Baso - Nguyễn Trãi - Nguyễn Du,
những hồn thơ đồng điệu
Nói đến thơ ca Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến Matsuo Basho
(Mat-su-ô Ba-sô/ Tùng Vĩ Ba Tiêu) [1], nhà thơ lớn nhất mọi thời của xứ sở Phù
Tang, người đã đưa thể thơ haiku (hai-kư) lên đến đỉnh cao… Ở Việt Nam tên tuổi
Basho đã được nhiều người biết đến, nhưng người ta thường nghĩ về ông như một
Thiền sư và tuy có biết thơ haiku của ông là có giá trị, nhưng đại đa số đều
cho là rất khó hiểu và xa lạ.
Đồng thời do vấn đề chuyển ngữ mà nhiều bài dịch thơ của ông
đã trở nên ngô nghê hoặc bí hiểm như một công án. Tuy nhiên tìm hiểu kĩ về ông
chúng ta thấy, Basho là một nhà thơ phương Đông, một nhà thơ gắn liền với thời
đại mà ông sống, vì thế nếu nhìn từ văn học Việt Nam thì thấy hồn thơ của ông
cũng rất gần gũi với những nhà thơ lớn của chúng ta, nhất là với Nguyễn Trãi và
Nguyễn Du. Ngược lại nhìn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du qua cái nhìn đối sánh với
Basho chúng ta cũng phát hiện ra nhiều điểm mới lạ.
Nhà thơ Matsuo Basho (1644-1694) của
Nhật Bản
Thoạt nhìn Basho, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, người ta cứ nghĩ ba
ông dường như chẳng có gì giống nhau, ngoài chuyện cả ba đều là những nhà thơ
hàng đầu trong nền văn học cổ điển của mỗi dân tộc. Quả là có như vậy. Basho xuất
thân là một võ sĩ, lớn lên không làm nghề gì nhất định, sống gần như một tu
sĩ Thiền tông, cuối đời lang thang du hành khắp Nhật Bản. Còn Nguyễn Trãi
là người anh hùng cứu quốc của dân tộc Việt Nam, là quân sư của Lê Lợi, là quan
đầu triều thời Lê sơ. Nguyễn Du cũng là vị quan lớn của triều Nguyễn, làm đến
chức Tham tri, Chánh sứ phái bộ sang Trung Quốc. Basho chịu ảnh hưởng sâu sắc
Thiền tông, còn Nguyễn Trãi thì Nho-Lão, Nguyễn Du lại là nhà nho tài tử. Về
thơ, Basho làm thơ haiku, Nguyễn Trãi làm thơ chữ Hán, thơ thất ngôn xen lục
ngôn, Nguyễn Du làm thơ chữ Hán, lục bát và song thất lục bát – mỗi một thể thơ
lại có những nguyên tắc mĩ học rất khác nhau v.v… và v.v…
Chúng ta có thể tìm thấy vô số những điều khác nhau giữa ba
nhà thơ Nhật Bản và Việt Nam này, nhưng đằng sau những dị biệt đó, chúng ta lại
thấy từ trong thẳm sâu những hồn thơ giống nhau một cách kì lạ.
1. Basho với Nguyễn Trãi
Có thể nói Basho và Nguyễn Trãi đều là những nhà thơ của
thiên nhiên. Thơ của hai ông thể hiện một tình yêu thiên nhiên và một triết lí
về thiên nhiên vô cùng sâu sắc. Basho và Nguyễn Trãi đều thực hiện những cuộc
hành trình đến với thiên nhiên. Trên con đường đó họ cố gắng vứt đi những cái
phiền toái, hư ngụy của cuộc đời thế tục để đến với tự nhiên, và cũng là đến với
cái bản nguyên trong mỗi con người.
Cuộc đời của Basho là một cuộc du hành dài đi đến khắp những
miền đất xa xôi của Nhật Bản. Đây là hình ảnh của ông trước khi lên đường:
“Suốt bao năm nay, như một áng mây ngàn bị cơn gió lôi cuốn,
ý tưởng phiêu bạt trong tôi chẳng lúc nào nguôi, thúc giục tôi dấn bước lang
thang qua các bến bờ (…) Tôi vá lại quần, thay quai nón. Ngay khi châm đầu gối
bằng ngải cứu nhằm sửa soạn cho cuộc hành trình, tôi đã không ngớt miên man
nghĩ đến vầng trăng ở Mat-su-shi-ma.” (Oku no hosomichi) [2]
Bước chân Nguyễn Trãi cũng đã in dấu trên nhiều miền đất Việt
Nam qua cuộc kháng chiến lâu dài chống quân Minh xâm lược. Sau cuộc kháng chiến,
ngay trên địa vị là công thần khai quốc của triều đại mới, Nguyễn Trãi vẫn thường
ước mơ được trở về với thiên nhiên thanh sạch, hoang sơ:
Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên
(Bao giờ làm được nhà dưới núi mây
Múc nước suối nấu chè, gối đầu lên đá ngủ)
Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
(Mạn thuật 13)
Và ông đã trút bỏ công danh để sống giữa thiên nhiên với một
hình hài thật giản dị:
Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,
Áo bô quen cật bận xênh xang
(Tức sự 4)
Thiên nhiên như một tiếng gọi huyền bí, một mối dây ràng buộc
với tâm hồn nhà thơ – “Non nước cùng ta đã có duyên” (Tự thán 4), Nguyễn Trãi
đã viết như thế.
Với Basho, núi Fuji không chỉ có một ngọn núi ở ngoài đời,
còn có một ngọn núi khác sống trong hồn nhà thơ, ngọn núi ấy sẽ hiện lên trong
niềm luyến tiếc khi ngọn Fuji thật bị chìm trong sương:
Sương mù bao phủ
Kiri shigure
Fu-ji chìm khuất rồi
Fuji wo minu hi zo
núi hiện hình trong tôi. [3] omoshiroki.
(Nozarashi kikô)
Còn với Nguyễn Trãi, núi mây là khách khứa, bầu bạn. Vào những
ngày mây mù che phủ không gặp được bạn, nhà thơ bâng khuâng, buồn bã biết bao:
Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh,
Có thuở biếng thăm bạn cũ,
Lòng thơ muôn dặm nguyệt canh ba.
(Bảo kính cảnh giới 42)
Thiên nhiên trong thơ Basho và Nguyễn Trãi có vũ trụ lớn lao:
trăng sao, núi sông, hồ biển… và cũng có những vật nhỏ bé bình thường: con quạ,
con ếch, con cá, con mực, chấy rận, hoa dã quì, hoa thu (hagi)… và con cò, con
vện, rau muống, rau mùng tơi, hoa đào, hoa xoan… Trong mỗi một sinh vật nhỏ bé
như vậy, hai thi sĩ đều thấy nó như có linh hồn, sống bình đẳng và cảm thông được
với con người.
Basho lên đường đến vùng Đông Bắc xa xôi, không chỉ bạn bè
lưu luyến, mà cả cá, chim cũng buồn thương:
Mùa xuân lên đường
Yuku haru ya
mắt cá đẫm lệ
tori naki uo no
chim chóc khóc
thương. me wa namida.
(Oku no hosomichi)
Basho chia tay thì chim và cá khóc. Nguyễn Trãi đến thì chim
mừng vui và trăng theo gánh nước mà theo về:
Khách đến chim mừng hoa xảy động
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về
(Thuật hứng 3)
Nguyễn Trãi nâng niu một con cá, một cánh hoa tàn, một bóng
trăng, một tiếng chim:
Đìa tham nguyệt hiện chăng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây
(Mạn thuật 6)
Trăng, hoa, hương trong thơ Nguyễn Trãi như một linh hồn đang
sống, hơn thế nữa, như một người bạn, một người tình. Thi nhân chở trăng về
(Thuật hứng 24, Tự thán 38), để trăng đeo theo gánh nước của mình (Thuật hứng
3, 6), cho trăng xem thơ (Mạn thuật 13), hớp lấy bóng trăng (Ngôn chí 10)… Và
thi nhân hé cửa đêm để chờ hương quế, thi nhân sợ một bóng hoa tan biến mất đi:
Hé cửa đêm chờ hương quế lọt
Quét hương ngày lệ bóng hoa tan
(Bảo kính cảnh giới 33)
Tình yêu thiên nhiên trong thơ Bashô và Nguyễn Trãi không chỉ
thể hiện một mĩ cảm thông thường, đằng sau nó có cả một sự minh triết về những
quy luật lớn lao và bí ẩn của vũ trụ. Những hiện tượng của tự nhiên như âm
thanh, màu sắc, mùi hương… đều có sự tương giao và chuyển hóa lẫn nhau.
Tiếng nước vang lên từ cú nhảy của một con ếch cũng mang
trong nó triết lí về một vũ trụ tương giao với nhau :
Ao cũ
Furu
ike ya
con ếch nhảy
vào
kawazu tobikomu
vang tiếng nước xao[4]
mizu no oto
(Kawazu awase)
Cánh hoa anh đào mỏng manh tưởng như chẳng có liên quan, tác
động gì đến hồ nước, thế mà nó có thể làm mặt hồ nổi sóng. Bài haiku rất đẹp dưới
đây ẩn chứa cả một triết lí sâu sắc :
Từ bốn phương trời
xa
Shihô yori
cánh hoa đào lả tả
hana fukiirete
gợn sóng hồ Bi-wa
Niho
no nami
(Shirouma)
Tiếng ve là thanh, đá là vật. Nhưng trong cảnh u tịch, vắng lặng
của chiều tà, khi tất cả đều im ắng hết lại có thể nghe được tiếng ve, tiếng ve
rền rĩ như thấm vào đá :
Vắng lặng u trầm
Shizukasa ya
thấm sâu vào
đá
iwa ni shimi iru
tiếng ve
ngâm.
semi no
koe.
(Oku
no hosomichi)
Một buổi sáng trên đường du hành, Basho cảm nhận thấy hương
hoa mơ thoảng qua, như thực như hư, không biết từ đâu đưa lại. Cũng lúc ấy vừng
đông cũng vừa hé. Mặt trời và hoa mơ, vũ trụ lớn lao và một làn hương cực kì mỏng
manh có liên hệ với nhau không nhỉ? Bashô viết về điều ấy trong một bài haiku
có vẻ cực kì đơn giản, có mấy câu thế này :
Trên sườn núi bất ngờ
Ume ga ka ni
mặt trời mọc rực rỡ
notsuto hi no deru
từ hương hoa
mơ.
yamaji kana.
(Oi nikki)
Nghệ thuật có thể tác động được vào vũ trụ – Nguyễn Trãi nói
như thế. Một câu thơ hay có thể làm vầng trăng cao hơn. Liên tưởng độc đáo ấy của
Ức Trai làm cho câu thơ mang dáng dấp của một câu thơ tượng trưng thời hiện đại:
Khách lạ đến, ngàn hoa chửa rụng
Câu màu ngâm, dạ nguyệt càng cao
(Thuật hứng)
Tiếng hát của ông chài, tiếng sáo của kẻ mục đồng có thể tác
động đến hồ nước, đến cả vầng trăng trên trời:
Ngư ca tam xướng yên hồ khoát
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao
(Ông chài cất lên tiếng hát làm cho mặt hồ phủ khói mở rộng
ra
Trẻ mục đồng thổi một tiếng sáo làm cho trăng trên trời cao
hơn)
(Chu trung ngẫu thành 2)
Thiên nhiên và con người không là hai mà là một – tương nhập
và tương tức, con người trở về với thiên nhiên, thiên nhiên thẩm thấu vào con
người. Cả Bashô và Nguyễn Trãi đều viết như vậy:
Lang thang đồng nội
Nozarashi wo
để cho mưa
gió
kokoro ni kaze no
thấm vào hồn
tôi.
shimu mi kana.
(Nozarashi kikô)
Hái cúc ương lan hương bén áo
Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn
(Thuật hứng 15)
Thi nhân như Bashô, Nguyễn Trãi là những thi sĩ vĩ đại của
thiên nhiên, không chỉ ở chỗ hai ông đã sáng tạo ra những câu thơ tuyệt đẹp về
phong cảnh thiên nhiên, mà còn ở chỗ hai ông là những người dẫn đạo cho một cuộc
hành hương lớn lao trở về với thiên nhiên, trở về với cội rễ, với nguồn sống bất
tận của con người. Đó là điều mà trong thời đại thống trị của kĩ thuật như ngày
nay, người ta lại càng cảm thấy hai ông có lí.
2. Basho với Nguyễn Du
Basho không phải là Thiền sư, nhưng cuộc sống của ông giống
như một người tu Thiền. Một con người như thế tưởng là đã hết “thất tình lục dục”,
đã hết động tâm với những hình sắc của cuộc đời. Và như vậy thì ông có gì chung
đâu với Nguyễn Du, nhà thơ của niềm cảm thương, của nỗi đau đời! Không phải như
thế, Basho là một thi sĩ, một hồn thơ nhạy cảm. Basho và Nguyễn Du đều là những
thi sĩ của tình yêu thương. Nhiều người nghiên cứu phương Tây viết về Basho thường
hay nhấn mạnh vào vấn đề mĩ học của haiku, mà ít chú ý đến thế giới tình cảm
trong thơ ông. Basho không phải là một người duy mỹ chủ nghĩa, những bài thơ
haiku của ông sẽ chẳng thể nào sống trong lòng người nếu nó không phải là những
bài ca về tình yêu, về thân phận của con người.
Đây là những dòng haiku về tình bạn. Basho khóc cho một người
tri âm, một người yêu mến thơ haiku đã chết mà mình chưa kịp gặp mặt:
Lay động nấm mồ
Tsuka mo ugoke
tiếng tôi khóc bạn
waga naku koe wa
gió mùa thu.
aki no kaze
(Oku no hoso michi)
Thi sĩ nhìn mùa xuân qua đi, nhưng hình bóng cố nhân ở quê cũ
Ômi vẫn cứ còn lại mãi trong nỗi nhớ của mình:
Mùa xuân qua
đi
Yuku haru wo
sao cứ nhớ
mãi
Ômi no hito to
người cũ ở
Ô-mi.
oshimikeru
(Sarumino)
Cố nhân là một người trong làng phong nhã thời cổ, hay người
bạn cũ, hay là nàng Juteini (Ju-tei-ni) ngày xưa?
Còn đây là những dòng haiku về tình yêu với mảnh đất mà mình
gắn bó. Kyoto một thời thời tuổi trẻ, 20 năm sau trở lại, nghe tiếng chim
hototogisu (đỗ quyên):
Chim đỗ quyên
hót
Kyô nite mo
ở Kinh
đô
Kyô
natsukashi ya
mà nhớ Kinh
đô
hototogisu
(Onogahi)
Ở giữa Kinh đô mà nhớ Kinh đô ngày xưa, một Kinh đô đầy kỉ niệm,
một Kinh đô đẹp đẽ đã vĩnh viễn qua rồi. Đó là tiếng chim và cũng là nỗi lòng của
người.
Ê-đô, quê hương thứ hai, thuở nào là đất khách, đến khi về
quê, ngoảnh nhìn lại mới thấy Ê-đô thật là quê nhà:
Đất khách mười mùa sương Aki to tose
về thăm quê ngoảnh lại
kaette Edo wo
Ê-đô là cố
hương.
sasu kokyô.
(Nozarashi kikô)
Những bài haiku như thế khiến cho ta liên tưởng đến những bài
thơ viết về tình bạn, tình quê hương của Nguyễn Du: Ký hữu, Tặng nhân, Tống
Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn Nghệ An, Mộng đắc thái liên, Long Thành cầm giả ca,
Truyện Kiều …và những bài thơ khóc tri âm của Nguyễn Du: khóc cho một người tri
âm hơn 200 năm trước khổ vì “văn chương vô mệnh” (Độc Tiểu Thanh ký), một người
tri âm hơn ngàn năm trước khốn cùng cả đời chỉ vì thơ hay :
Dị đại tương liên không sái lệ
Nhất cùng chí thử khởi công thi ?
Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ
(Đời khác thương nhau mà nhỏ lệ
Ông cùng đến vậy tại thơ hay ?)
Còn đây là những câu lục bát tràn trề tình cảm nhớ quê hương
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
– Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
Mối tình đòi đoạn vò tơ
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài
Những câu thơ trên cũng cho thấy khuynh hướng đề cao tình cảm
trong sáng tác văn học là điểm chung giữa Basho và Nguyễn Du, dầu cách thức thể
hiện mỗi người một khác, một đằng cố nén lại, giấu đi, còn một đằng thì bộc lộ,
dãi bày.
Cũng như Nguyễn Du, Basho đi nhiều, trải nhiều, từ những đô
thị náo nhiệt của những người thị dân mới phất lên đòi quyền hưởng thụ, đến
những cánh đồng khô cằn, những làng quê xơ xác của những người nông dân cơ cực,
đói nghèo. Ông chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh thương tâm và ông lặng lẽ
ghi lại bằng những bàihaiku quen thuộc của mình. Trong thơ ông có thấp thoáng
hình ảnh của chúng sinh đau khổ: những em bé nghèo, những cô gái bán thân, những
người nông dân, những người đánh cá, những người lính bỏ thây nơi chiến địa…,
không khác gì trong thơ Nguyễn Du, chỉ có điều ông thể hiện bằng một cách thức
khác, kín đáo hơn, mơ hồ hơn, như là truyền thống của thơ ca Nhật Bản.
Một lần du hành, đi ngang qua cánh rừng, Bashô thấy một chú
vượn đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ thầm ước phải chi có một
chiếc áo tơi che mưa, che lạnh cho khỉ. Bài haiku vang lên từ nỗi lòng ấy :
Mưa đông giăng đầy trời
Hatsu shigure
một chú khỉ đơn độc
saru mo komino wo
cũng mong chiếc áo
tơi.
hoshigenari.
(Sarumino)
Chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh những người
nông dân Nhật Bản, những em bé nhà nghèo, co ro trong mưa lạnh. Bài haiku thể
hiện lòng từ bi đối với cỏ cây chim muông, cũng là lòng yêu thương với những
người đói khổ.
Một lần khác đi ngang qua cánh rừng, Bashô nghe thấy tiếng vượn
hú. Tiếng vượn hú có gì đâu mà lạ, ta có thể gặp khá nhiều trong thơ xưa, như
trong thơ Lí Bạch: “Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận” (Tiếng vượn đôi bờ kêu chẳng
dứt), trong thơ Đỗ Phủ: “Phong cấp thiên cao viên khiếu ai” (Gió gấp, trời
cao vượn nỉ non). Nhưng với Bashô, tiếng vượn ấy không phải gợi lên một nỗi
bi ai trừu tượng nào đó, mà làm cho nhà thơ nhớ đến tiếng khóc thê thiết, não
lòng của một em bé bị bỏ rơi trong rừng:
Vượn hú não nề
Saru wo kiku hito
hay trẻ bị bỏ rơi than khóc?
sutego ni aki no
gió mùa thu tái
tê.
kaze ikani.
(Nozarashi
kikô)
Nhật Bản ngày xưa vào những năm mất mùa đói kém, nhiều gia
đình nông dân túng quẫn quá, không nuôi nổi con, đành phải đưa con bỏ vào rừng.
Thậm chí có khi còn đang tâm giết cả những đứa trẻ sơ sinh vì không nuôi nổi tất
cả. Những đứa trẻ như vậy tiếng Nhật gọi là những đứa trẻ “mabiku” (tỉa bớt). Sống
trong thời đại ngày nay ít ai tin có chuyện đó, vậy xin hãy nghe bài ca gọi hồn
của Ujo[5], gọi những linh hồn trẻ thơ. Trẻ em bị “tỉa bớt”, linh hồn bé bỏng
như những bong bóng xà phòng – đẹp, thơ dại và mong manh, không bay cao lên được,
mới đến mái nhà đã vỡ tan ra:
Bong bóng xà phòng
Bay lên mái nhà
Bay lên mái nhà
Vỡ tan ra
Gió ơi đừng thổi
Bong bóng ơi bay đi
Bong bóng xà phòng vỡ tan ra
Vỡ tan ra, không bay lên được
Vỡ tan ra, khi mới chào đời
Gió ơi đừng thổi
Bong bóng ơi bay đi
Tình yêu thương của Basho dành cho trẻ em đói khổ, đoản mệnh
rất gần với tâm hồn Tố Như. Chúng ta hãy nhớ lại những câu thơ nhói lòng của
Nguyễn Du về những trẻ nghèo trong Sở kiến hành và Văn tế thập
loại chúng sinh.
Trẻ em và phụ nữ là nơi hội tụ của những tấm lòng từ ái như
Nguyễn Du và Basho. Nguyễn Du viết rất nhiều và rất xúc động về “phận đàn bà”
như trong Điếu La Thành ca giả, Độc Tiểu Thanh ký, Long Thành cầm giả ca,
Sở kiến hành, Truyện Kiều, Văn chiêu hồn… Ông chiêu tuyết cho những người đàn
bà cùng khổ nhất – những cô gái phải bán thân nuôi miệng, với Tố Như họ chẳng
phải loại người gì ô uế cả, mà chỉ là những kiếp lỡ làng:
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Basho không viết nhiều về phụ nữ như Nguyễn Du, nhưng chỉ qua
một vài bài thôi ta cũng thấy ông rất giống với Nguyễn Du. Như Nguyễn Du, ông
cũng chiêu tuyết cho những cô gái bán thân (tiếng Nhật gọi là “du nữ/yùjo”), tất
nhiên bằng cách riêng của ông: ông đưa họ từ bùn đen lên ngang với đồng
loại, với người thi sĩ – cư sĩ, và tìm thấy ở họ vẻ đẹp của hoa:
Chung một mái trọ
Hitotsu ya ni
phòng bên những du nữ ngủ yùjo mo
netari
trăng và hoa
thu.
hagi to
tsuki.
(Oku no hosomichi)
Ông nói giữa ông, một thi sĩ, cư sĩ với các cô “du nữ” khốn
khổ kia do ngẫu nhiên mà chung một quán trọ, một quán trọ đời, có quan hệ gì với
nhau không nhỉ? Không mà có, như thể ánh trăng với hoa hagi.
Đứng về phía con người, Nguyễn Du lên án chiến tranh, coi nó
là việc “dãi thây trăm họ làm công một người”, ông thương những người
lính “bỏ cửa nhà đi gánh việc quan”, mà chết oan uổng vì “đạn lạc tên
rơi” (Văn tế thập loại chúng sinh). Qua sông Gianh, ông thương xót cho những
người lính bỏ thây nơi chiến địa, trên đống xương vô định bây giờ cỏ dại mọc đầy:
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp
Bách chiến tàn hài ngọa lục vu
Độ Linh Giang
Lũy cổ ba quân cành lá rụng
Xương khô trăm trận góc gai chồng [6]
Basho cũng có một tứ thơ gần giống như vậy:
Những chiến binh ngã xuống Natsu kusa ya
giấc mộng chưa
thành
tsuwamono domo ga
cỏ mùa hạ ngút
xanh.
yume no
ato.
(Oku no hosomichi)
Chúng ta còn có thể nói nhiều hơn nữa về những nét tương đồng
giữa hồn thơ Basho với Nguyễn Du như : tình yêu thương dành cho những phận
người lam lũ, những triết lí, cảm nghiệm về cuộc đời v.v.
***
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao một nhà thơ haiku đậm chất Thiền
như Basho lại có thể tương đồng với một nhà thơ-nho sĩ như Nguyễn Trãi, đồng thời
cả với một nhà nho tài tử như Nguyễn Du?
Có thể tìm câu trả lời từ những sự tương đồng giữa Basho,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du sau đây.
Tương đồng về nguồn học vấn
Nhiều người ngộ nhận một cách đơn giản là Basho chỉ có Thiền,
Nguyễn Trãi chỉ có Nho-Lão, Nguyễn Du chỉ có tài tử. Điều ấy không đúng. Có thể
nói nguồn tri thức mà ba nhà thơ này tiếp thu không thật khác nhau, mà chỉ khác
nhau ở vai trò và mức độ đậm nhạt. Thiền và Lão Trang thì cả ba ông đều chịu ảnh
hưởng. Nho đậm nhất ở Nguyễn Trãi, kế đến là Nguyễn Du, còn với Basho thì mờ nhạt
nhất. Điều ấy không có nghĩa là Basho không biết đến Nho, vì thời Edo (Ê-đô), mạc
phủ Tokugawa khuyến khích các samurai học tập Nho giáo, đặc biệt là Chu Tử học
phái.
Nguyễn Trãi từng mong có thời gian để theo đạo Thiền:
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền
(Già lại nói ngông đừng lạ nhé
Chia tay, ta cũng muốn theo Thiền)
Tống tăng Đạo Khiêm qui sơn – Khương Hữu Dụng dịch
Nguyễn Du thì nói tâm mình thường an định không rời xa đạo
Thiền (Thử tâm thường định bất li Thiền – Đề Nhị Thanh động).
Thiền nhưng cũng Lão Trang. Nhìn cuộc đời chỉ như một giấc mộng
hư ảo là điểm chung của cả ba nhà thơ.
Nguyễn Trãi viết: “Hoàng lương mộng giác sự nan tầm” (Giấc
mộng kê vàng tỉnh dậy việc khó tìm lại được – Đề Ngọc Thanh quán)
Nguyễn Du nói: bạn bè đừng cười tôi hay sầu mộng, trên đời
này ai chẳng đang sống trong một giấc mộng lớn đó sao :
Tri giao quái ngã sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung
(Ngẫu đề)
Còn Basho :
Em là bướm
ư
Kimi ya chô
ta là giấc mộng
ware ya Shôshi ga
trong hồn Trang Chu 4 yume
gokoro
Thiền và Lão Trang khiến cho Nguyễn Trãi và Basho gần nhau
trong cách nhìn vũ trụ. Theo đó con người và thiên nhiên là đồng nhất thể, con
người và vạn vật không hề tách rời nhau, mà gắn bó với nhau trong một mối tương
giao, tương nhập, tương tức. Trang Tử nói: “Trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật
với ta là một” (Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, nhi vạn vật dữ ngã vi nhất –
Nam hoa kinh – Tề vật luận). Bat-sui Tô-ku-shô diễn giải rõ hơn : “Trời đất với
ta cùng một nguồn gốc, vạn vật với ta là nhất thể. Một hạt bụi nhỏ cũng không
là một vật riêng biệt. Suối reo gió thổi là âm thanh của Tạo hóa, tùng xanh tuyết
trắng là sắc màu của Tạo hóa” (Giả danh pháp ngữ)[7].
Với Nguyễn Du thì Thiền, Phật và Lão Trang lại thể hiện một
cái nhìn hư ảo về cuộc đời, đề cao cái tự nhiên trong con người, có tính cách
phi chính thống của nhà nho tài tử, đồng thời cũng là phương tiện để chuyển tải
những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa.
Bên cạnh triết lí, Basho, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều chịu ảnh
hưởng sâu sắc nền văn học cổ điển Trung Hoa. Trong nhiều bài haiku của Basho
người ta cũng thấy thấp thoáng những tứ thơ, hình tượng thơ của Giả Đảo, Sầm
Tham, Lưu Vũ Tích, Lý Bạch và nhất là Đỗ Phủ. Còn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du thì đã
rõ rồi.
Nguyễn Trãi nói:
Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ
Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh
(Mạn thuật 9)
Với Nguyễn Du thì Đỗ Phủ vừa là thầy, vừa là tri âm, ông coi
Đỗ Phủ là bậc thầy của văn chương ngàn đời, suốt đời ông gắn bó không hề rời xa
Thiên cổ văn chương thiên cổ sư
Bình sinh bội phục vị thường ly
Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ
Cùng học Đỗ Phủ, nhưng mỗi ông lại học một khác. Nguyễn Trãi
học cái lo đời của Đỗ Phủ, Basho học cái thương đời, còn Nguyễn Du học cái đau
đời của ông.
Tương đồng về thời đại
Bashô sống vào thế kỉ XVII; Nguyễn Trãi, thế kỷ XIV-XV; Nguyễn
Du, thế kỷ XVIII-XIX. Bashô sống vào khoảng giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Du,
không chỉ là chuyện mốc thời gian đơn thuần, mà là vấn đề thời đại. Đó là lí do
khiến cho Bashô giống cả với Nguyễn Trãi và Nguyễn Du. Nguyễn Trãi sống vào lúc
chế độ phong kiến đang lên và sau ông nó sẽ đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỉ
XV. Nguyễn Du sống vào lúc chế độ phong kiến đang tan rã, kể cả khi có vẻ ổn định
ít nhiều vào đầu triều Nguyễn, đồng thời các đô thị phong kiến cũng đã bắt đầu
phát triển mạnh mẽ. Còn Basho, thời đại mà ông sống là thời mạc phủ Tokugawa
(Tô-ku-ga-wa) đang đi vào ổn định sau một thời kì tao loạn kéo dài vì nội chiến,
các đô thị phong kiến bắt đầu mọc lên càng ngày càng nhiều và to lớn hơn, nhưng
rồi nó cũng mau chóng đi vào khủng hoảng – khủng hoảng do những bất công xã hội
khiến cho một bộ phận lớn dân chúng lâm vào con đường đói khổ, và khủng hoảng
do sự lớn mạnh không ngừng của tầng lớp thị dân bắt đầu không bằng lòng với trật
tự cũ. Thời Nguyên Lộc (1688-1703) là giai đoạn văn hóa thị dân (chônin bunka)
phát triển mạnh mẽ nhất dưới thời mạc phủ Tokugawa. Thơ Basho không nằm trong
loại hình văn hóa thị dân, nhưng không phải không chịu ảnh hưởng ít nhiều.
Điều ấy khiến cho ta hiểu trong thơ Basho vừa có cái bình
yên, cái minh triết của hiền nhân như Nguyễn Trãi – tất nhiên một đằng là kiểu
Thiền sư, một đằng là kẻ sĩ quân tử, lại vừa có cái xôn xao, động tâm của một
thi sĩ thương đời, thương người như Nguyễn Du.
Một trong những biểu hiện của khuynh hướng mới mẻ, có tính
phi chính thống trong thơ Basho và Nguyễn Du là việc khẳng định văn học dân
gian. Hai ông đều coi văn chương dân gian là người thầy đầu tiên của mình.
Nguyễn Du viết: “Thôn ca sơ học tang ma ngữ” (Bài học đầu
tiên của tôi về thơ là lời của người hái dâu dệt vải – Thanh minh ngẫu hứng)
Basho viết gần như cùng một ý:
Thơ ca khởi đầu
Fùryù no
bài ca người trồng
lúa
Hajimeya oku no
trong miền quê thâm sâu4
Taue uta
(Basho shichibu shù)
Điều này có vẻ cũng không khác với việc Nguyễn Trãi đưa lời
ăn tiếng nói của nhân dân vào thơ của mình. Thực ra thì rất khác. Với Nguyễn
Trãi, lời ăn tiếng nói dân gian là vấn đề Việt hóa ngôn ngữ thơ ca, còn với
Basho và Nguyễn Du là vấn đề bình dân-dân chủ hóa văn chương.
Tương đồng ít nhiều về cá tính sáng tạo
Trước hết cả Basho và Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều là những nhà
thơ yêu mến thiên nhiên, yêu cái đẹp.
Nguyễn Trãi nói: “Túi thơ chứa hết mọi giang san” (Tự thán
2). Và ông viết nhiều bài thơ rất đẹp về thiên nhiên, đất nước của mình: một động
Thanh Hư “thác bay phới phới như gương”, “trăng lẫn nước” (Mộng sơn
trung), một cửa biển Bạch Đằng hùng vĩ (Quá Bạch Đằng hải khẩu), một cửa Đại An
“triều dậy nước ngang trời” (Vọng doanh), rồi cửa biển Thần Phù (Quá Thần Phù hải
khẩu), núi Dục Thúy (Dục Thúy sơn)… Câu thơ dưới đây là một trong những câu thơ
viết về thiên nhiên đẹp nhất của Ức Trai – nhiều người đã nói như thế:
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
(Bảo kính cảnh giới 26)
Nguyễn Du trong các tác phẩm của mình, nhất là Truyện Kiều,
đã vẽ nên những bức tranh thiên nhiên thật đa dạng, có những phong cảnh thiên
nhiên như là biểu hiện cái đẹp của đất trời: mùa xuân thì “cỏ non xanh rợn chân
trời”, mùa hạ thì “đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”, có thiên nhiên như là lời
nói thay cho cái xôn xaotrong lòng người, và có thiên nhiên như là điềm báo cho
số phận của nhân vật…
Với Basho, thơ haiku dường như không bao giờ vắng mặt thiên
nhiên. Tâm hồn hướng về thiên nhiên của Basho có truyền thống từ tình cảm gắn
bó với thiên nhiên của người Nhật, vừa là biểu hiện của phong nhã. Đây là cảnh
sông Ki-yô-ta-ki (Sông Trong) thanh sạch và nguyên sơ :
Trăng mùa
hè
Kiyotaki ya
chiếu lên sóng không bụi nami
ni chirinaki
dòng Sông
Trong.
natsu no tsuki.
(Sono tayori)
Còn đây thì hùng vĩ, với Ngân Hà bao la ở trên trời và đảo
Sado (Sa-đô) của làng chài nhỏ nhoi thưa thớt giữa biển Nhật Bản thăm thẳm và
hoang sơ :
Biển hoang
sơ
Ara umi ya
Sông Ngân vắt ngang trời
Sado ni yokotafu
tuôn xuống đảo
Sa-đô
Ama no gawa
(Oku no hosomichi)
Nguyễn Trãi, Basho, Nguyễn Du, cả ba nhà thơ đều cảm thấy cô
độc giữa thời đại mình. Cô độc vì cuộc đời thì phàm tục, thi sĩ thì thanh cao,
cô độc vì cả ba đều là những thi sĩ đi trước thời đại.
Nguyễn Trãi và Basho đều từng nhiều đêm suy tư đến mất ngủ.
Nguyễn Trãi thì :
Vò võ trai phòng vắng
Suốt đêm nghe tiếng mưa
Thính vũ, thơ chữ Hán
Còn Basho:
Lá chuối tả
tơi
Bashô nowaki shite
đêm nghe mưa tí
tách
tarai ni ame wo
xuống chậu sành không ngơi.
kiku yo kana.
(Mukishiburi)
Nguyễn Du cô độc vì tìm thấy tri âm trên đời: ông không biết
cho đến ba trăm năm nữa có ai hiểu nỗi lòng mình mà khóc thương cho mình chăng:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc Tiểu Thanh ký)
Basho cô độc vì cảm thấy con đường thơ của mình không còn ai
theo nữa:
Con đường tôi đi
Kono michi ya
không còn ai đi nữa
yuku hito nashini
chiều tàn mùa
thu.
aki no kure.
(Oi nikki)
Quan niệm của Ức Trai, Tố Như và Basho là đem nghệ thuật hướng
vào con người, làm cho con người thanh cao hơn, nhân hậu và tinh tế hơn. Con đường
thơ của các ông đi là con đường lớn của thơ ca: thơ ca hướng vào cái đẹp, cái đẹp
trong thiên nhiên và cái đẹp trong tâm hồn con người. Thời đại khác nhau, đất
nước khác nhau, nhưng con đường thơ ấy đã dẫn ba thi sĩ hàng đầu của Việt Nam
và Nhật Bản đến với nhau, đến bằng những hồn thơ đồng điệu.
ĐOÀN LÊ GIANG
Tạp chí Văn Học số 6/2003
Chú thích:
[1] Matsuo Basho (1644 – 1694) là một trong những nhà thơ lớn
nhất của Nhật Bản. Sinh ra ở Ueno (U-ê-nô), xứ Iga (I-ga, nay là tỉnh Mi-ê/
Mie) trong một gia đình võ sĩ cấp thấp. Thời thanh niên, lên Kyoto, kinh đô Nhật
Bản bấy giờ để học văn học cổ điển, thơhaiku và Thiền tông. Khoảng năm 30 tuổi,
ông chuyển đến Edo (Ê-đô, nay là Tokyo), đô thị vào loại lớn nhất Nhật Bản thời
ấy, sinh sống và sáng tác. 10 năm cuối đời, để nuôi dưỡng tinh thần và cảm hứng
thơ ca của mình, Basho làm những cuộc du hành dài đi hầu khắp đất nước, vừa đi
vừa viết du kí và sáng tác thơ haiku. Ông mất năm 1694 ở Osaka, lúc mới 50 tuổi.
Tác phẩm: Ngày đông (Fuyu no hi, 1684), Cánh đồng hoang (Arano, 1689), Áo
tơi cho khỉ (Sarumino, 1691), Bao đựng than (Sumidawara, 1694), Du kí Lang
thang đồng nội (Nozarashi kikô, 1685), Đoản văn trong đẫy (Oi no kobumi, 1688)
… và nổi tiếng nhất là Nẻo đường Đông Bắc (Oku no hosomichi, 1689). [2] Lối
lên miền Oku(Oku no hosomichi), Vĩnh Sính dịch, trong Việt Nam và Nhật Bản
giao lưu văn hóa, NXB.Văn nghệ TP.HCM, 2001. [3] Bản dịch của chúng tôi.
Dưới đây, các bản dịch haiku khác đều là của chúng tôi. Những bản dịch của dịch
giả khác, chúng tôi sẽ ghi rõ. [4] Nhật Chiêu dịch, trong Bashô và thơ
haiku, Khoa Ngữ văn và Báo chí, ĐH Tổng hợp TP.HCM và NXB. Văn học xb, 1994.sđd [5]
Noguchi Ujô (1882-1945): nhà thơ theo phong cách dân ca, đồng dao nổi tiếng đầu
thế kỷ XX ở Nhật Bản. Tác phẩm: Cảng nổi sóng, Ông trăng đêm rằm…Bài thơ của
ông chúng tôi dịch dựa theo sách Nihongo, Kekyusha xuất bản [6] Ngô Linh
Ngọc dịch [7] Dẫn theo Ishida Ichirô: Nhật Bản tư tưởng sử khái luận,
Cát Xuyên Hoằng Văn Quán, Tokyo, 1993, tr.142.
Hà Nội, 21/8/2015
Thy Lan
Nguồn: Viện Văn học
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét