́ái thú
Giao Châu, Tích Quang, Thái thú quận Giao Chỉ, Nhâm Diên, Thái thú quận Cửu
Chân đều có mở trường dạy chữ Hán và Kinh Truyện nhưng chỉ ở trình độ thấp
để đào tạo những thuộc hạ.
Người Nam muốn học cao phải sang Trung quốc. Nước ta thời ấy đã
có những ngưới đỗ Tiến sĩ, làm quan to như Khương Thần Dực làm Thứ sử Ái
Châu [Thanh Hóa] có hai người cháu du học Tràng An, đều đỗ Tiến sĩ : Khương
Công Phụ đỗ năm 784, Đường Thuận Tông cḥo làm Thứ sử Cát Châu, làm quan đến
Gián Nghị Đại phu Đồng Trung thư môn hạ Bình chương sự ; em là Khương Công
Phục cũng đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Lang trung bộ Lễ, Bắc bộ Thị lang. Có lẽ
vì sĩ tử gốc Việt thành đạt ngày một nhiều nên năm 845 vua Đường hạn chế số
người Nam thi khoa Tiến sĩ không được quá 8 người, thi khoa Minh kinh không
được quá 10 người [1].
Đến nhà Lý ta mới bắt đầu tổ chức các khoa thi để kén người
ra làm quan : "Năm 1075 Lý Nhân Tông hạ chiếu chọn những người giỏi Kinh,
học rộng, mở khoa thi đầu tiên ở nước ta, thi Nho học ba trường gọi là thi
Tam trường, kén người Minh kinh bác học.
Suốt thời nhà Lý chỉ mở có 7 khoa. Phép thi bấy giờ phỏng theo
Trung quốc nhưng còn sơ sài, chưa có cách thức nhất định, chưa phân chia minh
bạch Thi Hương với Thi Hội. Dần dần các triều Trần, Hồ, Lê, Mạc, Nguyễn
đều cải sửa cho chế độ Khoa cử hoàn hảo hơn.
Khoa cử Việt Nam thọ được 9 thế kỷ, thịnh nhất dưới triều Lê
Thánh Tông. và đến năm 1919 thì bị bãi bỏ dưới thời vua Bảo Đại nhà Nguyễn,
tức là thời Pháp thuộc.
Khoa cử kén người hỏi về thuật trị nước của đạo Nho, cũng gọi là
đạo Khổng[2] trọng
Đức hơn trọng Tài. QTG là nơi huấn luyện Nho sĩ phép trị nước theo đạo Khổng.
Văn bài thì toàn viết bằng chữ Hán, chữ Nôm bị khinh rẻ là
"nôm na mách qué", chỉ được dùng có vài lần trong các khoa thi :
- Năm 1565 thời Mạc Mậu Hợp, đề mục kỳ đệ tứ khoa Tiến sĩ là một
bài phú Nôm, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử Khoa cử nước ta ;
- Năm 1789,mùa thu, vua Quang Trung cho tổ chức khoa thi Tuấn
sĩ [thi Hương] ở Nghệ An, đây là khoa đầu tiên văn bài viết toàn chữ
Nôm tuy đề mục vẫn bằng chữ Hán. Sai Nguyễn Khải Xuyên [tức La-Sơn Phu-Tử
Nguyễn Thiếp] làm Đề Điệu [Chủ khảo]. [3]
Nhà Nguyễn lại bỏ chữ Nôm, thi toàn dùng chữ Hán và phải đến
thời cải cá́ch [1909] mới có những bài thi viết bằng quốc ngữ, 1 bài địch
chữ Pháp, dưới sự ép buộc của Chính phủ Bảo hộ.
Khoa cử, gồm cả Thi Hương và Thi Hội, được tổ chức trung bình 3
năm một lần trừ phi có những ân khoa ăn mừng vua mới lên
ngôi, sinh hoàng tử hay sinh nhật của vua v.v... Thời Nguyễn, Thi Hương thường
được tổ chức khoảng tháng chín năm trước, Thi Hội tháng ba năm sau. Thi Hương
kén Hương Cống / Cử nhân, Thi Hội kén Tiến sĩ.
I- THI
HƯƠNG
A - TRƯỜNG THI
Chữ trường có ba nghĩa khác nhau :
a- "Trường" trỏ cái trường xây trên một khu đất có rào
xung quanh, bên trong có chỗ cho học trò cắm lều ngồi thi, chỗ ở và chỗ làm
việc cho quan trường cùng các nha lại giúp việc. Thí dụ : Trườ̀ng Nam Định.
b- "Trường" trỏ các kỳ thi của mỗi khoa. Thí dụ . Năm
1807 định phép thi Hương 4 trường / 4 kỳ : Trường 1 thi Kinh nghĩa ; Trường 2
thi chiếu, biểu, chế ; Trường 3 thi thơ phú ; Trường 4 thi văn sách.
c- "Trường" trỏ vào tên trường thi Hương của sĩ tử. Vì
thi Hương chỉ được tổ chức trung bình 3 năm một lần nên số sĩ tủ quá đông
phải chia ra nhiều trương ở rải rác trong nước. Số trường tăng hay giảm tùy
thời. Thời Gia Long khoa đầu tiên năm 1807 chỉ có 6 trường : Nghệ An, Thanh
Hoa, Kinh Bắc sau gọi là Bắc Ninh, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam.
Khi Pháp chiếm trường thi Hà Nội, sĩ tử trường Hà phải thi ghé
trường Nam Định, chung với sĩ tử trường Nam Định, nên trường thi ấy lấy tên
chung là "Trường Hà-Nam".
Học trò bắt buộc phải thi ở trường mà quê hương mình phụ thuộc,
vì thế gọi là thi Hương. Nhưng phải là quê ông cha mình. Tiểu sử
Nguyễn Du thường chép ̉ông đã "thi đỗ Tam trường" nhưng không ai
biết là "tam trường thi Hương hay tam trường thi Hội. Thi Hương có nhiều
trường nhưng thi Hội chỉ có một trường thi ở Kinh đô, vì thế gọi là Thi
Hội.
Có người viết Nguyễn Du thi ở Sơn Nam, có nghĩa tin là Nguyễn
Du thi Hương, nhưng Sơn Nam không phải là quê hương Nguyễn Du mà là quê vợ,
Nguyễn Du không có quyền thi ở đấy, nếu cứ thi bừa, khi phát giác sẽ bị
nghiêm trừng. Nói Nguyễn Du thi ở trường Nghệ thì còn có lý vì Nguyễn Du
người Hà Tĩnh.
Vấn đề đặt ra vì tiểu sử Nguyễn Du chỉ viết ông đỗ Tam
trường mà không nói rõ Tam trường thi Hương hay Tam trường thi Hội, cũng không
cho biết thi đỗ năm nào. Phần đông cho vì Nguyễn Du chưa có học vị tất
nhiên là Tam trường Thi Hương và gọi ngay ông là Sinh đồ [đỗ̉ Tứ trường gọi
là Hương Cống. tức Cử nhân thời Nguyễn]. Có người còn gọi ông là "Tú Du"
[danh từ Tú tài thay cho Sinh đồ chỉ đến thời Minh Mệnh mới
dùng mà Nguyễn Du thì sống thời nhà Lê]. Thật ra Nguyễn Du được hưởng chế
độ đặc biệt dành cho con quan đại thần tức là được phép thi nơi cha mình trọng
nhậm không cần phải về thi ở trường Thi Hương quê mình. Cha ông là Nguyễn
Nghiễm, quê ở Tiên Điền [Nghệ Tĩnh], làm quan đến chức Tể tướng ở Thăng Long
nên ông có thể đặc cách được phép thi hương ở Thăng Long không phải về thi ở
Trường Nghệ. Nhưng con quan đại thần còn được hưởng chế độ tập ấm, miễn thi
Hương, sau khi qua một kỳ sát hạch, đỗ là được thi Hội không cần phải
là Hương Cống. Trong bài "Vì sao tôi nghiên cứu Khoa cử", viết
năm 2000, tôi đã đặt câu hỏi "Nguyễn Du đỗ Tam trường thi Hương hay thi Hội
?" và đi đến kết luận : "Nguyễn Du vì là con quan đại thần,
được tập ấm, miễn thi Hương, chỉ có thể thi Hội ở Thăng Long năm 1781, 17
tuổi". Mấy năm sau tôi mới được đọc trong Tập San Văn
Hiến, số "Tưởng niệm đại thi hào Nguyễn Du" [tr.
20], tác giả Lê Xuân Giáo cho biết Cụ Nghè Mai, cháu đời thứ năm của
Nguyển Du xác nhận : "Năm 18 tuổi [tuổi ta] tiên sinh [từ quê] trở ra
kinh đô dự thi Hội năm Quý Mão [1783] được vào Tam trường, có phân số [điểm]
nghĩa là được liệt vào hạng khá, sẽ được bổ dụng".
Trường thi đời Lê so với thời nhà Nguyễn có nhiều chỗ khác
nhau nhưng là "đại đồng tiểu dị", những cái chính như nhà Thập
đạo, khu học trò cắm lều, chòi canh v.v... đều phải có tuy xếp đặt khác nhau.
- Trường thi thời nhà Lê dưới ngòi bút của Nguyễn Triệu Luật [́Bốn
con yêu và hai ông Đồ]:" Đời Lê, ba năm một khoa mới dựng trường
thi, nhà tranh rào nứa. Sau mỗi khoa phá đi lấy đất trồng trọt. Đất
ấy là đất công, mỗi người chia nhau làm một năm, không ai chịu tro phân,
thỉnh thoảng lại phải nghỉ một vụ để thi nên không ai thiết trồng trọt ở
khu ấy [...] kém mầu, kém chăm nom, cây cối leo heo, xơ xác, Giữa vụ cây
đang vươn lên thì khu ấy lờ mờ in thành một hình vuông, những cây kém mầu
cằn cỗi ở giữa một cánh đồng xanh tốt".
Theo Lê Quý Đôn, Kiến Văn Tiểu Lục, thì chung
quanh ngoài trường trồng rào tre dầy, trong chia ra bốn từng, từng trong
cùng̀ là nơi ở của các quan Đồng khảo, Phúc khảo và Giám khảo [Nội trường] ;
từng giữa là nơi ở của các quan Đề Điệu, Giám thí và những người chấp sự, đều
trồng rào dầy ; hai từng bên ngoài là nơi sĩ tử làm bài thi, trong hai từng
này chỉ trồng rào thưa. Khu này có hai con đường chạy dọc ngang thành hình
chữ thập, chia ra bốn phần [bốn vi], ngay trên điểm hai con đường gập nhau
nhau dựng một nhà tranh, nhà Thập đạo, để tiện việc thu quyển của sĩ tử.
- Thời nhà Nguyễn, năm 1845 vua Thiệu Trị bắt xây trường thi Nam
Định ở xã Năng Tĩnh, phía Tây tỉnh thành, gồm 21 tòa nhà bằng gạch ngói cho
quan trường song chỗ cho học trò thi thì vẫn để đất trống cắm lều. Trường
có 7 chòi canh : 4 cái nằm ở 4 góc, 3 cái nằm trong khu học trò thi,
chòi chính giữa ở cạnh nhà Thập đạo dành cho quan Giám sát Ngự sử Ngoại trường
ngồi canh ngày thi. Ngoài c̀̉ổng trường cũng như trước những cửa thông giữa
Nội trường và Ngoại trường đều có lính canh gác ngảy đêm trong suốt thời
gian có khoa thi, khoảng 5 tuần kể từ ngày quan tiến trường.
- Chi tiết trường thi thời Nguyễn, đại để chia làm hai phần
chính :
1- Khu học trò cắm lều ở ngoài cùng, có hai con đường Nam Bắc, Đông Tây cắt
nhau thành hình chữ thập, chia khu đ̣ất thành 4 vi Giáp, Ất, Tả, Hữu, có rào
nứa ngăn cách. Giữa chỗ hai con đường gập nhau người ta xây nhà Thập đạo là nơi
quan trường họp để ra đề thi và cũng là nơi học trò lấy dấu Nhật trung,
cánh quyển [quyển bị tì ố phải đổi quyển mới] hay nộp quyển khi làm xong
văn bài.
2- Khu Khảo quan : Phía trong lại chia ra hai khu chính :
a- Nội trường ở trong cùng là chỗ ở và làm việc của các ông Sơ
khảo, Phúc khảo, Giảm khảo, Giám sát Ngự sử Nội trường cùng lại viên. Khi có
việc cần thương nghị thì họp ở Giám viện.
b- Ngoại trường ở bên ngoài, chỗ giáp với khu học trò cắm lều,
dành cho các ông Chánh, Phó Chủ khảo, Phân khảo cùng Giám sát Ngự sử Ngoại
trường và lại phòng. Hội đồng họp ở Thí viện.
- Khu Đề tuyển bé nhỏ, nằm lọt ở giữa Ngoại trường và Nội
trường, rào kín chỉ chừa một lối thông ra Ngoại trường, là nơi dành cho các
ông Đề tuyển cùng lại phòng. Công việc của các ông Đề tuyển là rọc
phách [chỗ có tên học trò ở mặt quyển] cất đi trước khi giao quyển
thi cho các quan chấm, chấm xong kháp phách mới biết tên
tác giả quyển thi ; lập danh sách những người đỗ v.v... Vì chỉ các ông Đề
tuyển giữ việc kháp phách mới biết tên tác giả những quyển thi nên người ta
cố ý chọn những người ít chữ làm Đề tuyển để không thể sửa bài hộ học trò
được. Khu này nghiêm cấm không cho ai bén mảng tới để tránh những chuyện tư
túi.
Trường thi Nam Định thời Nguyễn
Họa đồ
Trần văn Giáp
B - CHUẨN BỊ - ĐIỀU KIỆN
1- Thí sinh trước khi thi Hương phải thi Hạch, có đỗ
Hạch mới được dự thi Hương. Thi Hạch đỗ đầu được vinh hạnh gọi lả "Đầu
Xứ".
a- Tuổi tác không hạn định. Khoa 1900, trường
Nghệ có cụ Đoàn Tử Quang 82 tuổi đỗ Cử nhân thứ 29. Văn bài đáng lấy đỗ Á
nguyên [đỗ thứ nhì] hiềm vì quên không viết "Cộng quyển nội" ở
cuối quyển thi, phạm trường quy, lẽ ra bị đánh hỏng song nhờ Chủ khảo Khiếu
Năng Tĩnh làm sớ tâu xin nên được đỗ áp bét. Khi dự yến Tân khoa, Đoàn Cử nhân
không quên đem phần về cho mẹ lúc ấy 98 tuổi !
Một Thi sinh 60 tuổi ̣đeo ống quyển
Trường Nam Định, Khoa
Nhâm Tý (1912)
b- Cấm
thi : Những người làm phản, làm giặc, trộm cướp hay làm
nghề "xướng ca vô loài" thì con cháu ba đời sau cũng không
được đi thi. Đào Duy Từ [1572-1634] vì người cha coi đội nữ nhạc trong
cung Lê Anh Tông nên bị đánh hỏng. Đào Duy Từ uất ức mới bỏ vào Nam giúp
Chúa Nguyễn, trờ nên đệ nhất công thần nhà Nguyễn.
Thời Pháp thuộc Giáo dân bị coi là phản nghịch,
theo Pháp chống lại triều đình, nên lúc đầu cũng không được phép đi thi.
Những người có đại tang không được thi vì có
liên quan đến đạo hiếu của Nho giáo. Năm 1819 trường Gia Định có người giấu
tang đi thi đỗ tam trường, việc phát giác, bị tội đồ.
Quân nhân : Nhà Trần rất trọng tinh thần thượng võ. Người làng Tức mặc,
quê hương của các vua nhà Trần, đặc biệt bị cấm không được học văn nghệ sợ
khí lực kém đi, cốt để giữ tinh thần thượng võ, nêu cao gương sáng cho toàn
quốc.
Và tất nhiên phụ nữ cũng không được đi thi trừ
trường hợp đặc biệt của bà Nguyễn thị Du cải nam trang thi đỗ Trạng nguyên với
nhà Mạc ở Cao bằng khoảng đầu thế kỷ XVII [4].
c- Nộp quyển : Những người hội đủ điều kiện được phép nộp quyển tức là một
cách ghi tên để đi thi. Trước kỳ thi độ vài ba tuần Thí sinh nộp 3 quyển vở
[trù liệu cho 3 kỳ thi đầu] cho quan Đốc học hàng tỉnh. Nếu được vào kỳ
Phúc hạch sẽ nộp quyển thứ tư. Mặt quyển phải khai tên họ, quê quán, lý lịch
ông cha ba đời v.v...
Năm 1462 định lệ những người đi thi phải cung khai rõ : xã,
huyện, tên tuổi, chuyên trị Kinh nào cùng là cước sắc ông cha ba đời.
Xã trưởng phải làm giấy bảo kết, chịu trách nhiệm về lý lịch, hạnh kiểm
người đi thi. Những người bất hiếu, bất nghĩa, điêu toa, loạn luân v.v... dù
giỏi cũng không được phép đi thi.
Ống quyển là cái ống gỗ có nắp ̣để ̣đựng quyển thi khỏi bị tì ố, các
nhà Nho trân trọng đeo ở trước ngực, đó là một vinh dự không bao giờ để cho
người khác mang hộ như lều chõng.
d- Lểu chõng :
Trước khi lên đường Thí sinh phải chuẩn bị lều, chõng, yên [bàn thấp kê trên
giường để ngồi mà viết].
Một cái lều
Trường Nam Định (1912)
Phải dự bị một cái tráp trong đựng thức ăn, giấy, nghiên, bút,
mực và không quên dao, kéo, dùi đẻ có đủ dụng cụ đóng quyển mới, phòng trường
hợp bị cánh quyển tức là phải hủy bỏ quyển cũ vì lỗi lầm
hay tỳ vết. Quyển cũ nộp lại phòng còn quyển mới sau khi cung khai tên họ,
lý lịch...phải xin lại dấu Giáp phùng ở nhà Thập đạo.
Trường thi có khi ở xa, cá́ch sông qua đò, phải chuẩn bị tiền lộ
phí, tiền trọ... tốn kém nên họ hàng, bạn bè hay giúp đỡ "tiền đò"
để Thí sinh chi dụng trong suốt thời gian thi dài khoảng 5 tuần.
2 - Khảo quan - Thời Nguyễn : Độ 3 tuần trước ngày
thi, triều đình dựa theo số sĩ tử mỗi trường mà cắt cử khảo quan nhiều hay
ít. Khảo quan chia ra 2 ban chính :
a- Ban Giám khảo phụ trách việc chấm thi lại chia
ra :
Nội trường gồm những người chấm trước tiên, theo thứ tự
là các Sơ khảo, Phúc khảo rồi đến Giám khảo ;
Ngoại trường gồm Chánh, Phó Chủ khảo và các Phân khảo.
Lễ Xướng danh , Toàn ban Giám khảo ,
Trường
Nam Định,
Ảnh
Salles 27/12/1897
Chủ khảo Cao Xuân Dục
Lễ Xướng
danh ,Trường Nam Định,
Ảnh
Salles 27/12/1897
Giảm khảo Cao XuânTiếu, con Cao Xuân Dục
Lễ Xướng danh ,Trường
Nam Định,
Ảnh Salles 27/12/1897
b- Ban
Giám sát có trách nhiệm canh phòng, giám thị cả quan trường lẫn học
trò, thấy điều gì trái phép phải đàn hặc, nếu không thì chính mình bị tội.
Ban này gồm các Giám sát Ngự sử, các viên Thể sát, Mật sát và lính canh.
Giám sát Thân Trọng Koái,
Lễ Xướng danh ,Trường
Nam Định,
Ảnh Salles 27/12/1897
- Giữa Nội trường và Ngoại trường là chỗ ở và làm việc của các Đề
tuyển và lại phòng. Hai ông Chánh, Phó Đề Tuyển phụ trách những việc biên
chép, rọc phách [cắt phần tên học trò trên mặt quyển, phần
ấy gọi là cái phách] cất đi trước khi giao quyển cho quan trường
chấm, kháp phách [đem phách trả lại quyển thi để biết tên
tác giả], yết bảng v.v... có các lại phòng phụ giúp.
c- Lễ Tiến trường : Các quan Kịnh được cắt cử
chấm thi thu xếp lên đường đến tỉnh có trường thi, vào ra mắt quan Tổng
đốc đầu tỉnh rồi tức khắc làm lễ Bái vọng [vua] và cử hành lễ Tiến
trường : đám rước các quan vào trường thi có đầy đủ chiêng trống, võng lọng,
cờ xí... Vào trường thi rồi các quan phải ở luôn trong ấy cho đến khi thi
xong mới được ra, khoảng 5 tuần.
Khảo quan ở phòng riêng, cửa khóa trái, hàng ngày có người đưa đồ
ăn vào, không được đi lại, trò chuyện với nhau, không được đem mực đen vào
trường thi ph̀òng sửa bài giúp học trò.
Cao Bá Quát làm Sơ khảo trường Thừa Thiên năm 1841 cùng Phan Nhạ
lấy muội đèn sửa hộ bài cho 24 quyển, vớt được 5 người phạm trường quy. Chủ
khảo Bùi Quỹ thấy Quát viết đẹp gọi ra Ngoại trường viết bảng. Nguyễn văn
Siêu làm Phân khảo giữ̉ Quát ngủ một đêm ở Ngoại trường. Việc bị Giám sát Hồ
Trọng Tuấn đàn ḥặc. Án xử : Quát, Nhạ bị tội tử hình, Siêu phạt trượng và
tội đồ, Chủ khảo bị cách chức, Giám khảo bị giáng chức. Vua Thiệu Trị cho là
Quát chỉ muốn cứu vớt những thí sinh có tài mà lỡ phạm luật trường quy, lại
thương Quát là người tài giỏi, tha án xử trảm, giảm xuống "giảo giam
hậu" [cho chết được toàn thây, kể như nhẹ hơn bị chặt đầu] sau lại
đổi ra "xuất dương hiệu lực" theo một phái đoàn đi Tân Gia Ba lấy
công chuộc tội. Siêu được tha tội đồ [đi đầy]. 5 người thi đỗ phải thi lại cả
ba kỳ, quyển đều khá, lại trả về bảng Cử nhân.
3 -Nhật kỳ : Ngày thi do triều đình ấn định tùy theo số học trò và số khảo
quan. Kỳ đệ nhất bao giờ cũng dài vì học trò đông, kỳ đệ nhị một số lớn bị
loại, thời gian chấm nhanh hơn, kỳ đệ tam còn nhanh ḥơn nữa. Đồn rằng có
ông quan chấm thi hết việc, bị giam trong phòng, ngồi buồn phải đánh đáo
với người hầu mình.
C - ỨNG THI
1- Lễ Điểm Danh là lễ gọi tên học trò vào trường sáng hôm
thi. Từ sáng sớm các ông Ngự sử Giám sát lên chòi canh, các Khảo quan mặc triều
phục lên ghế tréo trước cổng mỗi vi để chứng kiến lễ Điểm danh.
Sĩ tử nhập trường
1912 -
Trường Nam Định, khoa Nhâm Tý
1912 - Trường thi
Nam Định, chòi canh, lều sĩ tử
Thời Nguyễn, trước ngày thi độ một tuần, quan Đốc học chuyển
quyển thi của học trò đến trường thi. Sau lễ Tiến trường ông Đề Tuyển
Ngoại trường sai lại phòng biên tên học trò vào sổ, đóng dấu Diện tên
thí trường lên mặt quyển thi, ông Đề Tuyển Nội trường phụ trách việc đóng
dấu Giáp phùng lên giữa trang 2 và trang 3. Chia đều học trò
ra 4 vi bằng cách chép tên học trò lên giấy trộn đều rồi chia ra 4 phần,
dán tên lên bảng yết danh để yết trước cổng mỗi vi cho học trò biết ai vào
vi nào. Quyển thì đóng hòm riêng, giao cho Ngoại trường để lúc điểm danh
phát cho học trò đem vào trường làm bài.
2- Trường quy- Trước một ngày treo bảng Yết danh và bảng Trườngquy.
Trường quy là những luật lệ học trò phải tuân theo khi làm văn bài, một phần
để phòng ngừa gian lận, một phần để tỏ lòng tôn kính vua và các quan
trường. Thí dụ :
- Phạm huý là phải kiêng không viết tên vua,
hoàng hậu... gập chữ "Ánh" thì phải tách ra bên tả viết chữ
"nhật" bên hữu chữ "ương".
- Khiêm cung là khi làm bài tự xưng mình với quan trường thì
viết chữ "sĩ" nhỏ bằng nửa chữ thường và lệch về bên hữu để tỏ ý
khiêm tốn.
- Dấu Giáp phùng là con dấu mang những chữ
"văn hành công khí" [Cái cân văn là của chung]. Dấu này đóng ở
giữa khe trang 2 và trang 3 trước khi phát quyển cho học trò, mục đích để kẻ
gian không thể tháo ra đánh tráo những bài làm sẵn từ trước. Chỗ có dấu Giáp
phùng phải viết đè lên trên.
- Dấu Nhật Trung là con dấu đóng trong trường
thi vào khoảng giữa trưa sau khi đã viết được ít nhất hai dòng rưỡi vảo
quyển văn thì đến nhà Thập đạo xin dấu này để chứng tỏ bài làm trong
trường. Viết bài gập dấu Nhật trung không được viết đè lên.
Dấu Giáp phùng và dấu Nhật trung
Quyển thi khoa 1913
- Cộng quyển nội là làm bài xong cuối quyển
phải ghi rõ số chữ bị xóa hay sửa, móc... trong bài rồi viết "Cộng
quyển nội", không được quên. Cũng không được phép sửa chữa quá 10 chữ.
Sau khi nộp quyển, lại phòng đóng dấu lên dòng cuối,
1913 - Con dấu của Thí trường ở trang cuối chứng nhận khi nộp
quyển
Không tuân theo những luật lệ ấy thì gọi là "phạm trường
quy" sẽ bị đánh hỏng dù "văn hay, chữ tốt" như Tú Xương
:"Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy !".
3- Đề mục - Sau khi học trò vào trường, cổng trường khóa lại, trừ
trường hợp đặc biệt không ai được ra vào nữa. Các quan họp ở nhà Thập đạo để
ra đề mục rồi đem yết ở "nhà bảng" mỗi vi, đánh trống báo hiệu cho
sĩ tử biết mà đến chép ̣đầu bài vào quyển thi trước khi làm bài.
Mỗi khoa có ba kỳ thi chính hỏi về :
- Kinh nghĩa rút từ các kinh sách ;
- thơ phú, không phải loại thơ thù tạc khi trà dư tửu
hậu mà để xét tài ứng đối mẫn tiệp, rất cần những khi ngoại giao, đi sứ
Trung quốc để không làm nhục quốc thể, như trường hợp Thám hoa Giang văn
Minh [1573-1639] khi cầm đầu phái đoàn đi sứ [1637-1639] sang nhà Minh
tuế cống, Minh Sùng Trinh cố tình làm nhục không ngờ bị Giang văn Minh ứng
đối rất đanh thép, tài tình khiến vua tôi nhà Minh căm tức đem giết
đi [5].
- văn sách hỏi về thuật trị nước.
+ Một thí dụ : Đề thi Khoa Tân Mão, 1891 :
- Trường 1 thi Kinh nghĩa, 7 đề [2/11/1891, tức mồng 1 tháng 10 âm
lịch] :
a- "Nhân dữ nghĩa" [Luận ngữ] = nhân và nghĩa.
b- "Lục tam đức" [Kinh Thư] = "lục" là
loại thứ 6 trong "cửu trù" tức 9 pháp độ của Cơ Tử nhà Ân trình bầy
để trị thiên hạ ; "tam đức" là chính trực, cương khắc và nhu
khắc.
c- "Tể tể đa sĩ" [Kinh Thi] = nhan nhản nhiều
kẻ sĩ.
d- "Trịnh Bá sử Uyển lai quy Phường" [Kinh Xuân Thu]
= Trịnh Bá sai Uyển đến nước Lỗ đổi đất Phường [thuộc đất Trịnh nhưng gần
Lỗ] lấy ấp Hứa [thuộc Lỗ nhưng gần Trịnh].
e- "Cố thiên hạ quốc gia khả đắc chi chính giã"
[Trung Dung] = cho nên thiên hạ và quốc gia có thể chính đáng mà
không sai lệch được.
f- "Tần thệ Việt : nhược hữu nhất cá thần" [Kinh
Thư] = nếu có một người bầy tôi giỏi mà vua biết dùng thì có thể gây
được nền thịnh trị cho nước.
g- "Dục vi thần tận thân đạo" [Mạnh Tử] = muốn
cho người làm tôi biết trọn bổn phận làm tôi.
- Trường 2 thi thơ
phú [19-11-1891 tức ngày 18 tháng 10 âm lịch] :
a- "Đình liệu quang thi", thất ngôn, đắc
"đình" tự" [Kinh Thi, Tiểu nhã] = bóng
̣đuốc đình liệu, thơ 7 chữ, vần "đình" = Thời xưa có việc quan
trọng thì đêm đốt củi để soi sáng, gọi là đình liệu.
b- "Sạ hữu tự quân tử phú" [Luận Ngữ] = trong
thuật bắn cũng có lối bắn cho thấy cá́ch cư xử của người quân tử.
- Trường 3 [29/11/1891 tức
ngày 28 tháng 10 âm lịch] : 1 đề văn sách rất dài.
- Trường 4 : Phúc hạch lúc đầu chỉ phải làm một bài thơ để so tự dạng với quyển
văn xem có đúng cùng một người viết kkhông, về sau phải thi lạị tất cả các đề
mục.
Phúc hạch khoa Tân Mão ngày 6/12/1891 tức mồng 6 tháng 11 âm
lịch] :
a- Kinh nghĩa : "Sâm hồ ! ngô đạo nhất dĩ quán chi. Tăng Tử viết
:"Dụy" [Luận ngữ] = Khổng Tử nói :"Ngươi Sâm [tên của
Tăng Tử] kia ơi, đạo của ta chỉ lấy một lý suy ra thìthông suốt được
cả". Tăng Tử thưa :"Dạ".
b- Phú :
"Long hổ bảng phú...", "đắc nhân" vi vận [chữ ở Vân
kỳ loại lãm]. Lục Tuyên công làm Chủ khảo, chọn được bọn Hàn Dũ, Âu Dương
Thiềm đều lã những anh tuấn vĩ kiệt trong thiên hạ nên người ta gọi là
"Long hổ bảng".
c- Một
đạo Văn sách dài. [6]
4- Văn bài: Ngoài Kinh nghĩa, thơ phú, văn sách Thí sinh có khi còn phải
thi những môn khác như chiếu, biểu, chế v.v...mỗi môn có một
lối làm văn riêng.
a- Kinh nghĩa là giải thích rộng ra những chỗ uẩn súc trong một câu kinh sách
mà quan trường chọn làm đầu đề, phải phát minh những ý nghĩa còn nghi hoặc
trong sách để làm cho nghĩa Kinh thêm sáng tỏ.
Kinh nghĩa thường được chọn làm kỳ thi đầu tiên để loại bớt ngay
từ đầu những người quá kém. Thời nhà Nguyễn mỗi kỳ thi có tới 5, 7 hay 10, 12
đề, học trò được tùy ý lựa chọn :
- Chuyên kinh chỉ cần làm 1 bài Kinh, 1
bài Truyện [trong Đại Học phần Truyện là
lời chú giải của Tăng tử].
- Kiêm trị là
làm tất cả mọi đề, chỉ những người giỏi mới dám làm Kiêm trị.
Ở Trung quốc, thời xưa kinh nghĩa viết đối nhau hay văn xuôi
đều được, từ đời Minh, thế kỷ XV, lối Bát cổ [văn 8
vế/đoạn, ở những đoạn 4, 5, 6, 7đều có 2 vế đối nhau] cũng gọi là văn biền
ngẫu, thông dụng nhất trong trường thi.
Năm 1728 Tham tụng Nguyễn Công Hãng [1680-1732] cho lối văn kinh
nghĩa trước chỉ rập theo khuôn sáo cũ, nếu dùng lối Bát cổ có thể thu được
những người có t̀ài lạ, định đến kỳ kinh nghĩa thi Hương, thi Hội sẽ dùng
văn Bát cổ nhưng chưa kịp thi hành đã mất ngôi Tham tụng.
Phạm Đình Hổ, trong Vũ Trung Tùy Bút, nhận định
:"Không phải người học quán xuyến cả Kinh Truyện thì
không thể hạ bút viết được lối ấy". Tuy nhiên, ở Trung quốc vua nhà
Thanh từng phê bình "lối văn Bát cổ không quan thiết gì đến phép trị
thế" và ở nước ta cũng có nhiều người không hoan nghênh.
b- Thơ có 2 loại :
- Cổ phong / Cổ thể không có quy tắc nhất
định về niêm luật, Có từ trước đời Đường.
- Đường luật / Cận thể cũng gọi là thơ thất
ngôn bát cú là loại thơ có 8 câu, mỗi câu 7 chữ, đặt ra từ đời Đường,có
niêm luật, bố cục nhất ̣định.
- Phú có 2 thể :
Phú cổ thể chia
làm 2 loại : thể Ly tao và thể Văn tuyển.
Phú Đường luật .
- Chiếu là lời vua ban cho thần dân để hiểu biết hiệu lệnh.
- Chế là lời vua ban khen.
- Biểu là lời thần dân dâng lên vua để bầy tỏ điều gì.
Có 2 thể loại :
Cổ thể :
văn xuôi, không vần ;
Cận thể / Tứ
lục : mỗi câu chia làm 2 phần : trên 4 chữ, dưới 6 chữ hay ngược lại.
Có niêm, có đối.
c- Văn sách là
môn thi quan trọng nhất của mỗi khoa. Sách có nghĩa là mưu
kế, hoạch định. Đề mục thường hỏi về chính trị, quân sự, trách nhiệm của vua
quan, phép sử dụng nhân tài, tác dụng của học hành, giáo hóa v.v... Đề mục gồm
2 phần :
- Cổ văn hỏi các điển tích trong kinh sử thời
xưa ;
- Kim văn hỏi tình thế đương thời so với đời
xưa.
Làm Cổ văn phải thích rộng ra, dẫn chứng gẫy gọn, làm Kim văn
bầy tỏ ý kiến, mưu hoạch thực dụng, biện luận dẫn chứng.
Đời Hồng Đức [1470-1497], Lê Thánh Tông, hỏi một cách bao
hàm rộng rãi, lấy được nhiều người tài giỏi, học quán xuyến cổ kim. Từ đời
Quang Hưng [1578-1599] trở đi chuyên hỏi những câu dài, hiểm hóc. Phải đọc
kỹ đầu bài để nhận ra những chỗ hỏi mẹo mà tránh.
Nói chung thì làm bài phải khen cổ nhân và chê hậu nhân :
Đường, Ngu, Tam đại thì khên
Hán, Đường trở xuống thì lèn cho đau.
Thời nhà Nguyễn cũng rập theo khuôn mẫu đời Lê Trung Hưng.
Năm 1832 định lệ ra đề độ 300 chữ thi bài làm phải khoảng
1000 chữ.
5- Kết quả
a- Luật lệ chấm thi :
- Nội trường : Ngày
thi ông Đề Tuyển Ngoại trường phải ra nhà Thập đạo ngồi trông cho lại phòng
nhận quyển học trò làm văn bài xong đem nộp, bỏ vào hòm, hết giờ niêm phong
lại. Những quyển nộp sau khi khóa hòm thì đóng dấu Ngoại hàm vào
trang đầu để riêng ở ngoài +không chấm, rồi giao cả cho ông Đề Tuyển Nội
trường trông cho lại phòng rọc phách tức là vẽ lên mặt quyển
1 hay 2 vòng tròn to nhỏ khác nhau, 2 bên cạnh viết 2 dòng chữ ngắn giống
hệt nhau [thí dụ : Giáp nhất hiệu, hay Kiền
lục hiệu...] rồi gấp tờ giấy làm đôi theo chiều dọc, xé lấy nửa có tên
họ cất đi ̣để quan trường không thể nhận ra bài do ai viết thì chấm mới
công bằng. Nửa xé đi gọi là cái phách đem cất đi, đợi
khi chấm xong thì hồi phách / kháp phách tức
là đem ráp với nửa còn lại trên mặt quyển, hễ ăn khớp là biết tên người
viết.
Cung khai tên tuổi và đường kẻ để rọc phách
Quyển thi khoa 1913
Rọc phách rồi ông Đề Tuyển cho đóng hòm quyển thi chuyển
vào Nội trường. Ông Giám khảo phải xét dấu niêm phong hòm trước
khi phân phát cho các ông Sơ khảo chấm trước nhất bằng son
ta, thứ đến các ông Phúc khảo chấm lại bằng mực xanh rồi
ông Giám khảo duyệt bằng mực mầu hồng đơn. Tất cả phải
đề rõ tên họ, chức tước và số điểm phê rồi ký tên.
1913 - Mặt quyển thi Hội - Cung khai tam đại...
Nguyễn Quảng Tuân
dịch.
Các ông Sơ khảo, Phúc khảo chấm thấy quyển ǹào phạm trường quy
thì ngừng không chấm nữa, cài vào chỗ ấy mảnh giấy nhỏ ghi tội trạng như
phạm húy, khiếm tị v.v...những ông chấm sau xét thấy quả có tội thì chỉ ký
tên vào đầu quyển chứ không chấm. Những quyển ấy sau khi hợp phách cũng
phải làm sổ đưa ra Ngoại trường để xét ai tội nặng đáng nêu tên lên
"bảng con", thường là những tội phạm húy [viết tên
vua, tên cung vua...], khiếm đài [gập chữ cỏ liên hệ đến bản
thân vua phải đài lên cao một hay hai tầng để tỏ ý kính trọng], bất
túc [làm bài bỏ giở]... những quyển kia chỉ bị đánh hỏng. Tên bị nêu
lên bảng con là một cái nhục.
Chấm thi chia 4 hạng chính : ưu, bình, thứ, liệt, cũng
có khi chia ra nhiều hạng hơn như : thứ thứ, thứ mác [bên chữ
thứ có có một nét như hình cái mác, nghĩa là "tạm được"], thứ
cộc [mác ngắn, nghĩa là "tầm thường"]. Thời Pháp
thuộc mới chấm điểm từ 0 đến 10 hay 20.
- Ngoại trường - Nội trường chấm xong giao cho
Đề Tuyển chuyển ra Ngoại trưường. Chánh, Phó Chủ khảo duyệt
lại những quyển lấy đỗ bằng son Tầu mầu đỏ tươi ; những quyển bị Nội
trường đánh hỏng do các ông Phân khảo xét lại xem có vớt được
ai thì trình lên Chủ khảo định đoạt. Nếu có sự bất đồng ý kiến thì họp
ở Giám viện để thảo luận.
- Yết bảng từng kỳ - Chấm
xong kháp phách, chọn những quyển được vào kỳ sau làm bảng yết danh ở
4 vi và ghi tên vào sổ... Một bọn lại phòng khác mở hòm lấy những quyển
trắng của học trò ra soạn : những quyển của người thi hỏng để riêng, những
quyển của người được vào kỳ sau chia làm 4 rồi đóng hòm gửi ra Ngoại trường
để phát cho học trò vào 4 vi.
Cũng có khi chấm lối quán quyển tức là Thí
sinh được dự cả ba kỳ thi rồi mới cộng điểm mà định đoạt lấy đỗ hay đánh
hỏng. Thường thì khe khắt hơn, lọai dần từng kỳ, người giỏi văn sách mà kém
kinh nghĩa bị loại ngay sau kỳ đầu, không được thi thố tài năng như
trường hợp Trần Quý Cáp [1870-1908] giỏi văn sách nhưng hỏng thi Hương mãi,
sau vì là Tú Tài Thượng hạng đặc cách được thi Hội, thi Đình
không cần phải đỗ Cử nhân, tuy khg đỗ đầu nhưng riêng về văn sách thi Hội đè
được ông Hội nguyên, thi Đình đè được ông Đình nguyên [7].
Chép đầu bài quên một chữ, nhầm một chữ cũng bị đánh hỏng.
Chữ đẹp được thêm điểm, chữ xấu quá có khi bị đánh hỏng.
Trong Lê Quý Đôn, Bùi Hạnh Cẩn kể thời Hậu Lê, Dương Sử chữ xấu
bị Sơ khảo trường Kinh Bắc đánh hỏng, sau xét lại nên được lấy đỗ đầu.
Gập trường hợp hai Thí sinh đồng sức thì chọn người cao
tuổi vì tin rằng tuổi trẻ mà đỗ cao dễ sinh kiêu căng, chỉ biết có mình,
không giúp ích gì cho xã hội.
- Giải ngạch là ngạch lấy đỗ của
mỗi trường, do triều đình ấn định từ trước, tùy số người dự thi và sự cần
dùng của nhà nước. Thí dụ thời Nguyễn, trung bình mỗi trường ̣độ 3000 Thí
sinh thì ngạch lấy đỗ khoảng 30 Cử nhân ; thời Lê, từ 10 đến 150. Tuy nhiên,
tùy trường hợp đặc biệt, quan trường được phép gia giảm, chẳng hạn Thí sinh
quá kém thì lấy bớt đi. Ngược lại, có khi gập ân khoa, vua "gia ơn"
lấy thêm người đỗ gọi là thiêm thử. Để phòng trường hợp này,
các quan trường lấy người vào Phúc hạch [trường 4] bao giờ
cũng lấy thêm vài người trên số giải ngạch.
- Danh hiệu : Thời Lê, trung bình thi Hương gồm 4 kỳ /4
trường. Ba kỳ đầu hỏi kinh nghĩa, thơ phu, văn sách, kỳ 4 gọi là Phúc
hạch thoạt đầu chỉ so tự dạng với quyển thi để kiểm tra, sau bắt
phải thi lại tất cả các đề mục.
Người thi Hương đỗ cả 4 trường / 4 kỳ gọi là Hương
cống, thời Minh Mệnh đổi gọi là Cử nhân. Người đỗ
Thủ khoa, đỗ đầu, thi Hương gọi là Hương nguyên hay Giải
nguyên, người đỗ thứ nhì là Á nguyên.
Người "đỗ Tam trường", đỗ cả 3 kỳ đầu, gọi là Sinh đồ
/ Tú tài, nhưng những người đỗ Hương Cống / Cử nhân thì ít thấy ai gọi
là "đỗ Tứ trường". Tuy nhiên thi Hội thì người đỗ Trúng cách được vào
thi Đình cũng được gọi là "đỗ Tứ trường".
Số người được lấy đỗ Tú tài thay đổi tùy thời, thời Nguyễn
nhiều nhất là "nhất Cử tam Tú" nghĩa là lấy đố một ông Cử nhân
thì lấy ba ông đỗ Tú tài. Trừ những trường hợp đặc biệt, Tú tài không được thi
Hội, không được làm quan nhưng được miễn giao dịch và cũng rất được dân
chúng trọng vọng. Những người đỗ Tú tài có quyền thi lại kỳ cho đến khi
đỗ Cử nhân, nếu đỗ lại Tú tài thì gọi là Tú Kép, đỗ 3 lần gọi
là Tú Mền, 4 lần là Tú Đụp, .. Có
người thi đỗ tới 10 lần gọi là Tú Mười.
Thời Nguyễn, sau mỗi khoa thi, ông Chánh Khảo phải làm một bản
phúc triình kết quả. Ông Giám sát Ngự sử cũng làm một bản sớ tâu hạch những
điều sơ xuất, vi phạm luật lệ xẩy ra trong trường thi, bằng không
thì chính mình bị hạch tội nếu việc phát giác.
Chấm xong, có khi triều đình duyệt rồi xếp lại thứ tự người đỗ
hay đánh hỏng một vài người đã được lấy đỗ.
b- Lễ Xướng danh là cái lễ long trọng diễn ra ở trường
thi, cổng Tiền môn. Những người thi đỗ được lần lượt xướng tên to lên, theo
thứ tự từ cao đến thấp.
Ngày Xướng danh cổng trường, ngoài biển Phụng Chỉ Cầu
Hiền , Tuyển Hiền Trạch Năng..., kết hoa lá, treo
cờ xí, có voi ngựa, trống, pháo... người đi xem đông như kiến.
Cổng Tiền môn trường Nam Định với sự hiện diện
của
Toàn quyền P Doumer và
Công sứ Nam Định Lenormand,
Lễ Xướng danh,
Ảnh Salles 27-12-1897
Tại cổng Tiền môn, một người lại phòng cầm quyển ghi danh sách
những người đỗ đọc cho Truyền lệnh sứ, người này trông ra ngoài, gân cổ xướng
thật to tên họ, quê quán người đỗ bắt đầu từ ông Thủ khoa. Bên ngoài lại có
một người lính khác cầm loa ngửa mặt lên, hướng về tứ phía gọi thêm một lần
nữa cho những người ở xa cũng nghe rõ.
Một người lính bắc loa xướng
danh
Cổng
Tiền môn trường
Nam Định,
Ảnh
Salles 27-12-1897
Lễ Xướng danh trường Nam Định (1906)
Các khảo quan mặc triều phục, phân thứ tự cao thấp, ngồi trên
ghế tréo ở hai bên con đường đi từ cổng Tiền môn đến nhà Thập đạo.Đầu hàng
ghế bên trái là quan Phó Chủ khảo với biển "Phụng chỉ",
đối diện là quan Chánh Chủ khảo với lá cờ "Khâm sai".
Phó Chủ khảo với biển Phụng Chỉ đầu dẫy
ghế bên trái
Ảnh
Salles (1897)
Tân khoa trình
diện Khảo quan,
Ảnh Salles
Lễ Xướng danh Trường Nam Định
Tân khoa nghe gọi tên mình thì ph̉ải "Dạ" thật to rồi
tiến đến cổng trường trình diện. Nghe tiếng "Dạ" một người lính
múa roi rẽ đám đông, tiến về phía có tiếng "Dạ", dẫn ông Cử mới
đến chào Khảo quan, lĩnh mũ áo rồi đi thẳng đến cái rạp trước nhà Thập đạo.
Trong rạp trải hai dẫy chiếu cạp điều lên mặt đất. Ông Thủ khoa ngồi chiếu
đầu bên dẫy lẻ, ông Á nguyên ngồi đầu hàng chẵn.
Theo Ngô Tất Tố [Lều Chõng], lễ Xướng danh thời Lê long
trọng hơn : có hai người quản tượng cưỡi hai con voi già chia nhau đi khắp
các phố cầm loa gọi để tìm các ông Tân khoa. Có những ông Tân khoa muốn kéo
dài thời gian để được nghe tên mình xướng đi xướng lại nên cố trùng trình ăn
cơm uống nước chán chê rồi mới chịu ra trình diện. Vì ông Thủ khoa chưa ra
mặt thì chưa gọi đến ông Á nguyên nên có khi mất cả ngày mới gọi đủ tên mấy
chục ông. Thời Pháp thuộc nghi thức được giảm mà cũng mất ba tiếng mới gọi
xong.
- Yết bảng - Sau lễ Xướng danh, tên các ông Cử mới được yết trên Hổ bảng,
vẽ con hổ. Thời Pháp thuộc chỉ có bảng ghi tên nhưng không vẽ vời trang trí
cho long trọng.
Yết bảng trường Nam Định, khoa 1897
Ảnh Salles
c - Ân tứ là những phẩm vật vua ban thưởng cho các Tân khoa sau lễ Xướng
danh như mũ áo, vải lụa, tiền bạc v.v... Thời Pháp thuộc thì các quan Pháp tặng
đồng hồ quả quýt [bỏ túi] vỏ vàng hay bạc, lọ mực hay sách học để đi thi
Hội...
- Yến tiệc - Theo Ngô Tắt Tố [Lều Chõng] : Sau
khi lĩnh mũ áo các ông Tân khoa được đãi yến "Lộc minh" vua ban, do
quan Tổng đốc hàng tỉnh lấy tiền trong kho chi dụng. Yến tiệc này
giống như cỗ bình thường, có yến sào, vây cá, bào ngư,long tu..., nhưng trên
mặt bát bầy hình long, ly, quy, phụng bằng giấy trang kim. Có thêm bánh
bằng bột mầu sặc sỡ.
Theo lệ, cỗ có ba hạng dành cho quan khách, các Khảo quan, các
Cống sĩ và các lại phòng. Thời Pháp thuộc. cỗ hạng nhất do Chánh Khảo ngồi
với Công sứ đầu tỉnh chứ không phải với Tổng đốc.
Cỗ hạng nhất :Chủ khảo Cao Xuân Dục và Công sứ
Lenormand
Yến tiệc,
29/12/1897
Ảnh
Salles
Cỗ hạng ba : Tân khoa dự yến, bốn người một cỗ
29/12/1897
Ảnh Salles
Trên bàn tiệc các Tân khoa, mấy món tứ linh còn nguyên không ai
động đến, theo lệ mỗi ông Cử mới nhận một món cùng vài ba thứ bánh để
gói phần đem về cho gia đình được chung hưởng chút ân huệ vua ban.
Trong bữa tiệc, có hát ả đào giúp vui, ông Thủ khoa và ông Á
nguyên cầm chấ́u. Theo lệ, ông Giải nguyên được mời làm một bài thơ kỷ
niệm niên nghị viết trên giấy hoa tiên rồi các ông Tân
khoa. bạn đồng niên, chép lại làm kỷ niệm.
- Lễ tạ ơn vua. Nếu ở ngay kinh thành thì được diện kiến để lạy
tạ, nếu ờ các tỉnh xa thì làm lễ ở Vọng cung hoặc ngay ở Thí viện.
Tân khoa lễ tạ vua ở Vọng cung
28/12/1897
Ngoài ra Tân khoa phải làm lễ tạ ơn các Khảo quan hoặc ở Thí
viện hoặc ở Đốc Bộ Đường.
Lễ tạ khảo quan ở dinh Công sứ Lenormand
Ảnh Salles
Lễ Thích điện : Tân khoa còn phải tới VM làm lễ Thích điện
tức là lễ cáo với Tiên sư [Khổng Tử].
d- Vinh quy - Tin người đỗ báo về làng, dân làng liển cử người ra gập ông Tân
khoa để ấn định ngày vinh quy tức là rước về nguyên quán. Đỗ Cử nhân được
hàng tổng rước, đỗ Tú ttài được hàng xã rước.
Ngày vinh quy dân làng họp ở đình để cắt cử phu đi rước, những
người trong họ ông Tân khoa đều được miễn dịch. Đám rước có cờ xí, kèn
trống, bát bửu [8 món đồ quý như đàn sáo, bầu rượu, túi thơ, lẵng hoa, quạt
v.v...] long đình [kiệu có mui] để mũ áo vua ban, che hai lọng vàng, võng ông
Tân khoa che một lọng xanh, cuối cùng là chức sắc trong làng.
Dọc đường, dân các làng cùng một tổng đặt hương án đầu làng, che
một lọng xanh, trên bầy đồ ngũ sự [bình hương, lọ hoa, đèn, nến,
đỉnh]. Khi đám rước đến một làng, ông Tân khoa xuống võng chào hỏi rồi lên
võng tiếp tục đi. Dân làng cử đại diện nhập bọn, kèm theo mấy lá cờ và hương
án.
Về đến làng ông Tân khoa, pháo lại nổ, hương chức ra đón tận
cổng làng đưa về nhà. Tân khoa làm lễ cáo ở từ đường [nhà thờ một họ] rồi ra
Văn chỉ, đình, miếu làm lễ.
Họ hàng, bạn hữu, dân làng tấp nập đem quà đến mừng : hoành phi,
câu đối, trầu cau, rượu, trà, phảo v.v...
e- Khao vọng - Theo tục lệ, ông Cử mới phải làm tiệc ăn khao, giết trâu, mổ
bò, dựng rạp để thết đãi khách khứa, mời gánh hát chèo cho long trọng...
Không khao thì làng không thửa nhận đã đỗ đạt. Lễ khao vọng có thể kéo dài
mấy ngày.
f- Bổ dụng - Sau lễ khao vọng, nếu không chuẩn bị thi Hội thì ngồi
chờ triều đình bổ dụng, bắt đầu từ chức Huấn đạo, Giáo thụ [thất phẩm]
dần dần lên Tri huyện, Tri phủ [lục phẩm]...
Tú tài không được thi Hội cũng không được bổ dụng trừ những
trường hợp đặc biệt, nhưng cũng được trọng vọng và miễn tạp dịch.
1/2016Nguyễn Thị Chân Quỳnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét